Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Nghiên cứu văn hóa M’nông đã thu hút sự chú ý của các nhà khoa học trong và ngoài nước hơn 50 năm qua Tuy nhiên, công tác này chỉ thực sự được chú trọng và đạt nhiều thành tựu lớn vào cuối thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI.
Người đầu tiên nghiên cứu khoa học về dân tộc M’nông là học giả Pháp Goerges Condominas Vào những năm 1947-1948, ông sống cùng người M’nông Gar tại huyện Lăk, tỉnh Dak Lăk để tìm hiểu về tộc người này Sau thời gian chung sống, ông xuất bản cuốn sách "Chúng tôi ăn rừng" vào năm 1957, tái bản năm 1974 và lần đầu tiên bằng tiếng Việt vào năm 2003 Trong sách, ông đề cập đến hình thức truyện kể của người M’nông Gar gọi là noo proo, mà ông coi là anh hùng ca, với nội dung về cuộc sáng tạo thế giới, trận đại hồng thủy và con người bị quỷ nuốt chửng.
Cuốn sách của G Codominas chủ yếu khảo sát tộc người và văn hoá M’nông từ góc độ dân tộc học, do đó chưa đi sâu vào nghiên cứu sử thi của người M’nông Người đầu tiên đề cập đến sử thi M’nông tại Việt Nam là cố học giả Võ Quang Nhơn Trong luận án Phó tiến sĩ Ngữ văn năm 1981 và cuốn sách Văn học dân gian các dân tộc ít người ở Việt Nam năm 1983, ông đã chỉ ra rằng người M’nông có sử thi với các tác phẩm như Đam Brơi và Chàng Trăng Tuy nhiên, ông chỉ dừng lại ở việc liệt kê tên tác phẩm mà chưa đề cập đến tên gọi bản địa cũng như hình dáng của chúng.
Năm 1982 trong cuốn sách Đại cương về các dân tộc Êđê, Mnông ở Dak
Lak, Bế Viết Đẳng và các tác giả đã đề cập đến hình thức hát kể sử thi của người M’nông, trong đó nhóm M’nông Prêng có hình thức kể gia phả gọi là N’koc yao, được coi là một loại sử thi Tuy nhiên, ở đây có sự nhầm lẫn giữa hình thức kể gia phả và sử thi.
Nghiên cứu về sử thi M’nông đã thu hút sự chú ý đặc biệt sau khi phát hiện thể loại này tại xã Dak Mol, huyện Dak Mil, tỉnh Dak Lăk vào năm 1988 Đỗ Hồng Kỳ đã chỉ ra rằng sự phát hiện này đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong việc tìm hiểu và bảo tồn văn hóa của người M’nông.
Năm 1988, đoàn công tác của Viện Văn hoá dân gian, gồm các thành viên Ngô Đức Thịnh, Đỗ Hồng Kỳ, Tô Đông Hải và Nguyễn Tấn Đắc, đã tiến hành khảo sát tại bon Bu Dop, xã Dak Môl, huyện Dak Song, tỉnh Dak Nông Qua lời hát kể của các nghệ nhân người M’nông và những phỏng dịch ban đầu, nhà nghiên cứu Đỗ Hồng Kỳ cùng đoàn đã thống nhất rằng đây chính là sử thi của người M’nông.
Kể từ đó, nhiều người đã quan tâm nghiên cứu về sử thi M’nông, trong đó nổi bật là nhà nghiên cứu Đỗ Hồng Kỳ Vào thập niên
80, 90 của thế kỷ trước, ông đã nhiều lần đến vùng đất có nhiều người M’nông
Đỗ Hồng Kỳ đã sống và làm việc chủ yếu tại tỉnh Dak Lăk và Dak Nông, nơi ông cùng ăn, cùng ở với người dân để nghiên cứu văn hóa và văn học của họ Ông đã tiếp cận nhiều nghệ nhân dân gian người M’nông, trong đó có nghệ nhân Điểu Kâu, người duy nhất phiên dịch các tác phẩm sử thi M’nông sang tiếng Việt Mối quan hệ giữa Đỗ Hồng Kỳ và Điểu Kâu trở nên sâu sắc, và khi nghệ nhân này qua đời vào năm 2008, ông đã viết bài “Cánh chim đại ngàn đã ngừng bay” để tưởng nhớ Từ khi sử thi M’nông được phát hiện, Đỗ Hồng Kỳ cùng các trí thức địa phương đã sưu tầm và xuất bản nhiều công trình quan trọng về sử thi M’nông, góp phần bảo tồn văn hóa dân tộc.
Kể từ năm 2001, công tác sưu tầm, dịch thuật và xuất bản sử thi M’nông đã có những bước phát triển mạnh mẽ với nhiều thành tựu đáng kể Năm 2001, Chính phủ đã phê duyệt Dự án Điều tra, sưu tầm, bảo quản, biên dịch và xuất bản kho tàng sử thi Tây Nguyên, giao nhiệm vụ cho Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn.
Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam đã phối hợp với các tỉnh Tây Nguyên thực hiện một dự án nghiên cứu về nghệ nhân M’nông hát kể sử thi Qua dự án, gần 100 nghệ nhân đã được xác định, chủ yếu sống tại Dak Lăk, Dak Nông, và Bình Phước, hầu hết đều đã cao tuổi Đến tháng 12 năm 2007, dự án kết thúc với kết quả vượt ngoài mong đợi, trong đó có 215 bản hát kể được sưu tầm và ghi âm, cùng với 26 tác phẩm sử thi M’nông được biên dịch và xuất bản thành 32 tập sách công phu Các tác phẩm này được phát hành dưới dạng song ngữ, kèm theo chân dung của các nghệ nhân và bài giới thiệu của người biên tập, giúp độc giả dễ dàng tiếp nhận nội dung.
Kể từ khi phát hiện vào năm 1988, đến trước năm 2001, chỉ có 6 tác phẩm sử thi M’nông được sưu tầm, dịch thuật và xuất bản Tuy nhiên, chỉ trong 7 năm thực hiện Dự án, đã có hàng trăm tác phẩm được ghi âm, và 26 tác phẩm được dịch thuật, biên tập và xuất bản Điều này chứng tỏ hiệu quả đầu tư của Nhà nước và sự đóng góp lớn lao của các nhà khoa học cùng trí thức địa phương Tất cả các tác phẩm sử thi M’nông đã được xuất bản đều do nghệ nhân Điểu Kâu phiên dịch từ tiếng M’nông sang tiếng Việt (Xin xem phụ lục 1)
Dân tộc M’nông sở hữu một kho tàng sử thi phong phú và đồ sộ, hiếm có trên thế giới Kể từ khi được phát hiện, nghiên cứu về sử thi M’nông đã trải qua nhiều thập kỷ và đã cho ra đời nhiều công trình nghiên cứu có giá trị Tuy nhiên, vẫn còn những khác biệt trong việc nhận thức và xác định đặc trưng thể loại giữa các nhà khoa học.
Đỗ Hồng Kỳ là người đã dành nhiều thời gian và công sức nghiên cứu về sử thi M’nông từ năm 1990 đến nay.
Đỗ Hồng Kỳ đã công bố nhiều nghiên cứu giá trị trên các tạp chí khoa học và sách chuyên ngành, trong đó nổi bật là bài viết "Ot Nrông - sử thi cổ sơ Mơ Nông" trên Tạp chí Văn hoá dân gian năm 1990 Bài viết này khái quát về môi trường, phương thức diễn xướng, chức năng sinh hoạt, nội dung và cách thể hiện của sử thi M’nông Ông đã đưa ra những nhận định ban đầu về hình thức thể loại của sử thi M’nông, xác định rằng nó thuộc loại sử thi cổ sơ, kết hợp giữa yếu tố thần thoại và sử thi anh hùng, điều này khác biệt so với những công trình nghiên cứu sau này của ông.
13 trong những công trình nghiên cứu sau đó, ông đều cho rằng sử thi M’nông là sử thi thần thoại
Vào năm 1993, Tạp chí Văn hoá dân gian số 1 đã xuất bản bài viết "Cốt truyện và nhân vật trong sử thi nrông của người M’nông" Tác giả đã thảo luận về cốt truyện đơn và cốt truyện liên kết, đồng thời phân tích đặc điểm của cốt truyện Ot Ndrong Ông nhận định rằng kết cấu cốt truyện của sử thi M’nông mang tính liên hoàn, bao gồm nhiều cốt truyện đơn kết hợp với nhau Mặc dù các cốt truyện đơn có mối quan hệ mật thiết, nhưng chúng vẫn giữ được tính độc lập tương đối.
Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Luận án khảo sát 32 tác phẩm sử thi M’nông đã xuất bản, nhằm tóm tắt nội dung và thống kê hệ thống nhân vật của Ot Ndrong (xem phụ lục 2 và 3) Chúng tôi sẽ tập trung tìm hiểu sâu về các tác phẩm như Bông, Rŏng và Tiăng, cùng với Đẻ.
Tiăng, Đẻ Lênh, và Lênh nghịch đá thần của Yang là những tác phẩm tiêu biểu thể hiện hệ thống nhân vật phong phú và các vấn đề khái quát trong văn hóa dân gian Mùa rẫy bon Tiăng, cây nêu thần, và những hoạt động như đi giành lại đàn Ndring hay cướp chiêng cổ bon Tiăng đều phản ánh những truyền thuyết và phong tục tập quán độc đáo Ngoài ra, các hoạt động như cướp Djăn, Dje, thả diều lá cướp Bing con Jri, và bắt con lươn ở suối Dak Hŭch cũng góp phần làm phong phú thêm bức tranh văn hóa đặc sắc này.
Nghiên cứu về nội dung và các thủ pháp nghệ thuật của sử thi M’nông sẽ cung cấp những kết quả đáng tin cậy, từ đó giúp đưa ra những đánh giá khái quát về hệ thống nhân vật trong sử thi này.
Luận án không chỉ khảo sát hệ thống nhân vật trong sử thi M’nông mà còn áp dụng lý thuyết phân loại sử thi của các nhà khoa học để nghiên cứu đặc điểm thể loại của sử thi này Nghiên cứu tập trung vào các khía cạnh như môi trường diễn xướng, chức năng sinh hoạt, quan niệm thẩm mỹ, cũng như những vấn đề cơ bản về nội dung và hình thức Đồng thời, luận án cũng xem xét cơ sở xã hội của sử thi M’nông nhằm xác định tiểu loại của tác phẩm Ot Ndrong.
Phương pháp nghiên cứu
Sử thi là thể loại văn học nguyên hợp, phản ánh các vấn đề về tự nhiên và xã hội trong thời cổ đại, được coi là bách khoa thư của nhân loại Để nghiên cứu sử thi M’nông, chúng tôi áp dụng phương pháp liên ngành, kết hợp nhiều lĩnh vực khoa học khác nhau.
5.1 Phương pháp tiếp cận hệ thống: Tiếp cận các tác phẩm sử thi
M’nông đã xuất bản để dựng được bức tranh toàn cảnh về hệ thống nhân vật của sử thi M’nông,
Phương pháp thống kê và phân loại được áp dụng để xác định hệ thống nhân vật trong sử thi M’nông, đồng thời phân loại Ot Ndrong vào tiểu loại phù hợp.
5.3 Phương pháp điền dã dân tộc học: Tìm hiểu về chức năng, vai trò, giá trị của Ot Ndrong trong đời sống của cộng đồng người M’nông
Phương pháp so sánh và đối chiếu giúp xác định những nét tương đồng và khác biệt giữa sử thi M’nông và sử thi của các dân tộc khác, từ đó làm nổi bật những đặc điểm cơ bản của sử thi M’nông.
Phân tích văn học là phương pháp giúp làm nổi bật giá trị nội dung và hình thức của sử thi M’nông Qua đó, các thủ pháp nghệ thuật, quan niệm thẩm mỹ và nhận thức của người M’nông được thể hiện rõ nét trong các tác phẩm sử thi của họ.
Phương pháp liên ngành là một cách tiếp cận quan trọng trong nghiên cứu sử thi M’nông, vì thể loại này không chỉ mang giá trị văn học nghệ thuật mà còn chứa đựng nhiều tư liệu quý giá về lịch sử, tư tưởng, văn hóa và phong tục tập quán Việc áp dụng các phương pháp nghiên cứu từ nhiều ngành khoa học khác nhau sẽ giúp làm sáng tỏ những vấn đề trong luận án, đồng thời hỗ trợ và bổ sung lẫn nhau trong quá trình phân tích.
Đóng góp mới của luận án
Nghiên cứu trước đây chủ yếu chỉ tập trung vào nhân vật trung tâm của sử thi M’nông mà chưa xem xét một cách tổng thể hệ thống nhân vật trong tác phẩm Chúng tôi tiến hành khảo sát một cách có hệ thống thế giới nhân vật trong sử thi M’nông để làm rõ các thủ pháp nghệ thuật và quan niệm thẩm mỹ của người M’nông Qua đó, chúng tôi có được những chứng cứ quan trọng chứng minh rằng sử thi M’nông thực sự mang tính chất thần thoại.
Vấn đề thể loại của sử thi M’nông hiện nay còn nhiều ý kiến khác nhau Đỗ Hồng Kỳ (1995) đã xác định sử thi M’nông là sử thi thần thoại, nhưng do thiếu tư liệu và số lượng tác phẩm sưu tầm còn ít, ông chưa thể khảo sát một cách hệ thống để chứng minh luận điểm của mình Một số người cho rằng Ot Ndrong là sử thi phổ hệ, mang tính sáng thể đậm và là sử thi anh hùng Tuy nhiên, dựa trên kết quả nghiên cứu của luận án, chúng tôi khẳng định rằng sử thi M’nông thực sự là sử thi thần thoại.
Sử thi M’nông khẳng định giá trị văn học, lịch sử và văn hóa, đồng thời thể hiện chức năng văn hóa - nghệ thuật quan trọng trong đời sống cộng đồng người M’nông hiện nay Nó đóng vai trò thiết yếu trong việc bảo tồn kho tàng Ot Ndrong và văn hóa dân gian của dân tộc M’nông, tạo cơ sở vững chắc cho các hoạt động bảo tồn và phát huy di sản văn hóa.
Cấu trúc của luận án
Luận án gồm phần mở đầu, phần nội dung, phần kết luận, phần thư mục tham khảo và phần phụ lục Phần nội dung gồm 3 chương:
TỔNG QUAN VỀ ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU Chương 2
HỆ THỐNG NHÂN VẬT TRONG SỬ THI M’NÔNG
VẤN ĐỀ THỂ LOẠI CỦA SỬ THI M’NÔNG
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1 Triệu Văn Thịnh (2007), “Lễ cưới truyền thống của người M’nông”, Tạp chí Văn hoá nghệ thuật (11), tr 95-98
2 Triệu Văn Thịnh (2008), “Một số nghi thức trong lễ tang của người
M’nông”, Tạp chí khoa học của Trường Đại học Tây Nguyên (3), tr 38-43
3 Triệu Văn Thịnh (2008), “Thủ pháp “trì hoãn” trong các sử thi M’nông”,
Tạp chí khoa học của Trường Đại học Tây Nguyên (3), tr 44-49
Triệu Văn Thịnh (2009) đã nghiên cứu về luật tục hôn nhân và gia đình của người M’nông trong bối cảnh hiện nay, thông qua khảo sát tại xã Đắk Ndrung, huyện Đắk Song, tỉnh Đắk Nông Bài viết được đăng trên Tạp chí khoa học của Trường Đại học Tây Nguyên, số 5, trang 77-86 Nghiên cứu này làm rõ những vấn đề liên quan đến tập quán hôn nhân và gia đình của người M’nông, góp phần hiểu rõ hơn về văn hóa và đời sống của cộng đồng này.
5 Triệu Văn Thịnh (2010), “Hệ thống nhân vật phụ trong sử thi M’nông”,
Tạp chí khoa học của Trường Đại học Tây Nguyên (7), tr 105-112
Triệu Văn Thịnh (2010) trong bài viết "Những nét tương đồng trong thủ pháp xây dựng nhân vật anh hùng trong sử thi Êđê và sử thi M’nông" đã phân tích các yếu tố tương đồng trong việc xây dựng hình tượng anh hùng trong hai sử thi này Nghiên cứu được đăng tải trên Tạp chí khoa học của Trường Đại học Tây Nguyên, số 7, trang 113-122, cung cấp cái nhìn so sánh sâu sắc về nghệ thuật xây dựng nhân vật trong văn học dân gian.
7 Triệu Văn Thịnh (2012), “Hình ảnh cộng đồng trong sử thi M’nông”, Tạp chí Khoa học xã hội Tây Nguyên (6), tr 71-74
8 Triệu Văn Thịnh (2013), “Môi trường diễn xướng và chức năng tín ngưỡng của sử thi M’nông”, Tạp chí Khoa học xã hội Tây Nguyên (11), tr 40-43
Triệu Văn Thịnh (2014) trong bài viết “Xác định đặc điểm thể loại của sử thi M’nông (Nhìn từ phương diện môi trường diễn xướng và chức năng sinh hoạt)” đăng trên Tạp chí khoa học của Trường Đại học Tây Nguyên đã phân tích các đặc điểm thể loại của sử thi M’nông, tập trung vào môi trường diễn xướng và các chức năng sinh hoạt của nó Bài viết cung cấp cái nhìn sâu sắc về vai trò của sử thi trong đời sống văn hóa của người M’nông, từ đó làm rõ những giá trị nghệ thuật và ý nghĩa xã hội của thể loại này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO TIẾNG VIỆT
1 Trần Thị An ( 2006), "Giới thiệu sử thi Rôch, Rông bắt hồn Lêng", Tạp chí Nguồn sáng dân gian (2), tr 58-63
2 Ngọc Anh,Y Điêng… ( 1963), Trường ca Tây Nguyên, Nxb Văn học
3 Vương Anh (1995), " Mo - Sử thi Mường", Tạp chí Văn hoá nghệ thuật (1), tr
4 Vương Anh (1997), Mo - Sử thi và thần thoại Mường, Nxb Văn hoá dân tộc
5 Vương Anh,Hoàng Anh Nhân ( 1975), Đẻ đất đẻ nước, Ty văn hóa Thanh Hoá
6 Aristote,Lưu Hiệp (1999), Nghệ thuật thơ ca, Văn tâm điêu long, Nxb Văn học
7 Trương Bi (2003), Chàng Tiăng bán tượng gỗ, Sở Văn hoá-Thông tin Đak Lak
8 Trương Bi (2004), Nghi lễ cổ truyền của đồng bào M’nông, Sở Văn hoá - Thông tin Đắk Lắk
9 Trương Bi ( 2003), Kể dòng con cháu mẹ Chêp, Sở Văn hoá - Thông tin Đak Lak
10 Trương Bi ( 2005 ), Văn hoá mẫu hệ M’Nông, Sở Văn hoá -Thông tin Dak Lak
11 Dam Bo,(Jacques Dournes) (2003), Miền đất huyền ảo (Các dân tộc miền núi Nam Đông Dương), Nxb Hội nhà văn
12 Goerges Condominas (2003), Chúng tôi ăn rừng, Nxb Thế giới
13 Goerges Condominas ( 1997), Không gian xã hội vùng Đông Nam Á, Nxb Văn hóa Thông tin
14 Phan Hữu Dật (chủ biên) (1992), Văn hoá lễ hội của các dân tộc ở Đông Nam Á, Nxb Văn hoá dân tộc
15 Phạm Đức Dương (2000), Văn hoá Việt Nam trong bối cảnh Đông Nam Á, Nxb Khoa học xã hội
16 Nguyễn Tấn Đắc (2005), Văn hoá xã hội và con người Tây Nguyên, Nxb Khoa học xã hội
17 Bế Viết Đẳng,Chu Thái Sơn… (1982), Đại cương các dân tộc ÊĐê, MNông ở Đak Lak, Nxb Khoa học xã hội
18 Cao Huy Đỉnh, Phạm Thuỷ Ba,Nguyễn Quế Dương (dịch và giới thiệu) (2004), Sử thi Ấn Độ vĩ đại – Mahabharata cùng với Chí tôn ca, Nxb Văn học
19 Nguyễn Xuân Đức (2003), Những vấn đề thi pháp văn học dân gian, Nxb Khoa học xã hội
20.F Ăng - Ghen (1961), Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của Nhà nước, Nxb Sự thật
21 V Guxep (1999), Mỹ học Phôn-cờ-lo, Nxb Đà Nẵng (Hoàng Ngọc Hiến dịch)
22 Lê Bá Hán và các cộng sự (1992), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục
23 Hêghen (1972), Mỹ học T.4, Nhữ Thành dịch, Nxb Văn học
24 Phan Thu Hiền (1999), Sử thi Ấn Độ, Nxb Giáo dục
25 Nguyễn Văn Hoàn (chủ biên) (1998), Đam Săn sử thi Ê-đê,, Nxb Khoa học xã hội
26 Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam (2000), Góp phần nâng cao chất lượmg sưu tầm, nghiên cứu văn hoá, văn nghệ dân gian, Nxb Văn hoá dân tộc
27 Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam (2001), Một thế kỷ sưu tầm, nghiên cứu Văn hoá dân gian, Nxb Văn hoá - Thông tin
28 Anne De Hautecloque - Howe (2004), Người Ê Đê, Môt xã hội mẫu quyền, Nxb Văn hoá dân tộc
29 Nguyễn Việt Hùng (2011), Công thức truyền thống trong sử thi - Ot Ndrong,
Luận án tiến sĩ Văn học, Đại học Sư phạm Hà Nội
30 Nguyễn Việt Hùng ( 2008), Bàn thêm về thuộc tính sử thi ở Việt Nam, Tạp chí Văn hoá dân gian (1), tr.12 -20
31 Trương Sĩ Hùng (1992), Sử thi thần thoại Mường, Nxb Văn hoá dân tộc
32 Phạm Đặng Xuân Hương (2007), "Sự ra đời thần kỳ của người anh hùng trong sử thi khan Ê Đê", Tạp chí Văn hoá dân gian (2), tr 31-39
33 Phạm Đặng Xuân Hương (2012), Đặc trưng thể loại sử thi - Khắp Chương Han
(Thái - Tây Bắc Việt Nam), Luận án tiến sĩ Văn học, Đại học Sư Phạm Hà Nội
34 Đinh Gia Khánh và các cộng sự (1998), Văn học dân gian Việt Nam, Nxb Giáo dục
35 Đinh Gia Khánh và các cộng sự (2000), Tổng tập văn học Việt Nam (T.41), Nxb Khoa học Xã hội
36 Vũ Ngọc Khánh (2006), Truyền thống văn hoá các dân tộc thiểu số Việt Nam,, Nxb Thanh niên
37 Nguyễn Văn Khoả (2002), Anh hùng ca của Hô-me-rơ, Nxb Văn học
38 Nguyễn Xuân Kính (2002), "Những vấn đề đặt ra trong những cuốn sách sưu tầm, nghiên cứu sử thi đã xuất bản", Tạp chí Văn hoá dân gian (4), tr 45-50
39 Nguyễn Xuân Kính (2004), "Sử thi Cướp chiêng cổ bon Tiăng", Tạp chí Nguồn sáng dân gian (1), tr 40-49
40 Nguyễn Xuân Kính (2006), "Quá trình sưu tầm và nhận thức lí luận đối với sử thi ở Việt Nam", Tạp chí Văn học (1), tr 11-20
41 Nguyễn Xuân Kính (2006), "Sử thi Đẻ Lêng", Tạp chí Nguồn sáng dân gian (2), tr 49-57
42 Nguyễn Xuân Kính (2009), "Nhìn lại quá trình sưu tầm, nghiên cứu sử thi Mơ Nông", Tạp chí Văn hoá dân gian (4),, tr 7-18
43 Nguyễn Xuân Kính (2012), Một nhận thức về văn học dân gian Việt Nam, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội
44 Đỗ Hồng Kỳ (1990), "Ot Nrong - Sử thi cổ sơ Mơ Nông", Tạp chí Văn hoá dân gian (3),, tr 53-58
45 Đỗ Hồng Kỳ (1992), "Vũ trụ quan và người anh hùng văn hoá trong sử thi nrông của người Mơ Nông", Tạp chí Văn hoá dân gian (2), , tr 41-45
46 Đỗ Hồng Kỳ (1993), Sử thi cổ sơ M’nông Nxb Văn hóa dân tộc
47 Đỗ Hồng Kỳ (1996), Sử thi thần thoại M’nông, Nxb Khoa học xã hội
48 Đỗ Hồng Kỳ (1997), Sử thi thần thoại M’nông (sách sưu tầm), Nxb Văn hoá dân tộc
49 Đỗ Hồng Kỳ (1999), "Địa danh và những mẩu truyền thuyết có liên quan đến sử thi của người Bu Nong", Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á tr 12-19
50 Đỗ Hồng Kỳ (2001), Những khía cạnh văn hoá dân gian M’nông Nong, Nxb Văn hoá dân tộc
51 Đỗ Hồng Kỳ (2002), "Sử thi của người M’nông", Tạp chí Văn hoá dân gian (4), tr 19-30
52 Đỗ Hồng Kỳ (2005), "Sơ bộ về sử thi Mơ Nông và tác phẩm Thuốc cá ở hồ Bầu trời, Mặt trăng", Tạp chí Nguồn sáng dân gian (3), tr 14-18
53 Đỗ Hồng Kỳ (2006), "Sử thi Ting, Rung chết - “Bách khoa thư” về đời sống của người Mơ Nông", Tạp chí Nguồn sáng dân gian (2), tr 38-48
54 Đỗ Hồng Kỳ (2008), Văn học dân gian Êđê - M’nông, Nxb Khoa học xã hội
55 Phan Ngọc Liên (1998), Lược sử Đông Nam Á, Nxb Giáo dục
56 Nguyễn Thị Mỹ Lộc (2009), "Hệ thống nhân vật anh hùng của sử thi Mơ Nông",
Tạp chí Nguồn sáng dân gian (2), tr 53-59
57 Đặng Văn Lung, Bùi Thiện,Bùi Văn Nợi (1996), Mo Mường, Nxb Văn hoá dân tộc
Lê Thị Thuỳ Ly (2007) trong bài viết "So sánh chiến trận trong sử thi cổ sơ Tây Nguyên và sử thi cổ đại Hy Lạp Iliat" đăng trên Tạp chí Văn hoá dân gian (số 5, trang 27-35) đã phân tích và so sánh các yếu tố chiến trận trong sử thi của hai nền văn hóa khác nhau, góp phần làm sáng tỏ những điểm tương đồng và khác biệt giữa sử thi Tây Nguyên và Iliat của Hy Lạp cổ đại.
59 Mahabharata (2004), Sử thi Ấn Độ (Cao Huy Đỉnh và Phạm Thuỷ Ba dịch) Nxb Văn học
60 Lê Mai (1983), Trường ca Tây Nguyên, Nxb Giáo dục
61 Henri Maitre (2008), Rừng người thượng, , Nxb Tri thức
62 E Mêlêtinxki (1974), "Về nguồn gốc sử thi anh hùng (Lê Sơn dịch)", Tạp chí Văn học (1), tr 112-125
63 E Mêlêtinxki (2004), Thi pháp của huyền thoại,, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội
(Trần Nho Thìn, Song Mộc dịch)
64 Phan Đăng Nhật (1991), Sử thi Êđê, Nxb Khoa học xã hội
65 Phan Đăng Nhật (1998), "Ot Nrông - một bộ sử thi phổ hệ đồ sộ mới được phát hiện", Tạp chí Văn hoá dân gian (3), tr 62-67
66 Phan Đăng Nhật (1999), Vùng sử thi Tây Nguyên, Nxb Khoa học xã hội
67 Phan Đăng Nhật (2001), Nghiên cứu sử thi ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội
68 Phan Đăng Nhật (2001), Văn hoá các dân tộc thiểu số - những giá trị đặc sắc, Nxb Khoa học xã hội
69 Phan Đăng Nhật,Nguyễn Ngọc Tuấn (2003), Chương Han - sử thi Thái, Nxb
70 Bùi Mạnh Nhị (chủ biên) (1999), Văn học Việt Nam, Văn học dân gian những công trình nghiên cứu, Nxb Giáo dục, tr.14,20
71 Võ Quang Nhơn (1981), Về thể loại sử thi anh hùng của các dân tộc Tây Nguyên, Luận án Phó tiến sĩ Ngữ văn, Đại học Tổng hợp Hà Nội
72 Võ Quang Nhơn (1983), Văn học dân gian các dân tộc ít người ở Việt Nam, Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp
73 Võ Quang Nhơn (1997), Sử thi anh hùng Tây Nguyên, Nxb Giáo dục
74 Niculin (1987), "Về bản chất thể loại của “Đẻ đất đẻ nước” (Lê Chí Quế dịch)",
Tạp chí Văn hoá dân gian (1), tr 15-24
75 Stêphen Oppenheimer (1998), Địa đàng ở Phương Đông, Nxb Lao động
76 Orvieto (2002), Chuyện kể thành Tơroa (Nguyễn Văn Chất, Trần Linh Ngọc dịch), Nxb Thanh niên
77 V.IA PRôp (1996), Đặc trưng của Phônclo, Nxb Giáo dục
78 Lê Chí Quế (2001), Văn hoá dân gian khảo sát và nghiên cứu, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội
79 Lê Chí Quế, Võ Quang Nhơn,Nguyễn Hùng Vĩ (1999), Văn học dân gian Việt Nam, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội
80 Hoàng Thiếu Sơn (1943), "Anh hùng ca Việt Nam", Tạp chí Tri Tân (123), tr 5-9
81 Bùi Thiên Thai (2001), "Hiện tượng sử thi Truyện vua Cách Tát Nhĩ của Tây Tạng - Trung Quốc", Tạp chí Văn hoá dân gian (5), tr .65-68
82 Bùi Thiên Thai (2005), "Sử thi Con đỉa nuốt bon Tiăng (Dân tộc Mơ Nông)", Tạp chí Nguồn sáng dân gian (3), tr 31-39
83 Phạm Nhân Thành (2009), Hệ thống nghệ thuật của sử thi Tây Nguyên, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội
84 Tô Ngọc Thanh (2008), " Số phận của sử thi Tây Nguyên trong điều kiện xã hội đương đại", Tạp chí Văn hoá dân gian (6), tr 3-6
85 Văn Thị Bích Thảo (2007), "Phương thức so sánh trong sử thi Tây Nguyên", Tạp chí Nguồn sáng dân gian (4), tr 49-57
86 Trần Nho Thìn (2005), "Sử thi Kră, Năng cướp Bing, Kông (dân tộc Mơ Nông)",
Tạp chí Nguồn sáng dân gian (3), tr 19-30
87 Ngô Đức Thịnh (2002), "Sử thi Tây Nguyên - phát hiện và các vấn đề", Tạp chí văn hoá dân gian (4), tr 3-16
88 Ngô Đức Thịnh (2006), Nghi lễ và phong tục các tộc người ở Tây Nguyên, Nxb Khoa học xã hội
89 Ngô Đức Thịnh (2008), "Tính thống nhất và đa dạng của sử thi Tây Nguyên", Tạp chí Văn hoá dân gian (6), tr 7-14
90 Ngô Đức Thịnh (chủ biên) (1995), Văn hoá dân gian M’Nông, Sở Văn hoá - Thông tin Dak Lak
91 Ngô Đức Thịnh,Frank Proschan (chủ biên) (2005), Folklore thế giới một số công trình nghiên cứu cơ bản, Nxb Khoa học xã hội
92 Ngô Đức Thịnh,Nguyễn Xuân Kính (1990), Văn hoá dân gian những phương pháp nghiên cứu, Nxb Khoa học xã hội
93 Nguyễn Thị Tuyết Thu (2006), " Chi tiết đặc tả trong Mahabharata", Tạp chí Văn hoá dân gian (3), tr 79-82
94 X.A Tôcarev (1994), Các hình thức tôn giáo sơ khai và sự phát triển của chúng, Nxb Chính trị Quốc gia
95 Nguyễn Tuấn Triết (2007), Tây Nguyên - những chặng đường lịch sử văn hoá, Nxb Khoa học xã hội
96 Võ Quang Trọng (2004), "Về sử thi ở Trung Quốc", Tạp chí Văn hoá dân gian
97 Võ Quang Trọng (2005), "Sử thi Giông, Giơˇ mồ côi từ nhỏ (dân tộc Ba Na)",
Tạp chí Nguồn sáng dân gian (3), tr 7-13
98 Trương Thông Tuần (2010), Truyện cổ M’nông, Nxb Trẻ
99 Hoàng Tiến Tựu (1977), " Vấn đề phân loại văn học dân gian và ý nghĩa phương pháp luận của nó", Tạp chí Văn học (6), tr 11-18
100 Ban chỉ đạo Tổng điều tra dân số và nhà ở trung ương (2010), Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam năm 2009, Nxb Thống kê
101 Nguyễn Thị Kim Vân (2008), "Thần sáng tạo vũ trụ theo quan niệm cổ truyền của người Gia Rai Chor", Tạp chí Nguồn sáng dân gian (2), tr 85-88
102 Viện Khoa học xã hội Việt Nam (2004), Con đỉa nuốt bon Tiăng, Nxb Khoa học xã hội
103 Viện Khoa học xã hội Việt Nam (2004), Cướp chiêng cổ bon Tiăng, Nxb Khoa học xã hội
104 Viện Khoa học xã hội Việt Nam (2004), Lêng nghịch đá thần của Yang, Nxb Khoa học xã hội
105 Viện Khoa học xã hội Việt Nam (2005), Bắt con lươn ở suối Đak Hŭch, Nxb
106 Viện Khoa học xã hội Việt Nam (2005), Cướp chăn lêng con Jrêng, Lêng con Ôt,, Nxb Khoa học xã hội
107 Viện Khoa học xã hội Việt Nam (2005), Kră, Năng cướp Bing, Kông con Lông, Nxb Khoa học xã hội
108 Viện Khoa học xã hội Việt Nam (2005), Lấy hoa bạc hoa đồng, Nxb Khoa học xã hội
109 Viện Khoa học xã hội Việt Nam (2005), Lêng, Kong, Mbong lấy ché voi trắng, Nxb Khoa học xã hội
110 Viện Khoa học xã hội Việt Nam (2005), Thuốc cá ở hồ Bầu Trời, Mặt Trăng, Nxb Khoa học xã hội
111 Viện Khoa học xã hội Việt Nam (2005), Yơng, Yang lấy ống bạc tượng người, Nxb Khoa học xã hội
112 Viện Khoa học xã hội Việt Nam (2006), Bing con Măch xin làm vợ Yang, Nxb Khoa học xã hội
113 Viện Khoa học xã hội Việt Nam (2006), Con hổ cắn mẹ Rông, Nxb Khoa học xã hội
114 Viện Khoa học xã hội Việt Nam (2006), Đẻ Lêng, Nxb Khoa học xã hội
115 Viện Khoa học xã hội Việt Nam (2006), Kể gia phả Ot ndrong, Nxb Khoa học xã hội
116 Viện Khoa học xã hội Việt Nam (2006), Lấy cây bạc cây đồng, Nxb Khoa học xã hội
117 Viện Khoa học xã hội Việt Nam (2006), Lấy ché con ó của Tiăng, Nxb Khoa học xã hội
118 Viện Khoa học xã hội Việt Nam (2006), Rôch, Rông bắt hồn Lêng, Nxb Khoa học xã hội
119 Viện Khoa học xã hội Việt Nam (2006), Tiăng cướp Djăn, Dje, Nxb Khoa học xã hội
120 Viện Khoa học xã hội Việt Nam (2006), Tiăng lấy gươm tự chém, Nxb Khoa học xã hội
121 Viện Khoa học xã hội Việt Nam (2006), Tiăng lấy lại ché rlung chim phượng hoàng ở bon Kla, Nxb Khoa học xã hội
122 Viện Khoa học xã hội Việt Nam (2006), Ting, Rung chết, Nxb Khoa học xã hội
123 Viện Khoa học Xã hội Việt Nam (2006), Trâu bon Tiăng chạy đến bon Krơng, Lơng con Jiăng, Nxb Khoa học xã hội
124 Viện Khoa học xã hội Việt Nam (2006), Yang bán Bing con Lông, Nxb Khoa học xã hội
125 Viện Khoa học xã hội Việt Nam (2007), Cướp Bung con Klêt, Nxb Khoa học xã hội
126 Viện Khoa học xã hội Việt Nam (2007), Sung, Trang con Mung thăm Tiăng
Nxb Khoa học xã hội
127 Viện Khoa học xã hội Việt Nam (2007), Tiăng giành lại bụi tre lồ ô, Nxb Khoa học xã hội
128 Viện KHXH Việt Nam - UBND tỉnh Đắc Lắc (2009), Sử thi Việt Nam trong bối cảnh sử thi châu Á, Nxb Khoa học xã hội
129 Trần Tấn Vịnh (1994), Cây nêu thần, Sở Văn hoá - Thông tin tỉnh Dak Lak
130 Trần Tấn Vịnh (2008), “Tìm hiểu văn học dân gian Mơ Nông: Lời tâm tình bên khung dệt”, Tạp chí Nguồn sáng dân gian (2), tr.53-57
131 Trần Tấn Vịnh,Điểu Kâu (1996), Mùa rẫy bon Tiăng, Sở Văn hoá - Thông tin Dak Lak