Tình hình nghiên cứu đề tài
Đến nay, nhiều công trình khoa học tại Việt Nam đã nghiên cứu về quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh, tuy nhiên phần lớn chỉ tiếp cận vấn đề từ các khía cạnh pháp lý khác nhau.
Lê Quang Mạnh trong luận án Tiến sĩ năm 2011 đã chỉ ra vai trò quan trọng của Nhà nước trong phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Việt Nam Nghiên cứu tổng hợp các mô hình can thiệp của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường, nhấn mạnh việc tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi, thực hiện chức năng điều chỉnh cơ cấu và tạo ra nhiều cơ hội kinh doanh, cũng như động lực đầu tư cho các doanh nghiệp này.
Doanh nghiệp nhỏ và vừa (DN nhỏ và vừa) cần được hỗ trợ để vượt qua các khó khăn nội tại Nghiên cứu đề xuất năm quan điểm nền tảng và bốn nhóm giải pháp cụ thể, trong đó khuyến nghị chính là Nhà nước nên tập trung vào việc tạo dựng và duy trì môi trường kinh doanh thuận lợi cho tất cả các loại hình doanh nghiệp Đồng thời, cần thúc đẩy tính chất kinh tế thị trường bằng cách khuyến khích phát triển các thị trường yếu tố sản xuất, dịch vụ hỗ trợ kinh doanh và thị trường sản phẩm Việc này sẽ hiệu quả hơn nếu để thị trường đảm nhiệm thay vì cung cấp trực tiếp dịch vụ hỗ trợ cho DN nhỏ và vừa.
Nguyễn Hoàng trong Luận án Tiến sĩ Kinh tế (2013) đã nghiên cứu về việc hoàn thiện quản lý nhà nước đối với thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam Luận án áp dụng các lý thuyết thuế cổ điển và hiện đại để phân tích quá trình phát triển hệ thống thuế tại Việt Nam, đồng thời khảo sát và đánh giá những tồn tại trong hệ thống này.
Bài viết đề cập đến bốn thống thuế và ảnh hưởng của chính sách cũng như thái độ chấp hành pháp luật của người nộp thuế đối với cơ quan thuế Luận án khuyến nghị lộ trình cải cách chính sách thuế thu nhập cá nhân, nhằm tăng cường quản lý thu nhập của người nộp thuế Đề xuất cũng nhấn mạnh việc ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý thuế, thúc đẩy nhanh tiến độ áp dụng nộp thuế điện tử, và hợp nhất hệ thống cơ sở dữ liệu giữa các cơ quan quản lý nhà nước.
Trần Thị Tố Linh trong luận án Tiến sĩ Kinh tế chính trị (2013) đã nghiên cứu về việc huy động nguồn lực tài chính từ kinh tế tư nhân để phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam Nghiên cứu này tổng kết và làm rõ lý luận về nguồn lực tài chính từ kinh tế tư nhân, cũng như mối quan hệ giữa nguồn lực này và sự phát triển kinh tế xã hội Bên cạnh đó, nghiên cứu phân tích tiềm năng và thực trạng huy động nguồn lực tài chính từ kinh tế tư nhân, đánh giá các yếu tố ảnh hưởng, chỉ ra hạn chế và nguyên nhân của chúng Cuối cùng, tác giả đề xuất phương hướng và giải pháp để huy động hiệu quả nguồn lực tài chính từ khu vực kinh tế tư nhân nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội Việt Nam trong tương lai.
Nguyễn Thị Ngân trong Luận án Tiến sĩ Quản lý công (2016) đã chỉ ra sự phát triển mạnh mẽ của doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNVV) ở Việt Nam, không chỉ về số lượng mà còn về chất lượng, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước Công tác quản lý nhà nước đối với DNVV đã được đổi mới, khắc phục nhiều yếu kém, đặc biệt trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam mở cửa và hội nhập Tuy nhiên, để tạo ra môi trường đầu tư kinh doanh bình đẳng, minh bạch và thông thoáng, cần thiết phải tiếp tục cải cách công tác quản lý nhà nước Để nâng cao hiệu quả quản lý đối với sự phát triển của DNVV, việc nhận diện các tồn tại và tìm ra nguyên nhân chính là rất quan trọng.
Luận án Tiến sĩ kinh tế của Chu Thanh Hải (2016) tập trung vào việc đổi mới quản lý nhà nước nhằm phát triển kinh tế tư nhân trong lĩnh vực thương mại Nghiên cứu hệ thống hóa và bổ sung lý luận về quản lý nhà nước, làm rõ các khái niệm và vai trò của quản lý trong việc thúc đẩy kinh tế tư nhân Luận án cũng phân tích và đánh giá toàn diện kết quả đạt được, các hạn chế và nguyên nhân trong quản lý nhà nước tại tỉnh Phú Thọ, đồng thời đề xuất những quan điểm và giải pháp nhằm cải thiện quản lý nhà nước trong lĩnh vực này Bảy nhóm giải pháp mới và có giá trị ứng dụng được đưa ra nhằm giải quyết các vấn đề cấp bách và lâu dài, phù hợp với đặc thù của tỉnh Phú Thọ, đồng thời cung cấp tài liệu tham khảo cho việc quản lý nhà nước trong phát triển kinh tế tư nhân.
Luận án Tiến sĩ kinh tế của Nguyễn Thị Hồng Nhâm (2019) nghiên cứu các yếu tố tác động đến khả năng tiếp cận tài chính của doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Việt Nam Nghiên cứu làm rõ sự khác biệt giữa nhu cầu tiếp cận tài chính chính thức từ tín dụng ngân hàng và khả năng tiếp cận nguồn tài chính từ ngân hàng thương mại Đồng thời, luận án đánh giá nhu cầu tiếp cận cả hai nguồn tài chính chính thức và phi chính thức của các doanh nghiệp này Kết quả phân tích chỉ ra các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận tài chính, đồng thời đưa ra khuyến nghị chính sách cho các cơ quan Nhà nước nhằm rà soát và loại bỏ những quy định cản trở.
Để tạo môi trường kinh doanh bình đẳng, cần cải cách thủ tục hành chính và chính sách thuế Ngân hàng thương mại nên phát triển mạnh mẽ phương thức thanh toán không dùng tiền mặt cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ nhằm giảm thiểu tình trạng bất cân xứng thông tin và đơn giản hóa các thủ tục Bên cạnh đó, việc mở rộng hình thức cho vay tín chấp và triển khai bao thanh toán cũng rất quan trọng Đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, việc cải thiện năng lực quản lý, kinh doanh và tăng cường tính minh bạch trong hoạt động tài chính là cần thiết.
2.7 Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam (2015), Nhìn lại việc phân định các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt
Bài viết tóm lược lý luận của V.I Lênin về việc phân định các thành phần kinh tế trong giai đoạn quá độ từ một nước tiểu nông lên chủ nghĩa xã hội Đồng thời, nó cũng phân tích cách mà Đảng Cộng sản Việt Nam đã áp dụng những lý thuyết này trong việc xác định các thành phần kinh tế trong quá trình phát triển lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
2.8 Trịnh Đức Chiều, Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương
Kinh tế hộ gia đình (HKD) đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam, theo tác giả vào năm 2019 Nhận thức rõ vai trò của HKD trong quá trình đổi mới và phát triển đất nước, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương và chính sách nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của khu vực này.
TS Ngô Huy Cương trong bài viết của mình trên Tạp chí Khoa học ĐHQGHN (2009) đã phân tích pháp luật về hình thức kinh doanh đặc biệt là HKD tại Việt Nam, chỉ ra những bất cập hiện có HKD không chỉ phản ánh đặc thù của hệ thống tổ chức kinh doanh mà còn chịu ảnh hưởng từ lịch sử và sự can thiệp của Nhà nước Mặc dù HKD được chia thành ba dạng khác nhau, nhưng pháp luật Việt Nam chưa thực sự phân tích bản chất pháp lý của từng dạng, dẫn đến sự thiếu hụt trong các giải pháp pháp lý để giải quyết các tranh chấp liên quan.
Bài viết này phân tích những bất cập trong việc điều tiết các mối quan hệ liên quan đến hành vi kinh doanh, nhằm tìm ra những điểm yếu của pháp luật về hoạt động kinh doanh.
Bài viết của TS Hoàng Xuân Nghĩa và TS Nguyễn Văn Hưởng trong Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 11(2019) đề cập đến việc chính thức hóa hộ kinh doanh (HKD) ở Việt Nam, nhấn mạnh rằng HKD là một khái niệm đặc thù, có tính lịch sử và đang trong quá trình chuyển tiếp Hiện nay, HKD đang bộc lộ nhiều bất cập và mâu thuẫn với yêu cầu phát triển thể chế kinh tế thị trường hiện đại cũng như môi trường kinh doanh công bằng và minh bạch Do đó, việc chính thức hóa HKD trở nên cấp bách và cần thiết phải có những giải pháp đồng bộ từ tư duy lý luận, lập pháp đến hoạt động thực tiễn.
Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
- Mục đích : xây dựng các giải pháp quản lý nhà nước đối với HKD trên địa bàn Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh một cách hiệu quả nhất
+ Hệ thống hóa cơ sở lý luận, pháp lý để hình thành khung lý thuyết về QLNN đối với HKD
+ Tiến hành việc đánh giá thực trạng quản lý nhà nước đối với HKD tại Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh
+ Đề xuất các giải pháp quản lý nhà nước đối với HKD tại Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh
4 Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đề tài nghiên cứu này tập trung vào việc phân tích Quản lý nhà nước đối với hộ kinh doanh (HKD) tại Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh Cụ thể, nghiên cứu sẽ xem xét các chính sách, phương pháp và cách thức quản lý hiện hành nhằm nâng cao hiệu quả quản lý đối với HKD trong khu vực này.
+ Nội dung: Quản lý nhà nước đối với HKD
+ Không gian: tại Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh
+ Thời gian: giai đoạn 2015 – 2019, phương hướng thực hiện giai đoạn 2020 - 2025
5 Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Phương pháp thống kê mô tả được sử dụng để mô tả các hoạt động và chỉ tiêu phản ánh thực trạng tại địa phương nghiên cứu Phương pháp này giúp đánh giá mức độ của các hoạt động cần nghiên cứu, từ đó làm căn cứ phát hiện xu hướng và nguyên nhân của các vấn đề phát sinh Mục tiêu cuối cùng là giải quyết các vấn đề để đạt được mục đích nghiên cứu.
Phương pháp so sánh là công cụ quan trọng trong việc phân tích thực tế đạt được so với chỉ tiêu kế hoạch hoặc yêu cầu thực tế Đặc biệt, việc so sánh tỷ lệ phát triển số lượng hộ kinh doanh (HKD) và doanh nghiệp (DN) tại Quận 1, cũng như toàn thành phố Hồ Chí Minh, giúp đánh giá hiệu quả phát triển kinh tế trong khu vực.
Phương pháp điều tra khảo sát được thực hiện bằng cách lấy thông tin trực tiếp từ các hộ kinh doanh (HKD) tại Quận 1 nhằm phân tích và thống kê mô tả, từ đó đánh giá hiệu quả công tác quản lý nhà nước đối với HKD Đối tượng khảo sát là HKD, với các tiêu chí như chính sách hỗ trợ, đội ngũ cán bộ, công chức, công tác kiểm tra sau đăng ký kinh doanh, thủ tục hành chính và quản lý nghĩa vụ thuế Tác giả đã phát 150 phiếu khảo sát và thu về 115 phiếu.
Phương pháp phân tích tổng hợp được áp dụng trong nghiên cứu để phân tích các nội dung và vấn đề trọng tâm, từ đó đánh giá kết quả thực hiện chỉ tiêu hàng năm Qua đó, phương pháp này giúp đưa ra những nhận định và kết luận phù hợp.
6 Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn này hệ thống hóa các vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến công tác quản lý nhà nước đối với hộ kinh doanh (HKD) Nó nhấn mạnh vị trí và vai trò quan trọng của quản lý nhà nước trong việc điều tiết HKD trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay tại Việt Nam.
Bài viết này đánh giá thực trạng công tác quản lý nhà nước đối với hộ kinh doanh (HKD) tại Quận 1, thành phố Hồ Chí Minh, đồng thời nêu rõ những ưu điểm và hạn chế trong công tác này Dựa trên những phân tích thực tiễn, bài viết cũng đề xuất các giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng quản lý nhà nước về HKD tại khu vực này.
7 Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các tài liệu tham khảo và phụ lục nội dung cụ thể luận văn được chia làm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở khoa học về quản lý nhà nước đối với hộ kinh doanh
Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước đối với hộ kinh doanh tại Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh
Chương 3: Phương hướng và các giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước đối với hộ kinh doanh tại Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn
2020 – 2025 và định hướng đến năm 2030
CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HỘ KINH DOANH 1.1 Những vấn đề chung nhất về hộ kinh doanh
1.1.1 Khái niệm hộ kinh doanh
Hiện nay, có nhiều phương pháp tiếp cận khác nhau về hoạt động kinh doanh, khiến việc định nghĩa rõ ràng về nó trở nên khó khăn Do đó, không thể khẳng định rằng hoạt động kinh doanh chỉ mang bản chất là cá nhân kinh doanh hay thương nhân đơn lẻ.
Theo quy định tại Khoản 1 và Khoản 3 Điều 66 của Nghị định số 78/2015/NĐ-CP ngày 14 tháng 9 năm 2015 của Chính phủ về đăng ký DN thì HKD được định nghĩa:
Hộ kinh doanh là hình thức kinh doanh do cá nhân hoặc nhóm công dân Việt Nam từ 18 tuổi trở lên, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, hoặc một hộ gia đình làm chủ Hình thức này chỉ được đăng ký tại một địa điểm, sử dụng dưới mười lao động và chủ hộ chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình cho các hoạt động kinh doanh.
3 Hộ kinh doanh có sử dụng từ mười lao động trở lên phải đăng ký thành lập DN theo quy định” [6, tr.53]
Theo quy định hiện hành, hộ kinh doanh (HKD) không chỉ là cá nhân mà còn có thể là nhóm người hợp tác cùng nhau trong hoạt động sản xuất kinh doanh Do đó, khi giải quyết tranh chấp liên quan đến HKD, cần xem xét nguồn gốc hình thành HKD là từ cá nhân, hộ gia đình hay nhóm người để đưa ra giải pháp phù hợp.
Nghiên cứu về hộ kinh doanh (HKD) cần so sánh với doanh nghiệp tư nhân (DN tư nhân) Theo Nghị định số 66-HĐBT ngày 02 tháng 3 năm 1992, quy định về cá nhân và nhóm kinh doanh có vốn thấp hơn mức vốn pháp định trong Nghị định số 221-HĐBT ngày 23 tháng.
Theo quy định tại "07 năm 1991", các chủ thể kinh doanh có vốn thấp hơn mức vốn pháp định được hiểu là những doanh nghiệp tư nhân không đáp ứng đủ yêu cầu vốn tối thiểu trong cùng ngành nghề Luật Doanh nghiệp mới đã thay đổi đáng kể về điều kiện vốn pháp định, chỉ yêu cầu doanh nghiệp tư nhân và công ty trong một số ngành nghề nhất định phải tuân thủ Sự thay đổi này đã làm thay đổi quan niệm về cá nhân và nhóm kinh doanh, khiến vốn pháp định không còn là tiêu chí phân biệt giữa cá nhân, nhóm kinh doanh và doanh nghiệp tư nhân trong tất cả các lĩnh vực như trước đây.
Theo Khoản 4 Điều 170 Luật DN năm 2005, quy định:
“Hộ kinh doanh sử dụng thường xuyên từ 10 (mười) lao động trở lên phải đăng ký thành lập DN hoạt động theo quy định của Luật này
Hộ kinh doanh (HKD) là hình thức kinh doanh quy mô nhỏ, thực hiện đăng ký kinh doanh theo quy định của Chính phủ Luật Doanh nghiệp năm 2014 tiếp tục khẳng định nội dung này tại Khoản 2 Điều 212, cho thấy HKD mang bản chất của doanh nghiệp nhưng hoạt động với quy mô nhỏ, tương tự như doanh nghiệp nhỏ Đặc biệt, doanh nghiệp siêu nhỏ được coi là một loại hình của HKD nhỏ, với số lượng lao động dưới 10 người.
Các quy định pháp luật hiện hành không công nhận "tư cách hộ kinh doanh" cho hộ kinh doanh cá thể, dẫn đến việc hạn chế thẩm quyền và địa vị pháp lý của họ so với doanh nghiệp Điều này ảnh hưởng đến khả năng lựa chọn ngành nghề, ký kết hợp đồng kinh tế và tham gia vào quan hệ đầu tư trực tiếp nước ngoài.
HKD là thuật ngữ đa nghĩa, theo Điều 132 Bộ luật Dân sự Nga năm 1994, HKD được định nghĩa là tổ hợp tài sản phục vụ cho các hoạt động thương mại nhất định Các nước theo hệ thống Civil Law cũng có quan điểm tương tự về HKD.