1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Công tác xã hội nhóm nhằm giảm thiểu bất bình đẳng giới về phân công lao động trong gia đình viên chức tại xã cộng hòa huyện quốc oai thành phố hà nội

91 8 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Công Tác Xã Hội Nhóm Nhằm Giảm Thiểu Bất Bình Đẳng Giới Về Phân Công Lao Động Trong Gia Đình Viên Chức Tại Xã Cộng Hòa, Huyện Quốc Oai, Thành Phố Hà Nội
Tác giả Vương Minh Huyền
Người hướng dẫn PGS.TS. Nguyễn Thị Thái Lan
Trường học Đại học Quốc gia Hà Nội
Chuyên ngành Công tác xã hội
Thể loại Luận văn thạc sĩ
Năm xuất bản 2020
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 91
Dung lượng 1,45 MB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN (22)
    • 1.1. Các khái niệm công cụ (22)
      • 1.1.1. Phân công lao động theo giới (22)
      • 1.1.2. Gia đình viên chức (25)
      • 1.1.3 Phân công lao động trong gia đình viên chức (26)
    • 1.2. Công tác xã hội nhóm (27)
      • 1.2.1. Công tác xã hội (27)
      • 1.2.2. Công tác xã hội nhóm (28)
      • 1.2.3. Công tác xã hội nhóm nhằm giảm thiểu bất bình đẳng giới trong phân công (30)
      • 1.2.4. Một số lý thuyết vận dụng trong công tác xã hội nhóm (30)
    • 1.3. Biểu hiện của sự phân công lao động theo giới trong gia đình viên chức (33)
      • 1.3.1. Nhận thức về phân công lao động theo giới trong gia đình viên chức (33)
      • 1.3.2. Phân công lao động trong gia đình viên chức theo các nhóm công việc (33)
    • 1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc phân công lao động trong gia đình viên chức (36)
    • 2.1. Mô tả địa bàn nghiên cứu (40)
      • 2.1.1 Điều kiện tự nhiên (40)
      • 2.1.2 Điều kiện kinh tế - xã hội (40)
    • 2.2. Thực trạng trong phân công lao động trong gia đình viên chức tại xã Cộng Hòa, huyện Quốc Oai, thành phố Hà Nội (0)
      • 2.2.1. Mô tả khách thể nghiên cứu và thang đo (41)
      • 2.2.2. Phân công lao động theo giới trong gia đình viên chức tại xã Cộng Hòa, huyện Quốc Oai, thành phố Hà Nội (43)
    • 2.3. Những yếu tố ảnh hưởng đến việc phân công lao động trong gia đình (55)
  • CHƯƠNG 3:ỨNG DỤNG PHƯƠNG PHÁP CÔNG TÁC XÃ HỘI NHÓM (0)
    • 3.1. Căn cứ lựa chọn phương pháp Công tác xã hội nhóm (59)
    • 3.2. Tiến trình công tác xã hội nhóm (60)
    • 3.3. Kết quả đạt được (66)
    • 3.4. Đánh giá chung quá trình áp dụng tiến trình CTXH nhóm (70)
    • 1. Kết luận (73)
      • 2.1. Đối với gia đình, các cặp vợ chồng (74)
      • 2.2. Đối với chính quyền địa phương xã Cộng Hòa (74)
      • 2.3. Đối với nhân viên CTXH (74)
      • 2.4. Đối với Vụ Bình đẳng giới – Bộ Lao động thương binh và xã hội (76)

Nội dung

CƠ SỞ LÝ LUẬN

Các khái niệm công cụ

1.1.1 Phân công lao động theo giới

Theo Luật Bình đẳng giới được ban hành bởi Quốc hội Khóa XI, kì họp thứ 10 vào ngày 29 tháng 11 năm 2006, giới được định nghĩa là những đặc điểm, vị trí và vai trò của nam và nữ trong mọi mối quan hệ xã hội.

Theo Lê Thị Quy trong "Giáo trình Xã hội học giới", giới được định nghĩa là mối quan hệ giữa nam và nữ, được xác định dựa trên văn hóa và cách thức mà mối quan hệ này được thiết lập trong xã hội.

Theo Vũ Mạnh Lợi, khái niệm giới bao gồm các hành vi và kỳ vọng xã hội khác nhau mà xã hội gán cho nam và nữ Những khái niệm này được hình thành qua quá trình trưởng thành và giao tiếp xã hội của mỗi cá nhân.

Giới là một phạm trù khoa học xã hội phản ánh vai trò, thái độ và giá trị của giới tính trong xã hội Nó bao gồm các mối quan hệ và tương quan về địa vị xã hội giữa phụ nữ và nam giới trong một môi trường cụ thể, được xác định qua mối quan hệ quyền lực, vị trí xã hội và phân công lao động giữa hai giới.

 Giới tính: Giới tính chỉ đặc điểm sinh học của nam và nữ.[15]

Bình đẳng giới được hiểu theo nhiều cách khác nhau, trong đó một quan điểm cho rằng nó là sự ngang bằng giữa nam giới và nữ giới, tức là nam giới như thế nào thì nữ giới cũng phải như vậy Tuy nhiên, đây là một cách hiểu chưa đầy đủ về khái niệm bình đẳng giới.

Ngân hàng Thế giới định nghĩa bình đẳng giới là sự bình đẳng về luật pháp và cơ hội, bao gồm việc tiếp cận nguồn nhân lực, vốn và các nguồn lực sản xuất, cũng như bình đẳng trong thù lao và tiếng nói Tuy nhiên, định nghĩa này không đề cập đến bình đẳng về thành quả Một cách hiểu đầy đủ hơn về bình đẳng giới là sự thừa nhận và coi trọng như nhau các đặc điểm giống và khác nhau giữa nam và nữ, đảm bảo rằng cả hai giới đều có vị thế bình đẳng và được tôn trọng.

Theo Điều 5, bình đẳng giới được định nghĩa là sự ngang bằng giữa nam và nữ về vị trí và vai trò, cùng với việc được tạo điều kiện phát huy năng lực cho sự phát triển của cộng đồng và gia đình, đồng thời hưởng lợi như nhau từ những thành quả đó Nghiên cứu của tôi dựa trên khái niệm này để khám phá sâu hơn về bình đẳng giới.

Bất bình đẳng giới là tình trạng phân biệt đối xử giữa nam và nữ, dẫn đến sự chênh lệch về vị trí, điều kiện và cơ hội trong việc thực hiện quyền con người Điều này không chỉ ảnh hưởng đến khả năng đóng góp của họ mà còn làm giảm lợi ích từ sự phát triển của gia đình và đất nước.

Bất bình đẳng giới là sự phân biệt trong cách đối xử giữa nam và nữ, dẫn đến những cơ hội, khả năng tiếp cận nguồn lực và lợi ích khác nhau trong các lĩnh vực xã hội.

 Định kiến giới: Là nhận thức, thái độ và đánh giá thiên lệch, tiêu cực về đạo đức, vị trí, vai trò và năng lực của nam hoặc nữ.[15]

Lao động là hoạt động có mục đích và ý thức của con người nhằm thay đổi vật thể tự nhiên để đáp ứng nhu cầu Đây là quá trình vận động của sức lao động trong việc tạo ra của cải vật chất cho xã hội, kết hợp sức lao động với tư liệu sản xuất để sản xuất ra sản phẩm phục vụ nhu cầu con người Vì vậy, lao động được coi là yếu tố quyết định cho mọi hoạt động kinh tế.

Trong bài viết này, tôi khám phá khái niệm lao động trong gia đình, bao gồm các công việc như nội trợ, chăm sóc con cái và các nhiệm vụ liên quan đến dòng họ.

Trong Tác phẩm “Sự phân công lao động trong xã hội” (1893) của E

Durkheim cho rằng phân công lao động không chỉ mang tính kinh tế mà còn đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra sự đoàn kết và hội nhập xã hội Theo ông, yếu tố đặc trưng của sự đoàn kết có tổ chức trong xã hội chính là sự phân công lao động, điều này phụ thuộc vào các đặc điểm tự nhiên của người lao động và sự phát triển kinh tế xã hội.

Phân công lao động theo giới là một hình thức phân chia công việc công bằng và hợp lý, dựa trên sự hiểu biết về tâm sinh lý của nam giới và nữ giới Quan điểm này nhấn mạnh tầm quan trọng của việc phân bổ nhiệm vụ phù hợp với khả năng và đặc điểm của từng giới, nhằm tối ưu hóa hiệu suất lao động và nâng cao chất lượng cuộc sống.

 Phân công lao động theo giới

Theo các nhà lý thuyết giới, phân công lao động theo giới là những chức năng xã hội và khả năng hành động phù hợp mà các thành viên trong xã hội dựa vào khi xác định vai trò của mình là phụ nữ hay nam giới Điều này cho thấy rằng phân công lao động không chỉ là kết quả của sự phân định chức năng giữa hai giới, mà còn dựa trên sự thống nhất và khác biệt về mặt sinh học cũng như các đặc trưng kinh tế - xã hội giữa nam và nữ.

Trong bài viết này, tôi sẽ tập trung vào khái niệm thứ hai, không chỉ để phân tích thực trạng phân công lao động trong gia đình mà còn để khám phá các yếu tố ảnh hưởng đến sự phân công này, bao gồm yếu tố sinh học và những đặc trưng kinh tế - xã hội giữa hai giới.

Công tác xã hội nhóm

Công tác xã hội, theo Hiệp hội Quốc gia nhân viên công tác xã hội, là một nghề nghiệp nhằm hỗ trợ cá nhân, nhóm và cộng đồng trong việc nâng cao và khôi phục tiềm năng của họ Hoạt động này giúp họ thực hiện chức năng xã hội và tạo ra các điều kiện xã hội phù hợp với mục tiêu của mình Mục tiêu của công tác xã hội là cung cấp dịch vụ xã hội hiệu quả và nhân đạo, từ đó giúp cá nhân, gia đình và cộng đồng cải thiện cuộc sống và tăng cường năng lực.

Công tác xã hội được định nghĩa bởi các nhà nghiên cứu trong lĩnh vực khoa học nhân văn là những hoạt động tương tác, giáo dục và phục vụ nhằm duy trì hoặc phát triển năng lực xã hội của cá nhân hoặc nhóm xã hội, đặc biệt là những nhóm có phương thức sinh tồn không còn phù hợp với các chuẩn mực địa phương.

Công tác xã hội được định nghĩa là nghề nghiệp tham gia giải quyết các vấn đề liên quan đến mối quan hệ con người, thúc đẩy sự thay đổi xã hội và nâng cao chất lượng sống Nó nhằm tăng cường sự trao quyền và giải phóng quyền lực cho con người Công tác xã hội áp dụng các lý thuyết về hành vi con người và hệ thống xã hội để can thiệp vào sự tương tác giữa con người và môi trường sống.

Công tác xã hội, theo Nguyễn Thị Oanh, được định nghĩa là hỗ trợ cá nhân và cộng đồng trong việc tự giúp mình, không phải là hành động từ thiện đơn thuần Mục tiêu của công tác xã hội là phát huy sứ mệnh của hệ thống thân chủ, bao gồm cá nhân, nhóm và cộng đồng, nhằm khuyến khích họ tự giải quyết các vấn đề của chính mình.

Theo Liên đoàn Chuyên nghiệp Xã hội Quốc tế (IFSW) tại Hội nghị Quốc tế Montreal, Canada, tháng 7/2000, công tác xã hội chuyên nghiệp không chỉ thúc đẩy sự thay đổi xã hội mà còn giải quyết các vấn đề trong mối quan hệ con người Bằng cách tăng cường quyền lực và giải phóng cho con người, công tác xã hội hướng tới việc cải thiện chất lượng cuộc sống Thông qua việc áp dụng các lý thuyết về hành vi con người và hệ thống xã hội, công tác xã hội can thiệp vào các điểm tương tác giữa con người và môi trường xung quanh họ.

Theo đề án 32 của Thủ tướng Chính phủ, công tác xã hội đóng vai trò quan trọng trong việc giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa con người, hạn chế các vấn đề xã hội, và nâng cao chất lượng cuộc sống của thân chủ xã hội Mục tiêu hướng tới là xây dựng một xã hội lành mạnh, công bằng và hạnh phúc cho người dân, đồng thời phát triển hệ thống an sinh xã hội tiên tiến.

1.2.2 Công tác xã hội nhóm

Công tác xã hội nhóm là một phương pháp quan trọng trong lĩnh vực công tác xã hội, nhằm nâng cao và củng cố chức năng xã hội của từng cá nhân Phương pháp này thực hiện thông qua các hoạt động nhóm, giúp người tham gia phát triển khả năng ứng phó với các vấn đề cá nhân một cách hiệu quả.

– Ứng dụng những kiến thức, kỹ năng liên quan đến tâm lý nhóm

Nhóm nhỏ thân chủ được hình thành từ những người có vấn đề tương tự hoặc liên quan Nhân viên xã hội thiết lập các mục tiêu xã hội trong kế hoạch hỗ trợ cho thân chủ, nhằm thay đổi hành vi, thái độ và niềm tin Mục tiêu này giúp thân chủ nâng cao năng lực đối phó và cải thiện chức năng xã hội thông qua những trải nghiệm trong nhóm, từ đó giải quyết vấn đề và đáp ứng nhu cầu của họ.

 Các mục tiêu của công tác xã hội nhóm:

Đánh giá cá nhân đóng vai trò quan trọng trong việc hiểu nhu cầu, khả năng và hành vi của từng thành viên thông qua tự đánh giá, cũng như đánh giá từ nhân viên công tác xã hội và bạn bè trong nhóm, bao gồm cả trẻ em và người lớn phạm pháp, cha mẹ nuôi, và trẻ em đường phố Đồng thời, việc duy trì và hỗ trợ cá nhân là cần thiết để giúp họ vượt qua những khó khăn cá nhân và thách thức từ hoàn cảnh xã hội, đặc biệt là đối với nhóm người khuyết tật và phụ huynh của họ.

Thay đổi cá nhân là quá trình bao gồm nhiều khía cạnh như hành vi và phát triển nhân cách Điều này bao gồm kiểm soát xã hội nhằm ngăn ngừa tái phạm, xã hội hóa cho nhóm trẻ em trong cơ sở tập trung để học kỹ năng sống, và huấn luyện hành vi tương tác để tự khẳng định bản thân Ngoài ra, việc thay đổi giá trị và thái độ cá nhân cũng rất quan trọng, đặc biệt đối với nhóm người sử dụng ma túy, nhằm tác động tích cực đến quan điểm sống của họ Thêm vào đó, cải thiện hoàn cảnh kinh tế cho nhóm người thất nghiệp có thể giúp họ tìm kiếm việc làm, trong khi phát triển cảm xúc và khái niệm về bản thân sẽ nâng cao lòng tự trọng và năng lực cá nhân Tất cả những yếu tố này đều góp phần vào sự phát triển toàn diện của nhân cách.

– Cung cấp thông tin, giáo dục (nhóm giáo dục sức khỏe, nhóm kỹ năng làm cha mẹ, nhóm tình nguyện viên )

– Giải trí (vui chơi để đền bù sự mất mát trong cuộc sống)

– Môi trường trung gian giữa cá nhân và hệ thống xã hội: nhóm bệnh nhân và bệnh viện

Thay đổi nhóm và hỗ trợ là cần thiết, bao gồm nhóm gia đình nhằm cải thiện vấn đề truyền thông và nhóm trẻ phạm pháp để hướng hành vi tiêu cực sang những hoạt động tích cực.

Thay đổi môi trường và xã hội là yếu tố quan trọng trong việc phát triển cộng đồng Các nhóm ở cơ sở không chỉ cải thiện chất lượng cuộc sống mà còn yêu cầu các phương tiện hỗ trợ cho con em của những phụ huynh lao động Đồng thời, việc nâng cao nhận thức cá nhân và tái phân phối quyền lực, đặc biệt là từ các chính quyền địa phương, cũng góp phần tạo ra sự thay đổi tích cực trong xã hội.

 Các loại hình công tác xã hội với nhóm:

– Nhóm giải trí: rèn luyện và phát triển nhân cách

– Nhóm giáo dục: Kiến thức và kỹ năng

– Nhóm với mục đích xã hội hóa

 Tiến trình công tác xã hội nhóm

1.2.3 Công tác xã hội nhóm nhằm giảm thiểu bất bình đẳng giới trong phân công lao động trong gia đình viên chức

Công tác xã hội nhóm đóng vai trò quan trọng trong việc giảm thiểu bất bình đẳng giới trong PCLĐ của gia đình viên chức Phương pháp này giúp nâng cao kiến thức và kỹ năng về bình đẳng giới cho các cặp vợ chồng viên chức thông qua các hoạt động nhóm Nhờ đó, họ có thể nhận thức đúng đắn về vấn đề bất bình đẳng và thay đổi quan điểm của mình về PCLĐ trong gia đình.

Trong bài viết này, tôi nghiên cứu thực trạng bất bình đẳng giới trong các gia đình viên chức tại xã Cộng Hòa, huyện Quốc Oai, thành phố Hà Nội Mục tiêu là áp dụng công tác xã hội nhóm để giảm thiểu tình trạng này thông qua bốn nội dung chính.

- Phân công lao động giữa vợ và chồng đối với các công việc nội trợ trong gia đình

- Phân công lao động giữa vợ và chồng đối với chăm sóc và giáo dục con cái

- Phân công lao động giữa vợ và chồng trong việc tham gia các hoạt động trong dòng họ và ngoài cộng đồng

- Phân công lao động giữa vợ và chồng trong việc quyết định các việc lớn trong gia đình

Từ 4 nội dung trên, tôi đưa ra bảng khảo sát đầu vào và đầu ra về nhận thức của các cặp vợ chồng về vấn đề bình đẳng giới Sau đó thực hiện các bước trong phương pháp công tác xã hội nhóm, từ đó rút ra kết luận về hiệu quả của việc vận dụng phương pháp công tác xã hội nhóm nhằm giảm thiểu bất bình đẳng giới trong phân công lao động trong gia đình viên chức tại xã Cộng Hòa, huyện Quốc Oai, thành phố Hà Nội

1.2.4 Một số lý thuyết vận dụng trong công tác xã hội nhóm

Biểu hiện của sự phân công lao động theo giới trong gia đình viên chức

1.3.1 Nhận thức về phân công lao động theo giới trong gia đình viên chức :

Hiện nay, bình đẳng giới đang được quan tâm ở Việt Nam và trên toàn thế giới, đặc biệt trong việc phân công lao động trong gia đình Mặc dù có nhiều cặp vợ chồng tiến bộ chia sẻ công việc nhà, vẫn tồn tại những gia đình với tư tưởng cũ, cho rằng công việc nội trợ và chăm sóc con cái là trách nhiệm của phụ nữ Tư tưởng này xuất phát từ Nho giáo và ảnh hưởng mạnh mẽ từ gia đình, khiến cả nam và nữ đều chấp nhận những định kiến này Phụ nữ thường cảm thấy hài lòng với vai trò của mình và không mong đợi sự hỗ trợ từ nam giới, trong khi xã hội lại khuyến khích quan niệm “Phụ nữ Việt Nam giỏi việc nước, đảm việc nhà” Điều này đặt ra câu hỏi về vai trò của nam giới trong việc chia sẻ trách nhiệm gia đình, và cần thay đổi quan niệm để có một khẩu hiệu công bằng hơn: “Nam nữ Việt Nam, giỏi việc nước, đảm việc nhà”.

1.3.2 Phân công lao động trong gia đình viên chức theo các nhóm công việc:

Trong thực tế, công việc trong gia đình bao gồm nhiều nhiệm vụ như nội trợ, chăm sóc và giáo dục con cái, chăm sóc người ốm, tham gia các hoạt động cộng đồng và tạo ra thu nhập cho gia đình Để phù hợp với đề tài nghiên cứu, tôi sẽ tiếp cận các công việc này dưới 4 nhóm chính.

- Phân công lao động giữa vợ và chồng đối với các công việc nội trợ trong gia đình

- Phân công lao động giữa vợ và chồng đối với chăm sóc và giáo dục con cái

- Phân công lao động giữa vợ và chồng trong việc tham gia các hoạt động trong dòng họ và ngoài cộng đồng

- Phân công lao động giữa vợ và chồng trong việc quyết định các việc lớn trong gia đình

1) Phân công lao động giữa vợ và chồng đối với các công việc nội trợ trong gia đình

Công việc nội trợ bao gồm các hoạt động như đi chợ, nấu ăn, lau dọn nhà cửa và rửa bát Mặc dù những công việc này rất cần thiết để duy trì cuộc sống gia đình, nhưng chúng vẫn chưa được công nhận là nguồn tạo ra thu nhập kinh tế do ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác nhau.

Trước đây, các công việc nội trợ được coi là các công việc của phụ nữ, nó được gắn quan niệm đó là thiên chức của người phụ nữ

Theo các nghiên cứu về phân công lao động theo giới trong gia đình Việt Nam, phụ nữ vẫn giữ vai trò chủ yếu trong việc nội trợ, trong khi đàn ông chỉ tham gia một cách hạn chế Sau giờ làm việc, nhiều người đàn ông thường dành thời gian cho các hoạt động cá nhân như đi nhậu, xem ti vi hay lướt web, thay vì chia sẻ công việc gia đình với vợ Họ thường coi những công việc như dọn dẹp, nấu ăn hay giặt giũ là "cỏn con" và tin rằng phụ nữ có thể tự mình hoàn thành mà không cần sự trợ giúp Điều này tạo ra gánh nặng lớn cho phụ nữ, khi họ vừa làm việc bên ngoài, vừa phải lo toan việc nhà trong khi chồng thì tự do làm những gì mình thích.

Trong những năm gần đây, bình đẳng giới đã được Đảng và Nhà nước chú trọng, cùng với việc nâng cao trình độ học vấn của cả nam và nữ Sự thay đổi này đã dẫn đến việc gia tăng trách nhiệm và sự chia sẻ công việc nội trợ giữa vợ và chồng Phụ nữ hiện nay tham gia vào nhiều hoạt động xã hội, do đó, việc phân công lao động trong gia đình trở nên cần thiết và hợp lý hơn bao giờ hết.

2) Phân công lao động giữa vợ và chồng đối với chăm sóc và giáo dục con cái Trong việc chăm sóc và giáo dục con cái bao gồm các công việc như cho con ăn, ngủ, tắm cho con, dạy con học… Ở nhóm công việc này, người chồng tỏ ra đã thực hiện nhiều hơn so với công việc nội trợ Dù là vẫn thực hiện theo sự bị động (khi con cái quá quấy khóc hoặc vợ nhờ) nhưng nó vẫn thể hiện sự hứng thú nhiều hơn là làm các công việc nội trợ Để lựa chọn giữa việc nấu cơm, dọn dẹp nhà cửa hay cho con ngủ, bế con đi chơi thì họ vẫn hứng thú trong việc chăm con Họ hứng thú hơn với các công việc đó cũng có thể là do họ muốn gần gũi với con hơn hoặc họ rất sợ làm các công việc nội trợ Tuy vậy, với một số gia đình, việc đốc thúc con học bài hay kèm cặp con học vẫn là người phụ nữ thực hiện nhiều hơn Môi trường gia đình rất quan trọng cho sự hình thành và phát triển của con người ngay từ khi lọt lòng, chính vì vậy, con người cần được chăm sóc cả về thể chất lẫn tinh thần để dảm bảo tốt nhất sự hình thành và phát triển Thế nhưng, vì một số lý do nào đó đã dẫn đến sự thiên lệch trong việc chăm sóc và giáo dục con cái giữa các cặp vợ chồng Họ cho rằng việc chăm con và nuôi dạy con tốt là trách nhiệm, nghĩa vụ và là thiên chức của người mẹ, người vợ trong gia đình Trẻ em sẽ phát triển tốt hơn nếu có được sự quan tâm, chăm sóc và đùm bọc của cả bố và mẹ

3) Phân công lao động giữa vợ và chồng trong việc tham gia các hoạt động trong dòng họ và ngoài cộng đồng

Công việc cộng đồng tại đây bao gồm các hoạt động tập thể như họp dân, hiếu, hỷ, phản ánh vị thế và quyền lợi của từng gia đình trong xã hội Những công việc này thường được coi là đại sự và chủ yếu thuộc về nam giới, trong khi phụ nữ thường bị xem nhẹ với quan niệm "đàn bà có biết gì đâu", dẫn đến sự phân công không công bằng trong gia đình.

Trước đây, nhiều gia đình vẫn nghĩ rằng đàn ông có trình độ cao hơn phụ nữ và đại diện cho gia đình trong các công việc cộng đồng Tuy nhiên, với sự phát triển của xã hội và sự nâng cao trình độ của phụ nữ, việc phân công tham gia các công việc cộng đồng hiện nay dựa trên nhiều yếu tố như thời gian và tính chất của công việc.

4) Phân công lao động giữa vợ và chồng trong việc quyết định các việc lớn trong gia đình

Quyết định trong công việc gia đình thường thuộc về vợ hoặc chồng, ảnh hưởng đến nhiều vấn đề quan trọng như quản lý tài chính, mua sắm đồ đạc, và số lượng con cái Việc phân chia quyền quyết định này là yếu tố then chốt trong việc xây dựng một cuộc sống gia đình hài hòa và hiệu quả.

Trước đây, trong các gia đình, vợ thường quyết định những chi tiêu nhỏ hàng ngày, trong khi chồng đảm nhận các quyết định lớn như mua sắm đồ đắt tiền hay chuyển nhà, dẫn đến sự hạn chế trong sự tham gia của phụ nữ vào việc đóng góp chính sách và tạo ra thiên lệch về bình đẳng giới Ngày nay, đặc biệt ở các gia đình có trình độ học vấn cao, các cặp vợ chồng đã bắt đầu cùng nhau thảo luận và đưa ra quyết định, thể hiện rõ tính bình đẳng trong mối quan hệ.

Các yếu tố ảnh hưởng đến việc phân công lao động trong gia đình viên chức

Phân công lao động theo giới trong gia đình viên chức, cũng như trong các gia đình nói chung, chịu tác động từ nhiều yếu tố như thu nhập, tính chất công việc, quan điểm tư tưởng lạc hậu, nếp sinh hoạt truyền thống, sức khỏe, số lượng con cái, chức vụ và trình độ học vấn.

Thu nhập của hai vợ chồng thường ảnh hưởng đến việc phân công công việc trong gia đình, với quan niệm rằng người kiếm ít tiền hơn sẽ phải đảm nhận công việc nhà Trước đây, nhiều gia đình cho rằng người kiếm nhiều tiền không cần làm việc nhà, trong khi người kiếm ít hoặc không có thu nhập phải thực hiện các công việc gia đình để đảm bảo sự công bằng Mặc dù ngày nay, nhiều gia đình đã có những thay đổi tích cực, nhưng vẫn còn ảnh hưởng từ tư tưởng gia trưởng của nam giới và quan niệm truyền thống của phụ nữ.

Mỗi nghề nghiệp có đặc thù riêng, dẫn đến thời gian làm việc khác nhau Viên chức, bao gồm giáo viên, bác sĩ, y tá và hộ lý, thường phải làm việc nhiều hơn giờ hành chính Điều này ảnh hưởng đến việc phân công lao động trong gia đình, vì vậy cần có sự linh hoạt và tránh sự cứng nhắc trong tổ chức công việc.

Định kiến về vai trò và trách nhiệm của phụ nữ và nam giới vẫn tồn tại trong nhận thức của cả hai giới Trước đây, do ảnh hưởng của tư tưởng cũ, nhiều người cho rằng công việc gia đình là bổn phận của phụ nữ, trong khi nam giới chỉ cần làm trụ cột tài chính Điều này không chỉ khiến nam giới thiếu trách nhiệm trong công việc nhà mà còn tạo ra sự ngại ngần ở phụ nữ khi nhờ chồng giúp đỡ Để thực hiện cuộc cách mạng bình đẳng giới, cần có sự hợp tác từ cả hai phía Nhận thức này cũng chịu ảnh hưởng từ môi trường sống, đặc biệt là gia đình, nơi mà quan niệm truyền thống cho rằng công việc nhà là của phụ nữ, còn công việc xã hội là của đàn ông.

 Nếp sống sinh hoạt truyền thống của gia đình

Quan niệm về giới của các cặp vợ chồng thường bị ảnh hưởng bởi truyền thống gia đình từ thế hệ trước Sự giáo dục và dạy dỗ từ cha mẹ đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành nhận thức về phân công lao động trong gia đình.

Việc phân chia công việc trong gia đình cần xem xét yếu tố sinh học của vợ và chồng Để đạt được bình đẳng trong phân công lao động, cần phân công công việc một cách hợp lý, phù hợp với đặc điểm sinh lý của nam giới và nữ giới Chẳng hạn, sức lực của nam giới không thể so sánh với nữ giới trong những công việc đòi hỏi nhiều sức lao động.

Số lượng con trong gia đình có tác động lớn đến việc phân công lao động Cụ thể, gia đình có nhiều con thường phải dành nhiều thời gian hơn cho việc chăm sóc và giáo dục, từ đó yêu cầu sự điều chỉnh trong cách phân chia công việc giữa vợ và chồng.

Một số quan điểm cho rằng chức vụ của vợ hoặc chồng tại cơ quan quyết định đến việc phân công lao động trong gia đình

Trình độ học vấn có ảnh hưởng rõ rệt đến việc phân công lao động theo giới, đặc biệt trong các gia đình viên chức Những người có trình độ học vấn thấp thường có xu hướng nhận thức theo quan điểm truyền thống hơn so với những người có trình độ học vấn cao Sự khác biệt này không chỉ tác động đến nhận thức mà còn ảnh hưởng đến hành vi và cách thức phân công lao động trong gia đình Trong các gia đình viên chức, thường có sự chênh lệch về trình độ học vấn giữa vợ và chồng, với những người làm viên chức thường có tư tưởng và suy nghĩ tiến bộ hơn.

Việc phân công lao động trong gia đình chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố, đặc biệt là tính chất công việc của vợ và chồng Để đảm bảo sự linh hoạt và phù hợp, việc phân chia lao động cần dựa vào quỹ thời gian mà mỗi người dành cho công việc xã hội Điều này giúp đánh giá sự cân bằng giữa thời gian nghỉ ngơi và thời gian làm việc của cả hai giới, từ đó hướng tới sự bình đẳng trong gia đình.

Chương 1 trình bày những nội dung khái quát nhất về cơ sở lý luận của việc phân công lao động theo giới trong gia đình Cụ thể đó là hệ thống các khái niệm công cụ như: Khái niệm bình đẳng giới; Bất bình đẳng giới; Phân công lao động; Phân công lao động trong gia đình; Công tác xã hội nhóm; Công tác xã hội nhóm nhằm giảm thiểu bất bình đẳng giới trong phân công lao động trong gia đình viên chức Một số lý thuyết vận dụng trong công tác xã hội nhóm, biểu hiện của sự phân công lao động theo giới cũng như những yếu tổ ảnh hưởng đến việc phân công lao động trong gia đình tại xã Cộng Hòa, huyện Quốc Oai, thành phố Hà Nội

THỰC TRẠNG CỦA VIỆC PHÂN CÔNG LAO ĐỘNG TRONG

GIA ĐÌNH VIÊN CHỨC TẠI XÃ CỘNG HÒA,HUYỆN QUỐC OAI,

Mô tả địa bàn nghiên cứu

2.1.1 Điều kiện tự nhiên o Vị trí địa lý

Xã Cộng Hòa nằm ở phía Đông Nam huyện Quốc Oai, cách trung tâm huyện 5

Xã Cộng Hòa nằm cách Thành phố Hà Nội 20km về phía Đông, giáp huyện Hoài Đức ở phía Bắc, huyện Chương Mỹ ở phía Nam, xã Đồng Quang ở phía Tây và xã Tân Hòa ở phía Đông Địa hình nơi đây tương đối bằng phẳng, được chia thành hai vùng: vùng đồng và vùng bãi, cùng với hai đồi có độ cao 60 và 80 Khí hậu tại xã Cộng Hòa cũng đặc trưng với những yếu tố thời tiết riêng biệt.

Cộng Hòa, một địa phương thuộc huyện Quốc Oai, nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa với bốn mùa rõ rệt Nhiệt độ không khí bình quân hàng năm ở đây gần đạt mức ổn định, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển nông nghiệp và đời sống của người dân.

Nhiệt độ trung bình hàng năm ở khu vực này là 23 độ C, với mức thấp nhất vào tháng 1 khoảng 8-10 độ C và cao nhất lên tới 38-40 độ C Độ ẩm không khí trung bình đạt 86%, với mức cao nhất là 94% và thấp nhất là 31% Lượng mưa trung bình hàng năm dao động từ 1.600 đến 1.800 mm, trong đó lượng mưa cao nhất ghi nhận là 2.497 mm và thấp nhất là 709 mm Khu vực này có khoảng 1.464 giờ nắng mỗi năm, với tốc độ gió trung bình mùa đông là 2.8 m/s và mùa hè là 2.2 m/s, trong đó hướng gió chủ yếu vào mùa hè là Đông-Nam.

2.1.2 Điều kiện kinh tế - xã hội o Dân số và lao động

Dân cư của xã Cộng Hòa được bố trí tại 6 thôn, với tổng số 1.828 hộ và 7.381 nhân khẩu; Số lao động trong độ tuổi là 4.255 người, chiếm 57,64% dân số.

Thực trạng trong phân công lao động trong gia đình viên chức tại xã Cộng Hòa, huyện Quốc Oai, thành phố Hà Nội

Trong thời gian qua, kinh tế nông nghiệp nông thôn đã trải qua quá trình đổi mới mạnh mẽ, dẫn đến sự phát triển vượt bậc Nhịp độ tăng trưởng kinh tế ngày càng gia tăng, cùng với sự chuyển biến tích cực trong cơ cấu kinh tế Đời sống vật chất và tinh thần của người dân cũng ngày càng được cải thiện.

- Về kinh tế: Thu nhập bình quân đầu người đến năm 2018 đạt 20 triệu đồng/người/năm; Bình quân lương thực đạt 320 – 340kg/người/năm;

- Về văn hóa xã hội

Ngành giáo dục và đào tạo đã vượt qua nhiều khó khăn trong những năm qua và đạt được những thành tựu đáng kể, với tỷ lệ học sinh lên lớp ở cấp tiểu học và trung học cơ sở đạt trên 99%.

Công tác chăm sóc sức khỏe cho người dân đã có nhiều tiến bộ, với mạng lưới y tế cơ bản được mở rộng đến từng thôn xóm Cơ sở vật chất phục vụ khám chữa bệnh ngày càng được nâng cao, hiện nay mỗi xã đều có một trạm y tế để phục vụ nhu cầu chăm sóc sức khỏe của cộng đồng.

Hoạt động văn hoá thông tin và thể dục thể thao đã có nhiều đổi mới về nội dung và hình thức, nhằm phục vụ kịp thời cho nhiệm vụ chính trị - kinh tế của địa phương Những cải tiến này từng bước đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hoá tinh thần của người dân.

Công tác quốc phòng an ninh tại địa phương luôn được chú trọng, với việc hoàn thành tốt công tác huấn luyện quân sự và gọi thanh niên thực hiện nghĩa vụ quân sự Đồng thời, địa phương cũng đảm bảo an ninh và trật tự an toàn xã hội tại các thôn xóm.

2.2 Thực trạng bất bình dẳng giới của việc phân công lao động trong gia đình viên chức tại xã Cộng Hòa, huyện Quốc Oai, thành phố Hà Nội

2.2.1 Mô tả khách thể nghiên cứu và thang đo

Để làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về phân công lao động theo giới trong gia đình viên chức tại xã Cộng Hòa, huyện Quốc Oai, thành phố Hà Nội, nghiên cứu sử dụng phương pháp điều tra bằng bảng hỏi Trong không gian nghiên cứu, 300 khách thể từ các gia đình hạt nhân viên chức được chọn ngẫu nhiên, bao gồm 150 nữ (vợ) và 150 nam (chồng) Số phiếu phát đi và thu về là 300 phiếu, với thông tin cơ bản về khách thể nghiên cứu được trình bày trong biểu đồ 2.1.

Nguồn: Kết quả nghiên cứu của đề tài, 2019 Biểu đồ 2.1: Biểu đồ thể hiện độ tuổi của khách thể nghiên cứu

Nhìn vào biểu đồ ta thấy độ tuổi của khách thể nghiên cứu là: 40% nằm trong độ tuổi từ 30-40 còn với độ tuổi >50 chiếm 2% Độ tuổi từ 20 – 30 chiếm 33%, từ

Hầu hết các gia đình có vợ chồng đều có trình độ học vấn cao, với 52% hoàn thành đại học hoặc cao đẳng và 28% tốt nghiệp trung học phổ thông Trình độ học vấn này ảnh hưởng đáng kể đến việc phân công lao động trong gia đình.

Nghiên cứu này tập trung vào việc phân tích thực trạng phân công lao động trong gia đình có vợ hoặc chồng là viên chức, chủ yếu là giáo viên, bác sĩ và nhân viên nhà nước Do đặc thù công việc khác nhau, thời gian tham gia công việc gia đình của họ cũng không giống nhau, vì vậy cần có sự linh hoạt trong việc phân công lao động để tránh sự cứng nhắc và máy móc.

Trong nghiên cứu này, chúng tôi đã sử dụng bảng hỏi chung cho cả vợ và chồng, với các câu hỏi được đánh giá theo thang điểm 5 mức Cụ thể, mức 1 thể hiện sự không đồng ý hoàn toàn, mức 2 là không đồng ý một phần, mức 3 là trung lập, mức 4 là đồng ý một phần và mức 5 thể hiện sự đồng ý hoàn toàn Để đánh giá nhóm khách thể, chúng tôi dựa vào kết quả điểm trung bình (ĐTB) của từng câu hỏi và ĐTB của các yếu tố liên quan.

Kết quả đo đạc được xem xét theo 3 mức dựa trên ĐTB của thang đo Gọi điểm trung bình là X và ĐTB chia 3 mức, ta có:

2.2.2 Phân công lao động theo giới trong gia đình viên chức tại xã Cộng Hòa, huyện Quốc Oai, thành phố Hà Nội

Tình hình phân công lao động theo giới trong gia đình viên chức tại xã Cộng Hòa được thể hiện qua nhận thức và sự tham gia của cả vợ và chồng trong các công việc nội trợ, chăm sóc và giáo dục con cái, cũng như trong các hoạt động cộng đồng và quyền quyết định trong gia đình.

2.2.2.1 Nhận thức về phân công lao động theo giới Để đánh giá quan điểm của vợ và chồng về việc phân công lao động trong gia đình, tôi đã khảo sát với câu hỏi : “Anh/chị vui lòng cho biết mức độ đồng tình của mình về một số nhận định” (1.không đồng ý; 2.không đồng ý một phần;3.đồng ý;4.đồng ý một phần;5.đồng ý hoàn toàn) và thu được kết quả thể hiện trong bảng 2.1 dưới đây

Bảng 2.1: Quan điểm của hai giới về việc phân công lao động trong gia đình

(Đơn vị: ĐTB/Mức độ)

Công việc nội trợ được xem là trách nhiệm chủ yếu của người vợ với điểm số 3,37, trong khi đó, vai trò của người chồng trong công việc này chỉ đạt 1,70 Tuy nhiên, ngày càng nhiều người nhận thức rằng công việc nội trợ cần sự chung tay của cả hai vợ chồng, với điểm số cao nhất là 3,57 cho quan điểm này.

Vợ chồng cùng chia sẻ các công việc trong gia đình sẽ giúp gia đình hạnh phúc hơn 4,23 4,57

Nghiên cứu cho thấy rằng khi chồng hoặc vợ kiếm được nhiều tiền hơn, họ có xu hướng làm ít việc nhà hơn Bên cạnh đó, chức vụ của vợ hoặc chồng tại nơi làm việc cũng ảnh hưởng đến việc phân công lao động trong gia đình.

Người mang lại thu nhập chính cho gia đình sẽ quyết định việc phân công lao động trong gia đình 3,05 2,77

Chăm sóc và nuôi dạy con cái là thiên chức của người phụ nữ 3,90 3,50 Chồng là người tham gia các công việc cộng đồng 3,13 2,70

Vợ là người tham gia các công việc cộng đồng 2,37 1,97

Cả vợ và chồng cùng tham gia công việc cộng đồng tùy thuộc và nội dung công việc 3,87 4,40

Phân công lao động trong gia đình cần hướng tới sự bình đẳng 4,87 4,80

Nguồn: Kết quả nghiên cứu của đề tài, 2019

Bảng 2.1 cho thấy vợ và chồng có quan điểm tương đồng về phân công lao động theo giới trong gia đình, với điểm trung bình ngang nhau Cả hai đều đồng ý rằng “Công việc nội trợ là công việc của cả hai vợ chồng”, với ĐTB của chồng là 3,37 và vợ là 3,57, cho thấy sự thống nhất trong quan điểm này Ngược lại, nhận định “Công việc nội trợ là công việc của người chồng” lại có ĐTB thấp ở cả hai giới, chứng minh rằng công việc nội trợ không được xem là trách nhiệm của nam giới Đối với quan điểm “Chăm sóc và nuôi dạy con cái là thiên chức của người phụ nữ”, điểm trung bình của chồng cao hơn, cho thấy sự phân biệt rõ ràng trong vai trò của hai giới trong việc nuôi dạy con cái.

Điểm trung bình về quan điểm chăm sóc giáo dục con cái giữa chồng và vợ lần lượt là 3,90 và 3,50, cho thấy sự phân công công việc không bình đẳng giữa hai giới, với chồng có xu hướng cho rằng việc này thuộc về vợ Trong các công việc cộng đồng, chồng cũng được xem là người tham gia chủ yếu với điểm trung bình 3,13, trong khi vợ chỉ đạt 2,70 Điều này phản ánh quan niệm rằng các công việc ngoài xã hội là trách nhiệm chính của chồng, trong khi nội trợ và chăm sóc con cái là của vợ Mặc dù vậy, có sự công nhận về vai trò của cả hai giới trong công việc cộng đồng, với điểm trung bình cao khi nói rằng “Cả vợ và chồng cùng tham gia công việc cộng đồng tùy thuộc vào nội dung công việc”.

Những yếu tố ảnh hưởng đến việc phân công lao động trong gia đình

Việc phân công lao động theo giới trong gia đình viên chức tại xã Công Hòa, huyện Quốc Oai, thành phố Hà Nội chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố như quan niệm truyền thống, nghề nghiệp và sức khỏe Để khảo sát mức độ ảnh hưởng của những yếu tố này, tôi đã tiến hành điều tra và thu thập kết quả.

Bảng 2.8: Mức độ ảnh hưởng của các yếu tố trong việc phân công lao động trong gia đình

Không ảnh hưởng Ảnh hưởng một phần Ảnh hưởng nhiều

Chồng kiếm được nhiều tiền hơn vợ 38,3 30 31,7

Vợ kiếm được nhiều tiền hơn chồng 48,3 31,7 20

Tính chất công việc ngoài xã hội của vợ/chồng

23,3 35 41,7 Ảnh hưởng bởi quan niệm truyền thống 38,3 30 31,7 Ảnh hưởng bởi truyền thống sinh hoạt của gia đình từ các thế hệ trước

Chồng khỏe hơn vợ nên chỉ làm các công việc nặng nhọc

Số con trong gia đình 35 46,7 18,3

Chồng có chức vụ cao hơn vợ 51,7 28,3 20

Vợ có chức vụ cao hơn chồng 55 28,3 16,7

Nghiên cứu năm 2019 cho thấy thu nhập của hai vợ chồng có ảnh hưởng đáng kể đến sự phân công lao động trong gia đình Cụ thể, ý kiến cho rằng "chồng kiếm được nhiều tiền hơn vợ" có mức độ ảnh hưởng cao hơn với 31,7%, trong khi ý kiến "vợ kiếm được nhiều tiền hơn chồng" chỉ đạt 20% Điều này chỉ ra rằng việc chồng có thu nhập cao hơn sẽ tác động mạnh mẽ hơn đến vai trò và trách nhiệm trong gia đình so với khi vợ kiếm nhiều tiền hơn.

Tính chất công việc của cả hai vợ chồng tại xã Cộng Hòa có ảnh hưởng lớn đến sự phân công lao động trong gia đình, với 41,7% cho thấy mức độ ảnh hưởng đáng kể Mỗi công việc có đặc thù riêng, và những công việc yêu cầu thời gian nhiều hơn sẽ tác động mạnh mẽ đến cách phân chia nhiệm vụ trong gia đình Dựa trên bảng số liệu, có thể thấy rằng các yếu tố đều tác động đến sự phân công lao động, nhưng mức độ ảnh hưởng lại khác nhau.

Yếu tố thuộc về quan điểm, tư tưởng: Theo khảo sát thì yếu tố này chiếm

31,7% cặp vợ chồng cho rằng ảnh hưởng rất lớn, trong khi 23,3% cho rằng ảnh hưởng một phần, cho thấy một phần không nhỏ vẫn không cảm thấy ảnh hưởng Điều này phản ánh sự tiến bộ và tích cực trong tư tưởng, quan điểm của các cặp vợ chồng về PCLĐ trong gia đình.

Quan niệm truyền thống và nếp sống sinh hoạt của gia đình đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành nhận thức và phong tục gia phong Yếu tố “ảnh hưởng bởi truyền thống sinh hoạt của gia đình từ các thế hệ trước” chiếm 46,7%, cho thấy tác động mạnh mẽ đến vai trò của phụ nữ trong gia đình Một phụ nữ 31 tuổi chia sẻ rằng, từ nhỏ, cô đã được dạy rằng việc chăm sóc gia đình và chồng con là ưu tiên hàng đầu, trong khi công việc bên ngoài không quan trọng Điều này cho thấy ngay từ khi chưa lập gia đình, các phụ nữ đã được giáo dục về sự phân công lao động không bình đẳng trong gia đình, ảnh hưởng sâu sắc đến vai trò của họ trong việc phân chia công việc gia đình.

Yếu tố về sức khỏe của vợ và chồng: Yếu tố này cũng ảnh hưởng nhiều đến việc phân công lao động trong gia đình, chiếm 40%

Các yếu tố như số con hoặc chức vụ của vợ/chồng có ảnh hưởng thấp hơn so với các yếu tố khác, với 55% cho rằng không ảnh hưởng và 16,7% cho rằng ảnh hưởng nhiều Tuy nhiên, vẫn có 28,3% ý kiến cho rằng những yếu tố này có ảnh hưởng một phần.

Chương 2 trình bày kết quả nghiên cứu về thực trạng phân công lao động theo giới trong gia đình viên chức tại xã Cộng Hòa, huyện Quốc Oai, thành phố Hà Nội, thông qua phương pháp điều tra bằng bảng hỏi và phỏng vấn sâu Nghiên cứu cũng chỉ ra các yếu tố ảnh hưởng đến việc phân công lao động trong gia đình.

Nghiên cứu tại xã Cộng Hòa, huyện Quốc Oai, thành phố Hà Nội cho thấy sự bất bình đẳng trong phân công lao động gia đình (PCLĐ) giữa viên chức Cụ thể, công việc nội trợ và chăm sóc, giáo dục con cái chủ yếu được coi là trách nhiệm của người vợ, trong khi các hoạt động trong dòng họ và cộng đồng thường thuộc về người chồng Mặc dù việc ra quyết định lớn trong gia đình có sự chia sẻ giữa vợ và chồng, nhưng quyền quyết định vẫn nghiêng về phía nam giới Điều này chỉ ra rằng, bất bình đẳng trong PCLĐ ở đây chủ yếu thể hiện rõ ở nhóm công việc nội trợ và chăm sóc con cái, trong khi hai nhóm công việc ra quyết định và tham gia cộng đồng lại cho thấy mức độ bất bình đẳng thấp hoặc không có.

Nghiên cứu tại xã Cộng Hòa, huyện Quốc Oai, thành phố Hà Nội cho thấy nhiều yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển của phong cách sống gia đình viên chức, bao gồm tư tưởng và quan niệm lạc hậu, truyền thống văn hóa gia đình từ thế hệ trước, thu nhập, tính chất công việc, sức khỏe và một số yếu tố khác.

DỤNG PHƯƠNG PHÁP CÔNG TÁC XÃ HỘI NHÓM

Ngày đăng: 11/07/2021, 08:21

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
[3] Vũ Tuấn Huy, Deborah S.Carr (2000) “Phân công lao động nội trợ trong gia đình”. Tạp chí Xã hội học (4) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Phân công lao động nội trợ trong gia đình
[5] Lê Thị Kim Lan (2006) , Luận án tiến sĩ “Phân công lao động theo giới trong cộng đồng dân tộc Bru – Vân Kiều”, Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Phân công lao động theo giới trong cộng đồng dân tộc Bru – Vân Kiều
[19] Tạ Thị Thảo, 2017, “Bình đẳng giới trong gia đình người Sản Chỉ”, Đại học Khoa học Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bình đẳng giới trong gia đình người Sản Chỉ”
[22] Nguyễn Lệ Thu, 2017, Luận án tiến sĩ “Bất bình đẳng giới trong lao động gia đình dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc Việt Nam hiện nay.” Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bất bình đẳng giới trong lao động gia đình dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc Việt Nam hiện nay
[25] Lê Ngọc Văn (1997), “Phân công LĐTG trong gia đình nông dân”, Tạp chí khoa học về phụ nữ (3)Tài liệu tiếng Anh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Phân công LĐTG trong gia đình nông dân”, Tạp chí khoa học về phụ nữ (3)
Tác giả: Lê Ngọc Văn
Năm: 1997
[26] Betty Friedan, 1963, “Sự huyền bí của nữ tính” Sách, tạp chí
Tiêu đề: Sự huyền bí của nữ tính
[36] Tony Chapma, “Gender and Domestic life” Sách, tạp chí
Tiêu đề: Gender and Domestic life
[37] Simone De Beauvoir, “ Giới tính thứ hai”. Tài liệu website Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giới tính thứ hai”
[38] Dẫn theo link: https://family.jrank.org/pages/408/Division-Labor-Contemporary-Divisions-Labor.html Link
[39]Dẫn theo link http://fesp-eg.org/wp-content/uploads/2012/02/Rizavi-Sofer Household-Division-of-Labor-Is-There-any-Escape-from-Tradition-Gender-Roles.pdf Link
[40] Dẫn theo link https://congtacxahoi.net/cong-tac-xa-hoi-la-gi/ Link
[41] Dẫn theo link http://ctxh.vn/diendan/showthread.php?5272 Link
[42] Dẫn theo link https://luanvanaz.com/mot-khai-niem-co-ban-ve-lao-dong.html Link
[43] Dẫn theo link https://sites.google.com/site/xahoihocsociology/cac-khai-niem-ly-thuyet-xa-hoi-hoc/lt/ly-thuyet-vai-tro Link
[44] Dẫn theo link http://luanvan.net.vn/luan-van/de-tai-binh-dang-gioi-trong-su-phan-cong-lao-dong-o-cac-gia-dinh-do-thi-hien-nay-34879/ Link
[1] Trần Thị Vân Anh, số 1 năm 2007, Nghiên cứu gia đình và giới Khác
[2] Phạm Tất Dong và Lê Ngọc Hùng (2001), Giáo trình Xã hội học, Nhà xuất bản Đại học Quốc Gia Khác
[4] Nguyễn Linh Khiếu (2003) Nghiên cứu phụ nữ giới và gia đình, Nhà xuất bản KHXH Khác
[6] Nguyễn Quang Mai (2002), Giới tính và đời sống gia đình, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội Khác
[7] Bùi Thị Xuân Mai, Nhập môn công tác xã hội, Nhà xuất bản Đại học lao động xã hội Khác

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w