1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Ảnh hưởng của bón phân đến sinh trưởng của cây xạ đen (ehretia asperula zoll mor) tại vườn ươm trường đại học nông lâm thái nguyên

57 11 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Ảnh Hưởng Của Phân Bón Đến Sinh Trưởng, Phát Triển Của Cây Xạ Đen (Ehretia Asperula Zoll. & Mor) Tại Vườn Ươm Trường Đại Học Nông Lâm Thái Nguyên
Tác giả Bế Quách Sang
Người hướng dẫn TS. Nguyễn Tuấn Hùng
Trường học Đại học Nông Lâm Thái Nguyên
Chuyên ngành Lâm nghiệp
Thể loại khóa luận tốt nghiệp
Năm xuất bản 2019
Thành phố Thái Nguyên
Định dạng
Số trang 57
Dung lượng 3,84 MB

Cấu trúc

  • 1.1. Đặt vấn đề (9)
  • 1.2. Mục đích nghiên cứu (11)
  • 1.3. Ý nghĩa của việc nghiên cứu (11)
  • 2.1. Cơ sở khoa học (13)
  • 2.2. Tình hình nghiên cứu cây dược liệu trên Thế giới và Việt Nam (0)
    • 2.2.1. Nghiên cứu về cây dược liệu trên Thế giới (16)
    • 2.2.2. Nghiên cứu về cây dược liệu ở Việt Nam (17)
  • 2.3. Tình hình nghiên cứu cây Xạ đen trong và ngoài nước (0)
    • 2.3.1. Tình hình nghiên cứu cây Xạ đen trong nước (21)
    • 2.3.2. Tình hình nghiên cứu cây Xạ đen ngoài nước (23)
  • 2.4. Tổng quan về cây Xạ đen (23)
    • 2.4.1. Nguồn gốc và phân loại (23)
    • 2.4.2. Đặc điểm phân bố (24)
    • 2.4.3. Đặc điểm hình thái (25)
    • 2.4.4 Giá trị của cây Xạ đen (26)
  • 2.5. Những thuận lợi và khó khăn trong gây trồng cây xạ đen (29)
    • 2.5.1. Thuận lợi (29)
    • 2.5.2. Khó khăn (29)
  • 2.6. Tổng quan khu vực nghiên cứu (30)
  • 3.1. Vật liệu, địa điểm và thời gian nghiên cứu (31)
    • 3.1.1. Vật liệu nghiên cứu (31)
    • 3.1.2. Địa điểm, thời gian nghiên cứu (32)
  • 3.2. Nội dung nghiên cứu (32)
  • 3.3. Phương pháp nghiên cứu (32)
    • 3.3.1. Phương pháp kế thừa tài liệu (0)
    • 3.3.2. Phương pháp bố trí thí nhiệm (0)
    • 3.3.3. Các chỉ tiêu sinh trưởng được theo dõi trên vườn ươm (35)
  • 3.4. Phương pháp xử lý số liệu (35)
  • 4.1. Kết quả ghiên cứu ảnh hưởng của các loại phân bón đến tỷ lệ sống của cây Xạ đen (%) (0)
  • 4.2. Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của các loại phân bón đến sinh trưởng đường kính (D 00 ) của cây xạ đen (cm) (0)
  • 4.3. Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng các loại phân bón đến sinh trưởng chiều (0)
  • 4.4. Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của các loại phân bón đến động thái ra lá của cây xạ đen (43)
  • Phần 5. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ (45)
    • 5.1. Kết luận (45)
    • 5.2. Kiến nghị (45)

Nội dung

Mục đích nghiên cứu

Xác định được ảnh hưởng của chế độ bón phân đến sinh trưởng của cây

Xạ đen trong giai đoạn vườn ươm

Việc nhân giống và phát triển cây dược liệu quý không chỉ nâng cao thu nhập và cải thiện đời sống cho người dân, mà còn góp phần tăng năng suất, đáp ứng nhu cầu sử dụng Điều này sẽ giúp khai thác hiệu quả tiềm năng cây dược liệu tại khu vực nghiên cứu.

Ý nghĩa của việc nghiên cứu

Vận dụng những kiến thức thực tế của bản thân làm quen với quá trình nghiên cứu trong thực tế

Tích lũy những kinh nghiệm, những hiểu biết từ đó thấy được những điểm mạnh, điểm yếu cảu bản thân khi đi làm

Nâng cao kiến thức về cây dược liệu Xạ đen là điều cần thiết để hiểu rõ hơn về lợi ích của nó Đồng thời, việc rèn luyện kỹ năng tổng hợp, phân tích và xử lý số liệu sẽ giúp bạn tiếp thu kiến thức hiệu quả hơn Hãy hỏi và học hỏi từ những kinh nghiệm thực tế để áp dụng vào cuộc sống.

* Ý nghĩa thực tiễn Đề tài đóng góp thêm cơ sở lý luận về ảnh hưởng của chế độ bón phân đến cây Xạ đen ở vườn ươm

Xác định được sự sinh trưởng, phát triển của loài cây Xạ đen trong các điều kiện bón phân khác nhau

Dữ liệu thu thập cần đảm bảo tính khách quan, trung thực và chính xác Các giải pháp đề xuất phải thực tiễn, khả thi và phù hợp với điều kiện thực tế.

Nâng cao kiến thức thực tế, sự hiểu biết của bản thân để phục vụ cho công tác sau khi ra trường

PHẦN 2 TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

Cơ sở khoa học

Mục đích của việc bón phân là thúc đẩy sự phát triển và năng suất cao cho cây trồng, đồng thời nâng cao chất lượng sản phẩm Để đạt được hiệu quả tối ưu từ phân bón, cần phải bón phù hợp với nhu cầu sinh trưởng của cây Sự phát triển của cây trồng chịu ảnh hưởng lớn từ các điều kiện môi trường bên ngoài.

Phân bón là chất cung cấp các nguyên tố dinh dưỡng thiết yếu cho cây trồng, có thể là sản phẩm tự nhiên hoặc được sản xuất công nghiệp Dù là loại nào, các thành phần dinh dưỡng đều giống nhau và có tác động tương tự đến sự phát triển của cây.

Có hai cách bón phân cho cây trồng: Bón phân qua rễ và bón phân qua lá [16]

Bón phân qua rễ là phương pháp cung cấp trực tiếp chất dinh dưỡng vào đất, giúp bộ rễ cây hút các chất này và chuyển lên các bộ phận trên mặt đất như thân, lá, hoa và quả, từ đó cây trồng phát triển bình thường Trong khi đó, bón phân qua lá là cách phun dung dịch phân bón hòa tan vào nước với nồng độ cho phép lên lá, thân, cành và quả, giúp chất dinh dưỡng thẩm thấu qua lá một cách hiệu quả.

Bón phân qua rễ cây thường không hấp thu hết, dẫn đến việc phân bón bị giữ lại trong đất hoặc bị rửa trôi Trong khi đó, bón phân qua lá yêu cầu nồng độ thấp; nếu nồng độ quá cao, cây có thể bị tổn thương và chết, còn nếu quá thấp thì hiệu quả không rõ ràng Do đó, cần bón nhiều lần với nồng độ phù hợp trong suốt đời cây Tại vườn ươm, hầu hết phân bón được trộn với đất để tối ưu hóa sự hấp thu.

Để tạo ra hỗn hợp ruột bầu hiệu quả, cần xác định tỉ lệ pha trộn đất dựa trên tính chất đất và đặc tính sinh thái của cây con Việc bón phân cần được kết hợp với các biện pháp lâm sinh như nhổ cỏ, tưới nước và phòng trừ sâu bệnh thường xuyên nhằm tối ưu hóa hiệu quả của phân bón.

Phân bón đóng vai trò quan trọng trong sự sống của thực vật, không chỉ giúp cây sinh trưởng nhanh chóng mà còn ảnh hưởng lớn đến sự hình thành và phát triển của cơ thể cây.

Theo nhiều tài liệu, việc sử dụng phân bón chỉ đạt 30% hiệu quả Để nâng cao hiệu quả sử dụng phân bón, cần kết hợp cân đối nguồn phân, khả năng cung cấp của đất, hệ thống canh tác, giống cây trồng và điều kiện thời tiết thích hợp Cách tiếp cận này không chỉ giảm chi phí mà còn tăng hiệu suất sản xuất và bảo vệ môi trường sinh thái bền vững.

Phân bón là chất thiết yếu cung cấp dinh dưỡng cho cây trồng, có thể là sản phẩm tự nhiên hoặc tổng hợp công nghiệp Dù nguồn gốc khác nhau, các nguyên tố dinh dưỡng trong phân bón đều có tác động tương tự đến sự sinh trưởng của cây Việc áp dụng các biện pháp kỹ thuật bón phân hợp lý sẽ mang lại hiệu quả cao Tuy nhiên, cần cân đối liều lượng, tỷ lệ và thời gian bón phân phù hợp với từng loại cây, loại đất và mùa vụ để đảm bảo năng suất và chất lượng sản phẩm tốt nhất.

Các loại phân hóa học được sử dụng để chăm sóc cây con trong thời gian ngắn cần được kết hợp với các biện pháp lâm sinh như nhổ cỏ, tưới nước và phòng trừ sâu bệnh Việc thực hiện đồng bộ các biện pháp này sẽ giúp phát huy tối đa hiệu lực của phân bón.

Trong sản xuất nông nghiệp, đất đóng vai trò quan trọng như giá thể và môi trường sống cho bộ rễ cây, đồng thời là nguồn cung cấp nước và chất dinh dưỡng cần thiết cho sự phát triển của cây trồng Đất tốt là yếu tố quyết định đến năng suất và chất lượng nông sản.

Bảy loại cây trồng có khả năng sinh trưởng tốt, cho hoa và quả sớm, đồng thời đạt sản lượng và chất lượng cao Những cây này có chu kỳ sai quả ngắn, giúp tăng hiệu quả kinh tế Để cây phát triển mạnh mẽ, đất trồng cần phải giàu dinh dưỡng, đặc biệt là nitrogen (N).

P, K và các nguyên tố vi lượng cần thiết đồng thời các thành phần đó có một tỉ lệ thích hợp [323]

Điều kiện đất đai đóng vai trò quan trọng trong sự sinh trưởng và phát triển của cây con Đất cung cấp chất dinh dưỡng, nước và không khí, ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe và sự phát triển của cây Cây con sẽ phát triển tốt khi được trồng trong môi trường đất phù hợp, giàu dinh dưỡng và có khả năng giữ nước.

Chất dinh dưỡng, nước và không khí trong đất có đủ cho cây hay không chủ yếu phụ thuộc vào thành phần cơ giới, độ ẩm và độ pH của đất.

Để xây dựng vườn ươm hiệu quả, cần lựa chọn thành phần cơ giới của đất, ưu tiên cát pha với kết cấu tơi xốp, thoáng khí, và khả năng thấm nước tốt Loại đất này giúp hạt nảy mầm và cây con sinh trưởng thuận lợi, đồng thời dễ dàng trong việc chăm sóc Tuy nhiên, việc chọn đất cũng cần dựa vào đặc tính sinh học của từng loài cây; ví dụ, cây Mỡ thích hợp với đất thịt trung bình, trong khi cây Thông lại ưa đất cát pha với khả năng thoát nước tốt.

Độ phì của đất là yếu tố quan trọng quyết định sự sinh trưởng của cây trồng, với đất phì nhiêu có hàm lượng cao các chất dinh dưỡng khoáng như N, P, K, Mg, Ca và các vi lượng khác Tỷ lệ các chất dinh dưỡng cần được cân đối và phù hợp để cây con có thể phát triển nhanh chóng và khỏe mạnh, với các bộ phận rễ, thân, cành và lá phát triển đồng đều.

Tình hình nghiên cứu cây dược liệu trên Thế giới và Việt Nam

Nghiên cứu về cây dược liệu trên Thế giới

Theo Tổ chức Y tế Thế giới (2005), 80% dân số ở các nước đang phát triển vẫn phụ thuộc vào y học cổ truyền và thuốc từ dược thảo để bảo vệ sức khỏe Trong những thập kỷ gần đây, nhiều quốc gia đã tăng cường nghiên cứu về y học cổ truyền nhằm cải thiện chất lượng chăm sóc sức khỏe.

Cứu, bào chế và sản xuất các chế phẩm thiên nhiên từ cây dược liệu là phương pháp hỗ trợ, phòng ngừa và điều trị bệnh hiệu quả Theo thống kê của WHO, thị trường thuốc từ dược liệu ở Trung Quốc đạt 26 tỷ USD vào năm 2008 với mức tăng trưởng hàng năm trên 20% Mỹ có doanh số 17 tỷ USD (2004), Nhật Bản đạt 1,1 tỷ USD (2006), Hàn Quốc 250 triệu USD (2007) và châu Âu đạt 4,55 tỷ Euro.

(2004), Tính trên toàn thế giới, hàng năm doanh thu thuốc từ dược liệu ước đạt khoảng trên 80 tỷ USD

Các quốc gia sản xuất và cung cấp dược liệu chủ yếu là những nước đang phát triển tại Châu Á như Trung Quốc, Ấn Độ, Indonesia, Việt Nam, Thái Lan, Bangladesh; ở Châu Phi có Madagascar và Nam Phi; và tại Châu Mỹ La tinh có Brasil và Uruguay.

Ngày nay, sự mất mát nhanh chóng về tính đa dạng sinh học, đặc biệt là nguồn cây thuốc, đang trở thành vấn đề nghiêm trọng Theo Tổ chức Bảo tồn thiên nhiên (IUCN), trong số 43.000 loài thực vật được ghi nhận, gần 30.000 loài đang đối mặt với nguy cơ tuyệt chủng ở nhiều mức độ khác nhau.

Năm 1980, tài liệu “Các loài thực vật bị đe dọa ở Ấn Độ” đã chỉ ra 200 loài thực vật, chủ yếu là cây thuốc Tương tự, trong “Trung Quốc thực vật hồng bì thư” (Sách đỏ về thực vật của Trung Quốc) xuất bản năm 1996, cũng đã giới thiệu gần 200 loài thực vật có giá trị dược liệu cần được bảo vệ.

Nghiên cứu về cây dược liệu ở Việt Nam

Từ xa xưa, con người đã tích lũy kinh nghiệm trong việc nhận biết và sử dụng cây cỏ, phân biệt giữa các loại có độc và ăn được Những cây cỏ chữa bệnh đã được ghi nhớ và truyền lại qua các thế hệ, góp phần làm phong phú thêm kho tàng kiến thức về thảo dược của nhân loại, cùng với sự tiến hóa và phát triển của xã hội.

Năm 2838 Trước công nguyên, Thần Nông đã biên soạn cuốn sách

"Thần nông bản thảo" là một cuốn sách quan trọng ghi chép về 364 vị thuốc và phương pháp sử dụng của chúng Đây được coi là nền tảng cho sự phát triển của ngành y học dược thảo Trung Quốc cho đến hiện tại.

Năm 1595, Lý Thời Trân đã biên soạn cuốn "Bản thảo cương mục", tổng hợp kinh nghiệm về cây thuốc và cách sử dụng chúng Đây là tác phẩm vĩ đại nhất của Trung Quốc trong lĩnh vực dược liệu, mô tả 1.094 loại cây thuốc và vị thuốc từ thiên nhiên.

Việt Nam, nằm trong vành đai khí hậu nhiệt đới gió mùa, sở hữu nguồn tài nguyên thực vật phong phú và đa dạng Từ xa xưa, ông cha đã sử dụng các loài cây thuốc tự nhiên với nhiều phương pháp bào chế để chữa bệnh Qua hàng nghìn năm lịch sử, kinh nghiệm lâm sàng đã được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, hình thành lý luận về các phương pháp phòng và chữa bệnh.

Từ thời Hồng Bàng và các Vua Hùng (2879-257 TCN), người dân đã thực hiện tục ăn trầu và nhuộm răng đen để bảo vệ và làm chắc răng Ngoài ra, việc sử dụng gừng, tỏi, ớt, sả làm gia vị trong bữa ăn hàng ngày không chỉ giúp tiêu hóa tốt mà còn phòng ngừa các bệnh đường ruột.

Vào cuối thế kỷ III trước công nguyên, vùng Nam Việt Giao Chỉ đã khám phá và ứng dụng nhiều loại cây thuốc tự nhiên trong việc chữa bệnh, bao gồm sắn dây, gừng, riềng, đậu khấu, ích trí, lá lốt, sả, quế và vông nem.

Dưới các triều đại phong kiến, các cơ sở như ty Thái y và viện Thái y được thành lập nhằm chữa bệnh cho vua, quan và nhân dân Trong thời kỳ nhà Trần, danh y Tuệ Tĩnh (Nguyễn Bá Tĩnh) đã khẳng định quan điểm “Nam dược trị Nam nhân” và đề xuất việc trồng cây thuốc để phục vụ chữa bệnh cho cộng đồng Ông cũng là tác giả của nhiều tác phẩm y học quý giá.

“Nam dược thần hiệu”, mô tả 499 vị thuốc và các phương thuốc để chữa 184

11 bệnh Năm 1717, “Nam dược thần hiệu” đổi tên thành “Hồng nghĩa giác lĩnh tư y thư” gồm 590 vị thuốc

Dưới triều đại nhà Lê, danh y Hải Thượng Lãn Ông – Lê Hữu Trác đã có những đóng góp nổi bật cho nền y học Việt Nam Ông để lại di sản quý giá với bộ sách “Hải Thượng y tông tâm lĩnh,” bao gồm 28 tập và 66 quyển, chứa đựng nhiều kinh nghiệm quý báu về việc sử dụng dược liệu trong chữa bệnh.

Y học cổ truyền Việt Nam đã phát triển qua nhiều thế kỷ, với sự đóng góp quý báu từ cộng đồng các dân tộc Họ sở hữu những kinh nghiệm phong phú trong việc sử dụng cây cỏ làm thuốc, tạo nên một kho tàng tri thức quý giá về y dược.

Theo nghiên cứu của Phạm Hoàng Hộ và Nguyễn Nghĩa Thìn (2010), Việt Nam có khoảng 10.500 loài thực vật bậc cao có mạch, dự đoán có thể lên đến 12.000 loài Trong số đó, có hơn 3.900 loài cây được sử dụng làm thuốc, thuộc 307 họ thực vật.

Trương Thị Tố Uyên (2010) đã nghiên cứu tính đa dạng thực vật và tài nguyên cây thuốc tại xã Vũ Chấn, huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên, phát hiện 56 họ, 107 chi, 135 loài và phân loại được 13 nhóm cây thuốc Trong số đó, có 28 cây thuốc thông tiểu, 27 cây chữa tê thấp, 22 cây chữa bệnh tiêu hóa, 21 cây chữa ho hen, 16 cây có tác dụng cầm máu, 17 cây giải độc, và 16 cây chữa cảm sốt.

Trong bài viết này, chúng tôi giới thiệu 14 cây thuốc hiệu quả trong việc chữa trị mụn nhọt và mẩn ngứa, 9 cây thuốc giúp điều trị bệnh dạ dày, 6 cây thuốc có tác dụng trị giun sán, 3 cây thuốc hỗ trợ hạ huyết áp, 3 cây thuốc chữa các bệnh về mắt, và 2 cây thuốc có khả năng chữa ung thư Những cây thuốc này không chỉ mang lại lợi ích sức khỏe mà còn là giải pháp tự nhiên cho nhiều vấn đề sức khỏe phổ biến.

Báo cáo khoa học năm 1993 về "Tài nguyên cây thuốc ở Sơn La" đã xác định 500 loài cây thuốc tại khu vực Tây Bắc, trong đó riêng tỉnh Sơn La có 70 họ cây thuốc Nghiên cứu này cũng đề cập đến kết quả trồng thử nghiệm một số cây thuốc có giá trị tại Chiềng Sinh, thị xã Sơn La.

109 chi và 249 loài cây thuốc Trong đó: Nhóm cây 2 lá mầm gồm 54 họ, 159 chi và 203 loài; nhóm cây 1 lá mầm gồm 10 họ, 27 chi và 31 loài nhóm cây

12 hạt trần gồm 2 họ, 2 chi và 2 loài; nhóm thông đất gồm 1 họ, 1 chi và 1 loài; nhóm dương xỉ gồm 3 họ, 9 chi và 12 loài [2]

Năm 2005, Bộ Y tế, Vụ Y học cổ truyền đã phát hành cuốn sách “Cây hoa cây thuốc”, hướng dẫn sử dụng 29 loài cây hoa cảnh có tác dụng chữa bệnh thông thường Sau khi xuất bản, cuốn sách nhanh chóng thu hút sự quan tâm của cán bộ và người dân, trở thành tài liệu cần thiết cho cộng đồng.

Cùng với việc nghiên cứu đặc điểm và công dụng của các loại cây thuốc tự nhiên, cần thiết phải phát triển các phương pháp kỹ thuật để trồng trọt rộng rãi, biến chúng thành sản phẩm hàng hóa Điều này không chỉ giúp bảo vệ nguồn gen cây thuốc tự nhiên đang ngày càng cạn kiệt mà còn thúc đẩy sự phát triển bền vững trong ngành dược liệu Các cơ sở nghiên cứu và nhà khoa học đang tích cực tìm kiếm các biện pháp hiệu quả để gây trồng các loài cây thuốc.

Tình hình nghiên cứu cây Xạ đen trong và ngoài nước

Tình hình nghiên cứu cây Xạ đen trong nước

Lê Thế Trung và cộng sự (1999) đã tiến hành nghiên cứu về khả năng chữa ung thư của cây Xạ đen Hòa Bình sau chuyến công tác vào năm 1987 Trong quá trình này, tác giả đã chứng kiến nhiều bệnh nhân hồi phục nhờ uống nước sắc từ cây Xạ đen, từ đó quyết định mang cây về để thực hiện nghiên cứu và phân tích sâu hơn.

Xạ đen, một vị thuốc chữa ung thư, đã được công nhận sau 12 năm nghiên cứu từ 1987 đến 1999 bởi Lê Thế Trung và nhóm nghiên cứu Nghiên cứu của Nguyễn Huy Cương (2008) đã chỉ ra rằng cây Xạ đen (Celastrus hindsii benth & hook) và cây cùm rụm răng (Ehretia dentata courch) chứa nhiều thành phần hóa học quý giá Từ lá và cành cây Xạ đen thu hái tại Quảng Bình, các nhà khoa học đã phân lập và xác định cấu trúc của 11 chất với các khung carbon khác nhau Trong đó, có bốn chất thuộc khung friedelan và năm chất thuộc khung lupan, cùng với hai hợp chất khác là clionasterol và axit glucosyringic Ngoài ra, nghiên cứu cũng phát hiện flavonoid glucosid astragalin và hai hợp chất phenolic là axit rosmarinic và metyl rosmarinat.

Nguyễn Thị Vân Khanh và cs (2007) [10] Kết quả ban đầu về nghiên cứu cấu trúc hoá học của chất phân lập từ lá cây Xạ đen (Ehretia asperula

Nghiên cứu của Zoll & Mor cùng Trịnh Thị Thủy (2008) về "Phân lập và xác định cấu trúc các hợp chất triterpen từ cây Xạ đen" đã chỉ ra rằng lá Xạ đen chứa hai thành phần hóa học chính là bauerenol và α-amyrin Thử nghiệm hoạt tính kháng vi sinh cho thấy các hợp chất phân lập có khả năng gây độc tế bào, đặc biệt là chất lup-20-en-3 β và 11 β-diol thể hiện hoạt tính tốt đối với Staphylococcus aureus.

Theo nghiên cứu của Hoàng Quỳnh Hoa (2010), cây Xạ đen Hòa Bình được xác định có tên khoa học là Ehretia asperula Zoll & Mor., thuộc chi Cườm rụng (Ehretia P Br.) và họ Vòi voi (Boraginaceae) ở miền Bắc Việt Nam.

Tạ Như Thục Anh và cộng sự (2012) đã tiến hành nghiên cứu nhân nhanh cây Xạ đen (Ehretia asperula Zoll & Mor.) thông qua việc nuôi cấy chồi trên môi trường MS cơ bản, sử dụng 0,6% agar và 3% đường, đồng thời bổ sung BAP với nồng độ 0,3 mg/l.

Kinetin 0,5 mg/l Ra rễ trên môi trường bổ sung IBA hoặc NAA nồng độ từ 0,01-0,1 mg

Nguyễn Văn Thuận (2014) [16] Đánh giá vi nhân giống Ehretia asperula Zoll & Mor Có 7 thí nghiệm đưa đến kết quả: khử trùng bằng cồn

Trong nghiên cứu, tỷ lệ nảy chồi trung bình đạt 70% trong 1 phút, 18% với Javen trong 15 phút, và 0,1% HgCl2 trong 5 phút Môi trường MS được bổ sung Kinetin 0,5 mg/l và BA 0,5 mg/l cho thấy hiệu quả tốt cho sự nảy chồi Đặc biệt, pH 6,2 giúp tăng cường khả năng nảy chồi và ra rễ, khi môi trường MS được bổ sung IBA 0,1 mg/l.

Tình hình nghiên cứu cây Xạ đen ngoài nước

Nghiên cứu của Yao-Haur Kuo và cộng sự (1997) đã chỉ ra rằng dịch chiết cồn từ vỏ cây Xạ đen có khả năng kháng tế bào ung thư gan (Hepatocellular carcinoma, Hep-G2), ung thư mũi (Nasopharynx carcinoma), ung thư ruột kết (Colon carcinoma, COLO-205) và kháng virus HIV H-9 Kết quả này cho thấy tiềm năng của các hợp chất hóa học trong cây Xạ đen trong việc chống lại các loại ung thư và virus.

Những công bố về cây Xạ đen trên thế giới chưa có nhiều, nghiên cứu về đối tượng còn hạn chế.

Tổng quan về cây Xạ đen

Nguồn gốc và phân loại

Xạ đen là một loại cây thuốc nam quý mọc tự nhiên trong các khu rừng ở nước ta Xạ đen có tên khoa học là Ehretia asperula Zoll & Mort

Theo Hoàng Quỳnh Hoa (2010), nghiên cứu đã phân tích 111 mẫu tiêu bản thực vật từ các nguồn trong và ngoài nước, thu hái từ thực địa, để phân loại và xác định tên khoa học của các loài trong chi Ehretia P Br ở miền Bắc Việt Nam Các loài được xác định bao gồm: E acuminata R Br., E asperula Zoll & Mor., E dichotoma Blume, E dicksonii Hance, E laevis Roxb., E longiflora Champ ex Benth và E tsangii Johnst.

Giả Hoàng Quỳnh Hoa đã xác định loài “Xạ đen” với tên khoa học là Ehretia asperula Zoll & Mor tại Hòa Bình, thuộc họ Vòi voi, cùng với loài Xạ vàng Hai loài này có hình dáng tương tự, dễ gây nhầm lẫn nếu không quan sát kỹ Tuy nhiên, chỉ Xạ đen có tác dụng chữa bệnh, trong khi Xạ vàng không có Điểm khác biệt giữa hai loài là lá Xạ đen có màu tím đen, trong khi lá Xạ vàng chỉ có màu xanh Khi vò lá Xạ đen, sẽ thấy nhựa đen dính vào tay, còn Xạ vàng thì không Nếu chặt thân, sau 5 phút, nếu thân chuyển sang màu xỉm đen, đó là Xạ đen; nếu không, đó là Xạ vàng.

Đặc điểm phân bố

Xạ đen, một loại cây thuốc nam quý, chủ yếu phân bố tại các tỉnh như Hà Nam, Quảng Ninh, Ninh Bình, Hòa Bình, Phú Thọ và Vườn Quốc gia Ba Vì, thường mọc tự nhiên trong các khu rừng già của Việt Nam.

Xạ đen là cây ưa khí hậu nhiệt đới gió mùa, chịu được mùa đông lạnh Loài cây này phát triển tốt trong môi trường bóng râm, có thể mọc tự nhiên dưới tán rừng hoặc được trồng dưới tán rừng trồng và cây ăn quả Ngoài ra, xạ đen cũng có khả năng sinh trưởng bình thường trong điều kiện ánh sáng đầy đủ.

Xạ đen là loại cây có khả năng phát triển trên nhiều loại đất khác nhau, bao gồm sa thạch, phiến thạch, trầm tích và mắc ma Cây này sinh trưởng tốt trên các nhóm đất như đất dốc tụ, đất feralit, đất đen và đất bạc màu Dù có thể chịu đựng điều kiện đất nghèo dinh dưỡng, xạ đen vẫn cần một môi trường thích hợp để phát triển tối ưu.

Xạ đen là loại cây phân bố rộng rãi trên các vùng núi đá và đồi đất, thường phát triển tại những khe dưới chân núi đá nơi có đất ẩm và xốp Loại đất này thường có độ pH hơi chua đến trung tính và thành phần cơ giới thịt trung bình, tạo điều kiện thuận lợi cho sự sinh trưởng của cây.

Đặc điểm hình thái

Xạ đen là một loại cây thân gỗ, có khả năng leo cao và thường mọc thành bụi Cây có nhánh non tròn, không lông, với chiều dài trung bình từ 5-7m, có thể lên tới hàng chục mét Vỏ của thân cây già có màu nâu với các đốm trắng, trong khi chồi và lá non có màu tím đỏ đặc trưng.

Lá đơn mọc cách, có hình trái xoan với kích thước dài từ 10-20 cm và rộng 5-10 cm Mặt trên của lá có màu xanh đậm, trong khi mặt dưới là màu xanh nhạt, với mép lá có răng cưa Gân lá tạo thành mạng lưới hình lông chim, bao gồm một gân chính ở giữa và từ 10-15 gân phụ Chiều dài cuống lá dao động từ 0,8-1,4 cm.

Xạ đen có hoa, quả và hạt Xạ đẹn ra hoa trong khoảng thời gian từ tháng 3 tới tháng 5

Hoa có hình dạng xim, mọc cụm ở ngọn cành hoặc nách lá, với tràng hoa màu trắng dính liền ở phía dưới và phân 5 cánh ở phía trên, dài từ 5-10 cm và đường kính 4-6 cm, có lông mịn Lá bắc hình dải, dài 3-10 mm Hoa nhỏ có cuống dài 1,5-3 mm, đài hoa màu nâu cao 1,5-2,5 mm, 5 thuỳ và có lông mịn Tràng hoa màu trắng, phần dưới dính liền thành hình phễu, dài 3,5-4 mm, họng rộng 5 mm, với 5 thuỳ hình trứng hoặc tam giác, dài 2-2,5 mm Nhị có 5, chỉ nhị dài 3,5-4 mm, đính cách gốc tràng khoảng 1 mm, bao phấn hình mũi tên dài khoảng 1 mm Bầu hoa gần hình cầu, vòi nhuỵ dài 3-4 mm, xẻ nhánh dài khoảng 1 mm Cây ra quả từ tháng 8 đến tháng 9, quả chín vào khoảng tháng 10 đến tháng 11.

Quả non có màu xanh và chuyển sang màu vàng khi chín Quả nang hình trứng, dài khoảng 1cm, nổ thành 3 mảnh khi chín, có màu đỏ hoặc cam với đường kính 3-4 mm Mỗi quả chứa 4 hạch, mỗi hạch có một hạt bên trong.

Giá trị của cây Xạ đen

Cây Xạ đen, theo y học cổ truyền, có vị thơm mát và là vị thuốc đa công dụng, hiệu quả trong điều trị mụn nhọt, tiêu u thũng, tiêu viêm, giải độc, giảm tiết dịch và tăng cường sức đề kháng Trước đây, mế Hậu đã sử dụng cây Xạ đen để chữa bệnh vô sinh, và hiện nay, bà Đinh Thị Phiển, người thừa kế bài thuốc, đã áp dụng Xạ đen trong điều trị ung thư, khiến cây này còn được gọi là cây ung thư Nghiên cứu của GS Lê Thế Trung tại Viện Quân y 103 đã xác nhận Xạ đen là một trong những vị thuốc Nam có tác dụng chữa ung thư, được công nhận vào năm 1999.

Cây Xạ đen chứa nhiều hoạt chất quý giúp hạn chế sự phát triển của khối u, đặc biệt là các khối u ác tính (ung thư) Nghiên cứu đã chỉ ra rằng

Cây Xạ đen chứa các hoạt chất quý hiếm như Fanavolnoid và Quinon, có tác dụng phòng chống ung thư và làm cho tế bào ung thư dễ tiêu Ngoài ra, hợp chất Saponin Triterbenoid giúp chống nhiễm khuẩn Xạ đen hỗ trợ điều trị hiệu quả cho nhiều loại ung thư như ung thư vòm họng, dạ dày, phổi, và trực tràng Bên cạnh đó, cây Xạ đen còn được sử dụng để điều trị cao huyết áp, làm mát gan, giải độc, hạ men gan, và tăng cường sức khỏe, giúp phòng ngừa bệnh tật và ung thư.

Tình hình nhân giống và sử dụng cây Xạ đen

Theo khảo sát tại tỉnh Hòa Bình, việc trồng xen các loại cây bản địa như cây trầm Aquilaria, cây sấu và cây trám trắng cùng với Xạ đen mang lại nhiều lợi ích Xạ đen không cần chăm sóc tốn công sức, kỹ thuật cao hay diện tích đất lớn Việc trồng xen dưới tán rừng và cây ăn quả không chỉ dễ thực hiện mà còn gia tăng giá trị thu nhập trên mỗi đơn vị diện tích.

Hiện nay, tình hình trồng cây Xạ đen đang gặp nhiều khó khăn do việc chặt phá và khai thác bừa bãi từ người dân tại các địa phương Hầu hết diện tích trồng Xạ đen hiện nay còn manh mún, thiếu quy hoạch rõ ràng Tuy nhiên, một số địa phương ở tỉnh Hòa Bình đang nỗ lực mở rộng diện tích vườn và trang trại trồng cây Xạ đen, nhằm đáp ứng nhu cầu thị trường và cung cấp dược liệu quý Việc này không chỉ giúp giảm áp lực khai thác tự nhiên mà còn bảo tồn cây thuốc nam quý Các vùng như Lạc Sơn và Lương Sơn đã bắt đầu triển khai nhân giống và quy hoạch vùng trồng, đồng thời hình thành nhiều trang trại chuyên trồng Xạ đen phục vụ cho ngành y học.

Việc trồng và quy hoạch vùng trồng cây Xạ đen với mục đích kinh doanh đã được triển khai, tuy nhiên vẫn còn nhiều diện tích tiềm năng cần được quy hoạch để tối ưu hóa hiệu quả kinh tế.

Cây xạ đen hiện đang được biết đến với nhiều công dụng trong việc điều trị các bệnh như mụn nhọt, ung thư, viêm nhiễm, giải độc, giảm tiết dịch trong xơ gan cổ chướng, an thần, và hỗ trợ điều trị huyết áp cao cũng như men gan cao Đặc biệt, cây xạ đen còn có khả năng hạn chế sự phát triển của các tế bào ung thư, hứa hẹn mở ra một thị trường tiêu thụ tiềm năng rất lớn.

Nhiều bệnh nhân, đặc biệt là những người mắc bệnh ung thư, đang tìm đến các phòng khám đông y, trong đó cây Xạ đen được xem là vị thuốc hàng đầu Cây Xạ đen không chỉ được sử dụng trong điều trị mà còn được chế biến thành nhiều sản phẩm như trà và cao Xạ đen, giúp tăng cường sức khỏe và sức đề kháng, đang được thị trường ưa chuộng Ngoài ra, các nhà khoa học đang nghiên cứu để bào chế các hoạt chất từ xạ đen dưới dạng viên nén, mở ra tiềm năng cho một thị trường tiêu thụ xạ đen lớn trong tương lai.

2.4.4.2 Giá trị về kinh tế

Xạ đen, một loại cây thuốc nam quý mọc tự nhiên trong các khu rừng Việt Nam, không chỉ mang lại tác dụng y học mà còn có giá trị kinh tế cao Cây Xạ đen được xem là một giải pháp "xóa đói giảm nghèo," giúp tăng thu nhập cho người dân ở một số huyện tỉnh Hòa Bình Thị trường tiêu thụ sản phẩm từ cây thuốc nam Xạ đen rất phong phú và tiềm năng.

Xạ đen được chế biến theo hai cách: sau khi thu hái, cây sẽ được phơi khô, trong đó thân và cành được chặt thành lát mỏng Giá bán cho các sản phẩm từ thân, cành khô dao động từ 120.000-150.000 đồng/kg, trong khi sản phẩm từ lá phơi khô có giá từ 150.000-170.000 đồng/kg.

Cao xạ đen là sản phẩm được chiết xuất từ cây xạ đen, thường được kết hợp với cây bán chi liên và bạch hoa xà thiệt thảo để chế biến thành cao xạ đen, được biết đến với công dụng hỗ trợ điều trị ung thư.

Hiện nay, một số địa phương ở tỉnh Hòa Bình đang mở rộng diện tích vườn trang trại trồng cây Xạ đen Việc phát triển này không chỉ nhằm đáp ứng nhu cầu thị trường về dược liệu quý mà còn giúp giảm thiểu tình trạng khai thác và chặt phá bừa bãi cây Xạ đen, từ đó bảo tồn và phát huy nguồn gen của cây thuốc nam quý.

Những thuận lợi và khó khăn trong gây trồng cây xạ đen

Thuận lợi

Cây xạ đen dễ trồng, phù hợp để tận dụng các diện tích đất trống trong gia đình Nhu cầu thị trường đối với cây xạ đen đang tăng cao, mang lại tiềm năng lớn cho việc tiêu thụ sản phẩm Nhà nước cũng đang chú trọng và khuyến khích bảo tồn cây dược liệu, đặc biệt là cây xạ đen.

Khó khăn

Cây xạ đen có giá trị dược liệu cao, nhưng việc khai thác bừa bãi từ rừng mà không chú ý đến bảo tồn đang gây ra những tác động tiêu cực đến môi trường Mặc dù cây xạ đen được cho là có công dụng trong chữa trị bệnh ung thư, nhưng nghiên cứu về khả năng này vẫn còn hạn chế Nếu có những nghiên cứu rõ ràng, giá trị của cây xạ đen sẽ được nâng cao hơn nữa Nhận thức của người dân địa phương về việc bảo vệ và trồng cây xạ đen còn hạn chế, dẫn đến việc khai thác tự nhiên là chủ yếu, ảnh hưởng đến hệ sinh thái Hơn nữa, còn thiếu kinh nghiệm trong việc trồng, chăm sóc và phòng trừ sâu bệnh cho cây xạ đen.

22 chế và bảo quản sản phẩm từ xạ đen Vì vậy việc phát triển loài cây này chưa đạt được hiệu quả cao nhất [22].

Tổng quan khu vực nghiên cứu

Vườn ươm khoa Lâm nghiệp thuộc trường Đại học Nông lâm Thái Nguyên, cách thành phố Thái Nguyên khoảng 3 km về phía Tây, được xác định vị trí dựa trên bản đồ Thành phố Thái Nguyên.

Phía Bắc giáp với phường Quan Triều

Phía Nam giáp với phường Thịnh Đán

Phía Tây giáp xã Phúc Hà

Phía Đông giáp khu dân cư và khu kí túc xá thuộc trường Đại học Nông lâm Thái Nguyên

* Đặc điểm địa hình: Vườn ươm khoa Lâm nghiệp trường Đại học

Nông lâm Thái Nguyên nằm nhìn chung tương đối bằng phẳng

* Khí hậu thủy văn: Khí hậu nhiệt đới gió mùa, có hai màu rõ rệt mùa nóng ẩm và mùa khô lạnh

Nhiệt độ trung bình năm khoảng 22 - 25 0 C, chênh lệch giữa ngày và đêm khoảng 2 - 5 0 C, nhiệt độ cao tuyệt đối là 39 0 C, nhiệt độ thấp tuyệt đối là 3 0 C

Vườn ươm khoa Lâm nghiệp trường Đại học Nông lâm Thái Nguyên nằm trên đất Feralit phát triển trên đá sa thạch, với điều kiện đất không màu mỡ và ít dinh dưỡng Đặc điểm này dẫn đến hàm lượng các yếu tố dinh dưỡng trong đất không cao, như thể hiện qua bảng 2.1 dưới đây.

PHẦN 3 NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Vật liệu, địa điểm và thời gian nghiên cứu

Vật liệu nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là cây Xạ Đen, được nhân giống từ hạt và đưa vào thí nghiệm với các thông số D00 = 0,2 cm và Hvn = 12 cm Cây có chất lượng tốt và không bị sâu bệnh.

Sử dụng ba loại phân bón phân N-P-K, phân Đầu trâu, phân vi sinh

Thành phần của phân bón N-P-K-S 5:10:3-8 có (P2O5 hữu hiệu 10%, N:5%, K2O:3%, S:8-10%, CaO:18-20%, MgO:2-2.5%, SiO2: 4-5%, Cu: 20- 30ppm, Zn: 40-50ppm) Loại phân này chủ yếu dùng để bón lót

+ Mật độ vi sinh hữu ích: 1,0-109 tb/gr

+ Hàm lượng chất hữu cơ : 30%

+ Ngoài ra còn có một số nguyên tố trung vi lượng cần thiết cho cây trồng

Phân bón đầu trâu 20-20-15+TE có thành phần hóa học gồm: Đạm tổng số (Nts) 20%, Lân hữu hiệu (P2O5hh) 20%, Kali hữu hiệu (K2Ohh) 15%, Kẽm (Zn) 50ppm, Bo (B) 50ppm, và độ ẩm ≤2,5%.

Phân NPK+TE ĐẦU TRÂU cao cấp không chỉ cung cấp NPK mà còn bổ sung các chất Trung và Vi lượng cần thiết cho nhiều loại cây trồng ở các vùng sinh thái khác nhau Sản phẩm này giúp cây phát triển mạnh mẽ, nâng cao khả năng chống chịu, đồng thời tăng năng suất và chất lượng nông sản.

Địa điểm, thời gian nghiên cứu

- Địa điểm nhiên cứu: tại vườn ươm của trường Đại học Nông lâm Thái

- Thời gian nghiên cứu: Từ ngày 01/01/2019 đến 30/05/2019

Nội dung nghiên cứu

- Ảnh hưởng của các loại phân bón đến tỷ lệ sống (%) của cây Xạ đen

- Ảnh hưởng của các loại phân bón đến sinh trưởng đường kính của cây (D0)

- Ảnh hưởng của các loại phân bón đến sinh trưởng chiều cao của cây (Hvn)

- Ảnh hưởng của các loại phân bón đến động thái ra lá của cây

Phương pháp nghiên cứu

Phương pháp bố trí thí nhiệm

Vùng thí nghiệm được lựa chọn nằm trong khu vực quản lý của Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên, tọa lạc tại xã Quyết Thắng, thành phố Thái Nguyên.

Làm đất: Đất có tầng canh tác dày trên 40 cm, thoát nước tốt; không ngập úng Đất được làm kỹ, sạch cỏ, tơi xốp

Tiến hành làm cỏ dại, phá váng (15 ngày/ lần)

Khoảng cách luống cao 25-30 cm

Chăm sóc và Phòng trừ sâu bệnh: Sau khi trồng xong tiến hành tưới nước đủ ẩm để cây có thể bén rễ nhanh.

Các chỉ tiêu sinh trưởng được theo dõi trên vườn ươm

- Chỉ tiêu sinh trưởng về đường kính (D 00 ): 30 ngày đo 1 lần, dùng thước kẹp kính để đo

- Chỉ tiêu sinh trưởng về chiều cao (H vn ): 30 ngày đo 1 lần, dùng thước xăng-ti-mét (cm) để đo

- Chỉ tiêu sinh trưởng của lá: 30 ngày theo dõi lần – Đếm số lá trên cây, đánh dấu những lá đã đếm.

Phương pháp xử lý số liệu

Dựa trên số liệu thu thập từ công tác ngoại nghiệp, chúng tôi đã tiến hành tổng hợp và điều tra các chỉ tiêu như đường kính (D00), chiều cao (Hvn) và chỉ số lá của cây Xạ đen để đánh giá sinh trưởng của cây trồng.

So sánh hiệu quả của việc bón phân, tỉ lệ bón phân để phân tích đề tài nghiên cứu

Trong đó: C%: Tỷ lệ sống, n: Số cây sống, N: Tổng số cây trồng trong mô hình

- Chiều cao trung bình của cây ở mỗi lần đo: 𝐇̅ 𝐯𝐧 = ∑ 𝐡

Trong đó: 𝐇̅ 𝐯𝐧 : Là chiều cao trung bình của cây; ∑h: Là tổng số đo chiều cao các cây; M: là tổng số cây

(so với cây ra nhiều lá, mầm nhất)

Chất lượng cây sau trồng

 Đánh giá chất lượng cây sau khi trồng

Cây tốt: Là cây phát triển cân đối về chiều dài, chiều cao không sâu bệnh cụt ngọn …

Cây trung bình: Là những cây có chiều cao thấp hơn so với cây tốt, cây phát triển không đều, không sâu bệnh, không cụt ngọn …

Cây xấu: Là những cây có chỉ tiêu sinh trường số lá số mầm chiều cao kém hơn cây trung bình, sâu bệnh cụt ngọn…

Số liệu sẽ được tổng hợp, xử lý và phần tích trên phần mềm SPSS (2010)

- So sánh các mẫu độc lập về D00, Hvn bằng tiêu chuẩn One-way

ANOVA theo phần mềm SPSS 20.0 theo trình lệnh các bước:

 Bước 1 Mở phần mềm: SPSS 20.0

 Bước 2 Nhập số liệu vào cửa sổ SPSS

 Bước 3 Nhập trình lệnh: Analyze  Compare means  One-way ANOVA (khai báo Depenet list: Chiều cao trung bình, đường kính trung bình, số lá và Factor)

 Bước 4 Chọn Post Hoc:  Bonferrori -  Duncan

 Bước 5 Chọn Options:  Homogeneỉty of variance test (có các đặc trưng mẫu và kiểm tra sự bằng nhau của các phương sai)

 Bước 6 Chọn Continue – Ok Đặt nhân tố A là các công thức phân bón ở thí nghiệm

- Đặt giả thuyết H0: nhân tố A tác động đều lên kết quả thí nghiệm

- Đặt đối thuyết H1: nhân tố A tác động không đồng đều lên kết quả thí nghiệm

So sánh: ta thấy FA > F05

Giả thuyết H0 bị bác bỏ, cho thấy rằng nhân tố A có tác động không đồng đều đến tỷ lệ sống của cây Xạ đen Sự ảnh hưởng của nhân tố này khác nhau giữa các công thức, với ít nhất một công thức thể hiện tác động mạnh mẽ hơn so với các công thức còn lại.

PHẦN 4 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 4.1 Kết quả ghiên cứu ảnh hưởng của các loại phân bón đến tỷ lệ sống của cây Xạ đen (%)

Kết quả sự ảnh hưởng của các loại phân bón đến tỷ lệ sống của cây Xạ đen được tổng hợp tại bảng 4.1:

Bảng 4.1 Ảnh hưởng của các loại phân bón đến tỷ lệ sống của cây

Tỷ lệ sống của cây Xạ đen

Số cây % Số cây % Số cây %

Kết quả từ bảng 4.1 chỉ ra rằng tỷ lệ sống của cây trong các công thức thí nghiệm đã biến động qua các ngày theo dõi so với số lượng cây ban đầu là 90 cây.

 Giai đoạn 30 ngày Ở công thức 1 có số cây là 84 cây, chiếm 93,33%, tiếp theo là ở hai công thức, công thức 2 và 3 có 87 cây chiếm 96,67% so với công thức 4 có

Trong giai đoạn 60 ngày, công thức 1 có 81 cây, chiếm 90% tổng số Công thức 2 có 84 cây, tương đương 93,33%, trong khi công thức 3 đạt 87 cây, chiếm 96,67% So với công thức 4, chỉ có 72 cây, chiếm 80%.

 Giai đoạn 90 ngày Ở công thức 1 có 78 cây chiếm 86,67%, tiếp theo là ở công thức 2 có

Trong nghiên cứu, công thức thứ nhất có 81 cây chiếm 90%, trong khi công thức thứ ba có 84 cây chiếm 93,33%, và công thức thứ tư chỉ có 66 cây chiếm 73,33% Tỷ lệ sống của cây trồng thay đổi theo từng giai đoạn, cụ thể là có xu hướng giảm Trung bình, sau 30 ngày, tỷ lệ sống đạt 93,33%, sau 60 ngày giảm xuống còn 90%, và đến giai đoạn 90 ngày, tỷ lệ sống trung bình còn 85,83%.

Sau 3 tháng theo dõi có thể nhận thấy công thức 3 cho tỷ lệ sống cao nhất đạt 93,33%, công thức 4 có tỷ lệ sống thấp nhất là 73,33%

Hình 4.1 Tỷ lệ sống của cây Xạ đen sau 90 ngày ở các CTTN

4.2 Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của các loại phân bón đến sinh trưởng đường kính (D 00 ) của cây xạ đen (cm)

Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của các loại phân bón đến sinh trưởng đường kính của cây Xạ đen được tổng hợp tại bảng 4.2

Bảng 4.2 Ảnh hưởng của các loại phân bón đến sinh trưởng đường kính của cây (D 00 ) Công thức

Thí nghiệm Đường kính trung bình (𝑫̅̅̅̅̅ 𝟎𝟎 ) của cây Xạ đen (cm)

Kết quả bảng 4.2 cho thấy chỉ số đường kính gốc (D00) ở các công thức thí nghiệm có sự thay đổi qua các ngày theo dõi

Trong giai đoạn 30 ngày, chỉ số đường kính gốc của các công thức 1, 2, 3 và 4 lần lượt là 0,5 cm, 0,46 cm, 0,49 cm và 0,44 cm Công thức 4 có chỉ số thấp nhất trong số các công thức thử nghiệm.

Trong giai đoạn 60 ngày, chỉ số đường kính gốc của các công thức dinh dưỡng khác nhau đã được ghi nhận: công thức 1 đạt 0,74 cm, công thức 2 là 0,76 cm, và công thức 3 đạt 0,79 cm Trong khi đó, công thức 4 có chỉ số thấp nhất, chỉ đạt 0,64 cm.

Trong giai đoạn 90 ngày, chỉ số đường kính gốc của các công thức 1, 2 và 3 lần lượt là 0,82 cm, 0,83 cm và 0,86 cm, trong khi công thức 4 có chỉ số thấp nhất là 0,74 cm Qua các giai đoạn, chỉ số D00 có sự gia tăng rõ rệt, với mức trung bình đạt 0,47 cm sau 30 ngày, 0,73 cm sau 60 ngày, và đạt 0,81 cm sau 90 ngày.

Sau 3 tháng theo dõi có thể nhận thấy công thức 3 cho chỉ số cao nhất đạt 0,86 (cm), công thức 4 có tỷ lệ thấp nhất là 0,74 (cm)

Hình 4.2 Biểu đồ thể hiện ảnh hưởng của công thức phân bón đến sinh trưởng đường kính gốc cây Xạ đen sau 90 ngày

4.3 Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng các loại phân bón đến sinh trưởng chiều cao (H vn ) của cây Xạ đen (cm)

Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của các loại phân bón đến sinh trưởng chiều cao cây Xạ đen được tổng hợp tại bảng 4.3:

Bảng 4.3 Ảnh hưởng các loại phân bón đến sinh trưởng chiều cao của cây (H vn )

Công thức Sinh trưởng chiều cao (H vn ) của cây Xạ đen (cm)

Kết quả bảng 4.3 cho thấy chỉ số chiều cao (Hvn) ở các công thức thí nghiệm có sự thay đổi qua các ngày theo dõi

 Giai đoạn 30 ngày Ở công thức 1 có có chỉ số chiều cao là 15 (cm) tiếp theo là ở công thức

2 là 15,8 (cm), và công thức 3 là 15,9 (cm) so với công thức 4 là 14,9 (cm) thấp nhất trong các CTTN

Trong giai đoạn 60 ngà, chỉ số chiều cao của các công thức khác nhau trong nghiên cứu được ghi nhận như sau: công thức 1 có chiều cao 27,7 cm, công thức 2 là 24,4 cm, công thức 3 đạt 25 cm, trong khi công thức 4 là thấp nhất với chỉ số 22,6 cm.

Trong giai đoạn 90 ngày, chỉ số chiều cao của các công thức 1, 2, 3 lần lượt đạt 35,1 cm, 36,2 cm và 37,1 cm, trong khi công thức 4 có chiều cao thấp nhất là 33,9 cm Qua các giai đoạn khác nhau, chỉ số Hvn có sự tăng trưởng rõ rệt, với trung bình các công thức theo dõi đạt 15,4 cm sau 30 ngày, 24 cm sau 60 ngày, và 35,3 cm sau 90 ngày.

Sau 3 tháng theo dõi có thể nhận thấy công thức 3 cho chỉ số cao nhất đạt 37,1 (cm), công thức 4 có tỷ lệ thấp nhất là 33,9 (cm)

Hình 4.3 Biểu đồ thể hiện ảnh hưởng của các công thức phân bón đến sinh trưởng chiều cao cây Xạ đen sau 90 ngày theo dõi

4.4 Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của các loại phân bón đến động thái ra lá của cây xạ đen

Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của các loại phân bón đến động thái ra lá của cây xạ đen được tổng hợp tại bảng 4.4:

Bảng 4.4 Ảnh hưởng của chế độ bón phân đến động thái ra lá của cây xạ đen

Số lá của cây Xạ đen

Kết quả bảng 4.4 cho thấy trạng thái ra lá ở các công thức thí nghiệm có sự thay đổi qua các ngày theo dõi

Trong giai đoạn 30 ngày, chỉ số lá của công thức 1 đạt 13,4 lá, công thức 2 là 13,7 lá, và công thức 3 cao nhất với 14,4 lá Trong khi đó, công thức 4 có chỉ số lá thấp nhất, chỉ đạt 12,4 lá so với các công thức khác.

Trong giai đoạn 60 ngày, chỉ số lá của các công thức khác nhau trong nghiên cứu cho thấy công thức 1 đạt 15,9 lá, công thức 2 đạt 16 lá, và công thức 3 đạt 17,4 lá Trong khi đó, công thức 4 có chỉ số lá thấp nhất, chỉ đạt 14,5 lá.

Trong giai đoạn 90 ngày, chỉ số lá của các công thức 1, 2, 3 và 4 lần lượt là 16,6 lá, 17 lá, 18,1 lá và 14,9 lá, với công thức 4 có chỉ số thấp nhất Qua các giai đoạn khác nhau, chỉ số lá có sự biến đổi rõ rệt, cụ thể là tăng dần Trung bình, các công thức đạt 13,5 lá sau 30 ngày, 16 lá sau 60 ngày và 16,6 lá ở giai đoạn 90 ngày.

Sau 3 tháng theo dõi có thể nhận thấy công thức 3 cho chỉ số cao nhất đạt 18 lá, công thức 4 có tỷ lệ thấp nhất là 14 lá

Hình 4.4 Biểu đồ thể hiện ảnh hưởng của các công thức phân bón đến động thái ra lá cây Xạ đen

Phần 5 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

Tỷ lệ sống ở các giai đoạn khác nhau có sự thay đổi rõ rệt, cụ thể là giảm dần theo thời gian Trung bình, tỷ lệ sống sau 30 ngày đạt 93,33%, sau 60 ngày giảm xuống còn 90%, và đến giai đoạn 90 ngày, tỷ lệ sống trung bình chỉ còn 85,83%.

Sau 3 tháng theo dõi có thể nhận thấy công thức 3 cho tỷ lệ sống cao nhất đạt 93,33%, công thức 4 có tỷ lệ sống thấp nhất là 73,33%

Đường kính gốc (D00) có sự thay đổi qua các giai đoạn, cụ thể là tăng lên theo thời gian Trung bình, chỉ số D00 đạt 0,47 cm sau 30 ngày, 0,73 cm sau 60 ngày và 0,81 cm sau 90 ngày.

Sau 3 tháng theo dõi có thể nhận thấy công thức 3 cho chỉ số cao nhất đạt 0,86 (cm), công thức 4 có tỷ lệ thấp nhất là 0,74 (cm)

Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của các loại phân bón đến động thái ra lá của cây xạ đen

Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của các loại phân bón đến động thái ra lá của cây xạ đen được tổng hợp tại bảng 4.4:

Bảng 4.4 Ảnh hưởng của chế độ bón phân đến động thái ra lá của cây xạ đen

Số lá của cây Xạ đen

Kết quả bảng 4.4 cho thấy trạng thái ra lá ở các công thức thí nghiệm có sự thay đổi qua các ngày theo dõi

Trong giai đoạn 30 ngày, chỉ số lá ở công thức 1 đạt 13,4 lá, trong khi công thức 2 là 13,7 lá và công thức 3 cao nhất với 14,4 lá Ngược lại, công thức 4 có chỉ số lá thấp nhất, chỉ đạt 12,4 lá trong số các công thức thử nghiệm.

Trong giai đoạn 60 ngày, chỉ số lá của các công thức trong nghiên cứu cho thấy công thức 1 đạt 15,9 lá, công thức 2 có 16 lá, trong khi công thức 3 đạt 17,4 lá Ngược lại, công thức 4 có chỉ số lá thấp nhất, chỉ đạt 14,5 lá.

Trong giai đoạn 90 ngày, chỉ số lá của công thức 1 đạt 16,6 lá, công thức 2 là 17 lá, công thức 3 là 18,1 lá, trong khi công thức 4 có chỉ số thấp nhất là 14,9 lá Qua các giai đoạn khác nhau, chỉ số lá có sự tăng trưởng rõ rệt, với trung bình các công thức đạt 13,5 lá sau 30 ngày, 16 lá sau 60 ngày, và 16,6 lá ở giai đoạn 90 ngày.

Sau 3 tháng theo dõi có thể nhận thấy công thức 3 cho chỉ số cao nhất đạt 18 lá, công thức 4 có tỷ lệ thấp nhất là 14 lá

Hình 4.4 Biểu đồ thể hiện ảnh hưởng của các công thức phân bón đến động thái ra lá cây Xạ đen

Ngày đăng: 10/07/2021, 05:52

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w