NỘI DUNG CHÍNH
1.1 Tổng quan các nghiên cứu trong nước và quốc tế về các yếu tố ảnh hưởng đến lao động nhập cư
Trong suốt nhiều năm qua, nhiều nghiên cứu và dự án liên quan đến di dân ở Tây Nguyên đã được triển khai, bắt đầu từ thập niên 1980 với những bài viết của các nhà khoa học như Đặng Nghiêm Vạn, Lê Duy Đại, và Nguyễn Đức Hùng Những công trình này đã phản ánh tình trạng di dân và tăng dân số cơ học ở Tây Nguyên, đặc biệt qua ấn phẩm "Tây Nguyên trên đường phát triển" của Chương trình Tây Nguyên II Từ thập niên 1990 đến nay, với sự gia tăng mạnh mẽ của di dân, nghiên cứu về vấn đề này đã trở nên cấp thiết hơn, dẫn đến việc xuất bản nhiều sách chuyên khảo và thực hiện nhiều đề tài, dự án nghiên cứu sâu rộng.
Một số ấn phẩm và dự án tiêu biểu liên quan đến di dân tự do tại Việt Nam bao gồm sách "Di dân tự do và các biện pháp tác động" của Trung tâm Dân số và Nguồn lao động, cùng với tác phẩm "Dân số và dân tộc ở Việt Nam" của Khổng Diễn (1995) Ngoài ra, Dự án điều tra cơ bản về di dân tự do đến Tây Nguyên và các tỉnh khác do Cục Định canh, định cư & Kinh tế mới phối hợp với Viện Kinh tế Nông nghiệp thực hiện, cũng như các đề tài như “Chính sách dân số và di dân trong phát triển bền vững ở Tây Nguyên” do Đặng Nguyên Anh chủ trì, đều đóng góp quan trọng vào nghiên cứu về vấn đề này.
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Tổng quan các nghiên cứu trong nước và quốc tế về các yếu tố ảnh hưởng đến lao động nhập cư
Trong suốt nhiều năm qua, đã có nhiều nghiên cứu và dự án liên quan đến tình trạng di dân ở Tây Nguyên, bắt đầu từ thập niên 1980 với các công trình của các nhà khoa học như Đặng Nghiêm Vạn, Lê Duy Đại, và Nguyễn Đức Hùng, được phản ánh trong ấn phẩm "Tây Nguyên trên đường phát triển" Những nghiên cứu này đã chỉ ra những lo ngại về di dân và tăng dân số cơ học tại khu vực Từ thập niên 1990, khi tình trạng di dân vào Tây Nguyên gia tăng mạnh mẽ, nghiên cứu về vấn đề này đã được chú trọng hơn, dẫn đến việc xuất bản nhiều bài nghiên cứu và sách chuyên khảo, cùng với việc triển khai nhiều đề tài và dự án nghiên cứu.
Một số ấn phẩm và dự án tiêu biểu liên quan đến di dân tự do tại Việt Nam bao gồm sách "Di dân tự do và các biện pháp tác động" của Trung tâm Dân số và Nguồn lao động, cùng với sách "Dân số và dân tộc ở Việt Nam" của tác giả Khổng Diễn (1995) Cục Định canh, Định cư & Kinh tế mới và Viện Kinh tế Nông nghiệp đã thực hiện dự án điều tra cơ bản về tình trạng di dân tự do đến Tây Nguyên Chương trình Tây Nguyên 3 cũng đã triển khai nhiều đề tài như “Chính sách dân số và di dân trong phát triển bền vững ở Tây Nguyên” do Đặng Nguyên Anh làm chủ nhiệm, và đề tài “Đô thị hóa và quản lý đô thị trong phát triển bền vững vùng Tây Nguyên” do Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc Gia Hà Nội chủ trì với Hoàng Bá Thịnh là chủ nhiệm.
Khi nghiên cứu về di dân tại Việt Nam, hai nguồn tài liệu quan trọng là Điều tra di cư Việt Nam và Tổng điều tra dân số và nhà ở Cuộc điều tra di cư năm 2004, do Tổng cục thống kê thực hiện với sự hỗ trợ của Quỹ dân số Liên hợp quốc, đã cung cấp cái nhìn sâu sắc về tình hình di cư tại các khu vực nông thôn, khu vực công nghiệp và thành phố lớn Nghiên cứu này bao gồm 10.000 người, chia đều giữa di cư và không di cư, nhằm thu thập thông tin về các yếu tố kinh tế - xã hội, nhân khẩu học, lao động, và điều kiện sống Tuy nhiên, nghiên cứu chỉ đề cập đến thực trạng chung mà chưa đi sâu vào các vấn đề như thay đổi nghề nghiệp của người di cư Thiết kế mẫu có chủ đích cũng không cho phép ước lượng đại diện cho khu vực cụ thể, do đó kết quả không thể phản ánh chính xác dân số của từng khu vực Dù vậy, cuộc nghiên cứu đã tạo cơ sở cho việc so sánh sự khác biệt giữa người di cư và không di cư thông qua bộ bảng hỏi riêng cho từng nhóm.
Tổng điều tra dân số và nhà ở tỉnh Lâm Đồng năm 1999 và 2009 là nguồn tài liệu quan trọng cho luận án này, với các kết quả chủ yếu được trình bày trong 3 phần và 6 chương, bao quát nhiều vấn đề về dân số, di cư, đô thị hóa, giáo dục, điều kiện nhà ở và lao động Phương pháp nghiên cứu được áp dụng quy mô toàn quốc và tỉnh, với mẫu chùm cả khối theo phương pháp phân tầng- hệ thống một giai đoạn, cho phép suy rộng cho tổng thể Mặc dù có hiệu quả và độ tin cậy cao, nhưng nghiên cứu tổng điều tra chưa đề cập đầy đủ đến các khía cạnh chi tiết, đặc biệt là vấn đề lao động Nhiều nghiên cứu chuyên sâu về di cư và ảnh hưởng của nó đến phát triển kinh tế xã hội đã xuất hiện, từ các tác giả nước ngoài như M.P Todaro và Martin Ruhs, đến các nghiên cứu trong nước của Trịnh Duy Luân và Đặng Nguyên Anh, cho thấy vai trò quan trọng của di dân trong sự phát triển của các thành phố và xã hội.
Di cư đóng vai trò quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa nông thôn ở Việt Nam Tuy nhiên, các nghiên cứu hiện tại chưa làm rõ quá trình hình thành cuộc sống tại nơi đến cũng như sự thay đổi việc làm của người di cư, từ đó chưa chỉ ra được những đóng góp cụ thể của họ cho thành phố và cuộc sống của chính bản thân họ.
Nghiên cứu định lượng kết hợp phỏng vấn chuyên gia và phân tích chính sách đã đánh giá tác động của di dân đối với thu nhập và mức sống của hộ gia đình Các nghiên cứu này cũng xem xét ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế, bao gồm tiết kiệm và đầu tư, sự tham gia vào thị trường lao động, giáo dục, học vấn, tác động giới và các khía cạnh xã hội khác.
Khi bàn về các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình di cư, nhiều nghiên cứu chỉ rõ vai trò của vốn xã hội nhƣ H.Moerbeek, 1995; M.B Aguilera, 2002;
S.J.Appold và Nguyễn Quý Thanh, 2004, Nguyễn Duy Thắng, 2007, vàmạng lưới xã hộinhư M.Granovestter, 1974; Corcoran, G.Ducan, 1980, cũng như vai trò của yếu tố nhân khẩu học nhƣ giới tính nhƣ J.Harper, B.Wheaton,
Năm 1995, học vấn và tôn giáo đóng vai trò quan trọng trong quyết định di chuyển và quá trình di cư của cá nhân Đặc biệt, yếu tố giới tính có ảnh hưởng lớn đến khả năng di cư của nữ giới, không chỉ trong thị trường lao động mà còn hạn chế khả năng thích nghi và hòa nhập vào cộng đồng mới nơi họ định cư, như đã được Đặng Nguyên Anh đề cập trong các nghiên cứu năm 2005 và 2007.
Yếu tố thu nhập đóng vai trò quan trọng trong việc di cư của người dân, như đã chỉ ra trong nghiên cứu của Nguyễn Thanh Liêm (2006) và Bùi Quang Bình (2008) Nghiên cứu của Nguyễn Thanh Liêm phân tích mối quan hệ giữa di cư và thu nhập qua dữ liệu từ “Dự án nghiên cứu liên ngành về gia đình nông thôn Việt Nam trong thời kỳ chuyển đổi,” thực hiện tại ba tỉnh Yên Bái, Tiền Giang và Thừa Thiên - Huế vào các năm 2004, 2005 và 2006 Nghiên cứu áp dụng cả phương pháp định tính và định lượng, với 300 hộ gia đình được phỏng vấn tại mỗi tỉnh Kết quả cho thấy thu nhập gia đình ảnh hưởng đến quyết định di cư, với gia đình giàu có đầu tư cho con cái học tập xa, trong khi gia đình nghèo thường di cư để tìm kiếm việc làm và cải thiện cuộc sống Tuy nhiên, nghiên cứu chưa làm rõ mục đích di cư của hai nhóm đối tượng này Tác giả cũng chỉ ra rằng cả người giàu và người nghèo đều hưởng lợi từ di cư, nhưng người giàu có lợi nhiều hơn Bài viết nêu bật sự đa dạng và khác biệt về tình trạng di cư giữa các vùng, nhưng chưa làm rõ ảnh hưởng của nghề nghiệp của bố mẹ đến cuộc sống của con cái tại nơi đến Cuối cùng, câu hỏi về tính đại diện của mẫu 300 hộ gia đình cho toàn bộ dân số vẫn chưa được giải đáp.
Các nghiên cứu hiện tại đã tập trung vào di cư và các loại hình di cư, cùng với tác động của chúng đến phát triển kinh tế xã hội, nhưng vấn đề lao động nhập cư vẫn chưa được đề cập đầy đủ Ngoài ra, ảnh hưởng của các yếu tố như vốn xã hội, nhân khẩu học và thu nhập đối với lao động nhập cư và sự ổn định cuộc sống của họ tại nơi làm việc cũng chưa được nghiên cứu kỹ lưỡng Mặc dù các phương pháp định lượng, định tính và chuyên gia đã được áp dụng, nhưng các nghiên cứu chưa chỉ ra tính hệ thống và đại diện trong việc chọn mẫu, đặc biệt là khi thực hiện trên diện rộng ở nhiều khu vực khác nhau.
1.2 Tổng quan nghiên cứu về lao động,việc làm của người dân nhập cư trong thị trường lao động
Trong những năm gần đây, chủ đề dân nhập cư và lao động nhập cư đã thu hút sự quan tâm của nhiều quốc gia, từ nghiên cứu hàn lâm đến thực tiễn chính sách Các nhà nghiên cứu như Yanyi K Djamba, Sidney Goldstein, Alice Goldstein, Pieter Bevelander, Shahamak Rezaei, Donald E Eggerth và Michael A Flynn đã thực hiện những nghiên cứu sâu sắc về cơ hội việc làm của dân nhập cư tại nhiều quốc gia, bao gồm Thụy Điển, Đan Mạch, Mỹ và Việt Nam.
Nam Đi sâu vào từng nghiên cứu, ở “Employment status of immigrant women: The case of Sweden” [Pieer Bevelander, 2005, 173 - 202] và
“Migration and Occupational changes during period of economic transition:
Nghiên cứu "Women and Men in Việt Nam" của Yanyi K.Djamba (2000) chỉ ra rằng phụ nữ gặp nhiều khó khăn hơn nam giới trong việc tiếp cận cơ hội việc làm do rào cản từ gia đình, thể chế và định kiến giới, đặc biệt tại Việt Nam Mặc dù cả hai giới đều có cơ hội thay đổi nghề nghiệp trong bối cảnh phát triển kinh tế, nhưng khoảng cách giữa họ lại gia tăng do định kiến sâu sắc Thị trường lao động hiện tại cho phép người di cư tự do lựa chọn nghề nghiệp, nhưng nhiều phụ nữ vẫn bị giới hạn trong những công việc đơn giản với mức lương thấp do thiếu kỹ năng và trình độ Nghiên cứu cũng nhấn mạnh vai trò quan trọng của thể chế trong việc hỗ trợ di dân và nhập cư ổn định cuộc sống tại nơi ở mới Pieter đã áp dụng phương pháp chọn mẫu phân tầng tỷ lệ để so sánh sự khác biệt giữa di cư dài hạn, ngắn hạn và người địa phương, từ đó đề xuất chính sách phù hợp cho từng nhóm đối tượng.
Cũng nghiên cứu về việc làm của dân nhập cƣ, ở nghiên cứu “Breaking out: The dynamics of immigrant owned businesses” [Shahamak Rezaei, 2007,
Nghiên cứu cho thấy tính năng động của người lao động nhập cư, đặc biệt là trong bối cảnh phát triển kinh tế ở các nước kém phát triển, đã hạn chế cơ hội cho nhiều nhóm xã hội, đặc biệt là phụ nữ Các yếu tố như mạng xã hội, nguồn lực kinh tế và mối quan hệ đồng nghiệp đóng vai trò quan trọng trong việc gia tăng cơ hội việc làm cho người nhập cư Tính năng động xã hội không chỉ giúp họ tìm kiếm và thay đổi công việc hiệu quả hơn, mà còn cung cấp kỹ năng cần thiết cho thị trường lao động, góp phần vào sự phát triển kinh tế.
Nghiên cứu "Công nhân nhập cư Latino: Một nghiên cứu khám phá" của Donald (2012, trang 76 - 98) đã cung cấp cái nhìn sâu sắc về lý thuyết điều chỉnh công việc của người lao động nhập cư từ khu vực Latin Nghiên cứu này giúp hiểu rõ hơn về những thách thức và cơ hội mà nhóm công nhân này gặp phải trong môi trường làm việc.
Trong cuốn sách “Immigration: Policies, challenges and impact” của Eugene Tartakovsky, tác giả đã trình bày một cái nhìn tổng quan về vấn đề nhập cư, bao gồm các tác động, thách thức và chính sách liên quan Với 19 chương, tác phẩm khám phá động cơ di cư, thái độ xã hội đối với người nhập cư, danh tính, tiếp biến văn hóa, và điều chỉnh tâm lý, cùng với sự tham gia của 42 chuyên gia trong nghiên cứu Mặc dù đề cập đến vấn đề di cư và nhập cư một cách rộng rãi, tác phẩm vẫn thiếu sự phân tích sâu sắc về các đặc điểm và chính sách cụ thể cho từng nhóm đối tượng.
Nghiên cứu: “The Labour Market Effects of Immigration” [M.Ruhs,
Tổng quan những nghiên cứu về chính sách di cƣ, nhập cƣ và thực tiễn chính sách, quan điểm của Đảng và Nhà nước về vấn đề di cư và nhập cƣ
Trong những năm gần đây, nhiều nghiên cứu quốc tế đã tập trung vào các chính sách di cư và nhập cư, đặc biệt từ các quốc gia như Mỹ, Anh, Đức và các nước Châu Âu Dòng di cư xuyên quốc gia ngày càng gia tăng với nhiều hình thức đa dạng, thu hút sự chú ý của các tác giả tiêu biểu như M Woolcock và D Narayan (2000).
Nghiên cứu "Chính sách nhập cư và thị trường lao động" của Klaus F Zimmermann (2007) chỉ ra rằng Đức và châu Âu gần đây đã bắt đầu đối phó với nhu cầu lao động tăng cao, trong khi vẫn phải đối mặt với tình trạng thất nghiệp và lực lượng lao động thu hẹp do thay đổi nhân khẩu học Mặc dù đã có những hành động nhập cư đầu tiên và sáng kiến hài hòa pháp lý ở cấp EU, một chính sách nhập cư chủ động và kiểm soát vẫn cần thiết để giải quyết các thách thức tương lai Cuốn sách phân tích lịch sử chính sách nhập cư của Đức, đồng thời đánh giá nhu cầu nhập cư trong tương lai và phát triển mô hình kinh tế cho việc lựa chọn và hội nhập người di cư lao động, nhằm xây dựng một chiến lược di trú châu Âu hiệu quả.
Nghiên cứu “Migrant rights, immigration policy and human development” của M Ruhs (2009) chỉ ra tác động của quyền lao động di cư đối với sự phát triển con người của người di cư và gia đình họ, cũng như những người khác ở các quốc gia có người di cư Nghiên cứu tập trung vào cách quyền nhập cư ảnh hưởng đến khả năng di chuyển và làm việc của người lao động từ các nước thu nhập thấp sang các thị trường lao động của các quốc gia thu nhập cao Điều này mở ra một ý tưởng mới cho luận án, đặc biệt khi một số địa phương tại Việt Nam đang có xu hướng hạn chế hoặc ngăn cấm dòng nhập cư.
Tại Việt Nam, nhiều nghiên cứu đã được thực hiện về chính sách và bảo trợ xã hội đối với lao động việc làm của dân nhập cư, bao gồm các công trình của Nguyễn Hữu Dũng (1997), Tống Văn Chung (2005), Đặng Nguyên Anh (2006, 2008, 2011), Phạm Quỳnh Hương (2006), và Lê Bạch Dương, Trần Giang Linh, Nguyễn Thị Phương Thảo (2011).
Những bài vết tiêu biểu có thể thấy trong nghiên cứu "Về chính sách giải quyết việc làm ở Việt Nam” [Nguyễn Hữu Dũng, 1997, 171 - 183]tác giả
Nguyễn Hữu Dũng đã nghiên cứu chính sách giải quyết việc làm tại Việt Nam trong bối cảnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa Nghiên cứu này cung cấp phương pháp luận và khái niệm về lao động - việc làm, đồng thời đề cập đến thị trường lao động và mối quan hệ cung - cầu lao động Tác giả đã phân tích thực trạng việc làm ở Việt Nam, đặc biệt trong nông nghiệp và nông thôn, cùng với nguyên nhân dẫn đến tình trạng này Nghiên cứu cũng chỉ ra dòng di chuyển lao động từ nông thôn ra thành phố tìm kiếm việc làm Để giải quyết vấn đề việc làm ở khu vực nông thôn, cần tập trung vào việc cải thiện tình trạng thiếu việc làm, hiệu quả lao động và thu nhập thông qua việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế và lao động theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa Luận án đã tham khảo các khái niệm về lao động và việc làm, đồng thời phân tích nguyên nhân di cư từ nông thôn ra thành phố.
Bài viết "Người nhập cư đô thị và an sinh xã hội" của tác giả Phạm Quỳnh Hương nhấn mạnh rằng người nhập cư đã đóng góp đáng kể vào sự phát triển của thành phố, nhưng họ vẫn phải đối mặt với nhiều rủi ro và chưa được hưởng đầy đủ phúc lợi xã hội Do đó, cần thiết phải có các chính sách an sinh xã hội phù hợp dành cho nhóm này Tác giả đã phân tích và tổng hợp các nghiên cứu trước đó để đề xuất những giải pháp thiết thực nhằm đảm bảo phúc lợi cho người nhập cư, khẳng định rằng di cư là động lực quan trọng cho sự phát triển đô thị Tuy nhiên, các giải pháp chính sách hiện tại vẫn còn chung chung và thiếu tính đặc thù, điều này có thể gây khó khăn cho các nhà quản lý trong việc áp dụng vào thực tiễn tại địa phương.
Di cư từ nông thôn ra đô thị là một quá trình quan trọng trong phát triển kinh tế, nhưng người lao động di cư, đặc biệt là nhóm di cư ngắn hạn và tạm thời, thường không được ghi nhận trong các chương trình điều tra dân số và phải đối mặt với nhiều thiệt thòi Họ xa gia đình và không nhận được sự hỗ trợ từ cộng đồng, dẫn đến việc chịu nhiều rủi ro xã hội, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế bất ổn Mặc dù Việt Nam đã phát triển hệ thống bảo trợ xã hội qua bảo hiểm xã hội và y tế, nhưng người di cư tự phát vẫn không được hưởng lợi từ các chính sách này, gây áp lực lên các đô thị về dịch vụ xã hội và cơ sở hạ tầng.
Về mặt thể chế, hiện không có cơ quan chính phủ nào chịu trách nhiệm chính về các vấn đề di cư tự phát Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chỉ quản lý di cư có tổ chức, trong khi Bộ Công an phụ trách đăng ký hộ khẩu, tạo ra rào cản cho người di cư tự phát Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội cũng không có vai trò trong việc này, dẫn đến sự thiếu sót trong quản lý di cư tự phát.
(MOLISA) không có một chính sách phù hợp với các rủi ro cụ thể đặt ra cho những người di cư
Bài viết này trình bày kết quả nghiên cứu về bảo trợ xã hội cho người di cư từ nông thôn ra đô thị tại Việt Nam, nhấn mạnh sự thiếu hụt chính sách và chương trình hỗ trợ hiện có Nghiên cứu chỉ ra rằng tính dễ tổn thương của người di cư chủ yếu do các chính sách xã hội hiện tại không đủ hiệu quả Để đảm bảo người di cư được hưởng đầy đủ quyền lợi, cần giải quyết các lỗ hổng trong chính sách và khuôn khổ pháp lý Do đó, hoạch định chính sách cần tập trung vào việc công nhận tư cách pháp lý của người di cư và cải thiện khả năng tiếp cận của họ đến các nguồn lực kinh tế xã hội thiết yếu.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài tập trung vào hai nhóm người di cư chính Nhóm đầu tiên là những người di cư từ nông thôn đến đô thị để tìm kiếm việc làm và tham gia vào thị trường lao động Nhóm thứ hai bao gồm những người di cư từ nông thôn đến làm việc trong các khu công nghiệp Đây là hai loại hình di cư phổ biến nhất từ nông thôn ra đô thị tại Việt Nam hiện nay.
Nhóm tác giả đã tiến hành nghiên cứu với hai phương pháp khác nhau để phân tích tình hình di cư Đối với nhóm đầu tiên, họ đã phỏng vấn 967 người di cư tạm thời tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, lấy dữ liệu từ mẫu tổng thể hơn 5.000 người di cư trong nghiên cứu MIS 2008 Đối với nhóm thứ hai, họ thực hiện nghiên cứu định tính để thu thập thông tin về hình thức bảo trợ xã hội từ nhà tuyển dụng, phỏng vấn 100 công nhân nhập cư, trong đó một nửa đã có việc làm và nửa còn lại chưa có việc làm do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu.
Bài viết trình bày kết quả của 20 cuộc phỏng vấn sâu với các nhà quản lý, thương mại, công đoàn trong khu công nghiệp và quan chức chính phủ về vấn đề bảo trợ xã hội cho người di cư Nhóm nghiên cứu cũng đã xem xét các tài liệu hiện có về di cư và bảo trợ xã hội, cùng với các báo cáo của chính phủ liên quan đến dân số và tình hình di cư.
Nghiên cứu về chính sách bảo trợ xã hội cho người nhập cư tại Việt Nam cho thấy còn thiếu một khuôn khổ chính sách toàn diện nhằm bảo vệ người dân, đặc biệt là những người di cư tự phát từ nông thôn ra đô thị Hệ thống pháp luật hiện tại chưa có cách tiếp cận dựa trên quyền lợi và thu nhập Để phát triển kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa, cần gắn kết giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội Điều này sẽ giúp thu hẹp khoảng trống trong chính sách đối với người di cư Người di cư tự phát gặp khó khăn trong việc đăng ký hộ khẩu tại đô thị, dẫn đến việc họ bị loại trừ khỏi tiến bộ xã hội Do đó, cần tăng cường chính sách để tạo điều kiện cho người di cư tiếp cận nguồn lực kinh tế và công nhận tư cách pháp lý của họ tại nơi đến.
Nghiên cứu chỉ ra rằng người di cư tại các khu công nghiệp gặp phải nhiều vấn đề nghiêm trọng, bao gồm môi trường làm việc nguy hiểm, quy định lao động không đầy đủ, điều kiện sống nghèo nàn và thiếu thốn về văn hóa tinh thần Họ thường không có đủ kiến thức về luật lao động để bảo vệ quyền lợi của mình, trong khi các doanh nghiệp thường không tuân thủ quy định sử dụng lao động Hơn nữa, vai trò của công đoàn trong việc bảo vệ quyền lợi người lao động cũng không được thực hiện hiệu quả Do đó, cần có những chính sách hỗ trợ mạnh mẽ hơn cho công nhân di cư thông qua giám sát pháp luật lao động, hoạt động tích cực của công đoàn và sự tham gia của chính người lao động.
Bài viết “Chính sách di dân đi xây dựng vùng kinh tế mới ở Việt Nam” của Đặng Nguyên Anh chỉ ra rằng mặc dù có những thành tựu nhất định, chính sách di dân vẫn bộc lộ nhiều hạn chế, bao gồm kế hoạch thiếu thực tế và chưa tôn trọng quy luật khách quan Việc triển khai chính sách thiếu sự thống nhất giữa trung ương và địa phương, dẫn đến sự không phù hợp với yêu cầu phát triển hiện tại và mang tính bao cấp Tác giả cũng nêu rõ động lực thúc đẩy di dân tự do và đề xuất nâng cao năng lực xây dựng hệ thống chính sách di dân, đổi mới quy hoạch dân cư và chính sách quản lý đất đai, cũng như cải thiện khả năng thực hiện các dự án di dân.
Tổng quan địa bàn nghiên cứu
Đà Lạt, thành phố trực thuộc tỉnh Lâm Đồng, nằm trên cao nguyên Lâm Viên ở độ cao 1.500 m so với mực nước biển, có diện tích 393,29 km² Được công nhận là đô thị loại 1 vào ngày 24 tháng 3 năm 2009, Đà Lạt là một trong bốn đô thị loại 1 của tỉnh, cùng với Huế, Nha Trang và Vinh Thành phố nằm trong cao nguyên Lang Biang, giáp huyện Lạc Dương về phía Bắc, huyện Đơn Dương về phía Đông và Đông Nam, và hai huyện Lâm Hà và Đức Trọng về phía Tây và Tây Nam Đà Lạt bao gồm 12 phường và 4 xã: Tà Nung, Xuân Trường, Xuân Thọ, và Trạm Hành.
Đà Lạt, ngay từ khi thành lập, đã nhanh chóng trở thành một trung tâm nghỉ dưỡng và du lịch nổi tiếng Với điều kiện tự nhiên thuận lợi, thành phố này đã thu hút cả cư dân địa phương và nhiều người từ các vùng khác của Việt Nam cũng như từ châu Âu và Trung Quốc, cùng nhau xây dựng nên vẻ đẹp của Đà Lạt ngày nay.
1.4.1 Lịch sử hình thành và phát triển dân số Đà Lạt 1
Cộng đồng cư dân Đà Lạt đã phát triển song song với quá trình hình thành và phát triển của thành phố Dân số Đà Lạt không chỉ biến đổi theo cách tự nhiên mà còn chịu ảnh hưởng từ nhiều yếu tố khác nhau.
Theo báo cáo của Trang thông tin điện tử thành phố Đà Lạt, dân số của thành phố này đã có những biến động theo lịch sử và chính trị Giai đoạn 1900 – 1914, Bác sĩ Alexandre Yersin nhận xét về vùng đất này là dân cư thưa thớt, với một số làng của người Lạch tập trung ở chân núi Từ năm 1915 – 1939, việc phát triển hạ tầng và mở rộng đường sá đã thu hút dân cư từ khắp nơi đến Đà Lạt để định cư, du lịch và nghỉ dưỡng, khiến dân số tăng từ 1.500 người năm 1923 lên 5.500 người.
Giai đoạn 1935-1945, dân số Đà Lạt tăng từ 9.000 người năm 1935 lên 25.500 người vào năm 1944, nhờ vào sự phát triển của các cơ sở giáo dục, y tế và giao thông, mặc dù chiến tranh thế giới thứ hai đã gây khó khăn cho người Pháp Từ năm 1946 đến 1954, tình hình chiến sự đã hạn chế tự do di chuyển, dân số Đà Lạt vào tháng 3-1948 là 18.513 người, và đến cuối năm 1952 đạt 25.041 người Giai đoạn 1954-1975 chứng kiến sự gia tăng mạnh mẽ dân số từ 25.000 người lên 58.958 người chỉ trong hai năm, nhờ vào làn sóng di cư từ miền Bắc và miền Trung Đến năm 1970, dân số Đà Lạt đạt 89.656 người, nhưng đến năm 1975, do tình hình chiến sự căng thẳng, dân số giảm xuống còn 85.833 người Từ năm 1975 đến nay, Đà Lạt tiếp tục phát triển và thu hút cư dân mới.
Từ năm 1975, sau khi Đà Lạt được giải phóng, địa giới hành chính của thành phố đã được mở rộng, dẫn đến sự thành lập nhiều cơ quan, đơn vị và sự phát triển kinh tế - xã hội, tạo ra sự gia tăng dân số cơ học đáng kể Năm 1981, dân số Đà Lạt đạt 98.437 người, và chỉ trong một năm sau, đã vượt ngưỡng 100.000 dân Đến năm 1990, dân số lên tới 120.261 người, và theo thống kê vào ngày 1-4-1999, con số này đã tăng lên 160.663 người, tiếp tục đạt 197.013 người vào năm 2007.
1.4.2 Vấn đề lao động, việc làm trên địa bàn
Một chỉ tiêu quan trọng trong tổng điều tra dân số là tình hình hoạt động của người dân Trong cuộc tổng điều tra dân số năm 1989, thông tin về hoạt động của dân cư trong 12 tháng trước thời điểm điều tra đã được thu thập và phân loại thành các nhóm khác nhau.
Dân số hoạt động kinh tế bao gồm những người có việc làm ổn định, tạm thời và những người chưa có việc làm, trong khi dân số không hoạt động kinh tế gồm học sinh, người nội trợ, người mất khả năng lao động và các trường hợp khác Tại Lâm Đồng, tỷ lệ dân số từ 5 tuổi trở lên tham gia hoạt động kinh tế đạt 80,61%, cao hơn 3,31% so với mức trung bình toàn quốc, nhưng tương đương với Đắc Lắc và thấp hơn 3,75% so với Gia Lai - Kontum.
Trong nhóm hoạt động kinh tế, 92,69% dân số làm việc từ 6 tháng trở lên trong năm, cho thấy mức độ ổn định cao trong việc làm Chỉ 2,7% dân số làm việc dưới 6 tháng, trong khi 1,1% làm việc tạm thời và 4,14% chưa có việc làm So với tỷ lệ thất nghiệp toàn quốc trên 5%, Đắc Lắc và Gia Lai - Kontum có tỷ lệ thất nghiệp lần lượt là 3,68% và 3,2%.
Lâm Đồng và Đắc Lắc có tỷ lệ người có việc làm cao thứ hai cả nước, vượt hơn 10% so với mức trung bình quốc gia Trong khi đó, Đồng Nai đạt 95-99% và thành phố Hồ Chí Minh chỉ đạt 90% về tình trạng việc làm Điều này cho thấy tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị cao hơn, trong khi phần lớn dân số nông thôn có việc làm ổn định Là tỉnh miền núi với đa số dân cư sống ở nông thôn, Lâm Đồng có tỷ lệ thất nghiệp thấp hơn so với các tỉnh đồng bằng có thành phố lớn Cụ thể, tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị Lâm Đồng là 6,51%, trong khi ở nông thôn chỉ là 1,5% đối với dân số từ 15 tuổi trở lên.
Cơ cấu dân số tham gia hoạt động kinh tế có sự khác biệt rõ rệt giữa nam và nữ, với tỷ lệ nam giới tham gia đạt 85,11% so với 76,40% của nữ giới Sự chênh lệch này phản ánh thực tế rằng nhiều phụ nữ không tham gia vào thị trường lao động mà chủ yếu làm công việc nội trợ, một vai trò truyền thống của họ.
Tỷ lệ từ 15 tuổi trở lên làm công việc chính nội trợ chiếm 7,88% dân số, nhƣng tỷ lệ này ở nam giới chỉ có 0,22%
Độ tuổi ảnh hưởng lớn đến hoạt động kinh tế của dân số Tỷ lệ thất nghiệp ở nhóm tuổi 15-24 đạt 7,23% do nhiều người mới ra trường gặp khó khăn trong tìm việc Ngược lại, tỷ lệ thất nghiệp giảm dần ở các nhóm tuổi cao hơn, từ 1,95% ở độ tuổi 25-34 xuống 0,37% ở độ tuổi 45-54 Đối với những người từ 55 tuổi trở lên, tỷ lệ tham gia lao động giảm xuống chỉ còn 36,2% do một phần đã mất khả năng lao động Điều này cho thấy việc giải quyết việc làm cho thanh niên mới ra trường, đặc biệt là ở thành phố, là rất quan trọng, khi tỷ lệ thất nghiệp ở nhóm tuổi 15-24 tại đô thị lên tới 14,14%, trong khi ở nông thôn chỉ là 3,33%.
Nghề nghiệp của dân số Lâm Đồng chủ yếu phụ thuộc vào điều kiện kinh tế xã hội địa phương, với 77,28% dân số từ 13 tuổi trở lên làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp Các ngành phi nông nghiệp chiếm tỷ lệ thấp, trong đó công nghiệp chỉ 7,0% và thương nghiệp 5,39% Sự khác biệt rõ rệt giữa nam và nữ trong các ngành nghề phi nông nghiệp thể hiện qua tỷ lệ làm việc, với nam giới thường đảm nhận các công việc nặng và kỹ thuật phức tạp như khai thác, cơ khí, điện - điện tử (2,05%), trong khi phụ nữ chỉ chiếm 0,09% Ngược lại, phụ nữ chủ yếu làm việc trong các ngành nhẹ hơn như dược và may mặc (5%), trong khi nam giới chỉ chiếm 0,72% Trong lĩnh vực buôn bán và dịch vụ, tỷ lệ nữ giới làm việc là 18%, trong khi nam giới chỉ đạt 2,70%.
Tại Lâm Đồng, số người từ 15 tuổi trở lên có trình độ chuyên môn kỹ thuật đạt 33.622 người, chiếm 8,8% tổng dân số, gần tương đương với tỷ lệ toàn quốc là 8,9% Trong đó, công nhân kỹ thuật có bằng và không có bằng chiếm 3,67%, tiếp theo là nhóm có trình độ trung cấp với 3,22%, và nhóm cao đẳng, đại học trở lên chiếm 2% dân số.
Tại Lâm Đồng, tỷ lệ nam giới có trình độ chuyên môn kỹ thuật đạt 11,31%, trong khi nữ giới chỉ là 6,44% Số lượng công nhân kỹ thuật nam giới chiếm ưu thế với 5,98%, ngược lại nữ giới chỉ chiếm 1,5% Điều này phản ánh rõ ràng sự phân bổ giới tính trong các ngành nghề đòi hỏi kỹ thuật như xây dựng, cơ khí sửa chữa, và công nghiệp khai thác Nữ giới có trình độ chuyên môn kỹ thuật chủ yếu ở bậc trung cấp, chiếm 3,44% trong tổng số phụ nữ từ 15 tuổi trở lên.