Cơ sở lý luận và thực tiễn
Cơ sở lý luận về huy động và sử dụng nguồn lực tài chính cho xây dựng nông thôn mới
2.1.1.1 Khái niệm về nông thôn mới
Theo Văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 10, nông thôn mới là mô hình nông thôn hiện đại với kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội phát triển, gắn kết nông nghiệp với công nghiệp, dịch vụ và đô thị Mô hình này đảm bảo xã hội nông thôn ổn định, giàu bản sắc văn hóa, nâng cao dân trí và bảo vệ môi trường sinh thái Xây dựng nông thôn mới bao gồm các chương trình phát triển nhằm tối ưu hóa nguồn lực và tài chính, tạo ra sản phẩm dịch vụ đáp ứng mục tiêu kinh tế, xã hội và môi trường bền vững.
- Được xây dựng trên đơn vị cơ bản là cấp làng - xã
- Vai trò của người dân được nâng cao, nêu cao tính tự chủ của nông dân
Người dân cần chủ động xây dựng kế hoạch phát triển nông thôn, khuyến khích sự tham gia tích cực của tất cả các thành viên trong cộng đồng để đạt được mục tiêu đề ra một cách hiệu quả.
- Việc thực hiện kế hoạch dựa trên nền tảng huy động nguồn lực của bản thân người dân, thay cho việc hỗ trợ từ bên ngoài
- Nguồn vốn từ bên ngoài được phân bổ và quản lý sử dụng có hiệu quả (Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX, 2005)
2.1.1.2 Khái niệm về nguồn lực tài chính và huy động nguồn lực tài chính a Nguồn lực tài chính
Tài chính là quá trình vận động của vốn tiền tệ trong xã hội, phản ánh các mối quan hệ kinh tế liên quan đến phân phối nguồn tài chính Nó bao gồm việc tạo lập và sử dụng quỹ tiền tệ để đáp ứng nhu cầu đa dạng của các chủ thể Nguồn lực tài chính bao gồm ngân sách nhà nước, ngân sách địa phương, tổ chức tín dụng, hộ gia đình, doanh nghiệp, tổ chức xã hội và bảo hiểm Huy động nguồn lực tài chính là một yếu tố quan trọng trong việc phát triển kinh tế.
Huy động nguồn lực tài chính là quá trình tối ưu hóa các nguồn lực tài chính nhằm phục vụ mục tiêu phát triển, đặc biệt trong việc xây dựng mô hình nông thôn mới Các biện pháp huy động bao gồm lập kế hoạch tài chính cho xây dựng nông thôn mới, tăng cường đề nghị hỗ trợ từ ngân sách Nhà nước, và nâng cao nhận thức của người dân về tầm quan trọng của việc này Bên cạnh đó, việc vận động người dân địa phương tham gia đóng góp tài chính và huy động sự hỗ trợ từ các doanh nghiệp cũng rất cần thiết Để đạt hiệu quả, các cơ quan nhà nước, tổ chức tín dụng và các tổ chức kinh tế cần triển khai đồng bộ nhiều biện pháp và hình thức khác nhau.
2.1.2 Nguồn, các hình thức huy động nguồn lực tài chính cho xây dựng nông thôn mới
Huy động nguồn lực tài chính xây dựng nông thôn mới được tập trung một số nguồn chính sau a Huy động từ ngân sách Nhà nước
Nhu cầu tài chính cho việc thực hiện các tiêu chí xây dựng nông thôn mới, đặc biệt là trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng, là rất lớn Theo Ban chỉ đạo chương trình thí điểm xây dựng nông thôn mới trung ương, ngân sách Nhà nước vẫn là nguồn lực chủ yếu cho việc triển khai Quyết định số 695/QĐ-TTg ngày 08/6/2012 đã đưa ra những nguyên tắc hỗ trợ vốn cho chương trình quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010-2020, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc huy động nguồn lực tài chính để đạt được các tiêu chí đề ra.
Nhà nước sẽ hỗ trợ 100% ngân sách cho tất cả các xã trong việc quy hoạch và xây dựng trụ sở, cũng như cung cấp kinh phí cho đào tạo kiến thức xây dựng nông thôn mới cho cán bộ xã, thôn bản và hợp tác xã.
Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững theo Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP của Chính phủ cung cấp tối đa 100% ngân sách Nhà nước cho các xã nghèo, nhằm xây dựng cơ sở hạ tầng như đường giao thông, trường học, trạm y tế, nhà văn hóa và công trình cấp nước sinh hoạt Đối với các xã khác, ngân sách Nhà nước sẽ hỗ trợ một phần cho các dự án tương tự Hội đồng nhân dân cấp tỉnh sẽ quyết định mức hỗ trợ cụ thể, đảm bảo phù hợp với nhu cầu và thực tế của từng địa phương Đồng thời, việc huy động nguồn lực từ cộng đồng cũng là một yếu tố quan trọng trong quá trình phát triển.
Nguồn vốn từ cộng đồng bao gồm đóng góp từ dân cư, các khoản tài trợ tự nguyện và hỗ trợ từ các tổ chức phi chính phủ, cá nhân trong và ngoài nước Vai trò của nguồn vốn cộng đồng rất quan trọng, thể hiện sự hỗ trợ và phát triển bền vững cho các dự án và hoạt động xã hội.
- Nguồn vốn cộng đồng hợp lực cùng với nguồn vốn ngân sách Nhà nước cho xây dựng nông thôn mới
Đầu tư xây dựng nông thôn mới đòi hỏi một nguồn vốn lớn, vì vậy việc chỉ dựa vào ngân sách Nhà nước sẽ không đủ để đáp ứng nhu cầu.
Việc huy động nguồn vốn từ cộng đồng là rất quan trọng để tiếp tục xây dựng các hạng mục cơ sở hạ tầng còn lại Nguồn vốn này sẽ được sử dụng cho hệ thống đường giao thông liên thôn, đường làng ngõ xóm, kênh mương, thủy lợi nội đồng, nhà văn hóa thôn, chợ thôn, cũng như hệ thống xử lý chất thải và bảo vệ môi trường tại các thôn, bản.
- Nguồn vốn cộng đồng góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả đầu tư ở nông thôn
Hiệu quả sử dụng nguồn vốn trong đầu tư xây dựng nông thôn mới thường cao hơn nguồn vốn NSNN, nhờ vào sự rõ ràng về chủ thể và khả năng quản lý chặt chẽ các yêu cầu tài chính công như công khai minh bạch, trách nhiệm giải trình, sự tham gia và tính dự báo Nguồn vốn này thường được đầu tư cho các hạng mục mang lại lợi ích cho cộng đồng dân cư nông thôn, do đó, việc gia tăng tỷ lệ nguồn vốn này trong đầu tư xây dựng nông thôn mới sẽ nâng cao chất lượng dự án.
- Việc khai thác nguồn vốn nay góp phần làm tăng tính chủ động, tích cực của cộng đồng dân cư nông thôn
Xây dựng nông thôn mới tập trung vào người dân nông thôn, bao gồm các hộ gia đình, doanh nghiệp và cộng đồng cư dân Việc huy động nguồn vốn từ cộng đồng là yếu tố quan trọng để nâng cao tính chủ động của các chủ thể trong quá trình xây dựng nông thôn mới Điều này không chỉ tạo ra sức mạnh tổng hợp mà còn góp phần vào sự thành công của chương trình Huy động vốn từ các doanh nghiệp địa phương cũng là một giải pháp thiết thực để hỗ trợ phát triển nông thôn.
Các doanh nghiệp hoạt động tại nông thôn đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng hạ tầng kinh tế - xã hội hiện đại và thúc đẩy sự phát triển của nông nghiệp gắn liền với công nghiệp, dịch vụ và đô thị Để đạt được mục tiêu này, cần thực hiện chính sách đổi mới và cơ chế cởi mở nhằm thu hút đầu tư tài chính từ các doanh nghiệp địa phương Việc đầu tư vào hạ tầng nông thôn không chỉ giúp mở rộng quy mô doanh nghiệp mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất và tiêu thụ sản phẩm Huy động vốn từ tín dụng cũng là một yếu tố cần thiết để hỗ trợ quá trình này.
Vốn tín dụng đóng vai trò quan trọng trong xây dựng nông thôn mới (NTM), theo cơ cấu vốn quy định tại Quyết định 800/QĐ-TTg ngày 04/06/2010 của Thủ tướng Chính phủ Cụ thể, cơ cấu vốn gồm 40% từ ngân sách Nhà nước, 30% từ tín dụng, 20% từ doanh nghiệp và 10% từ cộng đồng Vốn tín dụng chiếm 30% tổng vốn, đứng thứ hai sau ngân sách Nhà nước phân bổ vốn tín dụng cho các tỉnh, thành phố để đầu tư vào các dự án như kiên cố hóa kênh mương, phát triển giao thông nông thôn và cơ sở hạ tầng nông thôn theo Nghị định 106/2008/NĐ-CP.
Vốn tín dụng thương mại được quy định tại Nghị định 41/2010/NĐ-CP ngày 12 tháng 4 năm 2010 của Chính phủ, nhằm hỗ trợ chính sách tín dụng cho nông nghiệp và nông thôn, cùng với Thông tư số 14/2010/TT–NHNN ngày 14 tháng 6 năm 2010 của Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn thực hiện nghị định này.
Cơ sở thực tiễn
2.2.1 Kinh nghiệm huy động và sử dụng nguồn lực tài chính cho phát triển nông thôn ở một số nước trên thế giới
Từ năm 1979, phong trào 'Mỗi làng, một sản phẩm' (OVOP) đã được phát triển tại tỉnh Oi-ta, Nhật Bản, nhằm thúc đẩy sự phát triển nông thôn tương xứng với sự phát triển chung của cả nước Tiến sĩ Mo-ri-hi-kô Hi-ra-mát-su, người khởi xướng phong trào OVOP, đã nhấn mạnh ba nguyên tắc chính: địa phương hóa hướng tới toàn cầu, tự chủ và phát triển nguồn nhân lực Vai trò của chính quyền địa phương rất quan trọng trong việc hỗ trợ kỹ thuật, quảng bá và tiêu thụ sản phẩm Những kinh nghiệm từ việc xây dựng thương hiệu đặc sản nổi tiếng của Nhật Bản như nấm hương khô, rượu Sochu lúa mạch và chanh Kabosu đã mang lại những bài học quý giá từ cả thành công và thất bại Người dân sản xuất và chế biến sản phẩm của mình, tự mình bán mà không cần qua thương lái.
Phong trào OVOP "Mỗi làng, một sản phẩm" của Nhật Bản đã mang lại lợi ích trực tiếp cho người dân, giúp họ hưởng trọn thành quả mà không cần chia sẻ lợi nhuận qua trung gian Từ năm 1979 đến 1999, phong trào này đã tạo ra 329 sản phẩm đơn giản nhưng chất lượng cao như nấm, cam, cá khô, chè và măng tre, với giá bán rất cạnh tranh.
Phong trào “Mỗi làng một sản phẩm” đã mang lại nhiều kinh nghiệm quý báu, được đúc rút bởi các nhà sáng lập và nghiên cứu, nhằm hỗ trợ ngày càng nhiều người, khu vực và quốc gia áp dụng trong chiến lược phát triển nông thôn Đặc biệt, phong trào này đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển nông thôn trong bối cảnh công nghiệp hóa đất nước (Lê Thị Phương Liên, 2015).
Việc huy động tài chính cho xây dựng nông thôn mới tại Trung Quốc rất đa dạng, chủ yếu thông qua cơ chế chính sách Nhà nước tập trung hỗ trợ tín dụng ưu đãi cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở khu vực nông thôn, đặc biệt là về thủ tục vay và lãi suất, nhưng chủ yếu tập trung vào các doanh nghiệp nòng cốt Hỗ trợ được thực hiện theo mô hình tín dụng nhỏ, như mô hình Grameen Bank, nhằm giúp các vùng khó khăn Ngoài ra, Nhà nước khuyến khích các địa phương phát triển quỹ phát triển xã hội và giữ lại lãi suất để sử dụng tại địa phương Các ngân hàng tư nhân và hộ kinh doanh cũng được khuyến khích phát triển tín dụng, trong khi cá nhân có hơn 100.000 nhân dân tệ được cấp phép kinh doanh tín dụng mà không được huy động vốn, nhằm chính thức hóa hoạt động tiền tệ và giảm tình trạng cho vay nặng lãi trong nông thôn.
Trung Quốc đã triển khai chính sách huy động vốn và miễn thuế nhằm giảm gánh nặng tài chính cho người dân, đồng thời tập trung nguồn lực cho xây dựng nông thôn mới Hiện tại, Nhà nước không thu thuế nông nghiệp và một số loại thuế khác, ước tính khoảng 100 tỷ nhân dân tệ Bên cạnh đó, việc phân bổ nguồn thu cho Nhà nước cũng được thực hiện theo hướng gia tăng tỷ trọng cho các địa phương.
Kinh nghiệm phát triển nông nghiệp và nông thôn cho thấy rằng, việc áp dụng những ý tưởng sáng tạo, thực hiện các khâu đột phá và sự hỗ trợ hiệu quả từ Nhà nước, cùng với việc phát huy tính tự chủ, năng động và trách nhiệm của người dân, đóng vai trò quan trọng trong công nghiệp hóa và hiện đại hóa nông nghiệp Điều này không chỉ tạo nền tảng vững chắc cho sự phát triển khu vực nông thôn mà còn thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Vào những năm 1970, Hàn Quốc bắt đầu quá trình công nghiệp hóa từ một quốc gia nông nghiệp, tương tự như Việt Nam, với nhiều khó khăn về cơ sở hạ tầng nông thôn Tuy nhiên, phong trào Làng mới đã tạo ra một làn sóng phát triển mạnh mẽ, không chỉ ở khu vực nông thôn mà còn lan tỏa đến các đô thị, trở thành động lực quan trọng cho sự phát triển kinh tế, xã hội và văn hóa của Hàn Quốc (Phạm Xuân Liêm, 2011).
Hàn Quốc đã thành công trong việc xây dựng nông thôn mới nhờ vào nguồn lực chủ yếu từ cộng đồng Trong giai đoạn 1971-1980, tổng kinh phí đầu tư cho các dự án “Làng mới” đạt 3.425 tỷ won (khoảng 3 tỷ USD), trong đó người dân đóng góp 49,4%, chính phủ 27,8%, và phần còn lại là khoản vay từ các tổ chức tín dụng Nếu tính cả vốn vay, tỷ lệ đóng góp của người dân lên tới 72,2% Mô hình này không chỉ tạo ra sự chủ động cho người dân trong việc phát triển nông thôn mới mà còn giúp xóa bỏ thói quen phụ thuộc vào sự hỗ trợ từ bên ngoài (Phạm Xuân Liêm, 2011).
2.2.2 Kinh nghiệm huy động và sử dụng nguồn lực tài chính cho phát triển nông thôn ở một số địa phương ở Việt Nam Đối với huyện Đan Phượng, thành phố Hà Nội trong năm năm triển khai thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới, Đan Phượng đã trở thành huyện nông thôn mới đầu tiên của thành phố Hà Nội Đạt được thành công này là do huyện đã huy động được đa dạng các nguồn lực đầu tư Đan Phượng xác định xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn là tiền đề phát triển kinh tế - xã hội Huyện đã phát huy dân chủ cơ sở, vận dụng sáng tạo phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm, người dân hưởng lợi, trong đó mạnh dạn đặt mục tiêu huy động vốn từ cộng đồng là nhân tố quan trọng để đầu tư xây dựng NTM Ngay từ trước khi thành phố có chính sách hỗ trợ các địa phương đầu tư cơ sở hạ tầng, Đan Phượng đã hỗ trợ gần một phần ba giá trị nguyên vật liệu xây dựng, còn người dân tự đứng ra đóng góp và làm đường làng, ngõ xóm Cách làm này đã mang lại hiệu quả rõ nét tại những xã có đời sống kinh tế khá, đông dân cư, hình thành nên nhiều tuyến đường khang trang, sạch đẹp Nhưng đối với những xã vùng bãi xa trung tâm, đời sống người dân còn khó khăn thì chưa thực hiện được Đến khi thành phố có chủ trương hỗ trợ các địa phương nguyên vật liệu để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn, huyện đã nhanh chóng “chớp” thời cơ này Tuy nhiên, thay vì hỗ trợ sau đầu tư, khi công trình hoàn thành, Đan Phượng đã mạnh dạn đứng ra “mua chịu” nguyên vật liệu để cung cấp sớm cho người dân Lãnh đạo huyện đã vận động các doanh nghiệp cung ứng nguyên vật liệu xây dựng cung cấp hàng theo hình thức trả chậm để ứng trước cho các xã làm đường giao thông Khi đã có nguyên vật liệu, Ban chỉ đạo huyện kiểm tra thực tế và duyệt thiết kế từng tuyến đường để bảo đảm các công trình bảo đảm chất lượng Các doanh nghiệp tư vấn miễn phí, còn các đơn vị thi công ủng hộ một phần giá trị nhân công và máy móc Đáng chú ý, người dân đã tự nguyện đóng góp ngày công, nhiều hộ dân hiến đất mở rộng đường tại các khúc cua Nhờ vậy, chỉ sau một thời gian ngắn thực hiện theo hình thức này đã có hàng chục ki-lô-mét đường trục, đường xóm ngõ hoàn thành Cách làm này không chỉ tiết kiệm ngân sách Nhà nước, huy động nguồn lực của người dân mà còn tạo ra không khí đoàn kết, phấn khởi trong nhân dân Trong tổng số hơn 450 tỷ đồng đầu tư giao thông nông thôn, người dân đã tự nguyện đóng góp gần 130 tỷ đồng Thành công trong huy động vốn xây dựng đường giao thông đã góp phần quan trọng giúp Đan Phượng thực hiện các chương trình, dự án phát triển nông nghiệp được thuận lợi Huyện đã chuyển đổi hơn 950 ha đất canh tác sang trồng cây có giá trị kinh tế cao, trong đó có gần 400 ha trồng cây ăn quả lâu năm như bưởi, cam, hơn 310 ha trồng hoa, hơn 110 ha trồng rau Giá trị sản xuất từ 160 đến 250 triệu đồng/ha/năm Chuyển dịch chăn nuôi nhỏ lẻ, phân tán sang phát triển chăn nuôi tập trung xa khu dân cư, phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa Quy hoạch và xây dựng sáu cụm công nghiệp làng nghề và phát triển gần 550 doanh nghiệp, thu hút hơn 6.200 lao động… Nhờ đó, đời sống người dân ngày càng được nâng cao (Văn phòng điều phối xây dựng nông thôn mới huyện Đan Phượng, 2015)
Theo báo cáo từ Văn phòng điều phối xây dựng nông thôn mới huyện Đan Phượng, trong gần năm năm qua, huyện đã huy động gần 2.000 tỷ đồng để xây dựng nông thôn mới, nhờ vào việc khai thác đa dạng các nguồn vốn Trong số đó, ngân sách thành phố đã cấp hơn 540 tỷ đồng, cùng với ngân sách huyện đóng góp một phần quan trọng.
880 tỷ đồng, ngân sách xã hơn 122 tỷ đồng, vốn doanh nghiệp, hợp tác xã gần
Huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc đã triển khai nhiều giải pháp đồng bộ nhằm thúc đẩy tiến độ xây dựng nông thôn mới, bao gồm việc lồng ghép hiệu quả các nguồn vốn và huy động sự tham gia của nhân dân, doanh nghiệp Trước khi bắt tay vào chương trình, chỉ có 8 xã đạt từ 5-8 tiêu chí và 4 xã đạt từ 3-5 tiêu chí so với Bộ tiêu chí Quốc gia Với nhiều khó khăn ban đầu, huyện xác định nhu cầu vốn lớn để hoàn thành các tiêu chí nông thôn mới, do đó đã tích cực huy động nguồn lực từ cộng đồng và doanh nghiệp để thực hiện chương trình này.
Huyện Tam Dương đã linh hoạt kết hợp chương trình xây dựng nông thôn mới với các chương trình mục tiêu quốc gia khác, thực hiện đồng bộ các dự án để hoàn thành tiêu chí theo lộ trình Huyện cũng tăng cường hướng dẫn và giám sát quản lý vốn đầu tư cho chương trình, đảm bảo hiệu quả và đúng kế hoạch Để tối ưu hóa nguồn lực, huyện khuyến khích các xã chủ động rà soát, lựa chọn các công trình cần thiết để đầu tư theo thứ tự ưu tiên, tránh tình trạng nợ đọng sau khi đạt chuẩn.
Tam Dương đang tích cực huy động nguồn lực xã hội hóa trong xây dựng nông thôn mới (NTM) thông qua việc sử dụng hiệu quả ngân sách Nhà nước và đẩy mạnh công tác tuyên truyền Các hình thức tuyên truyền giúp người dân nhận thức rõ vai trò của mình trong quá trình này Huyện cũng thực hiện tốt quy chế dân chủ cơ sở với phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, đảm bảo công khai và minh bạch trong thu - chi, nghiệm thu các công trình Bên cạnh đó, công tác thi đua - khen thưởng được chú trọng nhằm khuyến khích các cá nhân, tập thể điển hình tham gia xây dựng NTM Nhờ đó, người dân và doanh nghiệp trên địa bàn tích cực đóng góp bằng nhiều hình thức như tài chính, ngày công lao động và hiến đất.
Theo báo cáo của Văn phòng điều phối nông thôn mới huyện Tam Dương, giai đoạn 2011-2016, huyện đã huy động gần 1.950 tỷ đồng cho việc xây dựng nông thôn mới Trong số đó, người dân đóng góp hơn 470 tỷ đồng, hiến gần 69.000 m² đất và hỗ trợ hơn 65.000 ngày công lao động, cùng với nguồn vốn từ các doanh nghiệp.
Trong chương trình xây dựng nông thôn mới, huyện Tam Dương đã thu hút được 16 tỷ đồng thông qua sự đóng góp tự nguyện của nhiều cá nhân và tập thể, bao gồm hiến đất, tiền bạc và công sức Các nguồn hỗ trợ tài chính rất đa dạng, bao gồm ngân sách Trung ương và tỉnh, cùng với các cơ chế hỗ trợ như để lại số thu tại xã để phát triển nông thôn mới Vốn tín dụng chủ yếu được huy động từ Ngân hàng chính sách xã hội và Ngân hàng Nông nghiệp Doanh nghiệp cũng tham gia đóng góp qua hình thức hỗ trợ tiền mặt và vật liệu xây dựng Các hình thức huy động từ cộng đồng như tiền mặt, hiện vật, và ngày công lao động đã tạo sự linh hoạt trong việc huy động nguồn lực Nhiều địa phương đã chủ động áp dụng chính sách của Trung ương để phát triển các cơ chế phù hợp, như hỗ trợ xi măng cho việc làm đường và khuyến khích nông dân vay vốn để đổi mới sản xuất.