NGÔN TỪ VÀ NHẠC TÍNH TRONG THƠ MỚI
Ngôn từ trong Thơ mới
Phong trào Thơ mới là một bước ngoặt quan trọng trong lịch sử thơ ca Việt Nam, đánh dấu sự chuyển mình từ thể loại cổ điển sang hiện đại Sự thay đổi này không chỉ thể hiện qua hình thức biểu hiện mà còn ở cảm hứng thi ca phong phú và đa dạng.
Phong trào Thơ mới ra đời xuất phát từ sự phát triển sâu sắc của văn mạch dân tộc, phản ánh tư duy nghệ thuật đặc trưng của những năm tháng đó Sự hình thành này không chỉ là kết quả của các yếu tố xã hội mà còn thể hiện những biến chuyển trong tâm tư, tình cảm của con người Việt Nam thời kỳ bấy giờ.
30 là sự đáp ứng nhu cầu cấp thiết của nền văn học hiện đại Việc tạo ra cảm xúc mới cho thơ không chỉ đổi mới nội dung mà còn thúc đẩy sự cách tân về hình thức Những sáng tạo trong ngôn từ và hình ảnh đã thực sự làm thay đổi hệ thống hình thức của các câu thơ.
Trong phong trào Thơ mới, các nhà thơ như Xuân Diệu, Huy Cận và Bích Khê chịu ảnh hưởng sâu sắc từ chủ nghĩa tượng trưng, với Verlaine là một trong những bậc thầy tiêu biểu Ông xem thơ như một bản nhạc mong manh và huyền ảo, yêu cầu nhà thơ phải tìm ra ngôn ngữ phù hợp để giao tiếp giữa các tâm hồn Ngôn ngữ này không chỉ đơn thuần là từ ngữ, mà còn là sự kết hợp của mùi hương, âm thanh và màu sắc, tạo nên một trải nghiệm sâu sắc cho người đọc Các nhà thơ tượng trưng khuyến khích sự tự do cho các giác quan, giúp họ có khả năng nhìn thấu tâm hồn và bản chất của sự vật.
Nhà thơ tượng trưng thể hiện thái độ phủ định xã hội qua việc phản ứng chống lại văn chương dễ dãi, vốn đã trở nên tầm thường do chạy theo thị hiếu của tầng lớp thượng lưu và những kẻ ăn chơi Để chống lại sự dễ dãi này, họ tìm kiếm những phương thức biểu hiện mới cho thơ, dẫn đến sự xuất hiện của nhiều yếu tố mới về hình thức trong thơ tượng trưng Tuy nhiên, điều này cũng đồng thời phản ánh xu hướng hình thức chủ nghĩa trong sáng tác của các nhà thơ tượng trưng.
Chủ nghĩa tượng trưng không chỉ tập trung vào việc sử dụng biểu tượng mà còn cải cách hình thức thơ Mallarme chỉ trích các nhà thơ Thi Sơn vì họ quá lệ thuộc vào cấu trúc thơ, dẫn đến việc hy sinh cá tính sáng tạo Những câu thơ theo kiểu Thi Sơn thường thiếu cảm hứng và sự bất ngờ, khiến cho người đọc cảm thấy mệt mỏi Chủ nghĩa tượng trưng đã để lại dấu ấn sâu sắc trong văn học nhiều nước, nhấn mạnh vai trò của người sáng tác và khuyến khích sự đổi mới, sáng tạo trong hình thức thơ thông qua việc sử dụng biểu tượng và cách tân ngôn ngữ.
Ngôn từ không chỉ đơn thuần là phương tiện giao tiếp mà còn mang ý nghĩa sâu sắc, giúp khám phá những bí ẩn của thế giới Trong văn học, ngôn từ trở thành công cụ nghệ thuật, nơi nhà văn và nhà thơ thể hiện tài năng biểu diễn của mình Việc phân tích ngôn từ trong tác phẩm của một tác giả không chỉ là tìm hiểu hệ thống từ ngữ mà còn là cách kết hợp và sử dụng biện pháp tu từ để tạo ra giá trị nghệ thuật độc đáo.
Chính vì vậy, khi tìm hiểu sự ảnh hưởng của chủ nghĩa tượng trưng đối với Thơ mới, ta không thể bỏ qua khía cạnh ngôn từ
Xuân Diệu được coi là "nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới" với quan điểm độc đáo về ngôn ngữ thơ Ông mong muốn kết hợp thơ ca với không gian thần tiên mà âm nhạc mang lại, không chỉ tạo ra những câu thơ du dương mà còn mang đến những chất xạ mê ly, huyền bí qua phép thuật của ngôn ngữ Theo ông, thơ ca dân tộc là sự kết tinh cao, thể hiện sự phong phú và đa dạng trong văn hóa.
Trong bài viết này, chúng tôi sẽ khám phá vẻ đẹp và sự độc đáo của ngôn ngữ dân tộc thông qua việc phân tích từ ngữ và các biện pháp tu từ trong thơ ca Việc lựa chọn và sáng tạo một hình thái ngôn ngữ giàu chất thơ là một thách thức lớn, đòi hỏi sự tinh tế trong việc sử dụng các thủ pháp ngôn ngữ.
3.1.1 Xu hướng chọn hệ thống từ vựng
Trong Thơ mới, sự cảm nhận thế giới qua các giác quan và khả năng thấu hiểu những điều tinh tế đã được thể hiện rõ nét qua hệ thống từ láy trong thơ của các tác giả So với Thế Lữ, Huy Cận hay Nguyễn Bính, Xuân Diệu nổi bật với việc sử dụng từ láy một cách phong phú, đặc sắc Dưới ảnh hưởng của thơ ca tượng trưng Pháp, Xuân Diệu chú trọng hiện đại hóa nhịp điệu câu thơ, tạo ra chất nhạc độc đáo và mới mẻ trong các tác phẩm của mình.
Cho chuếnh choáng mùi hương, cho đã đầy ánh sáng Cho no nê thanh sắc của thời tươi
Những dòng thơ tràn đầy cảm xúc như một làn sóng ngôn từ dâng lên mãnh liệt Việc lặp lại từ “cho” với mức độ tăng tiến nhấn mạnh trạng thái thỏa mãn, kết hợp với các từ láy như “chuếnh choáng”, “đã đầy”, “no nê” Cảm xúc được thể hiện như những lớp sóng ngày càng dâng cao, vỗ mạnh, đưa tâm trạng lên đến tột đỉnh.
Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi!
Tới đây, ta thấy thi nhân như một con ong đã hút no nê mật ngọt của xuân sắc, của cuộc đời rồi và đang lảo đảo bay đi
Trong thơ ông, ta bắt gặp vô vàn các từ láy: “chơi vơi”, “chót vót”, “chon von”,
“đong đưa”, “hiu hắt”, “hây hây”, “lơi lả”, “lộng lẫy”, “lòa xòa”, “lung linh”, “lim dim”, “lơ thơ”, “lững thững”, “lướt thướt”, “mơn mởn”, “mỏng manh”, “mơ màng”,
“nõn nà”, “thướt tha”, “thấp thoáng”, “thất thểu”, “thờ thẫn”, “phơn phớt”, “ràng rịt”,
“rạng rỡ”, “quấn quýt”, “vướng víu” Trong thơ Xuân Diệu, có khi ta bắt gặp những đoạn thơ, khổ thơ xuất hiện khá nhiều các từ láy khác nhau:
Con đường nhỏ nhỏ gió siêu siêu
Lả lả cành hoang nắng trở chiều
Có khi trong một dòng thơ mà có đến hai, ba từ láy:
- Bằng mây nhè nhẹ gió hiu hiu
- Cho chuếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng
- Tôi khờ khạo lắm, ngu ngơ quá
- Huy hoàng trăng rộng nguy nga gió
- Đường rạo rực, thì thào rối rắm
Trong thơ Xuân Diệu, từ láy mang ý nghĩa tạo hình gợi lên trạng thái cụ thể của đối tượng, như mây nhè nhẹ, gió hiu hiu, và không gian thơ mộng của con đường mùa thu Những từ láy này không chỉ là điểm nhấn ý nghĩa mà còn tạo nên chất nhạc cho lời thơ Tương tự, Bích Khê cũng sử dụng nhiều kỹ thuật ngôn từ mới mẻ, giúp người đọc cảm nhận sự cách tân trong nghệ thuật thơ ca Ông đã tạo ra ấn tượng thị giác mạnh mẽ, đưa thơ mình đến một trình độ thị giác độc đáo, vượt trước thời đại khi xã hội chưa có truyền hình hay các phương tiện nghe nhìn.
Tự do và thành thực là nền tảng giúp Bích Khê khám phá con đường nghệ thuật riêng Trong lĩnh vực nghệ thuật và thơ ca, hình thức chính là dấu ấn nghệ thuật độc đáo của từng nghệ sĩ, và không có hình thức ấy, nghệ thuật sẽ không thể tồn tại.
Bích Khê, được mô tả như "con chim hót có ý thức" theo định nghĩa của Xuân Diệu, là một nhà thơ tìm kiếm giọng điệu riêng biệt trong hành trình ngôn từ của mình Mỗi tác phẩm của ông tỏa sáng nhờ những thao tác ngôn từ độc đáo, khiến Đỗ Lai Thúy trong "Mắt thơ" gọi Bích Khê là "Sự thức nhận ngôn từ" Với những đóng góp nổi bật, Bích Khê xứng đáng được công nhận là "Nhà thơ đỉnh cao của nghệ thuật ngôn từ".
Với ý thức cách tân, Bích Khê không thôi tìm tòi và sáng tạo với mong muốn: Đường kiến trúc nhịp nhàng theo điệu mới
Của lời thơ lóng đẹp Hạt châu trong
Hạt châu trong ngời nhỏ giọt vô lòng
Ông đã khéo léo kết hợp ngôn ngữ thơ với các bộ môn nghệ thuật khác như điêu khắc, vũ đạo, nhiếp ảnh và mỹ thuật, tạo nên một âm hưởng tràn đầy như chiều thu nắng Qua đó, ông "điều binh khiển tướng" những con chữ, làm nổi bật sự giao thoa giữa cái nhìn thấy và cái không nhìn thấy, như bóng ý lặng lờ và những dáng hình thanh khí.
Nhạc tính trong Thơ mới
Nhạc tính là đặc trưng quan trọng phân biệt ngôn ngữ thơ và văn xuôi, đóng vai trò thiết yếu trong thơ qua các thời đại Mỗi thời kỳ, trào lưu và tác giả lại thể hiện nhạc tính theo cách riêng Trong thơ cổ điển, nhạc tính được hình thành từ sự phối hợp giữa các thanh bằng và thanh trắc, mang tính quy định và bị giới hạn, dẫn đến âm thanh và ý nghĩa thường tách biệt Đến thơ lãng mạn, các nhà thơ thể hiện cảm xúc cá nhân qua lối viết tự do Trong khi đó, các nhà thơ tượng trưng xem âm nhạc không chỉ là phương tiện mà còn là đối tượng khám phá, tạo ra một tính nhạc độc đáo, khiến người đọc có thể bị cuốn hút bởi âm thanh hơn là nội dung lời thơ.
Các nhà thơ mới đã tìm đến thơ tượng trưng Pháp do sự đồng cảm với những tâm hồn trí thức bất mãn trước xã hội đau khổ và sự thất bại của phong trào cách mạng Thơ ca Pháp đã ảnh hưởng sâu sắc đến Thơ mới, thể hiện qua cách gieo vần, ngắt nhịp, và tạo ra âm điệu phong phú, cũng như diễn đạt những cảm xúc tinh tế.
Nhà thơ tượng trưng chủ nghĩa đặc biệt chú trọng đến âm nhạc, chịu ảnh hưởng từ nhạc sĩ Đức Sáclơ Vacsne, người có khả năng sáng tác nhạc, thơ và vũ điệu cùng lúc Năm 1886, Edouard Dujardins đã phát hành tạp chí Vacne (Revue Wargnerienne) nhằm làm rõ mối quan hệ giữa phái tượng trưng và âm nhạc của Vácne.
Brunetière, trong Tạp chí hai thế giới ngày 1 tháng 11 năm 1888, đã phân chia văn học Pháp từ sau thế kỷ XVII thành ba giai đoạn, tương ứng với ba trường phái nghệ thuật khác nhau: trường cổ điển với phong cách kiến trúc, trường lãng mạn.
98 muốn cạnh tranh với hội họa, cuối cùng trường tượng trưng muốn cạnh tranh với âm nhạc
Nhạc tính trong thơ không chỉ là ngữ nghĩa mà còn là yếu tố âm thanh của từ ngữ và sự kết hợp giữa chúng, nhằm tạo ra cảm xúc cho người đọc Văn bản thơ là một hình thức nghệ thuật đặc biệt với cấu trúc riêng, nơi những khoảng lặng và khoảng trắng tạo nên sự thiếu liên tục nhưng vẫn ẩn chứa mạch ngầm của cảm xúc và tư duy Dù là thơ có vần hay không, cổ điển hay hiện đại, thơ phương Đông hay phương Tây, nhạc điệu luôn hiện hữu, mang đến sự trầm bổng nhịp nhàng cho người nghe Nhạc điệu không chỉ là yếu tố khởi nguồn mà còn là "linh hồn" của thơ, tồn tại từ xưa đến nay và mãi về sau.
Văn bản thơ mang đậm tính nhạc với hình thức và cấu trúc ngữ âm đặc biệt, cùng cách xử lý âm thanh hợp lý Tính nhạc hay nhạc điệu trong thơ là những tiết tấu vang vọng của ngôn từ, tạo nên vẻ đẹp âm thanh độc đáo Mặc dù thơ không phải là nhạc, nhưng âm thanh trong thơ ca được thể hiện theo cách riêng, phản ánh nhạc cảm tinh tế của nhà thơ Sự liên kết âm thanh trong thơ luôn chịu ảnh hưởng từ cảm xúc và mối liên hệ giữa nhịp sống và âm điệu tâm hồn Nhạc điệu của thơ không chỉ đơn thuần là âm thanh nghe được mà còn chạm đến tâm hồn người đọc, diễn đạt những giá trị tinh vi trong cảm xúc thông qua âm thanh mà tai ưa thích Bài thơ không thể so sánh với âm thanh tự nhiên, nhưng cố gắng truyền tải nhạc điệu quý báu từ tâm hồn.
Thơ Bích Khê nổi bật với âm nhạc len lỏi trong từng cảm xúc, tạo ra hình ảnh độc đáo và mới lạ Sự sáng tạo độc đáo về nhạc tính trong thơ ông được hình thành từ việc kế thừa và chọn lọc thơ tượng trưng Pháp, cùng với việc khám phá các hình thức câu thơ như thanh bằng, cách ngắt nhịp và điệp từ, điệp ngữ Bích Khê đặc biệt chú trọng vào việc sử dụng thanh bằng, giúp thơ ông mang âm điệu nhẹ nhàng, trong sáng và du dương, đưa người đọc vào trạng thái mơ hồ, khó nắm bắt Khi đến với thế giới thơ Bích Khê, độc giả thường bị cuốn hút bởi âm nhạc trước khi cảm nhận nội dung sâu sắc, tạo nên nét đặc sắc trong phong cách thơ của ông.
Nàng ơi! Tay đêm đang giăng mềm Trăng đan qua cành muôn tay êm Mây nhung pha màu thu trên trời Sương lam phơi màu thu muôn nơi (…)
Buồn lưu cây đào tìm hơi xuân Buồn sang cây tùng thăm đông quân Ô! Hay buồn vương cây ngô đồng Vàng rơi! vàng rơi: Thu mênh mông
Bài thơ gồm bảy khổ, đặc biệt ở chỗ tất cả từ ngữ đều mang thanh bằng, tạo nên một "bản nhạc" nhẹ nhàng và thanh thoát.
Hay trong bài Hoàng hoa:
Lam nhung ô ! Màu lưng chừng trời;
Xanh nhung ô ! Màu phơi nơi nơi
Vàng phai nằm im ôm non gầy;
Chim yên neo mình ôm xương cây Ðây mùa Hoàng hoa, mùa Hoàng hoa: Ðông nam mây đùn nơi thành xa…
Trong hai bài thơ của Bích Khê, tác giả đã khéo léo sử dụng thanh bằng để tạo ra một chất nhạc đặc sắc, mang đến cho người đọc một cảm giác du dương, buồn bã và da diết về tình yêu Nhạc điệu trong thơ Bích Khê như những câu bùa chú mê hoặc, khiến người đọc bị cuốn hút và thôi miên bởi âm hưởng trầm bổng, khó tả Sự kết hợp giữa thanh bằng và thanh trắc trong các câu thơ như "Ô! Nắng vàng thơm rung rinh điệu ngọc" đã tạo nên một không gian thơ mộng, nhẹ nhàng và nhịp nhàng, làm nổi bật vẻ đẹp của tình yêu và thiên nhiên.
Từ phương mô nhạn, âm điệu thơ vang lên, tạo nên một không gian huyền ảo Đàn giây trinh bạch ngân nga, khiến lòng người như lạc vào cõi mơ Hồn ngọc thạch xanh xao, tựa như một tờ giấy mỏng manh, mang đến cảm xúc sâu lắng.
Trong đoạn thơ, sự kết hợp giữa thanh bằng và thanh trắc cùng với từ láy tạo nên một nhạc điệu khúc khuỷu, réo rắt nhưng vẫn nhẹ nhàng và đều đặn Nhạc điệu của bài thơ không chỉ được cảm nhận qua bề mặt câu chữ mà còn ẩn chứa sâu bên trong tâm hồn thi nhân với những hình ảnh gợi cảm đầy sức ám ảnh.
Trước hết đó là những bài thơ những câu thơ dùng toàn vần bằng hoặc vần bằng làm chủ âm, tạo cảm giác đặc biệt, kỳ lạ:
Tôi qua tim nàng vay du dương Tôi mang lên lầu lên cung thương Ôi tôi bao giờ thôi yêu nàng Tình tang tôi nghe như tình lang
Bài thơ mang âm hưởng nhẹ nhàng như hơi thở và tiếng nhạc bay bổng, với những âm vang dày đặc từ các từ như nàng, mang, nàng, tang, lang Mặc dù đã có thi nhân từng sử dụng toàn vần bằng trong thơ như Tản Đà và Xuân Diệu, nhưng số lượng tác phẩm như vậy không nhiều.
Bích Khê sử dụng vần bằng một cách toàn diện trong hai bài thơ, với chủ âm xuất hiện ở năm bài và lẻ tẻ trong nhiều câu khác Lối thơ bình thanh này mang đến âm hưởng buồn sâu lắng, tạo cảm giác nhẹ nhàng, dễ thăng hoa, như đưa con người vào những miền xa xăm mơ hồ.
Bích Khê thiên về lối gieo vần cùng dòng như là những nốt luyến láy của bản nhạc, tạo nên hoà âm du dương:
Lam nhung ô! Màu lưng chừng trời Xanh nhung ô! Màu phơi nơi nơi
(Hoàng hoa) Đêm ôm hồn tôi chơi phiêu diêu
Hàn Mạc Tử nhận định rằng nhịp điệu trong thơ của Bích Khê được tạo nên bởi cách ngắt mạch ở chữ thứ tư trong câu tám chữ, kết hợp với lối gieo vần lưng, khiến cho bài thơ trở thành hai bài tứ ngôn song hành Câu thơ "Ôi nắng vàng thơ, rung rinh điệu ngọc" cùng với hình ảnh "Những cánh hồng đơm" đã tạo nên một không gian thơ mộng và đầy sức sống.
Huy Cận thành công với thể thơ 7 chữ, 8 chữ và đặc biệt là thơ lục bát, nổi bật với vần lưng (thanh bằng) tạo sự êm ái và nhạc điệu du dương Những bài thơ lục bát của ông thể hiện nội tâm và ngoại cảnh một cách mới lạ, như trong bài "Buồn đêm mưa" với những hình ảnh quen thuộc nhưng sâu sắc Ngoài ra, thể điệu lục bát còn mang âm hưởng văn chương phương Tây, như trong bài "Ngậm ngùi", với nhạc tính giản dị và nhịp điệu đong đưa, hòa quyện giữa ca dao và âm nhạc.