Ý nghĩa
Bài viết này không tập trung vào lịch sử báo chí, mà khám phá sự hiện đại hóa văn học và văn hóa dưới ảnh hưởng của báo chí Đề tài nghiên cứu nhấn mạnh mối quan hệ giữa văn học, văn hóa và báo chí, với trường hợp điển hình là tờ Đông Dương tạp chí, cùng với nội dung và lịch sử của nó.
Luận án này tập trung vào việc hiện đại hóa văn học và văn hóa Việt Nam thông qua nghiên cứu tờ Đông Dương tạp chí, nhằm đánh giá sự phát triển của văn học quốc ngữ vào đầu thế kỷ XX Sự phát triển này diễn ra trong bối cảnh thực dân Pháp xâm lược, mang theo những thành tựu khoa học kỹ thuật và tư tưởng mới từ phương Tây Sự xuất hiện của chữ quốc ngữ, nhà in và báo chí đã mở ra cơ hội hội nhập cho xã hội phong kiến Việt Nam Cuộc xung đột giữa thực dân Pháp và dân tộc Việt Nam không chỉ là cuộc chiến giữa kẻ xâm lược và kẻ bị xâm lược, mà còn là sự va chạm giữa hai nền văn minh Đông và Tây, dẫn đến những biến động sâu sắc trong xã hội truyền thống Việt Nam, buộc nó phải thay đổi để thích ứng.
Luận án này cung cấp những chứng cứ và kinh nghiệm về ảnh hưởng của báo chí đối với sự phát triển văn hóa và văn học dân tộc Bài học về hiện đại hóa từ đầu thế kỷ XX vẫn còn giá trị quan trọng cho sự phát triển đầy triển vọng và thách thức mà chúng ta đang đối mặt hôm nay, nhấn mạnh vai trò của các thế hệ trí thức đầu thế kỷ.
XX không chỉ giữ vai trò quan trọng trong quá khứ mà còn có thể góp phần vào tương lai của chúng ta thông qua những bài học quý giá Những câu chuyện về họ đặt ra nhiều câu hỏi về thế hệ những người khổng lồ trong văn hóa hiện nay Điều gì đã tạo nên “thế hệ vàng” của văn hóa Việt Nam? Nền đại học nào đã sản sinh ra những nhân vật như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, và nhiều người khác? Tại sao họ, những người xuất sắc nhất, lại dám từ bỏ truyền thống để tìm kiếm cái mới, giải phóng trí tuệ cho bản thân và dân tộc? Việc trả lời những câu hỏi này sẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn về những thách thức mà chúng ta đang đối mặt ngày hôm nay.
Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Ở trong nước
Trong tác phẩm "Nhà văn hiện đại," Vũ Ngọc Phan nhấn mạnh vai trò của Đông Dương tạp chí như là cơ quan văn học đầu tiên trong thời kỳ văn chương quốc văn còn mới mẻ Ông cho rằng tạp chí này là nguồn tài liệu quý giá cho những người Tây học, cung cấp tinh hoa từ nền cổ học Trung Hoa, đồng thời cũng là nơi chứa đựng những tư tưởng mới mà người Hán học cần nắm bắt Các bài bình luận và tham khảo về Đông phương và Tây phương được đăng tải liên tục trong Đông Dương tạp chí không chỉ có giá trị lịch sử mà còn có thể tạo thành những bộ sách biên tập vững chắc, góp phần quan trọng cho nền văn học Việt Nam hiện đại và tương lai.
Ngoài ra, cuốn Việt Nam văn học sử yếu của Dương Quảng Hàm giới thiệu các bài Văn xuôi mới và bản dịch của Nguyễn Văn Vĩnh Bài viết về Báo giới và văn học quốc ngữ cùng những tác phẩm liên quan đến Nguyễn Văn Vĩnh và Trần Trọng cũng được đề cập.
Kim của Thiếu Sơn đã được đăng tải trên nhiều báo thời bấy giờ, với nội dung chủ yếu nhấn mạnh tôn chỉ và ý nghĩa hoạt động của nhóm Đông Dương tạp chí.
Tình hình nghiên cứu và đánh giá đóng góp về văn học, văn hóa của Đông
Dương tạp chí trở nên phức tạp trong bối cảnh cách mạng giành độc lập dân tộc và hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, chủ yếu do xuất phát điểm là công cụ của chính quyền thực dân Sau Cách mạng Tháng Tám 1945 và chiến thắng Điện Biên Phủ 1954, mọi thứ liên quan đến thực dân Pháp xâm lược đều khiến người ta cảm thấy “dị ứng” Số phận của những trí thức Tây học từng cộng tác với Pháp và các ấn phẩm văn hóa liên quan đến chính quyền thực dân cũng chịu ảnh hưởng tương tự.
Trong tập 4B của Lịch sử văn học Việt Nam, Đông Dương tạp chí và Nam Phong tạp chí được xếp vào khuynh hướng văn học nô dịch, với Nguyễn Văn Vĩnh và Phạm Quỳnh là những nhân vật chủ chốt Cả hai tác giả này đều tuyên truyền cho sự thống trị của Pháp và chống đối cách mạng một cách công khai, không che giấu Đông Dương tạp chí và Nam Phong đã thu hút một số thanh niên trí thức yêu thích nghiên cứu, nhưng lại làm họ xao lãng khỏi tình hình xã hội, đắm chìm vào văn chương mà coi đó là con đường phục vụ dân tộc Tóm lại, cả hai tạp chí này không có đóng góp tích cực nào đối với văn học dân tộc.
Các hoạt động canh tân văn hóa của Đông Dương Tạp Chí, bao gồm cả những bài viết phản đối sự bóc lột của thực dân Pháp, đã bị hiểu lầm là một trò diễn nhằm thu hút quần chúng, củng cố quyền lực của đế quốc phong kiến, và thậm chí để bán mình với giá cao.
Cũng theo chiều hướng đánh giá tiêu cực về Đông Dương tạp chí, Tập san
Nghiên cứu lịch sử số 116 (1968) của tác giả Nguyễn Anh chỉ trích Đông Dương tạp chí do Nguyễn Văn Vĩnh làm chủ bút, cho rằng tạp chí này có những đóng góp không đáng kể trong lĩnh vực dịch thuật Bài viết nhấn mạnh rằng mặc dù có dịch một số tác giả lớn, nhưng việc dịch thuật lại diễn ra một cách ngẫu hứng, không có sự chọn lọc hay phê bình, và chủ yếu chạy theo thị hiếu của độc giả trẻ Đặc biệt, Đông Dương tạp chí chỉ tập trung vào dịch các tác phẩm văn học Pháp, bỏ qua sách triết học, với âm mưu làm nguội lạnh tinh thần yêu nước của nhân dân và ngăn cản ảnh hưởng của tư tưởng tiến bộ từ các sĩ phu và phong trào cách mạng Tân Hợi ở Trung Quốc.
Có người đã nói Đông Dương tạp chí chỉ giới thiệu văn hoá phương Tây theo kiểu ăn sống nuốt tươi quả là xác đáng…”
Bên cạnh những nhận xét có phần căng thẳng, cũng có những ý kiến trung hòa hơn, điển hình là quan điểm của nhà nghiên cứu Phan Cự Đệ trong cuốn sách của ông.
Phong trào thơ mới 1932 - 1945, được trình bày trong cuốn sách của Nxb Khoa học năm 1966, đã chỉ ra vai trò quan trọng của các tờ Đông Dương tạp chí và Nam Phong tạp chí trong việc giới thiệu các tác phẩm văn học phương Tây Phan Cự Đệ đã nhấn mạnh sự ảnh hưởng của những tạp chí này đối với sự phát triển của thơ ca và văn học Việt Nam trong giai đoạn này.
Trong và sau chiến tranh thế giới thứ nhất, thực dân Pháp đã cho ra mắt tạp chí Nam Phong và báo Trung Bắc tân văn, với sự tham gia của Phạm Quỳnh và Nguyễn Văn Vĩnh Tại đây, các tác phẩm cổ điển của Corneille, Molière và các tác giả thế kỷ XIX như Chateaubriand, Lamartine, Victor Hugo, Honoré de Balzac, Guy de Maupassant, và Baudelaire được giới thiệu và dịch Tạp chí cũng trình bày những tư tưởng bảo thủ của Maurice Barrès, Charles Maurras, Léon Daudet, bên cạnh các tư tưởng tiến bộ của các triết gia khai sáng thế kỷ XVIII như Rousseau và Voltaire.
Montesquieu đã để lại ảnh hưởng sâu sắc trong giới trẻ tại các trường học, khi họ hứng thú với văn học Pháp Những tác phẩm của Rousseau, Bernadin de St Pierre, Chateaubriand, và Boutget được đọc nhiều, cùng với sự ngưỡng mộ dành cho lãng mạn của “tứ kiệt” như Hugo, Lamartine, Musset và Vigny.
Phan Cự Đệ thừa nhận rằng các nhà thơ mới ở Việt Nam đã tiếp thu truyền thống thơ ca dân tộc và học hỏi sáng tạo từ thơ ca nước ngoài, nhờ đó xây dựng được thể thơ tự do phong phú, giàu nhạc điệu và màu sắc, thể hiện sâu sắc tình cảm con người và thiên nhiên Ngôn ngữ thơ ca cũng trở nên giản dị, trong sáng và phong phú hơn Điều này ngầm khẳng định vai trò quan trọng của Đông Dương tạp chí và các tờ báo tiên phong trong việc phổ biến các tác phẩm dịch thuật thời kỳ đó.
Trong khi đó, ở miền Nam những năm 1954-1975, việc nghiên cứu và ô phỏn xột ằ Đụng Dương tạp chớ cú phần khỏch quan và thỏa đỏng hơn
Thanh Lãng trong Bảng lược đồ văn học Việt Nam 1 đã phân tích vai trò quan trọng của Nguyễn Văn Vĩnh - chủ bút Đụng Dương tạp chí Ông nhấn mạnh rằng Đụng Dương và Nam Phong tạp chí giữ một vị trí then chốt trong lịch sử văn học Việt Nam Điều này được thể hiện qua việc hầu hết các sản phẩm văn chương có giá trị và ảnh hưởng sâu rộng đều xuất hiện trên hai tạp chí này.
Nguyễn Văn Vĩnh và Đông Dương tạp chí đã có những đóng góp quan trọng trong sự nghiệp văn học Việt Nam, được Phạm Thế Ngũ đánh giá cao trong tác phẩm "Việt Nam văn học sử giản ước tân biên" Trong suốt 10 năm, từ báo Đăng Cổ đến Đông Dương, ông đã có những hoạt động tư tưởng mạnh mẽ, góp phần làm thay đổi sâu sắc xã hội Việt Nam cổ truyền và thúc đẩy sự biến đổi trong tư duy văn hóa.
Phạm Thế Ngũ viết tiếp: ô Về đường văn học, hiển nhiờn ụng đó đứng ra mở đường cho văn học mới:
2 3 tập, tập 3, Nxb Quốc học Tùng thư 1965
- Ông đã tranh đấu cho việc truyền bá và thắng thế chữ quốc ngữ là thứ chữ của văn học mới
Ông đã giới thiệu nhà in và tờ báo vào xã hội, đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng văn học mới và hỗ trợ sự phát triển của nó trong tương lai.
- Ông đã làm được trong bước đầu một tờ báo rất bổ ích cho văn mới lúc phụi thai là tờ Đụng Dương tạp chớ ằ
Trong cuốn Luận đề về Đông Dương tạp chí với Nguyễn Văn Vĩnh, Phan Kế
Ở nước ngoài
Luận án Tiến sĩ của Emmanuelle Affidi, mang tên "Đông Dương tạp chí (1913-1919), một nỗ lực truyền bá tư tưởng và khoa học phương Tây ở Tây Bắc Kỳ: giao thoa văn hóa, chính sách thực dân giữa kiến thức và quyền lực (1906-1936)", là một công trình nghiên cứu toàn diện về Đông Dương Nghiên cứu này tập trung vào việc phân tích vai trò của tạp chí Đông Dương trong việc truyền bá tri thức và văn hóa phương Tây tại Tonkin, đồng thời khám phá mối quan hệ giữa kiến thức và quyền lực trong bối cảnh thực dân.
Luận án dài 820 trang, viết bằng tiếng Pháp, hoàn thành năm 2007, trong đó khẳng định:
In the early 20th century, inspired by Japan and China, Vietnamese elites sought to embrace Western modernity as a means to liberate themselves from European colonization In this context, the journal ÐôngDương Tạp Chí (Tonkin, 1913-1919) emerged as a significant effort to introduce Vietnamese readers to Western science, including its knowledge, methods, and techniques The publication aimed to familiarize its audience with the underlying philosophical framework of this science through targeted translations in literature, philosophy, and ethics.
Founded by French publisher F.-H Schneider with the support of Governor-General Sarraut and led by Vietnamese journalist and translator Nguyễn Văn Vĩnh, this magazine in quốc ngữ (the Romanized script of the Vietnamese language) served as a melting pot of diverse aspirations united by a common idea: for the Vietnamese, the French presence in Indochina represented an opportunity to more easily and directly acquire the coveted Western knowledge The republican France could even serve as a model for a Vietnam in search of its identity, especially as the limitations of the Chinese model became evident.
This thesis explores the findings of the review, highlighting that Ðông Dương Tạp Chí was not an isolated entity but rather a manifestation of a broader intellectual movement It navigated the interplay between knowledge and power in early 20th century Vietnam, specifically from 1906 to 1936.
Vào đầu thế kỷ XX, khi Trung Hoa và Nhật Bản đang chuyển mình, các nhà trí thức Việt Nam đã tìm cách tiếp cận các công cụ tân tiến của phương Tây để thoát khỏi ách đô hộ châu Âu Trong bối cảnh đó, Đông Dương tạp chí (1913-1919) ra đời như một nỗ lực nhằm khai tâm người Việt về nền khoa học phương Tây, giúp độc giả làm quen với thế giới tư tưởng mà nền khoa học này đã phát triển thông qua việc dịch thuật chọn lọc các tác phẩm văn học, triết học và đạo đức Tờ báo quốc ngữ này được sáng lập bởi nhà xuất bản Pháp F-H Schneider với sự hỗ trợ của Thống Đốc Toàn Quyền Sarraut, do nhà báo dịch giả Nguyễn Văn Vĩnh điều hành Mặc dù có nhiều khuynh hướng khác nhau, tất cả đều nhấn mạnh rằng sự hiện diện của người Pháp tại Đông Dương là cơ hội để người Việt tiếp thu nền khoa học tiên tiến phương Tây, đồng thời Cộng hoà Pháp có thể trở thành một mô hình cho Việt Nam trong quá trình tìm kiếm một sắc thái chính trị mới, khi mà mô hình cổ điển Trung Hoa đã trở nên lỗi thời.
Luận án này nghiên cứu Đông Dương tạp chí, cho thấy đây không chỉ là một công trình đơn giản mà còn là nền tảng cho một trào lưu tư tưởng lớn hơn Nó chỉ ra mối liên hệ giữa kiến thức và quyền lực trong bối cảnh Việt Nam từ những năm đầu thế kỷ XX (1906-1936).
Emmanuelle Affidi nghiên cứu ảnh hưởng của xu hướng chính trị đến sự phát triển nội dung báo chí và vai trò của Đông Dương tạp chí trong việc tiếp thu khoa học phương Tây tại Việt Nam đầu thế kỉ XX Mặc dù luận án không tập trung vào đóng góp của Đông Dương tạp chí cho đổi mới văn học, văn hóa Việt Nam, nhưng hy vọng đây sẽ là công trình đầu tiên tại Việt Nam nghiên cứu hệ thống những đóng góp này trong tiến trình hiện đại hóa vào đầu thế kỉ XX Chúng tôi chưa tiếp cận sâu hơn với công trình này, ngoài bản tóm tắt, để hiểu rõ hơn từ góc nhìn của một nhà nghiên cứu phương Tây.
Đóng góp mới của luận án
Đóng góp về mặt khoa học
Luận án làm rõ quá trình hiện đại hóa văn học và văn hóa tại Việt Nam đầu thế kỷ XX, nhấn mạnh mối liên hệ chặt chẽ giữa báo chí và văn học Để hiểu giai đoạn này, cần tiếp cận một cách khoa học, toàn diện và khách quan, dựa trên bối cảnh lịch sử cụ thể Bằng cách đánh giá hiện tượng Đông Dương tạp chí, luận án giải thích phản ứng tự nhiên của một bộ phận văn hóa và con người bản địa trước ảnh hưởng của văn học thế giới trong bối cảnh thực dân xâm lược.
Đóng góp về mặt thực tiễn
Luận án cung cấp bằng chứng xác thực về hoạt động của một tờ báo quan trọng đầu thế kỷ XX, góp phần bổ sung tài liệu và nhận định cho nghiên cứu và giảng dạy lịch sử văn học và báo chí giai đoạn này Thông tin chính xác về ngày ra đời, đình bản, cũng như sự phát triển và thay đổi nội dung qua từng thời kỳ giúp các nhà nghiên cứu đánh giá chính xác hơn về những đóng góp và hạn chế của tờ báo từng được xem là “có vấn đề.”
Trong năm 1917, các số báo vi phim bao gồm số 109, 114 đến 124, 126, 128 đến 132 và 134 không có phần văn học Tuy nhiên, phần văn học lại có mặt trong các số báo giấy mà chúng tôi đã truy cập tại thư viện Khoa học xã hội Hà Nội.
Trong các số báo năm 1917 và 1918, có 7 phần văn học được ghi rõ trong mục lục nhưng thường bị thiếu Đặc biệt, các số báo năm 1918, dù ở dạng giấy hay Microfilm tại Thư viện Khoa học tổng hợp TPHCM, đều không có mục “văn học” Điều này cho thấy khả năng phần văn học đã bị tách rời trước khi báo đến thư viện, mặc dù không có dấu hiệu nào cho thấy các trang của mục văn học đã bị xé.
Phương pháp nghiên cứu
Đối với đề tài này, người viết kết hợp nhiều phương pháp khác nhau
+ Phương pháp lịch sử: người viết sẽ đặt Đông Dương tạp chí vào bối cảnh xã hội
Việt Nam vào đầu thế kỷ XX chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ của báo chí quốc ngữ, điều này đóng vai trò quan trọng trong việc nghiên cứu và lý giải bối cảnh ra đời cũng như hoạt động của Đông Đương tạp chí.
Phương pháp hệ thống và phương pháp loại hình được áp dụng để phân loại và trình bày những đóng góp của Đông Dương tạp chí trong lĩnh vực văn học và văn hóa, đặc biệt trong chương 2 và 3 của bài viết.
Luận án còn áp dụng phương pháp so sánh giữa Đông Dương tạp chí và Nam Phong tạp chí, cùng với phương pháp phân tích các tác phẩm và thể loại Đồng thời, nghiên cứu cũng thực hiện thao tác tổng hợp để đúc kết vai trò và vị trí của Đông Dương tạp chí trong bối cảnh văn học.
Cấu trúc luận án
Luận án gồm 195 trang Ngoài phần Dẫn nhập (18 trang), Kết luận (4 trang) và Thư mục (248 đề mục), luận án được triển khai thành 3 chương:
Chương 1 của bài viết sẽ khám phá bối cảnh xã hội Việt Nam và tầng lớp trí thức đầu thế kỷ XX, từ đó làm rõ tiền đề dẫn đến sự ra đời của Đông Dương tạp chí Đồng thời, chương này cũng phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến sự biến chuyển nội dung của tờ báo qua các giai đoạn phát triển khác nhau Ngoài ra, tác giả sẽ trình bày những đặc điểm nổi bật của Đông Dương tạp chí về chủ trương, đội ngũ biên tập, cũng như các chặng đường hoạt động của tờ báo trong lịch sử.
Chương 2 của bài viết tập trung vào những đóng góp quan trọng của Đông Dương tạp chí trong quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam đầu thế kỷ XX Tác giả phân tích ảnh hưởng của tạp chí đối với sự phát triển của chữ quốc ngữ, ngôn ngữ văn học của dân tộc Bên cạnh đó, chương này cũng trình bày sự tiếp thu tinh hoa văn học thế giới thông qua hoạt động dịch thuật của tờ báo Cuối cùng, vai trò của Đông Dương tạp chí trong việc phát triển các thể loại văn học mới như thơ, tiểu thuyết và kịch cũng được đánh giá một cách sâu sắc.
CHƯƠNG 3: Những đóng góp của Đ ông D ươ ng t ạ p chí trong quá trình hiện đại hoá văn hoá Việt Nam đầu thế kỷ XX (53 trang)
Trong chương này, chúng tôi làm rõ những đóng góp của Đông Dương tạp chí đối với việc canh tân giáo dục, đổi mới phong tục tập quán và thúc đẩy nữ quyền Những đóng góp này đã có tác động tích cực đến quá trình hiện đại hóa văn hóa dân tộc vào đầu thế kỷ XX.
SỰ RA ĐỜI VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA ĐÔNG DƯƠNG TẠP CHÍ
Bối cảnh xã hội Việt Nam và tầng lớp trí thức đầu thế kỷ XX
Năm 1858, khi các chiến hạm Pháp nổ súng ở Đà Nẵng, xã hội Việt Nam bừng tỉnh sau giấc ngủ dài Trong bối cảnh thế giới đang trải qua cuộc cách mạng công nghệ và nhu cầu tìm thuộc địa của chủ nghĩa tư bản gia tăng, giai cấp phong kiến Việt Nam vẫn để đất nước chìm trong lạc hậu Những trí thức như Bùi Viện, Nguyễn Trường Tộ, và Nguyễn Lộ Trạch đã cảnh báo về tình hình đất nước, nhưng triều đình nhà Nguyễn và các quan lại lại thờ ơ, dẫn đến nguy cơ khủng hoảng ngày càng lớn.
Từ hoà ước Nhâm Tuất 1862 đến hoà ước Giáp Thân 1884, thực dân Pháp đã hoàn tất việc xâm chiếm Việt Nam, chia đất nước thành ba khu vực với ba chế độ cai trị khác nhau: thuộc địa ở Nam Kỳ, bảo hộ ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ dưới sự kiểm soát của Triều Nguyễn Trong khi Nam Kỳ có phần quyền tự do, Bắc và Trung Kỳ chịu sự áp bức ngày càng nặng nề của Pháp Nhiều cuộc nổi dậy như phong trào Cần Vương, Duy Tân, và các cuộc khởi nghĩa khác đã diễn ra nhưng đều bị dập tắt Từ 1897 đến 1914, Pháp tiến hành đợt khai thác thuộc địa lần thứ nhất, tiếp theo là đợt khai thác lần thứ hai bắt đầu từ năm 1919.
1939) Những cơ sở đầu tiên của kinh tế tư sản bắt đầu phát triển trên toàn lãnh thổ Việt Nam, đặc biệt là ở Bắc Kỳ và Nam Kỳ
Sau khi chiếm trọn sáu tỉnh Nam Kỳ, thực dân Pháp đã nỗ lực thay đổi toàn bộ nền giáo dục Việt Nam bằng cách thành lập các trường công lập tại Sài Gòn và đưa chữ quốc ngữ vào giảng dạy Ban đầu, họ khuyến khích việc thành lập trường dạy quốc ngữ ở các làng, miễn thuế cho những làng có trường này theo Nghị định 14.06.1880 Tuy nhiên, sau đó, các biện pháp mạnh hơn được áp dụng để cưỡng chế học sinh đi học Nghị định 17.03.1879 đã ban hành chương trình giáo dục Pháp - Việt tại Nam Bộ, bao gồm chương trình Tiểu học dạy quốc ngữ, cấp 2 dạy cả chữ Nho và quốc ngữ, và cấp 3 dạy các văn thư, khế ước thông dụng cùng sử địa An Nam.
Các kỳ thi cổ truyền đã bị bãi bỏ, và trường hậu bổ được thành lập nhằm đào tạo nhân sự cho chính quyền Pháp Nhiều học sinh, đặc biệt là học sinh công giáo, đã được cử đi du học tại Pháp và các thuộc địa của Pháp Số lượng học sinh theo chương trình giáo dục của Pháp ngày càng tăng khi hệ thống trường Pháp - Việt được mở rộng tại Sài Gòn và một số thành phố, tỉnh lỵ lớn khác.
Sự chuyển biến trong hình thức và nội dung giáo dục đã tạo ra một tầng lớp trí thức Tây học mới, góp phần hình thành đội ngũ sáng tác và một công chúng mới tại thành phố Tầng lớp này đã có ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự hình thành và phát triển nền văn học chữ quốc ngữ ở Nam Bộ, nơi được coi là cái nôi của báo chí quốc ngữ trên toàn quốc.
Việc bắt buộc sử dụng chữ quốc ngữ trong tất cả các văn bản hành chính và các lĩnh vực khác đã thúc đẩy sự chuyển biến mạnh mẽ về văn hóa xã hội của Việt Nam vào đầu thế kỷ XX, đánh dấu một trong những biểu hiện rõ rệt nhất của sự mở rộng ảnh hưởng của văn hóa phương Tây tại Việt Nam.
Chữ quốc ngữ là hệ thống chữ viết được phát triển bởi các giáo sĩ phương Tây, sử dụng bảng chữ cái Latin kết hợp với các dấu phụ để ghi âm tiếng Việt, tương tự như một số ngôn ngữ phương Tây như tiếng Bồ Đào Nha.
Linh mục Alexandre de Rhodes, hay còn gọi là Đắc Lộ, được coi là người tiên phong trong việc hình thành và phát triển chữ quốc ngữ tại Việt Nam Năm 1651, ông đã biên soạn và in cuốn Từ điển Việt-Bồ-La tại Roma, đánh dấu một bước quan trọng trong việc ghi chép ngôn ngữ Việt Cùng năm đó, ông cũng cho ra mắt cuốn sách giảng đạo đầu tiên bằng chữ quốc ngữ mang tên Phép giảng tám ngày cho kẻ muốn chịu phép rửa tội, góp phần vào sự phát triển của hệ thống chữ viết này.
Các giáo sĩ phương Tây đã góp phần quan trọng vào việc hình thành chữ quốc ngữ tại Việt Nam Vào tháng 10 năm 1629, linh mục Bồ Đào Nha Gaspar d’Amaral và thầy Paulus Saito người Nhật Bản lần đầu tiên đến Đàng Ngoài Trong thời gian ở đây, Gaspar d’Amaral đã nghiên cứu và nhanh chóng nắm bắt chữ quốc ngữ, lúc bấy giờ còn ở giai đoạn sơ khai Ông đã để lại hai tài liệu viết tay vào những năm đó.
Vào năm 1632 và 1637, linh mục Gaspar d’Amaral đã ghi lại nhiều chữ quốc ngữ và bắt đầu soạn cuốn Từ điển Việt-Bồ-La (Diccionário anamita-português-latinum) Tuy nhiên, cuốn từ điển chưa kịp ấn hành thì ông đã qua đời vào ngày 23-12-1645, khi trên đường trở về Đàng Ngoài từ Ma Cao, do tàu bị đắm Cuốn từ điển đang được ông soạn thảo đã bị thất lạc.
Linh mục Antonio Barbosa, một thành viên Dòng Tên người Bồ Đào Nha, đã có những đóng góp quan trọng trong việc hình thành chữ quốc ngữ tại Việt Nam Ông đã biên soạn cuốn Từ điển Bồ-Việt (Diccionário português-anamita) trong khoảng thời gian 6 năm tại Đàng Ngoài Tuy nhiên, giống như cuốn từ điển chưa hoàn thành của linh mục Gaspar d’Amaral, tác phẩm của Barbosa cũng đã bị “mất tích” và hiện không ai biết rõ số phận của nó, liệu đã bị hủy hoại hay thất lạc.
Linh mục Alexandre de Rhodes đã dựa vào những cuốn từ điển trước đó (hiện đã bị thất lạc) để biên soạn cuốn Từ điển Việt-Bồ-La vào năm 1651, qua đó được công nhận là người sáng tạo chữ quốc ngữ Ông đã đóng góp lớn lao cho việc phát triển chữ viết tiếng Việt bằng cách kế thừa thành quả của những người đi trước và cho in ấn những công trình đầu tiên về chữ quốc ngữ tại Việt Nam.
Trong quá trình hình thành chữ quốc ngữ, ngoài những nỗ lực cá nhân của Alexandre de Rhodes, còn có sự đóng góp quan trọng từ nhiều người khác, bao gồm cả những người Việt Nam.
Mặc dù có những công trình phát triển chữ quốc ngữ, nhưng nó vẫn chưa được phổ biến rộng rãi ở Việt Nam, đặc biệt trong cộng đồng dân chúng Trong hơn 200 năm tiếp theo, chữ quốc ngữ chủ yếu được sử dụng trong các nhà thờ Thiên Chúa giáo, phục vụ cho mục đích truyền đạo của các giáo sĩ, như dịch Kinh thánh và soạn sách truyền đạo.
Trong suốt thời gian này, nhiều giáo sĩ phương Tây đã nỗ lực cải tiến chữ quốc ngữ sơ khai do Alexandre de Rhodes sáng tạo Một trong những người tiêu biểu là Đức Giám mục Pierre Joseph Georges Pigneaux de Béhaine, hay còn được biết đến ở Việt Nam với tên gọi Bá Đa Lộc.
Sự ra đời của Đông Dương tạp chí
1.2.1 Chủ trương của Đ ông D ươ ng t ạ p chí
Đông Dương tạp chí, ra mắt lần đầu vào ngày 15 tháng 5, được thành lập với mục đích phục vụ cho việc tuyên truyền của chính quyền thực dân Pháp, nằm trong kế hoạch xâm lược văn hóa của họ Mục “Cẩn cáo” trong số đầu tiên của tạp chí này phản ánh rõ ràng sự thao túng văn hóa và chính trị của thực dân đối với Đông Dương.
Vào năm 1913, một bản báo đã được in gấp rút do tình hình khẩn cấp, vì vậy không kịp trình duyệt các nội dung quan trọng Trong kỳ đầu tiên, báo hứa hẹn sẽ cung cấp thông tin rõ ràng về chương trình và chủ nghĩa của mình trong các kỳ sau Mỗi số sẽ có một bài tổng hợp các sự kiện trong tuần, một bài phân tích thời sự, các tin tức toàn cầu và thông tin hữu ích về thương mại Bên cạnh đó, báo cũng cổ động cho việc sử dụng văn Quốc ngữ làm quốc văn và khuyến khích việc học tập Đồng thời, báo mở ra một chuyên mục mang tên Đăng-văn cổ để phản ánh nguyện vọng và lý lẽ của người dân An-nam, nhằm thông báo cho chính phủ và truyền đạt những ý kiến cao đẹp đến dân chúng.
Vào ngày 22/5/1913, trong số báo thứ 2 của Đông Dương tạp chí, mục “Chủ-nghĩa” đã làm rõ và cụ thể hóa tôn chỉ, mục đích của tạp chí.
Phổ biến văn hóa Tây phương, khuyến khích sử dụng chữ quốc ngữ và cung cấp kiến thức thực tiễn về nông nghiệp và công nghệ là những mục tiêu quan trọng Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Trung, các mục tiêu này của Đông Dương tạp chí tương đồng với phong trào Đông kinh nghĩa thục, ngoại trừ việc tuyên truyền cho chính phủ bảo hộ.
Chủ trương và mục tiêu của Đông Dương tạp chí đã được Phạm Thế Ngũ đúc kết như sau:
Tờ báo đóng vai trò là cơ quan tuyên truyền cho cuộc bảo hộ của Pháp, thông qua việc thông báo về các hoạt động của nhà nước để người dân hiểu rõ hơn Nó khuyến khích dân chúng không tham gia vào các cuộc nổi dậy hay cách mạng bạo động, nhằm duy trì sự ổn định và trật tự xã hội.
Báo chí đóng vai trò quan trọng trong việc phổ biến kiến thức học thuật phương Tây bằng tiếng Nôm, giúp người An Nam tiếp cận tri thức mà không cần phải đến trường Hình thức giáo dục này mang tính phổ thông và bách khoa, bao gồm dịch thuật và giảng giải nhiều vấn đề từ nuôi dạy con cái, tu bổ đê điều, đến các phương pháp buôn bán và phân tích tâm lý học phương Tây.
Bài viết cổ động cho chữ quốc ngữ, nhấn mạnh rằng nó tiện lợi hơn chữ Nho rất nhiều Việc đọc báo bằng chữ quốc ngữ giúp người dân dễ dàng tiếp cận thông tin, vì không chỉ người biết chữ quốc ngữ mới hiểu, mà ngay cả những người nghe cũng có thể nắm bắt nội dung Ngoài việc phát hành báo quốc ngữ, báo quán còn cam kết phát miễn phí sách dạy chữ quốc ngữ để mọi người có thể tự học, từ đó nâng cao khả năng đọc viết trong cộng đồng.
Chủ trương chính trị nêu trên hoàn toàn phù hợp với tinh thần bản tường trình của Sestier, một viên thanh tra người Pháp, khi ông đề xuất việc thành lập một tờ báo An-nam để cung cấp thông tin trung thực và rõ ràng về các sự kiện Điều này thể hiện rõ trong giai đoạn đầu của Đông Dương tạp chí, với những bài viết phản ánh thái độ tiêu cực của Nguyễn Văn Vĩnh đối với phong trào yêu nước đương thời.
Trong số đầu tiên của tạp chí Đông Dương, Nguyễn Văn Vĩnh đã chỉ trích mạnh mẽ những người yêu nước thực hiện các vụ ném bom nhằm vào một số sĩ quan Pháp tại khách sạn Hà Nội.
Nguyễn Văn Vĩnh trong bài Gốc luận 18 đã lên tiếng bảo vệ những người theo Tây học, đồng thời chỉ trích các sĩ phu yêu nước như Phan Bội Châu bằng những lời lẽ nặng nề như “nguỵ Nho” và “vô công rồi nghề” Ông cho rằng việc học Tây quá nhiều dẫn đến những người tài giỏi nhưng không có công dụng, tạo ra những cá nhân không có chức phận rõ ràng, chỉ biết ước ao mà không hành động.
Bức thư ngỏ của Nguyễn Văn Hoàn gửi các nhà nghiên cứu Truyện Kiều ở miền Nam nhấn mạnh ý nghĩa của cuộc tranh luận giữa Phạm Quỳnh và Ngô Đức Kế Cuộc tranh luận này không chỉ làm sáng tỏ giá trị văn học của Truyện Kiều mà còn phản ánh những quan điểm khác nhau trong nghiên cứu văn học tại thời điểm đó Nghiên cứu này được đăng trong Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 12 năm 1960 tại Hà Nội.
Trong số 2 của tạp chí Đông Dương ngày 22-5-1913, có đề cập đến việc đảng ghét Lang Sa và xúc xiểm dân An-nam làm loạn Đây là một sự hiểu lầm nghiêm trọng mà chúng tôi cảm thấy cần phải làm rõ để Nhà nước nhận thức được những hành động điên cuồng của một số cá nhân, có thể ảnh hưởng đến những người trung thành và yêu nước nhất với Lang Sa tại đây.
Chủ bút Nguyễn Văn Vĩnh thể hiện sự giận dữ đối với những hành động của Quang phục hội, đặc biệt là vụ ném bom tại khách sạn Hà Nội, phản ánh quan điểm chính trị của ông trong giai đoạn đầu hợp tác với người Pháp Ông cho rằng bạo lực chỉ mang lại cái chết và đổ máu vô ích, và nếu có thành công, nó chỉ duy trì chế độ vua quan hủ bại Nguyễn Văn Vĩnh không tin rằng việc "theo Tây" sẽ dẫn đến mất nước, mà ông có cái nhìn thực tế hơn về tình hình chính trị thời bấy giờ.
"Thực dân không gây hại bằng phong kiến" phản ánh quan điểm của một người có tư duy thực tế, yêu thích khoa học và công nghệ Với nền tảng tự do dân chủ của phương Tây, ông thể hiện sự phản đối chế độ phong kiến và nhiệt tình ca ngợi chính sách "công khai hóa" của nhà nước bảo hộ.
Theo thời gian, số lượng bài viết tuyên truyền cho chính quyền trên Đông Dương tạp chí giảm dần, nhường chỗ cho các bài viết học thuật Từ năm 1915, tờ báo chuyển hướng chuyên sâu vào văn chương và sư phạm, trong khi Nguyễn Văn Vĩnh cũng tập trung vào dịch thuật thay vì viết xã thuyết.