TỔNG QUAN
Chất hữu cơ ô nhiễm khó phân hủy dioxin/furan
1.1.1 Tổng quan về chất độc dioxin/furan
Dioxin là tên gọi chung cho một nhóm hợp chất hóa học bền vững, tồn tại trong môi trường và cơ thể con người cũng như động vật Có 75 đồng loại độc PCDD và 135 đồng loại độc PCDF, với độc tính khác nhau, phụ thuộc vào số lượng và vị trí của các nguyên tử Clo.
Dioxin (PCDDs) và furan (PCDFs) là những hóa chất độc hại nhất hiện nay, được hình thành không chủ định từ quá trình đốt cháy không hoàn toàn nhiên liệu, sản xuất thuốc bảo vệ thực vật và một số hóa chất khác Ngoài ra, chúng cũng có thể phát sinh từ tái chế kim loại, nghiền và tẩy trắng giấy Các chất này có mặt trong khí thải động cơ, khói thuốc lá và khói than, với 2,3,7,8-TCDD là đồng loại độc nhất trong nhóm dioxin/furan.
Tetrachlorodibenzo-p-dioxin (2,3,7,8-TCDD) là một hợp chất rắn ở điều kiện thường, có độ bền cao trong môi trường Chất này rất khó bị phân hủy bởi các yếu tố như nhiệt độ, độ ẩm, tia cực tím và các hóa chất khác.
2,3,7,8-TCDD hầu như không tan trong nước (0.2g/l) và tan trong một số dung môi hữu cơ (MeOH 10mg/l; Metanol 48mg/l; Axeton 118; Benzen 500mg/l)
LD 50 (Liều lƣợng gây chết) : 70(mg/kg)
Hình 1.1: Công thức cấu tạo của các chất thuộc nhóm dioxin/furan
Luận văn tốt nghiệp thạc sĩ Nguyễn Thị Phương – K22
Nhiệt độ sôi tại 760 mmHg : 421 0 C
Nhiệt độ phân hủy : 800 0 C đến 1000 0 C
Chu kỳ bán phân hủy của dioxin dao động từ 3 đến 5 năm, nhưng có thể kéo dài tới 12 năm Độ bền vững của dioxin được xác định dựa trên chu kỳ bán hủy, tức là thời gian để dioxin tự phân hủy một nửa khối lượng Tuy nhiên, chu kỳ bán hủy thực tế của dioxin vẫn còn nhiều tranh cãi trong nghiên cứu.
Theo nghiên cứu của Theo D.Pautenbach và R.Puri, chu kỳ bán hủy của dioxin trên lớp đất bề mặt dao động từ 9-25 năm, trong khi ở các lớp đất sâu hơn, thời gian này kéo dài từ 25-100 năm Tại Hội nghị quốc tế tổ chức tại TPHCM, thời gian bán hủy được ước tính là 5-7 năm Tại Việt Nam, một lượng lớn dioxin đã được không lực Hoa Kỳ rải xuống chiến trường miền Nam trong giai đoạn 1961-1972, trong chiến dịch Ranch Hand.
Dioxin từ chiến tranh đã gây ra những hậu quả nghiêm trọng cho sức khỏe con người và môi trường tại Việt Nam, ảnh hưởng này kéo dài trong nhiều thập kỷ và vẫn tiếp tục trong thế kỷ XXI.
1.1.2 Hiện trạng ô nhiễm dioxin/furan ở Việt Nam và tác hại của chúng đến môi trường sinh thái, con người
Nước ta đã bị ô nhiễm nghiêm trọng bởi một lượng lớn chất diệt cỏ mà Mỹ sử dụng trong chiến tranh Việt Nam từ năm 1961 đến 1972, trong đó có ba loại chất chính, bao gồm chất da cam.
Chất n-butyl 2,4-D và n-butyl 2,4,5-T chiếm 50% mỗi loại, trong khi chất xanh lá cây là n-butyl 2,4,5-T, chất xanh da trời gồm 65% Cacodylic Axit và 35% muối hữu cơ clo, và chất trắng là 4-amino-3,5,6-trichloropicolinic axit Đặc biệt, chất da cam chứa các sản phẩm phụ độc hại như dioxin/furan, được xem là những chất độc tính cao và nguy hiểm nhất mà con người biết đến, hiện vẫn tồn tại trong môi trường đất tại các điểm nóng như Đà Nẵng, Biên Hoà và Phù Cát.
Năm 1997, Tổ chức quốc tế về nghiên cứu ung thƣ (IARC) thuộc WHO đã công bố 2,3,7,8-TCDD là chất gây ung thƣ nhóm 1 Đồng thời, tháng 1 năm 2001,
Hội nghị Độc học Quốc gia Hoa Kỳ đã chuyển dioxin vào nhóm “các chất gây ung
Trong luận văn tốt nghiệp thạc sĩ của Nguyễn Thị Phương – K22, có đề cập đến một nghiên cứu năm 2003 cho thấy không có liều lượng dioxin nào là an toàn, và ngay cả một lượng nhỏ cũng có thể gây ra nguy cơ ung thư Điều này chứng tỏ rằng việc phơi nhiễm dioxin, dù là ở mức tối thiểu, đều tiềm ẩn hiểm họa cho sức khỏe con người.
Dioxin không chỉ liên quan đến ung thư mà còn có thể gây ra nhiều bệnh nguy hiểm khác như bệnh rám da, đái tháo đường, ung thư trực tràng không Hodgkin, thiểu năng sinh dục ở cả nam và nữ, cũng như các vấn đề như sinh con quái thai, thiểu năng trí tuệ và đẻ trứng ở nữ.
Cơ chế phân tử của dioxin ảnh hưởng đến tế bào và cơ thể con người, động vật vẫn còn nhiều tranh cãi Dioxin thường gây độc tế bào thông qua thụ thể AhR, một loại thụ thể chuyên biệt cho các hydrocarbon thơm.
The arylhydrocarbon receptor (AhR) complex interacts with the transport protein ArnT (AhR nuclear translocator) to enter the cell nucleus Within the nucleus, dioxin influences the activation and repression of essential detoxification genes, such as Cyp1A.
Cyp1B có liên quan đến việc dioxin làm tăng nồng độ các gốc ion tự do trong tế bào, dẫn đến sự phá hủy cấu trúc tế bào và các protein quan trọng Hơn nữa, dioxin còn có khả năng gây đột biến trên phân tử ADN.
Trong đánh giá rủi ro và nghiên cứu các vấn đề chính sách tại Hội nghị Quốc tế về dioxin ở Berlin năm 2004, nhóm tác giả đã trình bày những quan điểm quan trọng liên quan đến tác động của dioxin đối với sức khỏe cộng đồng và môi trường.
Cục Môi trường Liên bang Đức khẳng định rằng không có mức phơi nhiễm dioxin nào được coi là an toàn Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) cũng đồng ý với quan điểm này, nhấn mạnh sự nguy hiểm của dioxin đối với sức khỏe con người.
2002 thì mức phơi nhiễm dioxin cho phép qua thức ăn của mỗi người là 1-10 pg đương lượng độc (TEQ)/ngày [5]
Sắc ký khí khối phổ và kỹ thuật ion
1.3.1 Giới thiệu về sắc ký khí khối phổ
Luận văn tốt nghiệp thạc sĩ Nguyễn Thị Phương – K22
Khí hóa mẫu Ion hóa Tách, lọc ion
Sắc ký khí kết hợp với khối phổ (GC-MS) là một phương pháp phân tích hiệu quả và nhạy bén, chủ yếu được áp dụng trong nghiên cứu các thành phần của các chất hữu cơ bay hơi và bán bay hơi GC-MS kết hợp hai kỹ thuật chính: sắc ký khí để tách biệt các hợp chất và khối phổ để xác định cấu trúc và khối lượng của chúng.
Khối phổ hoạt động như một detector đa năng, tương tự như detector ion hóa ngọn lửa (FID), nhưng vượt trội hơn ở khả năng định danh chất bằng cách sử dụng các mảnh phổ đặc trưng Điều này cho phép khối phổ xác định chính xác hơn so với các detector thông thường, chỉ dựa vào chỉ số thời gian lưu Nguyên lý hoạt động của detector khối phổ được minh họa trong hình 1.2.
Phương pháp phổ khối lượng dựa trên việc bắn phá các hợp chất hữu cơ ở thể khí, tạo ra các ion phân tử mang điện tích âm hoặc dương, cũng như các mảnh ion và gốc Quá trình phân mảnh này phụ thuộc vào cấu trúc của chất, phương pháp ion hóa và năng lượng bắn phá.
Detector khối phổ sử dụng nhiều phương pháp ion hóa và tách khối khác nhau, mỗi phương pháp đều có ưu và nhược điểm riêng Theo phân loại phương pháp ion hóa, có các loại như ion hóa hóa học, ion dương (PCI), ion hóa hóa học, ion âm (NCI), ion hóa va chạm điện tử (EI), ion hóa bằng trường điện từ, và ion hóa bằng bắn phá nguyên tử nhanh (FAB).
Hình 1.2 : Sơ đồ nguyên lý của thiết bị Sắc ký khí khối phổ
Luận văn tốt nghiệp thạc sĩ của Nguyễn Thị Phương – K22 tập trung vào các phương pháp tách khối, bao gồm bẫy ion (ion trap), tách khối bằng từ trường dẻ quạt (sector magnetic) và tách khối bằng thời gian bay (time of fly).
Dựa vào các kỹ thuật tách khối có thể chia detector khối phổ thành 2 loại: phân giải cao và phân giải thấp
Có thể kết hợp kỹ thuật ion hóa và kỹ thuật lọc khối để chế tạo các thiết bị đặc trưng, phục vụ cho nhiều ứng dụng trong các lĩnh vực hóa học và sinh học.
Sự kết hợp giữa ion hóa va chạm điện tử và bộ tách khối bằng thanh tứ cực là phương pháp phổ biến nhờ vào thiết bị đơn giản, chất lượng phổ ổn định và độ nhạy cao, đạt đến mức picro gam Hệ thống thư viện phổ chuẩn đơn chất EI/MS đã được xây dựng rộng rãi, cho phép định danh chất mà không cần chất chuẩn, với các thư viện như NIST và Willey chứa hàng trăm nghìn đơn chất.
1.3.2 Các kỹ thuật ion hóa phổ biến
1.3.2.1 Ion hóa hóa học Đây là phương pháp cho dòng phân tử khí trung gian va chạm với dòng ion dương hoặc âm để biến khí trung gian này thành các ion phân tử hay ion mảnh, chính các ion này lại đƣợc sử dụng nhƣ nguồn ion để ion hóa mẫu phân tích ở dạng khí Các khí ion hóa trung gian thường được sử dụng là: NH3, H 2 , CH 4 , C 4 H 10 …
Phương pháp ion hóa hóa học, với năng lượng thấp hơn, chủ yếu tạo ra ion phân tử từ khí phân tích Do đó, phương pháp này thường được sử dụng để xác định khối lượng phân tử của mẫu khí cần phân tích.
1.3.2.2 Ion hóa va chạm electron Đây là phương pháp phổ biến, được áp dụng rộng rãi, sinh ra phổ tương đối ổn định ở mỗi năng lƣợng ion hóa Dòng khí phân tích trong buồng ion hóa bị các electron sinh ra từ sợi đốt chuyển động vuông góc với dòng chuyển động của phân tử khí, phá vỡ cấu trúc của phân tử khí phân tích thành các mảnh ion Các mảnh ion này được chọn lọc theo điện tích (âm hoặc dương) rồi được gia tốc bằng điện trường trước khi vào bộ lọc
Luận văn tốt nghiệp thạc sĩ Nguyễn Thị Phương – K22
Các phân tử khí được ion hóa thông qua va chạm với electron, với năng lượng động học khoảng 70 eV Năng lượng này đủ mạnh để ion hóa các phân tử, dẫn đến phản ứng M + e → M + + 2e, và tạo ra các mảnh vỡ nhỏ hơn từ chúng.
Một thế hiệu dương nhỏ tại đĩa đẩy (repeller plate) hướng ion vào ống phân tích, trong khi một thế nhỏ ở các đĩa hội tụ ion (ion focus plates) giúp tăng tốc độ ion Điều này cho phép các ion có vận tốc cao được đẩy ra khỏi đáy bộ phận và đi vào ống phân tích (Analyser tube), nơi được duy trì ở áp suất chân không cao.
(khoảng 10-5 Pa) để các ion chuyển động qua ống không bị lệch hướng bởi những va chạm với các phân tử khí pha động
Các cation di chuyển trong ống phân tích sẽ bị ảnh hưởng bởi từ trường vuông góc với hướng di chuyển của chúng, giúp hướng các cation đến detector ở cuối ống.
Một khe hở trong detector cho phép chỉ những ion có khối lượng nhỏ xác định tiếp cận, trong khi các phân tử không phù hợp sẽ va chạm với thành ống hoặc bị loại bỏ qua khe thoát ion, do đó không thể đến được detector.
Tại bộ phận thu ion, mỗi cation được trung hòa bởi một electron, và dòng điện cần thiết để trung hòa chùm ion tỷ lệ với số lượng ion đến bộ phận này.
Phổ khối là một đồ thị cho thấy dòng điện nhƣ là một hàm của số khối đƣợc chọn bởi từ trường
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ THỰC NGHIỆM
Thiết bị, vật tƣ, hóa chất
Nghiên cứu sử dụng dãy 17 đồng loại độc thuộc nhóm dioxin/furan nhằm khảo sát các yếu tố ảnh hưởng đến độ nhạy của phương pháp phân tích.
Bảng 2.1: Danh sách 17chất đồng loại độc thuộc nhóm dioxin/furan và nồng độ ban đầu
TT Tên chất thuộc nhóm dioxin/furan Nồng độ ban đầu (pg/l)
Luận văn tốt nghiệp thạc sĩ Nguyễn Thị Phương – K22
Đề tài cũng sử dụng một số hóa chất và vật tư cần thiết để chuẩn bị mẫu phân tích dioxin/furan theo phương pháp EPA 8280b.
- Iso octan (CH 3 ) 3 CCH 2 CH(CH 3 ) 2
- Na 2 SO 4 (tinh thể, khan): Làm sạch bằng cách nung ở 400 0 C trong 4h, hoặc chiết với Dichlor metane Sau khi nung nếu Na 2 SO 4 chuyển thành màu xám
(do sự có mặt của cacbon trong tinh thể nền) thì mẻ Na2SO 4 đó không sử dụng đƣợc
- KOH: chuẩn bị dung dịch 5% trong nước không có chất hữu cơ
- Sulfuric axit, đặc: khối lƣợng riêng 1,84kg/l
2.1.2 Thiết bị và dụng cụ thí nghiệm
Nghiên cứu này sử dụng hệ thiết bị phân tích bao gồm hai phần chính: thiết bị sắc ký và detector khối phổ, mỗi phần có chức năng riêng nhưng liên kết chặt chẽ để tạo thành một hệ thống phân tích hoàn chỉnh Thiết bị sắc ký có nhiệm vụ phân tách các chất riêng biệt từ hỗn hợp mẫu ban đầu, sau đó chuyển chúng đến detector khối phổ để phân tích sâu hơn.
Hệ thống thiết bị sử dụng là máy sắc kí khí phân giải cao/khối phổ phân giải thấp: Agilent GC 6890/MSD 5975 gồm hai bộ phận chính:
Luận văn tốt nghiệp thạc sĩ Nguyễn Thị Phương – K22
Sắc ký khí: Agilent GC 6890, cột DB-5MS, dài 30m, đường kính trong
Detector khối phổ: Agilent MSD 5975, Nguồn EI, CI, sử dụng bộ tách khối bằng thanh tứ cực, detector khối lƣợng EMS có giải điện áp làm việc từ 700V đến
Thiết bị hoạt động ở điện áp 3000V, hỗ trợ chế độ quét toàn dải (SCAN) và giám sát ion đơn (SIM), có thể kết hợp cả hai chế độ này Nó sử dụng thư viện phổ NIST 05 với 163,198 phổ chuẩn EI/MS Bên cạnh đó, thiết bị được trang bị bơm mẫu tự động với thể tích bơm từ 0,2μl đến 10μl và khay chứa mẫu tối đa lên đến 100 mẫu.
Ngoài thiết bị chính trên, một số thiết bị phụ trợ khác đƣợc sử dụng gồm:
- Máy cất quay chân không
- Các loại dụng cụ thủy tinh, micro pipet…
Phương pháp nghiên cứu
2.2.1 Thiết lập điều kiện phân tích sắc ký khí
Các chất dioxin/furan có cấu trúc và số lượng khác nhau, dẫn đến khả năng phân tách khác nhau khi phân tích bằng sắc ký Nghiên cứu trong luận văn này khảo sát các điều kiện phân tích khác nhau cho nhóm chất dioxin/furan Điều kiện làm việc của sắc ký được thiết lập dựa trên phương pháp US-EPA 8280b.
2.2.2 Thiết lập điều kiện làm việc của detector khối phổ
2.2.2.1 Phương pháp chuẩn hóa detector khối phổ với nguồn ion hóa va chạm điện tử (EI)
Tối ưu hóa detector khối phổ sử dụng nguồn ion hóa va chạm điện tử được thực hiện thông qua việc áp dụng ba ion với các số khối khác nhau, bao gồm 69 amu và 219 amu.
502amu là các ion được cung cấp từ chất Perfluorotributylamine cùng với thiết bị đi kèm Quá trình tối ưu hóa bao gồm ba bước chính: hiệu chỉnh số khối với độ sai lệch tiêu chuẩn.
Luận văn tốt nghiệp thạc sĩ của Nguyễn Thị Phương – K22 đề cập đến việc hiệu chỉnh các giá trị quan trọng trong quá trình phân tích Cụ thể, độ rộng nửa chân pic được điều chỉnh về khoảng 0,6 ± 0,1 và điện thế cấp cho detector khối lượng được tối ưu hóa để đạt được chiều cao tín hiệu tối đa trên nền nhiễu Quá trình hiệu chỉnh này có thể thực hiện thủ công hoặc tự động, và các thông số đã được lưu trữ để sử dụng trong suốt quá trình phân tích.
Trong luận văn này, tác giả sử dụng chức năng tự động chuẩn hóa có sẵn trong thiết bị để chuẩn hóa detector khối phổ ở chế độ EI
2.2.2.2 Phương pháp chuẩn hóa detector khối phổ với nguồn ion hóa hóa học, ion âm
Tối ưu hóa detector khối phổ với NCI cần thực hiện 3 bước:
- Bước 1: Tối ưu hóa tự động detector khối phổ với nguồn ion hóa va chạm điện tử
EI đã đƣợc đề cập ở phần 2.2.2.1
Bước 2: Thay thế nguồn ion va chạm điện tử EI bằng nguồn ion hóa hóa học CI, sử dụng metan làm tác nhân ion hóa trung gian Để đảm bảo máy hoạt động ổn định, cần để máy trong 8 giờ và thực hiện chuẩn hóa bán tự động ở chế độ ion hóa hóa học (PCI) Quá trình này bao gồm tối ưu hóa lưu lượng khí metan và tối ưu hóa detector khối phổ ở chế độ PCI Nếu sử dụng khí ion hóa trung gian khác, cần tối ưu hóa với metan trước, sau đó chọn khí mới và thực hiện lại bước 2.
Để tối ưu hóa detector khối phổ với chế độ ion hóa hóa học và ion âm, người dùng cần thực hiện các bước thủ công do tính chất phức tạp của NCI Cụ thể, máy phải được chuyển sang chế độ ion âm, sau đó điều chỉnh điện thế cấp với detector khối lượng EMV Trong nghiên cứu này, 2,3,7,8-TCDF được chọn làm mẫu chuẩn hóa để thu thập giá trị tín hiệu/nhiễu, từ đó xác định giá trị EMV với tỷ lệ tín hiệu/nhiễu (S/N) cao nhất.
2.2.3 Tối ƣu hóa các điều kiện phân tích với GC-MS/NCI
2.2.3.1 Xác định tác nhân ion hóa trung gian tối ƣu
Quá trình nghiên cứu, khảo sát đƣợc thực hiện trên cơ sở thử nghiệm 3 loại
Luận văn tốt nghiệp thạc sĩ của Nguyễn Thị Phương – K22 đề cập đến việc thiết lập nguồn ion ở chế độ mặc định với NCI là 150°C Nhiệt độ của thanh tứ cực được đặt ở mức 100°C, trong khi áp suất buồng ion phụ thuộc vào lưu lượng khí ion hóa trung gian Giá trị này được lựa chọn từ bước 2 trong quá trình tối ưu hóa detector khối phổ với chế độ PCI.
Nghiên cứu này tập trung vào việc lựa chọn khí tối ưu làm tác nhân ion hóa trung gian cho phân tích các chất dioxin/furan Ba loại khí được thử nghiệm và phân tích dãy chuẩn tương ứng với từng loại khí, từ đó so sánh diện tích pic của các chất thu được nhằm tìm ra khí có độ nhạy tốt nhất Trước khi tiến hành phân tích dãy chuẩn, việc chuẩn hóa detector khối phổ với từng loại khí là cần thiết để đảm bảo thiết bị hoạt động hiệu quả nhất.
2.2.3.2 Xác định lưu lượng khí tác nhân ion hóa tối ưu Áp suất trong buồng ion gây ảnh hưởng rất lớn đến quá trình ion hóa hóa học mẫu chất phân tích Nhưng áp suất này lại phụ thuộc rất lớn vào lưu lượng khí làm tác nhân ion hóa trung gian Do đó, tiến hành thay đổi lưu lượng khí này để khảo sát, lựa chọn lưu lượng khí tối ưu để tại đó detector khối phổ đạt độ nhạy cao nhất đối với các chất nghiên cứu
Phương pháp tiến hành chuẩn hóa detector khối phổ ở chế độ NCI được thực hiện với khí ion hóa trung gian tối ưu, đã được xác định từ nghiên cứu trước Nhiệt độ nguồn ion được đặt ở mức mặc định 150°C Phân tích lần lượt ba dãy chuẩn với các lưu lượng khí ion hóa khác nhau, từ 10 đến 70% Mỗi dãy chuẩn được phân tích ba lần trong cùng điều kiện, diện tích pic trung bình của từng chất trong dãy được thu thập và so sánh Từ đó, lựa chọn giá trị lưu lượng khí mà tại đó diện tích pic của hầu hết các chất đạt cực đại.
2.2.3.3 Xác định nhiệt độ tối ƣu của nguồn ion
Quá trình nghiên cứu khảo sát lưu lượng khí ion hóa trung gian đã được tiến hành, trong đó tối ưu hóa detector khối phổ ở chế độ NCI với khí tác nhân ion hóa được thực hiện Giá trị lưu lượng tối ưu đã được lựa chọn từ các kết quả nghiên cứu trước Nghiên cứu cũng đã thay đổi nhiệt độ buồng ion trong khoảng từ 120 o C đến 220 o C để đánh giá ảnh hưởng đến hiệu suất.
Luận văn tốt nghiệp thạc sĩ Nguyễn Thị Phương – K22
So sánh giá trị diện tích pic của từng chất tại các nhiệt độ khác nhau trong buồng ion giúp xác định nhiệt độ tối ưu, dựa trên diện tích pic lớn nhất tương ứng với độ nhạy cao nhất của detector.
2.2.4 Đánh giá hiệu suất thu hồi của quá trình xử lý mẫu
2.2.4.1 Tóm tắt quy trình xử lý mẫu phân tích các chất dioxin/furan
Phương pháp phân tích EPA 8280b cung cấp hướng dẫn chi tiết về quy trình xác định hàm lượng dioxin/furan trong mẫu đất, nước và trầm tích bằng máy sắc ký khí khối phổ phân giải thấp với nguồn ion hóa va chạm điện tử Quy trình xử lý mẫu đất và mẫu trầm tích bao gồm các bước cụ thể để đảm bảo độ chính xác và tin cậy của kết quả phân tích.
- Cân 30g mẫu, thêm nội chuẩn
- Chiết soxhlet với 250ml toluen trong 24 giờ với tốc độ hồi lưu của dung môi là 6-8 lần/giờ
- Cô cạn dịch chiết để chuyển sang dung môi n-hexan
- Rửa dịch chiết bằng axit và bazơ sau đó chiết tách loại bỏ axit, bazơ
- Cho qua cột silicagel đa lớp để loại bỏ các chất gây ảnh hưởng, thu dung dịch rửa giải cần thiết
- Tiếp tục cho qua cột than 2 lớp, sử dụng dung môi toluen để rửa giải các chất dioxin/furan ra khỏi cột than 2 lớp
- Dung dịch rửa giải đƣợc bổ sung thêm 100l n-Nonan và cô đặc còn 100l, và phân tích trên máy
2.2.4.2 Khảo sát thời gian chiết cần thiết của quá trình chiết soxhlet
Tiến hành chiết hai mẫu đất (30g/mẫu) với nồng độ khác nhau: một mẫu có nồng độ rất lớn (khoảng 2.000.000 ppt) và một mẫu có nồng độ khoảng 1.000 ppt Sử dụng máy chiết Soxhlet, chiết hai mẫu này bằng dung môi toluene (250ml/mẫu) trong 24 giờ, với thời gian hồi lưu từ 6 đến 8 lần mỗi giờ Sau đó, thu dịch chiết và tiếp tục chiết thêm 24 giờ nữa bằng dung môi toluene khác Sau tổng cộng 48 giờ chiết, thu được dịch chiết và tiến hành cô đặc.
1ml và tiến hành phân tích trên máy ở chế độ SIM
Luận văn tốt nghiệp thạc sĩ Nguyễn Thị Phương – K22
Chọn một lượng chất chuẩn với nồng độ 100 pg/μl 2,3,7,8-TCDD, sau đó đưa qua cột đa lớp Tiến hành thu hồi dung dịch qua cột và thực hiện quá trình rửa giải để lấy lại phần nhỏ.