Mục đích nghiên cứu của chuyên đề là thực hiện quy trình chăm sóc lợn nái sinh sản. Đồng thời biết cách phòng và trị một số bệnh hay xảy ra đối với lợn nái sinh sản. Mời các bạn tham khảo!
TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
Điều kiện cơ sở nơi thực tập
2.1.1 Điều kiện của cơ sở
Trang trại chăn nuôi Lê Duy Hiếu nằm tại xã Cát Nê thuộc huyện Đại
Xã Cát Nê, thuộc tỉnh Thái Nguyên, nằm ở phía nam huyện Đại Từ, gần dãy Tam Đảo và cách hồ Núi Cốc không xa Tuyến tỉnh lộ 261 kết nối hai huyện Phổ Yên và Đại Từ đi qua xã Cát Nê giáp xã Ký Phú ở phía tây và tây nam, xã Quân Chu ở phía nam, và thị trấn Quân Chu ở phía đông nam, tất cả đều thuộc huyện Đại Từ Với diện tích 2689,8 ha (26,9 km²) và dân số 4.013 người (mật độ 149,2 người/km² theo số liệu năm 2011), xã Cát Nê còn có một trại tư nhân do anh Lê Duy Hiếu làm chủ, bắt đầu hoạt động từ năm 2015.
Cát Nê là xã thuộc huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên, nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa với bốn mùa rõ rệt: Xuân, Hạ, Thu, Đông.
Trại có khí hậu đặc trưng với nhiệt độ cao và sự chênh lệch rõ rệt giữa mùa đông và mùa hè Nhiệt độ trung bình hàng năm dao động từ 23 đến 24 độ C, với mức cao nhất vào tháng 7 đạt 39 độ C và thấp nhất vào tháng 1 là 10 độ C Mùa hè mang đặc điểm nóng ẩm và mưa nhiều, trong khi mùa đông thường hanh khô và lạnh kéo dài.
Tổng số giờ nắng trung bình hàng năm khoảng: 1450 giờ
Lượng mưa trung bình hàng năm dao động từ 1400 đến 1700mm, tuy nhiên, sự phân bố lượng mưa không đồng đều trong suốt cả năm, tạo thành hai mùa rõ rệt: mùa mưa và mùa khô.
+ Mùa mưa: Từ tháng 4-tháng 10, lượng mưa chiếm từ 80 - 82% tổng lượng mưa của cả năm Lượng mưa bình quân là 75mm/tháng
Mùa khô tại khu vực diễn ra từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau, trùng với thời gian có nhiệt độ thấp nhất trong năm Trong giai đoạn này, lượng mưa trung bình đạt khoảng 25mm/tháng, trong khi độ ẩm không khí tại trại tương đối cao, dao động từ 83% đến 85% Tháng có độ ẩm cao nhất là tháng 4 với mức 88%, trong khi tháng 12 ghi nhận độ ẩm thấp nhất là 65%.
Chế độ gió mùa tại khu vực này đặc trưng bởi hướng gió chủ đạo, với gió đông-bắc vào mùa đông và gió đông-nam vào mùa hè Vận tốc gió trung bình hàng năm đạt 2,4 m/s, trong khi vận tốc gió cực đại có thể lên tới 25 m/s theo chu kỳ 5 năm và 32 m/s theo chu kỳ 10 năm.
2.1.1.3 Tình hình chăn nuôi, phòng và trị bệnh tại cơ sở
Trại lợn Lê Duy Hiếu được thành lập năm 2015, trang trại có cán bộ kỹ thuật của công ty cổ phần dinh dưỡng Hải Thịnh tư vấn kỹ thuật
* Cơ cấu tổ chức của trang trại
Cơ cấu tổ chức gồm :
- Chủ trại: Là người làm chủ và điều hành công việc chung
- 2 Công nhân: Trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc đàn lợn
Trại được tổ chức với đội ngũ công nhân chuyên nghiệp, chia thành các chuồng khác nhau như chuồng nái, chuồng cai sữa và chuồng thịt Mỗi chuồng đều thực hiện nghiêm túc các công việc hàng ngày theo đúng quy định của trại.
* Cơ sở vật chất của trang trại
Trang trại rộng 3ha, tọa lạc tại xã Cát Nê, có địa hình chủ yếu là đồi núi Đường giao thông đã được nâng cấp, tạo điều kiện thuận lợi cho việc di chuyển và vận chuyển hàng hóa Để hỗ trợ phát triển sản xuất chăn nuôi và sinh hoạt của công nhân, trang trại được trang bị đầy đủ cơ sở vật chất kỹ thuật.
Khu nhà điều hành, khu nhà ở công nhân, bếp ăn, các công trình phục vụ cho công nhân và các hoạt động khác của trại
Khu chăn nuôi được bảo vệ bằng hàng rào và cổng vào riêng, với chuồng trại được thiết kế khoa học, phù hợp với mô hình chăn nuôi công nghiệp Hệ thống chuồng nuôi lồng và nền sàn bê tông cho lợn nái, lợn đực, cùng với sàn nhựa cho lợn con, đảm bảo điều kiện sống tốt Ngoài ra, khu vực còn trang bị vòi nước tự động và máng ăn tiện lợi cho vật nuôi.
Khu chăn nuôi được thiết kế với hệ thống chuồng trại cho 100 nái, bao gồm một chuồng đẻ và một chuồng bầu Chuồng đẻ có 26 ô được chia thành 2 dãy, tiếp giáp với chuồng bầu có vách ngăn bằng tường bê tông Chuồng bầu có 85 ô cũng được chia thành 2 dãy.
Có 3 ô lợn đực giống, 2 chuồng thương phẩm có sức chứa nuôi 450 lợn thịt
Phòng tinh, kho cám và kho thuốc được trang bị đầy đủ vật tư, với kho cám được xây dựng ở cuối trại cạnh chuồng nái Tại đây có tủ lạnh để bảo quản vắc xin, tủ đựng tinh riêng biệt, cùng với tủ chứa thực phẩm phục vụ sinh hoạt ăn uống cho nhân viên tại trại.
* Thuận lợi và khó khăn của trại
+ Trại xây dựng cách xa khu dân cư, nên hạn chế được dịch bệnh và không làm ảnh hưởng đến các hộ xung quanh
+ Vị trí của trại được xây gần với trục đường giao thông chính
+ Trại được xây theo mô hình công nghiệp, trang thiết bị còn mới, hiện đại thuận lợi cho công tác chăn nuôi
+ Trại đang trong quá trình hoàn thiện nên còn hạn chế về quy mô và các trang thiết bị
Giá thức ăn chăn nuôi tăng cao cùng với sự giảm mạnh của giá lợn trên thị trường gần đây đã gây ra ảnh hưởng đáng kể đến hoạt động chăn nuôi của các trang trại.
Cơ sở tài liệu liên quan đến chuyên đề
2.2.1 Đặc điểm sinh lý, sinh dục của lợn nái
2.2.1.1 Sự thành thục về tính và thể vóc
* Sự thành thục về tính
Tuổi thành thục về tính của gia súc là giai đoạn mà con vật bắt đầu có phản xạ sinh dục và khả năng sinh sản Khi đã hoàn thiện về tính, bộ máy sinh dục của chúng phát triển đầy đủ Dưới tác động của hệ thần kinh và nội tiết, con vật bắt đầu xuất hiện các phản xạ sinh dục, trong đó con cái có hiện tượng động dục và con đực có phản xạ giao phối.
Tuy nhiên lần động dục này chỉ là báo hiệu cho khả năng có thể sinh sản của lợn cái
* Biểu hiện của lợn cái khi thành thục về tính:
Cơ thể đã phát triển hoàn thiện với bộ máy sinh dục đầy đủ, con cái bắt đầu xuất hiện chu kỳ động dục lần đầu, trong khi con đực đã có khả năng sinh tinh Đây là thời điểm tinh trùng và trứng gặp nhau, tạo điều kiện cho quá trình thụ thai xảy ra.
- Xuất hiện các đặc điểm sinh dục thứ cấp: bẹ vú phát triển và lộ rõ hai hàng vú, âm hộ to lên hồng hào
- Xuất hiện các phản xạ sinh dục: lợn có biểu hiện nhảy lên nhau, con cái động dục, con đực có phản xạ giao phối
- Thời điểm thành thục về tính: lợn cái bắt đầu khoảng 6 tháng tuổi (từ
Các giống gia súc khác nhau thời gian thành thục về tính là khác nhau, ở lợn nội thường từ 4 - 5 tháng (120 - 150 ngày), lợn ngoại 6 - 7 tháng (180 -
* Các yếu tố ảnh hưởng tới sự thành thục về tính
Tuổi thành thục về tính phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: giống, di truyền, thời tiết, khí hậu, mùa vụ, điều kiện chăm sóc nuôi dưỡng…
+ Các yếu tố di truyền
Các giống lợn có tuổi thành thục về tính khác nhau, với thời điểm rụng trứng lần đầu tiên xảy ra vào khoảng 3-4 tháng tuổi đối với giống lợn thành thục sớm như lợn nội và một số giống lợn Trung Quốc Đối với hầu hết các giống lợn phổ biến ở các nước phát triển, thời điểm này thường là 6-7 tháng tuổi Lợn lai F1 bắt đầu động dục khi được 6 tháng tuổi và đạt khối lượng cơ thể từ 50-55 kg, trong khi lợn ngoại động dục lần đầu muộn hơn, vào khoảng 6-7 tháng tuổi với khối lượng 65-68 kg Lợn nội có tuổi thành thục về tính từ 4 tháng tuổi.
+ Các yếu tố ngoại cảnh
Ngoài yếu tố di truyền, sự thành thục của lợn nái còn bị ảnh hưởng bởi các yếu tố ngoại cảnh như chế độ chăm sóc, nuôi dưỡng, mùa vụ, khí hậu và nhiệt độ.
Chế độ chăm sóc và nuôi dưỡng có ảnh hưởng lớn đến tuổi thành thục tính của lợn cái Những con lợn được chăm sóc và nuôi dưỡng tốt thường đạt tuổi thành thục sớm hơn so với những con sống trong điều kiện dinh dưỡng kém.
Nhu cầu dinh dưỡng cho lợn cái hậu bị rất quan trọng và cần được chú ý trong quá trình nuôi dưỡng Trong giai đoạn đầu, cho lợn ăn tự do cho đến khi đạt khối lượng 80 - 90 kg, sau đó chuyển sang chế độ ăn hạn chế 2 kg/ngày (với 14% protein thô) cho đến khi phối giống ở chu kỳ động dục thứ hai hoặc thứ ba Mục tiêu là điều chỉnh chế độ ăn để lợn đạt khối lượng 120 - 140 kg ở chu kỳ động dục thứ ba trước khi phối giống Trước 14 ngày phối giống, cần áp dụng chế độ kích dục, tăng dần lượng thức ăn từ 1 - 2,5 kg và bổ sung khoáng chất cùng chất điện giải để kích thích lợn cái ăn nhiều hơn, từ đó tăng số trứng rụng lên 2 - 2,1 trứng/lợn cái.
Để đảm bảo sự phát triển tối ưu cho lợn cái, cần điều chỉnh chế độ ăn hợp lý trong quá trình nuôi dưỡng Sau khi phối giống, chế độ ăn nên được chuyển sang mức năng lượng trung bình và hạn chế, nhằm giảm thiểu tỷ lệ chết phôi và chết thai, từ đó tăng số con sinh ra trong mỗi ổ.
Mùa vụ và thời gian chiếu sáng ảnh hưởng đáng kể đến sự thành thục của lợn cái hậu bị Những lợn cái sinh ra trong mùa đông và mùa xuân có xu hướng động dục lần đầu chậm hơn so với các mùa khác Sự chậm trễ này còn phụ thuộc vào nhiệt độ trong ngày, với nhiệt độ quá cao hoặc quá thấp cũng gây ảnh hưởng Để tối ưu hóa sự phát triển, cần tạo điều kiện sống phù hợp cho lợn cái hậu bị Thời gian chiếu sáng cũng đóng vai trò quan trọng, với bóng tối hoàn toàn làm chậm quá trình thành thục so với ánh sáng tự nhiên hoặc ánh sáng nhân tạo 12 giờ mỗi ngày.
Nuôi lợn cái hậu bị với mật độ cao trên một đơn vị diện tích sẽ làm chậm tuổi động dục, trong khi nuôi tách biệt từng cá thể cũng có tác động tương tự, làm chậm sự thành thục về tính so với nuôi theo nhóm Hơn nữa, giống đực cũng ảnh hưởng đến sự động dục của lợn cái.
* Sự thành thục về thể vóc
Thành thục về thể vóc là giai đoạn khi cơ thể đạt sự hoàn chỉnh về ngoại hình và xương cốt, với tầm vóc ổn định Quá trình này thường diễn ra chậm hơn so với sự thành thục về tính, nghĩa là sau khi sinh, động vật vẫn tiếp tục lớn lên Trong chăn nuôi, cần lưu ý không cho gia súc sinh sản quá sớm, vì cơ thể mẹ chưa phát triển đầy đủ có thể dẫn đến việc phân tán chất dinh dưỡng, ưu tiên cho bào thai, gây ảnh hưởng xấu đến sự phát triển của cả mẹ và con, kết quả là mẹ yếu và con nhỏ.
Khung xương chậu của lợn chưa phát triển hoàn toàn và thường nhỏ hẹp, gây khó khăn trong quá trình sinh sản Do đó, việc xác định độ tuổi và khối lượng khi phối giống lần đầu là rất quan trọng trong chăn nuôi Các nhà khoa học khuyến cáo rằng đối với lợn ngoại, nên bỏ qua 1 đến 2 chu kỳ động dục đầu và thực hiện phối giống ở chu kỳ động dục thứ 2 hoặc thứ 3, tùy thuộc vào khối lượng đạt được Cụ thể, lợn ngoại nên được phối giống khi khoảng 8 - 9 tháng tuổi và đạt 110 - 120 kg, trong khi lợn nội có thể phối giống ở độ tuổi 6 - 7 tháng và đạt 40 - 50 kg.
Khi lợn cái đạt độ thành thục về sinh sản và thể vóc, đây là thời điểm lý tưởng để tiến hành phối giống Việc xác định thời gian phối giống phù hợp giúp tăng thời gian nuôi hữu ích và giảm thời gian không sản xuất trước khi đẻ lứa đầu, đồng thời không ảnh hưởng đến năng suất của lợn cái trong các giai đoạn sau.
Chu kỳ động dục là một quá trình sinh lý phức tạp diễn ra sau khi cơ thể phát triển hoàn hảo, không có bào thai và bệnh lý Trong buồng trứng, noãn bào phát triển, trưởng thành và thải trứng Đồng thời, cơ thể, đặc biệt là cơ quan sinh dục, trải qua nhiều biến đổi về hình thái và chức năng sinh lý Tất cả những biến đổi này lặp đi lặp lại theo chu kỳ, do đó được gọi là chu kỳ tính.
Theo nghiên cứu của Nguyễn Thiện và Nguyễn Tấn Anh (1993), chu kỳ động dục của lợn nái kéo dài từ 19 đến 21 ngày Thời gian động dục thường diễn ra trong khoảng 3 - 4 ngày đối với lợn nội và 4 - 5 ngày đối với lợn lai, lợn ngoại Chu kỳ này được chia thành ba giai đoạn: giai đoạn trước khi chịu đực, giai đoạn chịu đực và giai đoạn sau chịu đực.
Trước khi lợn nái chịu đực, chúng thường phát ra tiếng kêu rít và có hiện tượng xung huyết ở âm hộ Trong giai đoạn này, chưa nên cho phối, vì lợn vẫn chưa chịu đực Thời gian rụng trứng đối với lợn ngoại và lợn nái lai là khoảng 35 - 40 giờ, trong khi đó lợn nội có thời gian rụng trứng ngắn hơn, khoảng 25 - 30 giờ.
Tổng quan các nghiên cứu trong và ngoài nước
Theo Trịnh Đình Thâu và Nguyễn Văn Thanh (2010), việc can thiệp kịp thời khi nái có biểu hiện bệnh là rất quan trọng để tránh viêm tử cung Cần thực hiện can thiệp đúng kỹ thuật, nhẹ nhàng để không gây tổn thương Tiêm oxytoxin giúp kích thích co bóp tử cung để đẩy nhau còn sót lại ra ngoài Sau khi nhau thai được tống ra, nên sử dụng nước muối sinh lý 0,9% để rửa tử cung liên tục trong ba ngày.
2.3 Tổng quan các nghiên cứu trong và ngoài nước
2.3.1 Các nghiên cứu trong nước Ở Việt Nam đã có nhiều nghiên cứu về bệnh sinh sản trên lợn nái Bệnh sinh sản có ảnh hưởng rất lớn đến năng suất sinh sản của lợn nái, nó không chỉ làm giảm sức sinh sản của lợn nái mà còn có thể làm cho nái mất khả năng sinh sản, chậm sinh hay làm giảm khả năng sống sót của lợn con
Bệnh viêm tử cung ở gia súc là một quá trình bệnh lý phức tạp, biểu hiện qua nhiều thể khác nhau Đây là một trong những nguyên nhân chính gây ra rối loạn sinh sản, ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng sinh sản của gia súc cái.
Theo Phạm Sỹ Lăng và cs (2002) [9], bệnh viêm tử cung do vi khuẩn
Nhiễm Streptococcus và Colibacillus có thể xảy ra khi lợn con truyền bệnh sang lợn mẹ qua cuống rốn, đặc biệt trong các trường hợp đẻ khó, sát nhau, sảy thai hoặc khi sử dụng dụng cụ thụ tinh nhân tạo cứng, dẫn đến xây xát và hình thành các ổ viêm nhiễm trong tử cung và âm đạo.
Theo nghiên cứu của Lê Minh và cộng sự (2017), triệu chứng lâm sàng của tử cung có thể khác nhau tùy thuộc vào mức độ tổn thương, loại vi khuẩn, cũng như mức độ phát triển và hoạt động của vi khuẩn, cùng với sự rối loạn chức năng sinh lý và nội tiết của tử cung.
Theo nghiên cứu của Nguyễn Thị Ngân và cộng sự (2016), việc đo thân nhiệt là một phương pháp thiết yếu trong chẩn đoán bệnh Thân nhiệt cao hoặc thấp bất thường được xem là triệu chứng quan trọng trong quá trình xác định tình trạng sức khỏe.
Viêm tử cung là một bệnh lý phổ biến ở gia súc cái sau khi sinh, ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng sinh sản Quá trình viêm làm rối loạn chức năng các lớp tử cung, dẫn đến nguy cơ mất khả năng sinh sản Trong thời gian mang thai, lợn cần nhiều dinh dưỡng và ít vận động, nhưng nếu bị nhiễm các bệnh truyền nhiễm như Leptospirosis hay Brucellosis, sức khỏe của lợn nái sẽ giảm sút, gây ra hiện tượng sảy thai, đẻ non và thai chết lưu, từ đó làm tăng nguy cơ viêm tử cung Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra tỷ lệ mắc bệnh viêm tử cung ở lợn khá cao.
Theo nghiên cứu của Nguyễn Như Pho (2002), tỷ lệ lợn Yorkshire và Landrace mắc bệnh viêm tử cung trong giai đoạn nuôi con lên đến 15% Nếu được chữa trị kịp thời, tỷ lệ khỏi bệnh có thể đạt 100%, tuy nhiên bệnh vẫn ảnh hưởng tiêu cực đến sức khỏe của lợn nái Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến viêm tử cung là do các trường hợp đẻ khó.
Theo nghiên cứu của Nguyễn Đức Lưu và Nguyễn Hữu Vũ (2004), tỷ lệ lợn nái bị viêm tử cung sau khi sinh là 42,4%, trong đó nhóm thuần chiếm 25,48% và nhóm lai chiếm 50,48% Viêm tử cung xảy ra chủ yếu ở lứa 1 và lứa 2 Đặc biệt, tỷ lệ chậm động dục ở nhóm lợn bị viêm tử cung cao hơn đáng kể so với nhóm không bị viêm.
Theo nghiên cứu của Trần Tiến Dũng và cộng sự (2002), tỷ lệ bệnh viêm đường sinh dục ở lợn nái sinh sản rất cao, dao động từ 30% đến 50% Trong đó, viêm cơ quan ngoài chiếm 20%, còn lại 80% là viêm tử cung Đặc biệt, tỷ lệ viêm tử cung sau khi đẻ ở lợn nái ngoại cũng ghi nhận mức cao, từ 1,82% đến 23,33%.
2.3.2 Tình hình nghiên cứu ngoài nước
Ngành chăn nuôi lợn toàn cầu đang phát triển mạnh mẽ, với nhiều quốc gia đầu tư vào việc cải thiện chất lượng giống và áp dụng các kỹ thuật tiên tiến để nâng cao năng suất Theo nghiên cứu của Jose Bento và cộng sự (2012), năng suất sinh sản của lợn Landrace ở Thụy Điển từ 19 đàn hạt nhân trong giai đoạn 1994 - 1997 cho thấy số con sơ sinh/ổ đạt 11,61, số con sống sót là 10, thời gian từ cai sữa đến phối giống trung bình là 5,6 tháng, tỷ lệ đẻ là 82,8% và tuổi đẻ lứa đầu trung bình là 335,6 ngày.
Vấn đề hạn chế bệnh sinh sản, đặc biệt là bệnh viêm đường sinh dục, là một thách thức cần được giải quyết Nhiều nhà khoa học đã nghiên cứu và đưa ra các kết luận hữu ích giúp người chăn nuôi lợn nái giảm thiểu bệnh này Tuy nhiên, tỷ lệ mắc bệnh viêm đường sinh dục ở đàn lợn nái sinh sản vẫn còn cao.
Bệnh viêm đường sinh dục xảy ra khi đường sinh dục bị tổn thương do hiện tượng sát nhau Nguyên nhân phát triển của bệnh thường liên quan đến việc chăm sóc không đúng cách, cùng với việc sử dụng các dụng cụ và chất kích thích có thể gây hại hoặc làm tắc nghẽn chất nhầy trong bộ máy sinh dục.
Theo nghiên cứu của Trekaxova và cộng sự (1983), việc chữa bệnh viêm vú cho lợn nái cần áp dụng phương pháp kết hợp Sử dụng novocain để phong bế kết hợp với điều trị bằng kháng sinh mang lại hiệu quả tốt Cụ thể, để phong bế thần kinh tuyến sữa, cần dùng dung dịch novocain 0,5% với liều lượng 30 - 40 ml cho mỗi túi vú, tiêm sâu 8 - 10 cm vào mỗi thùy vú bị bệnh Ngoài ra, dung dịch novocain còn được bổ sung thêm 100 - 200 ngàn đơn vị penicillin hoặc kháng sinh khác Đồng thời, lợn nái cũng cần được tiêm bắp cùng loại kháng sinh này, với liều 400 - 600 đơn vị, 2 - 3 lần mỗi ngày.