TỔN QU N VỀ ÍN SÁ O ẤT SẢN XUẤT NÔN N ỆP O ÌN , Á N ÂN SỬ DỤN
ơ sở lý luận và các quy định của pháp luật về giao đất
1.1.1 Các khái niệm cơ bản và mục đích
Nhà nước giao đất là quá trình trao quyền sử dụng đất cho các đối tượng có nhu cầu thông qua quyết định hành chính, theo quy định tại khoản 1 điều 4 của Luật Đất đai năm 2003.
Mục đích giao đất nông nghiệp là nhằm cung cấp tư liệu sản xuất cho người dân, tạo điều kiện cho họ yên tâm đầu tư vào sản xuất, từ đó đảm bảo công bằng xã hội và thúc đẩy sự phát triển của ngành nông nghiệp Các mục đích cụ thể của việc giao đất bao gồm việc hỗ trợ nông dân trong hoạt động sản xuất và nâng cao hiệu quả kinh tế trong lĩnh vực nông nghiệp.
+ Đảm bảo cho đất đai được sử dụng hợp pháp, đúng mục đích, có hiệu quả
Giao đất là một phần quan trọng trong quản lý nhà nước về đất đai, trong đó Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất cho người được giao Người sử dụng đất cần tuân thủ mục đích sử dụng theo hồ sơ xin giao đất Tính hợp pháp của quyền sử dụng đất giúp chủ sở hữu yên tâm đầu tư, khai thác tiềm năng đất đai, cải tạo và phát triển sản xuất, đồng thời nâng cao hiệu quả sử dụng đất như một tài sản của mình.
+ Xác lập mối quan hệ giữa nhà nước với người sử dụng đất, làm căn cứ pháp lý để giải quyết mọi quan hệ đất đai đúng pháp luật
Người sử dụng đất có quyền thực hiện các giao dịch như chuyển đổi, chuyển nhượng, tặng cho, cho thuê, thừa kế, thế chấp và góp vốn đối với quyền sử dụng đất, phù hợp với quy định của pháp luật và sự biến động tự nhiên của quan hệ đất đai trong thực tiễn.
Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất cho những người đang sử dụng đất ổn định bằng cách cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, theo quy định tại khoản 3 điều 4 của Luật Đất đai năm 2003.
Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất của người đang sử dụng thông qua việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất Đây là chứng thư pháp lý quan trọng, đảm bảo quyền lợi của chủ sử dụng đối với thửa đất của họ.
Thời hạn giao đất là khoảng thời gian sử dụng đất được quy định tại Điều 20 của Luật Đất đai năm 1993 và Điều 4 của Nghị định 64-CP của Chính phủ.
Mục đích của thời hạn giao đất: là đảm bảo tính công bằng trong chế độ sở hữu toàn dân về đất đai
Hạn mức giao đất là diện tích tối đa mà người dân được phép sử dụng, được quy định cụ thể trong Nghị định 64-CP và Điều 70 của Luật Đất đai năm 2003.
Hạn mức giao đất nhằm ngăn chặn tình trạng tích tụ đất đai vào tay một số ít người, qua đó đảm bảo hiệu quả kinh tế và công bằng xã hội.
Đất nông nghiệp là loại đất được sử dụng chủ yếu cho sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản và làm muối Dựa vào mục đích sử dụng, đất nông nghiệp được phân thành nhiều loại khác nhau.
+ Đất trồng cây hàng năm;
+ Đất trồng cây lâu năm;
+ Đất nuôi trồng thu sản;
+ Đất nông nghiệp khác theo quy định của Chính phủ
Quy định tại khoản 1 điều 13 của Luật Đất đai năm 2003
Đất công ích là quỹ đất được cấp bởi địa phương cấp xã, được hình thành từ quỹ đất nông nghiệp, nhằm phục vụ cho các mục đích công ích, với tổng diện tích không vượt quá 5% tổng diện tích đất nông nghiệp.
1.1.2 Các quy định pháp luật chung về giao đất
Luật Đất đai 1993/QH9, được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa IX thông qua vào ngày 14 tháng 07 năm 1993, quy định rõ ràng về việc giao đất cho người sử dụng đất, với các điều khoản quan trọng tập trung tại Điều 1, Điều 3 và Điều 12.
Luật Đất đai số 13/2003/QH11, được Quốc hội Việt Nam thông qua vào ngày 26 tháng 11 năm 2003, quy định chi tiết về căn cứ giao đất và các điều khoản liên quan đến việc giao đất nông nghiệp tại các điều 31, 32, 33, 34, 36 và 37.
Khoán 100 là một cơ chế khoán mở rộng, cho phép khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động trong hợp tác xã nông nghiệp, được triển khai theo Chỉ thị 100-CT/TW ngày 13/1/1981 của Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa IV Cơ chế này nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp, khuyến khích sự sáng tạo và tự chủ của người lao động trong hợp tác xã.
Giao đất, giao rừng và tổ chức kinh doanh theo phương thức nông - lâm kết hợp được thực hiện theo Chỉ thị 29/CT-TW ngày 12/11/1983 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Việc áp dụng chính sách giao đất sản xuất nông nghiệp trên thực tế
Chính phủ đã thực hiện chủ trương giao đất nông nghiệp ổn định lâu dài cho hộ gia đình và cá nhân theo Nghị định số 64-CP Các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã ban hành văn bản hướng dẫn thi hành Nghị định này, nhằm đảm bảo quyền lợi và trách nhiệm của người dân trong việc sử dụng đất nông nghiệp.
Theo Nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh và Quy định của Ủy ban Nhân dân cấp tỉnh, 16 cấp xã đã xây dựng phương án giao đất Để thực hiện Nghị định số 64-CP của Chính phủ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh đã đề ra phương án giao đất, trong đó mỗi nhân khẩu từ 18 tuổi trở lên được giao một suất đất, còn nhân khẩu dưới 18 tuổi được giao một nửa suất Tùy thuộc vào từng địa bàn, mỗi suất đất có diện tích khoảng 1-3 sào, và quy mô suất đất khác nhau do quỹ đất của mỗi địa phương không đồng nhất.
Luật Đất đai năm 1993 và Nghị định số 64-CP đã đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong chính sách đất đai của Việt Nam, cho phép hộ gia đình và cá nhân sử dụng đất ổn định với các quyền như chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế và thế chấp quyền sử dụng đất Công tác giao đất nông nghiệp được các cấp, địa phương tích cực triển khai, với sự hướng dẫn cụ thể từ Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nhằm khắc phục thiếu sót của các quyết định trước đó Điều này giúp đảm bảo tính pháp lý cho nông dân khi được giao đất, thực hiện đúng theo Nghị định 64-CP.
Việc giao đất tại Việt Nam được thực hiện dựa trên nguyên tắc đoàn kết, công bằng và ổn định, nhằm thúc đẩy phát triển sản xuất và sử dụng đất đúng mục đích Chính sách này đã được pháp luật bảo vệ thông qua việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, mang lại hiệu quả kinh tế và xã hội cao Chỉ sau vài năm, Việt Nam đã vươn lên trở thành một trong ba nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới, góp phần ổn định xã hội nông thôn với đầy đủ lương thực và nâng cao đời sống người dân.
Khảo sát việc áp dụng chính sách giao đất tại ba tỉnh thuộc ba khu vực khác nhau, bao gồm miền núi, đồng bằng và ven biển, cho thấy hầu hết diện tích đất nông nghiệp đã được giao Kết quả này phản ánh rõ nét đặc trưng của từng vùng.
Bảng 1.1: Thống kê diện tích đất đã giao 2010
Tên Tỉnh VT Diện tích tự nhiên
Diện tích đất nông nghiệp đã giao
Nguồn: Tổng hợp số liệu điều tra của Trung tâm ưu trữ và Thông tin ất đai
1.2.1 Chính sách giao đất được áp dụng trên thực tế tại tỉnh Hà Giang đặc trưng cho vùng miền núi Ở tỉnh Hà Giang, thực hiện Luật Đất đai năm 1993 và chỉ đạo của Tổng cục Địa chính nay là Bộ Tài nguyên và Môi trường , trong thời gian ngay từ năm 1993, UBND tỉnh đã ban hành nhiều quyết định, văn bản chỉ đạo, hướng dẫn chuyên môn để thực thi pháp luật về đất đai Các văn bản đã ban hành kịp thời và phù hợp với tình hình thực tế của tỉnh, làm cơ sở để quản lý và chỉ đạo thực hiện công tác quản lý đất đai ngày càng tốt hơn, đồng thời ngăn chặn có hiệu quả các vi phạm xảy ra trong công tác quản lý, sử dụng đất
Tỉnh Hà Giang có đặc thù riêng trong việc công nhận quyền sử dụng đất cho người dân mà không giao đất theo Nghị định 64-CP Một số khu vực đã thực hiện giao khoán theo chế độ khoán 10 và khoán 100, vì vậy chỉ cấp giấy chứng nhận cho diện tích đang sử dụng ổn định Đặc thù này cũng tồn tại ở nhiều tỉnh miền núi có đồng bào dân tộc thiểu số Việc sử dụng đất theo luật tục của các dân tộc thiểu số không thay đổi khi áp dụng chính sách hợp tác xã nông nghiệp, với đất đai thường được ghi nhận thuộc về cộng đồng thôn, bản hoặc dòng họ Chính sách khoán 10 và khoán 100 chủ yếu dựa trên đất đã được sử dụng theo luật tục, do đó, việc giao đất cho hộ gia đình và cá nhân không ảnh hưởng lớn đến đất đai ở các tỉnh vùng núi có dân tộc thiểu số.
1.2.2 Chính sách giao đất được áp dụng trên thực tế tại tỉnh Bắc Ninh đặc trưng cho vùng đồng bằng
Căn cứ công văn số 29-TB/TW của Tỉnh ủy Hà Bắc ngày 27-2-1992, Hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh đã thảo luận về việc đổi mới cơ chế quản lý hợp tác xã nông nghiệp theo Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị Để thực hiện chỉ thị số 03/UB ngày 24-2-1992 của UBND tỉnh Hà Bắc, các huyện, thị xã, thành phố đã chỉ đạo các xã thành lập hội đồng giao ruộng đất, nhằm cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và lập sổ bộ thuế cho hộ nông dân.
Các xã đều lập kế hoạch và trình UBND huyện phê duyệt Diện tích đất giao cho mỗi nhân khẩu khác nhau tùy thuộc vào điều kiện quỹ đất của từng xã, thậm chí mức giao đất ở từng thôn cũng có sự khác biệt.
Lãnh đạo tỉnh cho biết, phương án giao đất được xây dựng theo nguyên tắc có cao, có thấp, có xa, có gần, có tốt, có xấu, dẫn đến nhiều hộ gia đình phải nhận đất xa nơi cư trú Nhiều cá nhân đã từ chối nhận những thửa đất quá nhỏ hoặc xấu, khiến diện tích đất bình quân được giao thấp hơn quy định Đây là đặc thù chung của việc giao đất nông nghiệp ở các tỉnh đồng bằng sông Hồng Nguyên tắc công bằng đã dẫn đến việc chia nhỏ thửa đất, gây khó khăn cho tổ chức sản xuất lớn Do đó, ngay sau khi giao đất, UBND cấp tỉnh đã thực hiện chính sách dồn điền, đổi thửa để khuyến khích nông dân mở rộng quy mô ruộng đất.
1.2.3 Chính sách giao đất được áp dụng trên thực tế tại tỉnh Hà Tĩnh đặc trưng cho vùng ven biển
Tại Hà Tĩnh, việc giao đất nông nghiệp ổn định lâu dài cho hộ nông dân đã được thực hiện sớm, góp phần quan trọng vào sự phát triển sản xuất nông nghiệp Theo Luật Đất đai năm 1993 và Nghị định số 64-CP, UBND tỉnh đã ban hành Quyết định số 216/QĐ-UB ngày 23/4/1994 để quản lý và sử dụng đất nông, lâm nghiệp Các xã đã thực hiện giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình và cá nhân, giữ ổn định hiện trạng đất đai Dựa trên kết quả từ khoán 10 và rà soát đăng ký, những diện tích hợp tác xã đấu thầu sẽ tiếp tục được sử dụng Các diện tích gia đình khai hoang hoặc đất trống hiện đang sản xuất sẽ được quản lý theo quy định của Luật Đất đai Đồng thời, cần đẩy nhanh cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước về đất đai.
Đối tượng giao đất bao gồm các hộ gia đình có hộ khẩu thường trú tại xã, bao gồm cả những người đang thực hiện nghĩa vụ quân sự Những hộ gia đình có sự thay đổi về số lượng lao động nông nghiệp hợp lý cũng sẽ được xem xét giao đất theo quy định.
Từ năm 2010 đến nay, các vấn đề chưa được điều chỉnh vẫn tồn tại, gây ra sự bất hợp lý lớn trong thôn xóm Những vấn đề này cần được đưa ra bàn bạc để có sự điều chỉnh hợp lý Nguyên tắc quan trọng là duy trì sự ổn định trong thôn xóm và đoàn kết nhằm thúc đẩy sự phát triển sản xuất.
Thời điểm giao đất được xác định từ ngày 15/10/1993, với hạn mức giao đất trồng cây hàng năm không quá 1 ha và cây lâu năm không quá 5 ha Các hộ gia đình và cá nhân vượt hạn mức này chỉ được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trong giới hạn quy định Diện tích vượt hạn mức sẽ được sử dụng trong thời gian bằng nửa thời hạn quy định Sau khi hết thời gian này, nếu hộ gia đình hoặc cá nhân có nhu cầu tiếp tục sử dụng, Nhà nước sẽ cho thuê đất theo hợp đồng có thời hạn.
Sau một thời gian thực hiện giao đất, địa phương nhận thấy tình trạng manh mún của ruộng đất đã gây cản trở lớn đến việc đầu tư thâm canh và áp dụng các biện pháp kỹ thuật canh tác tiên tiến Việc quản lý đất đai chưa chặt chẽ, cùng với hệ thống kênh mương nội đồng chưa hoàn thiện, dẫn đến hiệu quả tưới tiêu thấp Do đó, việc quy hoạch và chuyển đổi ruộng đất là cần thiết để phát triển sản xuất phù hợp với yêu cầu thực tiễn trong thời kỳ mới.
ánh giá kết quả và bất cập trong phát triển nông nghiệp và xã hội nông thôn do chính sách giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng
1.3.1 Những kết quả đạt được của việc thực hiện chính sách giao đất cho hộ gia đình cá nhân
Chính sách giao đất cho hộ gia đình và cá nhân đã đảm bảo tư liệu sản xuất thuộc về người lao động, mang lại kết quả tích cực Hầu hết các hộ gia đình đã nhận đất, giúp nông dân chủ động hơn trong quyết định sản xuất kinh doanh Đồng thời, chính sách này đã xóa bỏ tình trạng quan liêu, bao cấp và sự phụ thuộc vào tập thể như trong sản xuất hợp tác xã nông nghiệp trước đây.
Việc giao đất cho các hộ gia đình được thực hiện dựa trên số lượng nhân khẩu hiện tại, theo hạn mức và thời gian thống nhất Điều này đảm bảo tính công bằng và phù hợp với thực tế.
Chính sách giao đất nông nghiệp do hợp tác xã quản lý đã tạo động lực mới cho phát triển nông nghiệp, giúp hộ gia đình và cá nhân nông dân sử dụng đất một cách ổn định và lâu dài Trước đổi mới, nhiều tỉnh nông nghiệp của Việt Nam gặp tình trạng thiếu lương thực, nhưng chính sách này không chỉ giải quyết vấn đề đó mà còn giúp nước ta trở thành nước xuất khẩu gạo đứng thứ ba trên thế giới Nhờ vậy, đời sống nông dân đã cải thiện, từ chỗ đủ ăn, họ bắt đầu có khả năng đầu tư lâu dài vào đất đai của mình.
1.3.2 Những bất cập còn tồn tại trong quá trình thực hiện chính sách giao đất
Phương án giao đất theo nguyên tắc phân tán đã dẫn đến tình trạng manh mún, khiến Chính phủ phải khuyến khích dồn điền, đổi thửa để tăng quy mô diện tích Tuy nhiên, kích thước thửa đất sau khi dồn đổi vẫn nhỏ, gây cản trở cho đầu tư và sản xuất hàng hóa quy mô lớn trong nông nghiệp.
Việc giao đất dựa trên số nhân khẩu hiện tại chỉ phù hợp trong một thời điểm cụ thể, vì số nhân khẩu của mỗi hộ gia đình có thể thay đổi theo thời gian do các yếu tố như sinh tử, di chuyển, hôn nhân, di cư và nhập cư Những biến động này dẫn đến sự bất hợp lý và bất bình đẳng trong việc phân bổ đất đai, khi những hộ gia đình có người mới sinh hoặc chuyển đến không được cấp thêm đất, trong khi những hộ gia đình có người chuyển đi hoặc đã qua đời lại không bị giảm bớt diện tích đất đã được giao.
Chính phủ đã ban hành chính sách khuyến khích dồn điền đổi thửa, và UBND các cấp đã triển khai thực hiện, được các hộ gia đình sản xuất nông nghiệp hưởng ứng Mặc dù việc dồn điền đổi thửa đã mang lại hiệu quả ở một số địa phương, nhưng không đạt kết quả cao ở tất cả các nơi, đặc biệt là tại miền núi với ruộng bậc thang có diện tích nhỏ Trong khi đó, các tỉnh phía Nam không gặp phải vấn đề này do thửa đất không bị chia nhỏ khi giao đất, do đó không cần thực hiện dồn điền đổi thửa.
Thực tế trên địa một số hộ dân di cư từ nhiều địa phương khác đến khai hoang đất sản xuất, do vậy có một số trường hợp hộ sống bằng nghề nông nghiệp nhưng không được giao đất Tuy nhiên, số hộ thuộc đối tượng này không nhiều
Cũng có những trường hợp con của cán bộ, công nhân, viên chức Nhà nước sống tại địa phương đến tuổi lao động nhưng chưa có việc làm, nhưng không được giao đất
Việc giao đất có thời hạn và có hạn mức làm hạn chế việc tích tụ đất để sản xuất quy mô lớn với đầu tư công nghệ hiện đại để nâng cao năng suất Người chủ sử dụng đất cũng không yên tâm đầu tư thực sự lâu dài vào đất mà chỉ đầu tư nhỏ lẻ ngắn hạn nên năng suất chưa thực sự cao Đến năm 2013 thời hạn giao đất theo Nghị định 64 chấm dứt thì người dân lo lắng không biết có được sử dụng tiếp diện tích đất mình đang canh tác hay không, gây ra nhiều ý kiến trái chiều nhau khiến người sử dụng đất hoang mang không còn muốn đầu tư nhiều vào sản xuất nữa.
Một số tham khảo về kinh nghiệm giao đất nông nghiệp của ài Loan
1.4.1 ản uất nông nghiệp tại ài oan
Sự phát triển kinh tế rực rỡ của Đài Loan thời gian qua có sự đóng góp rất lớn của phát triển nông nghiệp Hiện đại hóa trong nông nghiệp của Đài Loan đã đưa lại thu nhập đạt tới 400 t đài tệ, giá trị sản xuất nông nghiệp chiếm 11 GDP Yếu tố quan trọng tạo nên thành công này là vai trò quan trọng của các tổ chức nông dân Trong đó phải kể đến hợp tác xã cây ăn quả hay hợp tác xã nhóm sản xuất tiếp thị đã vực dậy được cả ngành xuất khẩu cây trái của Đài Loan Chức năng chính của tổ chức này là giúp nông dân tăng sức mạnh thương lượng trong hoạt động mua bán, được đăng ký hoạt động và chịu sự quản lý nhà nước của Bộ Nội
Xét về hiện trạng trước đây diện tích sản xuất nông hộ ở Đài Loan khá nhỏ lẻ, bình quân mỗi hộ chỉ 1,2 ha Làm thế nào để nâng cao giá trị cho nông sản là mối quan tâm hàng đầu Nông dân dễ dàng học hỏi những kỹ thuật sản xuất bằng nhiều cách khác nhau, tuy nhiên làm thế nào để tiếp thị sản phẩm vẫn là vấn đề hóc búa Sự yếu kém trong công tác tiếp thị trái cây là do sản xuất còn manh mún, nhỏ lẻ Do đó, các nhóm nông dân sản xuất và tiếp thị đã được hình thành theo mô hình hợp tác xã vào năm 1992 Những nhóm này được tổ chức theo hình thức tự nguyện do những nhóm nông dân trồng cùng một loại trái cây nằm liền kề nhau Từng nhóm có từ 10-20 nông dân với diện tích khoảng 15-30 ha Nhóm này cùng nhau hợp tác để cùng bán và vận chuyển sản phẩm Bằng cách này, họ nâng cao năng lực tiếp thị và tăng thu nhập cho chính họ, qua đó hình thành các tổ chức hợp tác xã
22 khác nhau tại từng địa phương Các tổ chức này chịu trách nhiệm về mặt quản lý hành chính, còn các trung tâm khuyến nông chịu trách nhiệm tổ chức và chuyển giao tiến bộ kỹ thuật Cho đến ngày nay hợp tác xã này được phối hợp chặt chẽ của các đơn vị tổ chức khác hình thành mô hình Hợp tác xã kiểu mới sản xuất cây ăn trái ở Đài Loan Hợp tác xã Shilei là một hợp tác xã đặc trưng cho mô hình này được lựa chọn để nghiên cứu
1.4.2 Khảo sát thực tế tại Hợp tác ã hilei về mô hình quản lý đất đai
Qua tìm hiểu cho thấy Hợp tác xã Shilei đã rất thành công với chính sách
“Tiểu địa chủ, đại điền nông” Mỗi hợp tác xã có khoảng 100 ha đất nông nghiệp, có 10 người quản lý trong đó có 02 người trên 40 tuổi, 8 người từ 25-40 tuổi Chính phủ hỗ trợ giúp mua máy móc thiết bị và được vay trong thời hạn 10 năm Hợp tác xã không mua đất mà thuê đất của người nông dân để tập trung sản xuất quy mô lớn, có 20 hộ ký hợp đồng thuê đất, sau thời hạn 03 năm tiến hành ký lại Các hộ cho hợp tác xã thuê đất được hưởng lợi tức từ tiền thuê đất tương ứng với diện tích đất của mình có trong hợp tác xã Hợp tác xã áp dụng kỹ thuật, công nghệ, máy móc hiện đại vào trong quá trình sản xuất nên số lượng lao động cần ít mà hiệu quả lại cao hơn so với việc các hộ tự canh tác trên diện tích nhỏ
Các hiệp hội thương mại đóng vai trò quan trọng trong việc quảng bá sản phẩm với sự hỗ trợ tài chính từ Chính phủ Chính phủ cũng hỗ trợ mua lương thực cho các Hợp tác xã với mức 02 tấn/ha, giúp nâng cao thương hiệu và tạo thị trường đầu ra cho sản phẩm Điều này không chỉ đảm bảo an ninh lương thực trong nước mà còn tạo nguồn dự trữ Đối với các khu vực đất hoang hóa, Chính phủ triển khai các nông trại cải tạo đất và sẽ chuyển giao cho hộ sau khi đạt kết quả, đồng thời tài trợ cho việc đánh giá chất lượng đất.
Tất cả các hộ nông dân đều nhận được hỗ trợ hàng tháng từ chính phủ Để duy trì chất lượng đất, những đối tượng cho đất nghỉ cần cày sới lại sau khoảng 3-4 tháng Chính sách đất nghỉ tại Đài Loan, được thực hiện từ năm 2004, đã mang lại hiệu quả đáng kể trong việc bảo vệ chất lượng đất nông nghiệp.
(Nguồn: Báo cáo kết quả khảo sát, nghiên cứu kinh nghiệm tại ài oan của Tổng cục Quản lý ất đai)
1.4.3 Học tập kinh nghiệm từ những thành công trong quản lý, sử dụng đất nông nghiệp của ài oan
Chính phủ Đài Loan thực hiện chính sách “Tiểu địa chủ, đại điền nông” nhằm khuyến khích thanh niên trẻ trở về quê hương tham gia vào sản xuất nông nghiệp.
Hiện nay, Đài Loan sở hữu nhiều Hợp tác xã, với trung bình mỗi thôn có một Hợp tác xã Các Hợp tác xã này thuê đất từ nông dân để phát triển sản xuất quy mô lớn, mang lại hiệu quả cao trong hoạt động.
Diện tích sản xuất trung bình của mỗi nông hộ Đài Loan mặc dù rất thấp, nhưng vẫn có thể phát triển các mô hình hợp tác xã sản xuất hàng hóa quy mô lớn và chất lượng cao Điều này được giải thích bởi ba lý do chính.
Đài Loan không đặt ra thời hạn giao đất nông nghiệp cho các hộ gia đình cá nhân, mà thực hiện việc giao đất vĩnh viễn cho người dân Điều này giúp người dân yên tâm đầu tư vào sản xuất nông nghiệp.
Đến nay, Đài Loan vẫn chưa có quy định về hạn mức tích tụ đất đai, điều này đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc tích tụ đất đai quy mô lớn.
Chính sách khuyến nông và định hướng phát triển hợp tác xã tại Đài Loan đã tạo điều kiện để tập trung đất đai vào những nhóm sản xuất giỏi, đồng thời bảo vệ quyền lợi của các nông dân khác Điều này không chỉ thu hút vốn đầu tư mà còn khuyến khích lực lượng lao động trẻ tham gia vào lĩnh vực nông nghiệp.
Chính sách đất nghỉ và hỗ trợ hàng tháng cho nông hộ cùng với việc tổ chức các nông trại cải tạo đất tại Đài Loan đã đạt được hiệu quả cao trong việc bảo vệ đất nông nghiệp.
T Ự TR N SỬ DỤN ẤT NÔN N ỆP V P ÂN TÍ , ÁN Á N ỮN BẤT ẬP VỀ T Ờ N SỬ DỤN ẤT SẢN XUẤT NÔN
Khái quát khu vực nghiên cứu
Dựa trên kết quả điều tra việc thực hiện Nghị Định 64-CP của Chính phủ, tôi đã chọn 9 xã thuộc 3 tỉnh Hà Giang và Bắc Ninh làm khu vực nghiên cứu.
Hà Tĩnh đặc trưng cho vùng núi, đồng bằng, ven biển
2.1.1 Khái quát điều kiện tự nhiên kinh tế ã hội tỉnh Hà Giang a) Vị trí địa lý:
Hà Giang là tỉnh miền núi cao nằm ở cực bắc của Tổ quốc, có tọa độ từ 22°10' đến 23°23' vĩ Bắc và từ 104°20' đến 105°34' kinh Đông Trung tâm tỉnh là thị xã Hà Giang, cách thủ đô Hà Nội khoảng 320 km Vị trí địa lý của tỉnh rất đặc biệt, tiếp giáp với nhiều khu vực quan trọng.
- Phía Bắc và Tây Bắc giáp Trung Quốc với đường biên giới trên đất liền dài 274 km
- Phía Đông giáp tỉnh Cao Bằng
- Phía Nam giáp tỉnh Tuyên Quang
- Phía Tây Nam giáp tỉnh Yên Bái
- Phía Tây giáp tỉnh Lào Cai
Chọn thu thập nghiên cứu số liệu, tài liệu điều tra điểm của 9 xã, phường, mỗi địa phương điều tra
100 hộ dân Các địa phương thực hiện nghiên cứu bao gồm phường Ngọc Hà, phường Quang Trung, xã Ngọc Đường thuộc Thành phố Hà Giang; thị trấn Vị
Xuyên, xã Phong Quang, xã Đạo Đức thuộc huyện Vị Xuyên; xã Hùng An, xã Việt
Vinh, xã Quang Minh thuộc huyện Bắc Quang
(1) Nguồn: tổng hợp số liệu điều tra của Trung tâm Lưu trữ và Thông tin Đất đai
(2) Nguồn: http://www.otosaigon.com
Hình 2.1: Bản đồ ranh giới tỉnh Hà Giang (2)
Hà Giang nằm tựa vào dãy núi Hoàng Liên Sơn, với địa hình cao dần về phía Tây Bắc và thấp dần về phía Đông Nam Tỉnh có độ cao trung bình từ 800 - 1200 m so với mực nước biển, với thung lũng sông Lô là điểm thấp nhất ở 80 - 100 m và đỉnh Tây Côn Lĩnh cao nhất đạt 2.419 m Mặc dù diện tích không lớn, nhưng do địa hình đặc trưng, Hà Giang có mật độ núi cao dày đặc, với khoảng 10 ngọn núi cao từ 500 - 1.000 m, 24 ngọn từ 1.000 - 1.500 m, 10 ngọn từ 1.500 - 2.000 m và 5 ngọn trên 2.000 m.
Khí hậu Hà Giang mang đặc trưng nhiệt đới và á nhiệt đới, với mùa đông lạnh kéo dài và mùa hè nóng ẩm, mưa nhiều So với các tỉnh Đông Bắc, Hà Giang có khí hậu mát và lạnh hơn, nhưng lại ấm hơn so với các tỉnh Tây Bắc Mùa mưa diễn ra từ tháng 5 đến tháng 10, trong khi mùa khô bắt đầu từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau, với tổng lượng mưa hàng năm đạt từ 2.400 đến 2.700 mm.
Bảng 2.1: Các chỉ tiêu kinh tế xã hội tỉnh Hà Giang
Nội dung chỉ tiêu VT 1995 2010 % thay đổi
Số nhân khẩu toàn Tỉnh khẩu 550.288 743.441 35,1%
Số hộ gia đình hộ 110.057 148.688 35,1%
Số hộ sản xuất nông nghiệp hộ 105.555 125.309 18,7%
Diện tích đất tự nhiên toàn tỉnh m 2 7.831.100.000 7.914.889.200 1,1%
Diện tích đất nông nghiệp không tính đất lâm nghiệp, phi nông nghiệp khác m 2 800.890.000 1.542.293.000 92,6%
Sản lượng lương thực hàng năm toàn xã/huyện/tỉnh quy thóc Tấn 154.158 341.982 121,8%
Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Hà Giang - Cục thống kê tỉnh Hà Giang
Tính đến năm 2010, tỉnh có tổng diện tích đất tự nhiên là 791.488,92 ha, trong đó diện tích đất nông nghiệp đã được giao là 154.229,3 ha, tăng 92,6% so với năm 1995 Dân số toàn tỉnh năm 2010 đã tăng lên 550.288 người.
Tại thời điểm giao đất, tỉnh Hà Giang có 105.555 hộ sản xuất nông nghiệp, con số này đã tăng lên 125.309 hộ vào năm 2010, tương đương với mức tăng 18,7% Mặc dù tỷ lệ hộ nghèo tại thời điểm giao đất khá cao, lên đến 46%, nhưng đến năm 2010, tỷ lệ này đã giảm đáng kể xuống còn 15,8% Sản lượng lương thực hàng năm cũng có sự gia tăng, từ 154.158 tấn tại thời điểm giao đất.
Trong những năm gần đây, kinh tế Hà Giang đã có sự phát triển khả quan, với tốc độ tăng trưởng GDP bình quân giai đoạn 2001 – 2005 đạt 10,58%, cao hơn 0,28% so với giai đoạn 1996 – 2000 và gấp 1,47 lần mức trung bình cả nước là 7,2% Cơ cấu kinh tế đang chuyển dịch tích cực, trong đó nông, lâm nghiệp chiếm 41,4% tổng giá trị nền kinh tế, giảm 8,11% so với năm 2000; công nghiệp - xây dựng chiếm 23,5%, tăng 2,66%; và thương mại - dịch vụ chiếm 35,1%, tăng 5,45% Sản phẩm hàng hóa ngày càng đa dạng, với một số sản phẩm truyền thống và mới có sức cạnh tranh cao, ổn định cả trên thị trường nội địa và xuất khẩu Hạ tầng kinh tế - xã hội được đầu tư xây dựng đáng kể, cùng với sự phát triển của sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và các hoạt động dịch vụ như vận tải, thông tin, điện, nước, tín dụng.
Bảng 2.2: GDP theo khu vực kinh tế thời kỳ 2000 - 2005 Đơn vị: triệu đồng hỉ tiêu Năm 2000 Năm 2002 Năm 2004 Năm 2005
Nông - lâm nghiệp, thu sản 465.041 520.730 584.924 619.137 Công nghiệp - xây dựng 162.055 218.173 271.125 294.948
Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Hà Giang - Cục thống kê tỉnh Hà Giang
Hình 2.2: Bản đồ ranh giới tỉnh Bắc Ninh (3)
2.1.2 Khái quát điều kiện tự nhiên kinh tế ã hội tỉnh Bắc Ninh a) Vị trí địa lý
Bắc Ninh là tỉnh thuộc vùng đồng bằng Bắc bộ, nằm trong châu thổ sông Hồng và gần thủ đô Hà Nội Tỉnh này nằm trong vùng kinh tế trọng điểm, tạo thành tam giác tăng trưởng giữa Hà Nội, Hải Phòng và Quảng Ninh, nơi có tốc độ phát triển kinh tế cao và hoạt động giao lưu kinh tế mạnh mẽ.
- Phía Bắc giáp tỉnh Bắc Giang
- Phía Nam giáp tỉnh Hưng Yên và một phần Hà Nội
- Phía Đông giáp tỉnh Hải Dương
- Phía Tây giáp thủ đô
Nghiên cứu được thực hiện tại 9 xã và thị trấn, mỗi địa phương điều tra 100 hộ dân, bao gồm xã Hiên Vân, xã Tân Chi, xã Lạc Vệ thuộc huyện Tiên Du; xã Xuân Lâm, xã Đại Đồng Thành, xã Nghĩa Đạo thuộc huyện Thuận Thành; thị trấn Gia Bình, xã Đông Cứu, xã Lãng Ngâm thuộc huyện Gia Bình Địa hình tỉnh tương đối bằng phẳng, có hướng dốc từ Bắc xuống Nam và từ Tây sang Đông, với các dòng chảy đổ về sông Đuống và sông Thái Bình Mức độ chênh lệch địa hình không lớn, vùng đồng bằng có độ cao phổ biến từ 3 - 7m, trong khi địa hình đồi núi sót có độ cao từ 40 - 50m Diện tích đồi núi chỉ chiếm 0,53% tổng diện tích tự nhiên toàn tỉnh, chủ yếu phân bố ở huyện Quế Võ và Tiên Du, bên cạnh một số khu vực thấp trũng ven đê thuộc các huyện Gia Bình, Lương Tài, Quế Võ, Yên Phong.
(3) Nguồn: http://www.otosaigon.com
Bắc Ninh có khí hậu nhiệt đới gió mùa với mùa đông lạnh, nhiệt độ trung bình hàng năm đạt 23,3°C Tháng 7 là tháng có nhiệt độ cao nhất với 28,9°C, trong khi tháng 1 là tháng lạnh nhất với nhiệt độ trung bình 15,8°C Sự chênh lệch nhiệt độ giữa tháng cao nhất và tháng thấp nhất là 13,1°C, phản ánh sự đa dạng trong điều kiện khí hậu của vùng.
Bảng 2.3: Các chỉ tiêu kinh tế xã hội tỉnh Bắc Ninh
Nội dung chỉ tiêu VT 1995 2010 % thay đổi
Số nhân khẩu toàn xã/huyện/Tỉnh khẩu
Số hộ gia đình hộ
Số hộ sản xuất nông nghiệp hộ
14 7.27 -48,4% Diện tích đất tự nhiên toàn xã/huyện/tỉnh ha
82.271 3,2% Diện tích đất nông nghiệp không tính đất lâm nghiệp, phi nông nghiệp khác ha
52.785 48.283 -8,5% Sản lượng lương thực hàng năm toàn xã/huyện/tỉnh quy thóc Tấn
Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Bắc Ninh - Cục thống kê tỉnh Bắc Ninh
Tại thời điểm giao đất, toàn tỉnh có diện tích tự nhiên 79.687 ha, trong đó đất nông nghiệp chiếm 52.785 ha Đến năm 2010, diện tích tự nhiên tăng lên 82.271 ha, tương ứng với mức tăng 3,2% Dân số toàn tỉnh vào thời điểm đó là 915.894 người, nhưng đến năm 2010 đã tăng lên 1.038.229 người, tương ứng với mức tăng 13,4% Số hộ sản xuất nông nghiệp lúc giao ruộng là 183.178 hộ, trong khi đến năm 2010 con số này đã tăng lên 209.548 hộ, đạt mức tăng 14%.
Trước đây, Bắc Ninh là một tỉnh thuần nông với tỷ lệ hộ nghèo cao, lên đến 14% Tuy nhiên, đến năm 2010, tỷ lệ này đã giảm đáng kể xuống còn 7,2%.
Với vị trí như trên, Bắc Ninh có nhiều thuận lợi cho sự phát triển kinh tế xã hội của tỉnh:
Khu vực này có hệ thống giao thông quan trọng với các tuyến đường như QL1A, QL18, và đường sắt Hà Nội - Lạng Sơn, cùng với các tuyến đường thủy như sông Đuống, sông Cầu, sông Thái Bình, tạo điều kiện thuận lợi cho việc vận chuyển hàng hóa và hành khách, kết nối với các tỉnh trong cả nước.
Vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc, bao gồm Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Hải Dương, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Hưng Yên và Hà Tây, sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến cơ cấu và tốc độ tăng trưởng kinh tế của Bắc Ninh, đặc biệt trong lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ du lịch.
Bảng 2.4: Một số chỉ tiêu về phát triển KT-XH tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 2000-2006 hỉ tiêu ơn vị tính 2000 2003 2004 2005 2006
1 Tổng sản phẩm trong tỉnh GDP 2.288,3 3.671,9 4.181,2 4.766,1 5.493,1 Nông - lâm nghiệp, thủy sản T đồng 737,4 1.096,5 1.149,2 1.206,1 1.238 Công nghiệp - xây dựng T đồng 880,2 1.554,1 1.862,1 2.195,5 2.640,8 Dịch vụ T đồng 670,7 1.021,3 1.169,9 1.334,7 1.579,4
2 Cơ cấu tổng sản phẩm
Nông - Lâm nghiệp, thủy sản % 37,7 29,0 26,5 25,7 23,6
3 Bình quân lương thực đầu người kg 476,4 470 461 453 441
4 GDP bình quân đầu người USD 240 365 427 525,7 630
Nguồn : Cục Thống kê Bắc Ninh
Trong giai đoạn 2001 - 2006, tỉnh ghi nhận sự phát triển kinh tế - xã hội mạnh mẽ với quy mô nền kinh tế tăng trưởng liên tục, đạt gấp 2,4 lần so với năm 2000 và gấp 3,2 lần so với năm 1997, năm đầu tái lập tỉnh Tốc độ tăng trưởng kinh tế ổn định, bình quân 5 năm đạt 13,9% mỗi năm, cao gấp 1,8 lần so với mức trung bình cả nước Cơ cấu kinh tế chuyển biến tích cực, trong đó tỷ trọng ngành Công nghiệp - xây dựng trong tổng GDP tăng mạnh từ 35,7% năm 2000 lên 47,1% vào năm 2006.
2005 và 47,8 năm 2006; dịch vụ từ 26,3 năm 2000 lên 27,2 năm 2005 và 28,0 năm 2006, Nông nghiệp giảm từ 38 năm 2000 xuống cũn 25,7 năm 2005 và 24,2 năm 2006
Hình 2.3: Bản đồ ranh giới tỉnh Hà Tĩnh (4)
2.1.3 Khái quát điều kiện tự nhiên kinh tế ã hội tỉnh Hà Tĩnh a) Vị trí địa lý
Hà Tĩnh là một tỉnh thuộc vùng Duyên hải Bắc Trung Bộ, có toạ độ địa lý từ
17 0 53'50'' đến 18 0 45'40'' vĩ độ Bắc và 105 0 05'50'' đến 106 o 30'20'' kinh độ Đông Tỉnh có 2 thị xã và 9 huyện với tổng diện tích tự nhiên 605.574 ha
- Phía Bắc giáp tỉnh Nghệ An, phía Nam giáp Quảng Bình
- Phía Đông giáp biển Đông
- Phía Tây giáp với nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào
- Phía Nam giáp tỉnh Quảng Bình
P trên địa bàn nghiên cứu
Thực trạng về giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình cá nhân tại tỉnh Hà Giang
a) Vấn đề giao đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
Chủ trương giao đất nông nghiệp ổn định lâu dài cho hộ gia đình cá nhân theo Nghị định số 64-CP gặp khó khăn do quỹ đất nông nghiệp hạn hẹp Đa số hộ gia đình sống bằng nghề nông, trong khi số hộ phi nông nghiệp rất ít Một số hộ dân di cư đến khai hoang đất sản xuất nhưng không được giao đất, mặc dù họ sống bằng nghề nông Ngoài ra, con của cán bộ, công nhân, viên chức Nhà nước tại địa phương đến tuổi lao động nhưng chưa có việc làm cũng không được giao đất Nguyên nhân một phần là do họ chưa nắm rõ quyền lợi của mình, dẫn đến việc không kịp thời đề nghị xin giao đất.
Bảng 2.7: Kết quả giao đất tại tỉnh Hà Giang hỉ tiêu VT 1995 2010 % thay đổi
Diện tích đất nông nghiệp đã giao ha
Diện tích đất nông nghiệp đã được cấp CNQSDĐ ha
Số hộ gia đình, cá nhân đã được cấp giấy CNQSDĐ hộ
T lệ diện tích đất được cấp
Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Hà Giang - Cục thống kê tỉnh Hà Giang
Tại tỉnh Hà Giang, việc giao đất cho các hộ nông nghiệp đã được thực hiện hiệu quả, với tổng diện tích đất đã giao đạt 154,229.3 ha, tăng 93 ha so với năm 1995 khi chỉ có 80,089 ha Đặc biệt, tỉnh chỉ công nhận diện tích đất đã khai hoang và sử dụng ổn định, không thực hiện giao đất theo suất, do đó không có sự chênh lệch diện tích theo suất.
Kết quả điều tra về thủ tục giao đất cho thấy hầu hết các hộ gia đình đều nhận đủ giấy tờ liên quan đến việc giao đất Mặc dù gần như toàn bộ diện tích đất đã được giao có đầy đủ giấy tờ, vẫn tồn tại một số trường hợp đất giao không có giấy tờ Tuy nhiên, lãnh đạo khẳng định đây chỉ là thiếu sót về mặt thủ tục và không ảnh hưởng đến quyền lợi của người nhận đất.
Bảng 2.8: Thực hiện cấp giấy khi giao đất tại 9 xã thuộc 3 huyện của tỉnh Hà Giang uyện Xã Tổng diện tích đƣợc giao
Diện tích đã cấp giấy chứng nhận
Nguồn: Tổng hợp số liệu điều tra của Trung tâm ưu trữ và Thông tin ất đai b) Thu hồi đất
Diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi ở Hà Giang chủ yếu do xây dựng các nhà máy như luyện kim, thủy điện, sản xuất giấy và các công trình phúc lợi xã hội, tuy nhiên quy mô không lớn, chỉ chiếm 1,4% tổng diện tích đất nông nghiệp đã giao Tính đến cuối năm 2010, tỉnh đã thu hồi 2233,4 ha đất nông nghiệp, trong đó có 208,87 ha đất trồng lúa, khoảng 1972,34 ha đất trồng cây hàng năm và 261,06 ha đất trồng cây lâu năm.
Bảng 2.9: Kết quả thu hồi đất
1 Diện tích đất thu hồi m 2 22.334.000
2.1 ất trồng cây hàng năm m 2 19.723.400
2.2 ất trồng cây lâu năm m 2 2.610.600
2.3 ất trống, đồi núi trọc, khai hoang, lấn biển m 2
5 T lệ diện tích đất đã thu hồi/ DT đã giao % 1,4%
6 T lệ diện tích đất lúa đã thu hồi/DT đã giao % 0,1%
Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Hà Giang - Cục thống kê tỉnh Hà Giang
Việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất sản xuất kinh doanh đang diễn ra mạnh mẽ tại tỉnh, với sự hình thành của nhiều khu công nghiệp như Nhà máy thu điện Nậm Mu, nhà máy khai thác ăngtimon, và các cơ sở sản xuất giấy, ô tô Phần lớn diện tích đất chuyển đổi là đất trồng cây hàng năm, trong đó có một tỷ lệ đáng kể là đất lúa Tuy nhiên, lãnh đạo tỉnh cho biết có nhiều trường hợp người dân tự ý chuyển đổi mục đích sử dụng đất mà không có sự đồng ý của chính quyền địa phương.
Trong quá trình phát triển kinh tế xã hội của tỉnh, nhiều diện tích đất nông nghiệp đã được chuyển đổi sang các mục đích khác, với tổng diện tích chuyển đổi lên tới 1515,23 ha Cụ thể, 367,38 ha đã chuyển sang đất ở, 121,18 ha chuyển sang đất sản xuất kinh doanh, 850,67 ha chuyển sang đất công cộng, và 176 ha chuyển sang đất lâm nghiệp.
Bảng 2.10: Cơ cấu sử dụng đất chuyển đổi từ nông nghiệp năm 2010
10 Diện tích đất nông nghiệp đã chuyển sang mục đích khác m 2
10.2 ất sản uất kinh doanh '' 1.211.800
10.5 ất phi nông nghiệp khác ''
Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Hà Giang - Cục thống kê tỉnh Hà Giang d) Chuyển nhượng đất đai:
Khi trao đổi trực tiếp với lãnh đạo, nhiều cán bộ cho biết sau khi các hộ gia đình nhận đất nông nghiệp theo Nghị định 64-CP, phần lớn vẫn sử dụng đất ổn định Tuy nhiên, một số hộ đã chuyển nhượng đất cho các hộ khác hoặc cho người thân trong gia đình Nguyên nhân chuyển nhượng chủ yếu là do thiếu lao động, một số đã chuyển sang kinh doanh, trong khi một số khác làm việc tại các khu công nghiệp.
36 mang tính tự làm, không thông qua đăng ký tại cơ quan quản lý do vậy gây khó khăn cho công tác quản lý đất đai e) ất công ích:
Kết quả khảo sát tại tỉnh Hà Giang cho thấy không có quỹ đất công ích trong khu vực, do đặc thù địa phương và chính sách giao đất năm 1993 theo Nghị định 64-CP chỉ công nhận diện tích canh tác của từng hộ gia đình mà không phân bổ đất cho mục đích công ích.
Thực trạng về giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình cá nhân tại tỉnh Bắc Ninh
a) Vấn đề giao đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
Tỉnh Bắc Ninh đã thực hiện giao đất cho hầu hết các hộ nông dân, đảm bảo rằng mỗi hộ đều có đất với nhiều loại khác nhau như đất cao, đất thấp, đất tốt, đất xấu, đất gần và đất xa Tuy nhiên, việc phân phối này đã dẫn đến tình trạng đất đai bị phân tán và manh mún.
Bảng 2.11: Kết quả giao đất tại tỉnh Bắc Ninh hỉ tiêu VT 1995 2010 % thay đổi
Diện tích đất nông nghiệp đã giao ha 50.906 41.200 -19%
Số thửa đất đã giao Thửa 1.724.635 776.085 -55% Diện tích bình quân mỗi thửa đất m2 295 420 42% Diện tích đất trồng lúa bình quân mỗi thửa đất m2
400 43% Diện tích đất nông nghiệp đã được cấp CNQSDĐ ha
Số hộ gia đình, cá nhân đã được cấp giấy CNQSDĐ hộ
T lệ diện tích đất được cấp
Theo Niên giám thống kê tỉnh Bắc Ninh của Cục thống kê tỉnh Bắc Ninh, tính đến thời điểm hiện tại, tổng diện tích đất đã được giao tại tỉnh Bắc Ninh là 41.200 ha, giảm 19% so với năm 1995, khi diện tích đất giao đạt 50.906 ha.
Kết quả tổng hợp cho thấy diện tích đất thực tế được giao luôn thấp hơn so với diện tích đất giao theo suất Tại huyện Tiên Du, xã Hiên Vân có diện tích đất giao thực tế vượt quá diện tích theo suất là 105, trong khi xã Lạc Vệ cũng có diện tích đất thực tế được giao nhiều hơn so với diện tích theo suất.
Tại xã Tân Chi, diện tích đất được giao chỉ đạt 84% so với diện tích đất theo suất 102 Huyện Thuận Thành cũng ghi nhận tình trạng tương tự như huyện Tiên Du, với một số xã có diện tích giao vượt quá suất, trong khi một số khác lại thấp hơn Huyện Gia Bình cho thấy phần lớn diện tích đất giao đều thấp hơn so với diện tích tính theo suất.
Lãnh đạo các xã cho biết quỹ đất hạn hẹp khiến đa số hộ gia đình sống chủ yếu bằng nghề nông Do đó, những đối tượng sinh con thứ 3, cán bộ, công nhân viên, công an, bộ đội, người nghỉ hưu mất sức, và người sống thường trú tại địa phương chỉ được tính là một suất mềm Điều này dẫn đến việc diện tích đất thực tế được giao thường ít hơn diện tích theo suất Trường hợp diện tích giao vượt quá suất thường xảy ra khi địa phương tính thêm suất liệt sĩ.
Bảng 2.12: T lệ chênh lệch giữa diện tích theo suất đất và thực tế uyện Tên xã Khi giao đất
Nguồn: Tổng hợp số liệu điều tra của Trung tâm ưu trữ và Thông tin ất đai
Nghiên cứu cho thấy, vào năm 1995, diện tích đất nông nghiệp được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đạt 50,906 ha, với khoảng 183,178 hộ gia đình cá nhân được cấp giấy Kết quả cho thấy, diện tích đất nông nghiệp đã giao và được cấp giấy đạt 100%.
Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Bắc Ninh đã phát triển nhiều khu công nghiệp và công trình phúc lợi xã hội, dẫn đến việc thu hồi một diện tích đất nông nghiệp lớn Tính đến cuối năm 2010, tỉnh đã thu hồi 8.889 ha đất nông nghiệp để phục vụ cho các dự án phát triển.
38 diện tích đất trồng lúa bị thu hồi 6210 ha, đất trồng cây hàng năm bị thu hồi khoảng
6359 ha; diện tích đất trồng cây lâu năm bị thu hồi khoảng 2112 ha
Bảng 2.13: Kết quả thu hồi đất
1 Diện tích đất thu hồi ha 8.889
2.1 ất trồng cây hàng năm '' 6.359
2.2 ất trồng cây lâu năm '' 2.112
3 Số hộ có đất bị thu hồi hộ 44.500
4 T lệ diện tích đất đã thu hồi % 21,6%
5 T lệ diện tích đất lúa đã thu hồi % 15,1%
Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Bắc Ninh - Cục thống kê tỉnh Bắc Ninh c) Chuyển đổi mục đích sử dụng đất
Trong bối cảnh phát triển kinh tế xã hội của tỉnh, việc thu hồi đất để phục vụ cho các dự án đầu tư trong và ngoài nước là vô cùng cần thiết Đã có 8.053 ha đất nông nghiệp được chuyển đổi sang mục đích khác nhằm hỗ trợ phát triển kinh tế xã hội, trong đó một phần diện tích được chuyển sang đất ở.
995 ha; chuyển sang đất sản xuất kinh doanh 4279 ha; chuyển sang đất công cộng
2359 ha; chuyển sang đất lâm nghiệp 28 ha, chuyển sang đất phi nông nghiệp khác
420 ha Nhìn chung, diện tích đất nông nghiệp trên địa bàn tỉnh đã chuyển đổi sang mục đích khác chiếm tới 19,5
Bảng 2.14: Cơ cấu sử dụng đất chuyển đổi từ nông nghiệp năm 2010
10 Diện tích đất nông nghiệp đã chuyển sang mục đích khác m 2 8.053
10.2 ất sản uất kinh doanh '' 4.279
10.5 ất phi nông nghiệp khác '' 420
T lệ diện tích đất nông nghiệp đã chuyển đổi mục đích % 19,5%
Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Bắc Ninh - Cục thống kê tỉnh Bắc Ninh
Tại tỉnh Bắc Ninh, với sự tập trung nhiều khu công nghiệp, việc chuyển nhượng đất đai diễn ra phổ biến và thường được thực hiện hợp lệ thông qua chính quyền địa phương Tuy nhiên, một số hộ gia đình vẫn chuyển nhượng đất cho nhau mà không đăng ký với cơ quan quản lý, dẫn đến khó khăn trong công tác quản lý đất đai Nguyên nhân chuyển nhượng chủ yếu do thiếu lao động hoặc chuyển sang kinh doanh trong các khu công nghiệp.
Kết quả điều tra tại tỉnh Bắc Ninh cho thấy, khi giao đất, địa phương luôn giữ lại khoảng 10 quỹ đất công ích Phần lớn diện tích này được sử dụng cho sản xuất nông nghiệp, nhằm đáp ứng nhu cầu thuê đất của các hộ sản xuất nông nghiệp Thời hạn thuê đất công ích tại địa phương thường không vượt quá 5 năm.
Thực trạng về giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình cá nhân tại tỉnh Hà Tĩnh.39 2.3 Kết quả điều tra xã hội học trên địa bàn nghiên cứu
a) Vấn đề giao đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
Trên toàn tỉnh Hà Tĩnh, hầu hết các hộ nông dân tham gia sản xuất nông nghiệp đã được giao đất Tuy nhiên, tình trạng đất đai sau khi giao vẫn còn phân tán và manh mún, gây khó khăn trong việc canh tác hiệu quả.
Bảng 2.15: Kết quả giao đất tại tỉnh Hà Tĩnh hỉ tiêu VT 1995 2010 % thay đổi
Diện tích đất nông nghiệp đã giao ha 82.950,00 948.52,50 14%
Số thửa đất đã giao Thửa 2.737.624 1.426.346 -48%
Diện tích bình quân mỗi thửa đất m2 303 665 119%
Diện tích đất trồng lúa bình quân mỗi thửa đất m2
778 77% Diện tích đất nông nghiệp đã được cấp CNQSDĐ ha 80.586,00 57.772,74 -28%
Số hộ gia đình, cá nhân đã được cấp giấy CNQSDĐ hộ
T lệ diện tích đất được cấp
Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Hà Tĩnh - Cục thống kê tỉnh Hà Tĩnh
Diện tích trung bình mỗi thửa đất sau khi giao vẫn còn nhỏ, do công tác dồn điền đổi thửa đang trong giai đoạn khởi đầu và gặp một số khó khăn, dẫn đến việc diện tích mỗi thửa tăng không đáng kể.
Trước chuyển đổi, bình quân 10 thửa/hộ, diện tích trung bình 303 m 2 / thửa, thửa có diện tích nhỏ nhất là 10m 2 /thửa, thửa có diện tích lớn nhất là 3.500m 2 / thửa
Sau khi thực hiện chuyển đổi, bình quân số thửa đất mỗi hộ giảm xuống còn 4,5 thửa, giảm 55 thửa so với trước đó Diện tích bình quân mỗi thửa đạt 665m², tăng 119m² so với trước chuyển đổi Thửa đất nhỏ nhất có diện tích 100m², trong khi thửa lớn nhất lên đến 9944m² Đến năm 2010, tổng diện tích đất nông nghiệp đã được giao trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh đạt 94.852,5 ha, tăng 14% so với 82.950 ha vào năm 1995.
Bảng 2.16: T lệ chênh lệch giữa diện tích theo suất đất và thực tế
Số TT uyện Tên xã Tỉ lệ diện tích đƣợc giao so với diện tích theo suất đất
Nguồn: Tổng hợp số liệu điều tra của Trung tâm ưu trữ và Thông tin ất đai
Tại tỉnh Hà Tĩnh, diện tích đất thực tế được giao luôn thấp hơn so với diện tích đất theo suất Cụ thể, huyện Thạch Hà chỉ nhận 94% diện tích đất theo suất, huyện Cẩm Xuyên đạt 96,6%, và huyện Kỳ Anh đạt 97%.
Trong quá trình trao đổi về kết quả giao đất, lãnh đạo các huyện và xã nhấn mạnh rằng việc giao đất cần đảm bảo sự công bằng, với nguyên tắc mỗi hộ gia đình được nhận cả đất tốt lẫn đất xấu, ở các vị trí khác nhau Tuy nhiên, do quỹ đất nông nghiệp hạn hẹp và phần lớn người dân sống chủ yếu bằng nghề nông, những đối tượng như sinh con thứ 3, cán bộ, công nhân viên chức, công an, bộ đội nghỉ hưu chỉ được tính là một suất mềm Điều này dẫn đến tình trạng diện tích đất thực tế được giao thường ít hơn so với diện tích đất tính theo suất Việc giao đất sản xuất nông nghiệp diễn ra trong khuôn khổ thực hiện Nghị định 64.
Tính đến nay, CP đã cấp 227.868/232.262 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho 80.586/82.950 ha, đạt 98% về số hộ và 97% về diện tích Sau quá trình dồn điền, đổi thửa, đã cấp đổi 155.222 giấy chứng nhận với diện tích 57.772,74 ha/94.852,48 ha, đạt 64% diện tích cần cấp Tuy nhiên, do biến động trong gần 20 năm qua, số hộ được cấp giấy chứng nhận tăng lên, nhưng diện tích đất cấp mới theo kế hoạch chuyển đổi ruộng đất vẫn chưa hoàn chỉnh.
Theo báo cáo của tỉnh, tính đến cuối năm 2010, có 16.370 hộ bị thu hồi đất với tổng diện tích bồi thường là 32.191.524m² Tuy nhiên, phần lớn diện tích này chủ yếu là đất xấu và có hiệu quả kinh tế thấp Ngoài ra, các hộ bị thu hồi cũng được bồi thường bằng tiền dựa trên diện tích đất bị thu hồi.
Bảng 2.17: Kết quả thu hồi đất
1 Diện tích đất thu hồi m 2 2.682.627,00 32.191.524,00
1.1 ất trồng cây hàng năm m 2 2436284 29235408
2.2 ất trồng cây lâu năm m 2 240665 2887980
2.3 ất nuôi trồng thủy sản m 2 5678 68136
2 Số hộ có đất bị thu hồi hộ 6420 16370
3 Diện tích đất đã đền bù m 2 2.682.627,00 32.191.524,00
Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Hà Tĩnh - Cục thống kê tỉnh Hà Tĩnh
42 c) Chuyển đổi mục đích sử dụng đất
Lãnh đạo tỉnh cho biết việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất đã trở nên phổ biến trong những năm qua Tuy nhiên, nhiều người dân vẫn tự ý thực hiện việc này mà không có sự đồng ý của chính quyền, do gặp khó khăn trong thủ tục và nghĩa vụ tài chính cao liên quan đến chuyển đổi mục đích sử dụng đất.
Việc sử dụng đất phi nông nghiệp để thu hút vốn đầu tư cho các dự án trong và ngoài nước là cần thiết, đặc biệt khi quỹ đất phi nông nghiệp khá lớn Thay vì khai thác đất nông nghiệp, tỉnh nên xem xét việc phát triển quỹ đất phi nông nghiệp nhằm tối ưu hóa nguồn lực và thu hút đầu tư hiệu quả hơn.
Bảng 2.18: Cơ cấu sử dụng đất chuyển đổi từ nông nghiệp năm 2010
TT Nội dung V 1995 2010 % thay đổi
Diện tích đất nông nghiệp đã chuyển sang mục đích khác m 2 21.052.812 46.473.233 247%
1.2 ất sản uất kinh doanh '' 673.900 832554 124% 1.3 ất công cộng '' 14.635.400 34471276 236%
1.5 ất phi nông nghiệp khác '' 212 542 256%
T lệ diện tích đất nông nghiệp đã chuyển đổi mục đích
Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Hà Tĩnh - Cục thống kê tỉnh Hà Tĩnh d) Chuyển nhượng đất đai
Khi trao đổi trực tiếp với lãnh đạo, nhiều cán bộ cho rằng sau khi các hộ gia đình được giao đất nông nghiệp theo Nghị định 64-CP, phần lớn vẫn đang sử dụng đất ổn định Tuy nhiên, vẫn có một số hộ chuyển nhượng đất cho hộ khác, chủ yếu do thiếu lao động hoặc đã chuyển sang kinh doanh và làm việc trong các khu công nghiệp.
Việc 43 nhượng đất đai giữa các hộ dân không được thực hiện qua cơ quan đăng ký đất đai và chính quyền địa phương đã gây ra nhiều khó khăn trong công tác quản lý đất đai.
Toàn bộ diện tích đất công ích của tỉnh đã được quy hoạch cụ thể, chủ yếu phục vụ cho doanh nghiệp và một số ít người dân Do đất công ích nông nghiệp chủ yếu là đất xấu, khó canh tác, lãnh đạo tỉnh cho rằng thời hạn thuê 5 năm là hợp lý Nếu kéo dài thời gian thuê, việc thu hồi đất sẽ gặp khó khăn và chi phí bồi thường sẽ tăng cao.
Lãnh đạo tỉnh đề xuất rằng tỷ lệ đất công ích nên được điều chỉnh để phục vụ cho việc giao đất cho các hộ gia đình và cá nhân bị thu hồi đất nông nghiệp cho các dự án đầu tư Thay vì áp dụng mức tỷ lệ chung 5% như hiện nay, tỷ lệ này cần phụ thuộc vào quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất của từng địa phương Các khu vực có tiềm năng phát triển công nghiệp cao nên có tỷ lệ quy định cao, trong khi những huyện ít phát triển công nghiệp có thể áp dụng tỷ lệ thấp hơn Việc điều chỉnh này sẽ giúp giảm chi phí bồi thường khi thu hồi đất, hạn chế các phức tạp phát sinh và đảm bảo tính công bằng xã hội.
Bảng 2.19: Sử dụng đất công ích
TT hỉ tiêu VT 1995 2010 % thay đổi
1 Diện tích đất nông nghiệp giữ lại cho mục đích công ích m 2 48.805.000
2 Diện tích đất nông nghiệp đã sử dụng cho mục đích công ích m 2
2.1 Sử dụng làm đất nông nghiệp m 2 12.463.000 20.934.800 68 2.2 Xây dựng công trình công cộng m 2 796 1.120 41
2.3 Bồi thường cho các hộ gia đình có đất bị thu hồi m 2
2.4 Sử dụng cho mục đích khác như xây dựng nhà ở, cho thuê kinh doanh phi nông nghiệp m 2 354 4.720.750 33
Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Hà Tĩnh - Cục thống kê tỉnh Hà Tĩnh
2.2.4 Kết luận về quá trình giao đất nông nghiệp theo Nghị định 64-CP trên địa bàn nghiên cứu
Việc thực hiện giao đất theo Nghị định 64-CP đã nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ từ người dân ngay từ đầu, nhờ vào tính kịp thời và sự phù hợp với thực tế nông nghiệp Việt Nam Chính sách này đã mang lại những thành tựu lớn, giúp Việt Nam chuyển mình từ một quốc gia thiếu lương thực thành một trong những nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới Tuy nhiên, sự phát triển liên tục của ngành nông nghiệp đã khiến chính sách này dần trở nên không còn phù hợp.
Nghị định 64-CP khi triển khai trên thực tế đã được áp dụng một cách linh hoạt phù hợp với điều kiện đặc trưng của từng địa phương như:
Tỉnh Hà Giang, một tỉnh miền núi, có đặc thù sử dụng đất nông nghiệp chủ yếu từ đất khai hoang với sự ổn định thấp Do đó, khi áp dụng Nghị định 64-CP, địa phương không giao đất theo suất mà chủ yếu công nhận quyền sử dụng đất cho các hộ dân đối với phần đất đã được khai hoang và sử dụng ổn định từ trước.
Kết quả điều tra tại tỉnh Hà Giang
2.3.1.1 Hiện trạng nông dân không có đất sản uất và biến động đất đai
Tại tỉnh Hà Giang, việc giao đất cho các hộ tham gia sản xuất nông nghiệp đã được thực hiện khá hiệu quả, đảm bảo rằng hầu hết các hộ đều nhận được đất để phát triển nông nghiệp.
Nhiều ý kiến cho rằng Nghị định 64-CP về giao đất đã phát sinh nhiều vướng mắc, đặc biệt liên quan đến thời hạn giao đất Một vấn đề nổi bật là nhiều đối tượng sinh sau thời điểm giao ruộng vẫn không có đất sản xuất, trong khi một số hộ không có nhu cầu sản xuất hoặc đã chuyển đi nơi khác vẫn giữ đất Tại một số địa phương, nhiều hộ di cư đến khai hoang đất nhưng không được giao đất, trong khi con của cán bộ, công nhân, viên chức địa phương đến tuổi lao động cũng không có đất sản xuất Những bất cập này tạo ra sự không công bằng trong quá trình giao đất không thu tiền sử dụng đất, khi điều kiện công bằng chỉ được đảm bảo tại thời điểm giao đất mà không duy trì theo thời gian.
Bảng 2.20: Tỉ lệ đối tượng không được giao đất ối tƣợng giao đất uyện Bắc Quang
Những người sống chính bằng nông nghiệp chưa có hộ khẩu thường trú
Xã viên đã chuyển sang phi nông nghiệp nhưng không có việc làm
Con của cán bộ, công nhân, viên chức Nhà nước sống tại địa phương
Cán bộ, công nhân, viên chức, công an, bộ đội nghỉ mất sức, sống thường trú tại địa phương
Nguồn: Tổng hợp số liệu điều tra của Trung tâm ưu trữ và Thông tin ất đai
Qua tổng hợp số liệu điều tra xã hội học 900 hộ dân của tỉnh Hà Giang cho thấy tỉ lệ đối tượng không được giao đất gồm:
Những người sống chủ yếu bằng nông nghiệp tại địa phương nhưng chưa có hộ khẩu thường trú và được Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận sẽ không được giao đất chiếm 19,1.
Xã viên hợp tác xã nông nghiệp trước đây đã chuyển sang làm việc tại hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp hoặc các hợp tác xã khác, nhưng hiện tại họ đang đối mặt với tình trạng thất nghiệp Việc trở lại làm nông nghiệp của họ gặp khó khăn do không được giao đất, chiếm tỷ lệ 18,8%.
- Con của cán bộ, công nhân, viên chức Nhà nước sống tại địa phương đến tuổi lao động nhưng chưa có việc làm không được giao đất chiếm 22,1 ;
Cán bộ, công nhân, viên chức Nhà nước và bộ đội nghỉ mất sức hoặc do sắp xếp lại sản xuất chỉ được hưởng trợ cấp một lần hoặc trợ cấp trong một số năm sống thường trú tại địa phương mà không được giao đất Về thời hạn giao đất, lãnh đạo tỉnh, huyện và cán bộ địa chính đồng thuận rằng nên giao đất vĩnh viễn để tránh những phiền phức và bất cập trong việc sửa đổi định kỳ.
Bảng 2.21: Thực trạng sử dụng đất hỉ tiêu uyện Bắc
Tổng diện tích đất được giao 100,0% 100,0% 100,0% 100,0% Đang sản xuất kinh doanh 94,7% 94,4% 96,2% 95,1% Đã chuyển nhượng,cho thừa kế 5,3% 5,2% 4,0% 4,9%
Trong đó chuyển nhượng trong gia đình 0,9% 0,6% 3,0% 1,5%
Nguồn: Tổng hợp số liệu điều tra của Trung tâm ưu trữ và Thông tin ất đai
Tại tỉnh Hà Giang, đất nông nghiệp chủ yếu được hình thành từ khai hoang, do đó, quyền sử dụng đất không được giao theo suất mà chỉ công nhận cho những diện tích đã được khai hoang và sử dụng ổn định trước đó Quyền sử dụng đất cũng được công nhận cho các diện tích đã được giao khoán theo chương trình khoán 10 và khoán 100 Do đó, những trường hợp không được giao đất sẽ không được công nhận quyền sử dụng đối với diện tích đất mà họ đang sử dụng.
Biến động về đất sản xuất tại Hà Giang không đáng kể, chủ yếu là các giao dịch thừa kế hoặc chuyển nhượng trong gia đình, chiếm tỷ lệ rất nhỏ, chỉ khoảng 4,9%.
2.3.1.2 Khả năng tích tụ đất đai
Việc khuyến khích tập trung đất đai nhằm tăng cường sản xuất hàng hóa quy mô lớn đang gặp nhiều hạn chế, chủ yếu do tình trạng đất đai manh mún và phân tán, thiếu vốn đầu tư, thiếu kinh nghiệm quản lý, cùng với lo ngại về khả năng tiêu thụ sản phẩm Những yếu tố này là điều kiện cần thiết để thu hút đầu tư vào sản xuất quy mô lớn và áp dụng công nghệ tiên tiến nhằm nâng cao năng suất.
Bảng 2.22: Các yếu tố cản trở đến tích tụ đất đai hỉ tiêu uyện Bắc
Hà Giang Đất đai quá manh mún, phân tán 56,0% 56,7% 62,2%
Nông dân thờ ơ, không quan tâm 0,0% 2,8% 0,0%
Thiếu vốn để SX hàng hóa quy mô lớn 32,2% 14,4% 39,6%
Thiếu kinh nghiệm quản lý 18,1% 6,9% 31,8%
Lo ngại khó tiêu thụ sản phẩm 46,3% 14,7% 77,1% Đất đai cằn cỗi 4,0% 10,5% 2,0%
Nguồn: Tổng hợp số liệu điều tra của Trung tâm ưu trữ và Thông tin ất đai
Theo kết quả điều tra xã hội học từ 900 hộ dân, diện tích đất nông nghiệp được giữ lại chủ yếu phục vụ cho sản xuất nông nghiệp Phần lớn người dân mong muốn thời hạn thuê đất trên 5 năm, với 35,1% ý kiến cho rằng thời hạn hợp lý là trên 10 năm, 64,1% cho rằng thời hạn từ 5 đến 10 năm, trong khi chỉ 0,9% ý kiến cho rằng thời hạn thuê đất công ích dưới 5 năm.
Nhiều người dân cho rằng để phát triển kinh tế trang trại hiệu quả, nhà nước cần kéo dài thời gian cho thuê đất công ích trên 20 năm Việc này sẽ giúp các hộ dân yên tâm đầu tư và thúc đẩy sự phát triển bền vững của kinh tế trang trại.
Bảng 2.23: Thời hạn thuê đất công ích uyện Không quá 5 năm Từ 5 đến 10 năm Trên 10 năm
Nguồn: Tổng hợp số liệu điều tra của Trung tâm ưu trữ và Thông tin ất đai 2.3.1.3 Ý kiến về chính sách giao lại đất khi hết thời hạn
Nhiều hộ gia đình ngại đầu tư do lo ngại về việc xác định kinh phí trong trường hợp đất thuê bị thu hồi trước thời hạn Họ cho rằng việc thỏa thuận chi phí đền bù giữa nhà đầu tư và chính quyền nên được thực hiện ngay tại thời điểm ký kết hợp đồng.
Khi thời hạn giao đất theo Nghị định 64-CP sắp kết thúc, nhiều người dân đang lo lắng về việc liệu họ có thể tiếp tục sử dụng diện tích đất đang canh tác hay không và có khả năng bị thu hồi để giao lại hay không.
Bảng 2.24 thể hiện ý kiến của hộ gia đình và cá nhân về chính sách thu hồi đất để giao lại theo mặt bằng lao động mới tại huyện Xã Kết quả cho thấy không có ý kiến nào được đưa ra.
Nguồn: Tổng hợp số liệu điều tra của Trung tâm ưu trữ và Thông tin ất đai
Vấn đề giao lại đất khi hết thời hạn theo Nghị định 64-CP đang thu hút sự quan tâm lớn từ người dân Kết quả khảo sát cho thấy, đa số ý kiến, lên tới 94,1%, đều không ủng hộ việc giao lại đất.
Chỉ khoảng 0,8% số hộ không có ý kiến, chủ yếu là các hộ gia đình có người già và không còn tham gia sản xuất nông nghiệp Mặc dù phần lớn các hộ bị thu hồi đất đồng ý với chính sách giao đất theo mặt bằng lao động mới, nhưng do tỉnh Hà Giang có ít biến động về đất nông nghiệp, số lượng đối tượng này chỉ chiếm một phần nhỏ Do đó, tỷ lệ ý kiến ủng hộ việc giao lại đất rất thấp, trung bình chỉ khoảng 5,2%.
Kết quả điều tra tại tỉnh Bắc Ninh
2.3.2.1 Hiện trạng nông dân không có đất sản uất và biến động đất đai:
Tại tỉnh Bắc Ninh, việc giao đất cho hộ dân tham gia sản xuất nông nghiệp đã đạt được kết quả tích cực, tuy nhiên vẫn tồn tại những bất cập Một số hộ sinh sau thời điểm giao ruộng hiện vẫn thiếu đất sản xuất, trong khi đó có những hộ không có nhu cầu sản xuất hoặc đã chuyển đi nơi khác, nhưng vẫn giữ lại đất sản xuất.
Lãnh đạo tỉnh cho biết nhiều hộ dân di cư từ các địa phương khác đến mua đất để sản xuất hoặc sinh sống, nhưng thường không có mặt tại địa phương khi giao đất do đi làm ăn xa Bên cạnh đó, một số con của cán bộ, công nhân, viên chức Nhà nước cũng đang sinh sống tại địa phương và đã đến tuổi lao động.
Năm 53 tuổi nhưng vẫn chưa có việc làm và không được giao đất, những yếu tố này đã tạo ra sự bất hợp lý và mất công bằng trong quá trình giao đất.
Qua tổng hợp số liệu điều tra xã hội học 900 hộ dân của tỉnh Bắc Ninh cho thấy tỉ lệ đối tượng này như sau:
Những người làm nông nghiệp tại địa phương nhưng chưa có hộ khẩu thường trú, được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận, hiện không được giao đất, chiếm tỷ lệ 39,2%.
Xã viên hợp tác xã nông nghiệp, trước đây chuyển sang làm việc tại các hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp hoặc các lĩnh vực khác, hiện đang đối mặt với tình trạng thất nghiệp Họ muốn trở lại làm nông nghiệp nhưng không được giao đất, chiếm tỷ lệ 26,7%.
- Con của cán bộ, công nhân, viên chức Nhà nước sống tại địa phương đến tuổi lao động nhưng chưa có việc làm nhưng không được giao đất chiếm 31,3 ;
Cán bộ, công nhân, viên chức Nhà nước và bộ đội nghỉ mất sức hoặc do sắp xếp lại sản xuất, tinh giảm biên chế sẽ được hưởng trợ cấp một lần hoặc trợ cấp trong một số năm sống thường trú tại địa phương, nhưng không được giao đất chiếm 34,3.
Bảng 2.27: Tỉ lệ đối tượng không được giao đất ối tƣợng giao đất uyện
Những người sống chính bằng nông nghiệp chưa có hộ khẩu thường trú
Xã viên đã chuyển sang phi nông nghiệp nhưng không có việc làm
Con của cán bộ, công nhân, viên chức Nhà nước sống tại địa phương
Cán bộ, công nhân, viên chức, công an, bộ đội nghỉ mất sức, sống thường trú tại địa phương
Nguồn: Tổng hợp số liệu điều tra của Trung tâm ưu trữ và Thông tin ất đai
Bảng 2.28: Thực trạng sử dụng đất hỉ tiêu uyện Gia Bình
Tổng diện tích đất được giao 100,0% 100,0% 100,0% 100,0% Đang sản xuất kinh doanh 95,3% 95,7% 92,4% 94,5% Đã chuyển nhượng,cho thừa kế 1,3% 3,2% 2,3% 2,3%
Trong đó chuyển nhượng trong gia đình 1,6% 2,5% 1,7% 1,9% Đã thu hồi 3,3% 1,1% 5,3% 3,2%
Nguồn: Tổng hợp số liệu điều tra của Trung tâm ưu trữ và Thông tin ất đai
Theo khảo sát tại 3 huyện của tỉnh Bắc Ninh, 94,5% diện tích đất đã giao được sử dụng cho sản xuất kinh doanh, trong khi 2,3% diện tích đất chuyển nhượng, trong đó chuyển nhượng trong gia đình chiếm 1,9% Ngoài ra, 3,2% diện tích đất bị thu hồi để sử dụng vào mục đích khác.
2.3.2.2 Khả năng tích tụ đất đai
Khuyến khích tích tụ đất đai nhằm thúc đẩy sản xuất hàng hóa trong nông nghiệp là một chính sách hợp lý Tuy nhiên, quá trình này vẫn gặp phải một số cản trở nhất định.
Tại tỉnh Bắc Ninh, điều tra cho thấy khoảng 50% hộ dân cho rằng tình trạng đất đai manh mún, phân tán là rào cản lớn đối với việc tích tụ đất đai Bên cạnh đó, từ 18-28% người được hỏi cho rằng thiếu vốn là nguyên nhân chính hạn chế sản xuất hàng hóa quy mô lớn Ngoài ra, dưới 10% cho rằng đất đai cằn cỗi, lo ngại về tiêu thụ sản phẩm và sự thờ ơ của nông dân cũng góp phần vào vấn đề này.
Bảng 2.29: Các yếu tố cản trở đến tích tụ đất đai hỉ tiêu uyện
Tiên Du uyện Thuận Thành uyện Gia Bình Đất đai quá manh mún, phân tán 50,0% 47,0% 47,7%
Nông dân thờ ơ, không quan tâm 5,0% 3,0% 1,7%
Thiếu vốn để SX hàng hóa quy mô lớn 28,3% 19,7% 18,3% Thiếu kinh nghiệm quản lý 7,0% 8,3% 7,7%
Lo ngại khó tiêu thụ sản phẩm 9,7% 9,3% 3,0% Đất đai cằn cỗi 1,3% 0,0% 0,0%
Nguồn: Tổng hợp số liệu điều tra của Trung tâm ưu trữ và Thông tin ất đai
Nghiên cứu tại 3 huyện tỉnh Bắc Ninh cho thấy, diện tích đất nông nghiệp dành cho mục đích công ích chủ yếu phục vụ sản xuất nông nghiệp Khoảng 67,1% người dân mong muốn thời hạn thuê đất từ 5 đến 10 năm, trong khi 24,1% ý kiến cho rằng thời hạn trên 10 năm là hợp lý Chỉ khoảng 8,8% người dân cho rằng thời hạn thuê đất công ích không quá 5 năm là phù hợp.
Bảng 2.30: Thời hạn thuê đất công ích uyện Không quá 5 năm Từ 5 đến 10 năm Trên 10 năm
Nguồn: Tổng hợp số liệu điều tra của Trung tâm ưu trữ và Thông tin ất đai 2.3.2.3 Ý kiến về chính sách giao lại đất khi hết thời hạn
Kết quả điều tra tại ba huyện của tỉnh Bắc Ninh cho thấy phần lớn các hộ dân không muốn giao lại đất, với khoảng 66,5% hộ gia đình muốn giữ đất vì họ đang sử dụng ổn định và đã thực hiện dồn điền, đổi thửa Họ chỉ mong muốn được gia hạn quyền sử dụng đất hoặc giao không thời hạn để yên tâm sản xuất Tuy nhiên, tại ba xã Đại Đồng Thành, Đông Cứu và Lãng Ngâm, tỷ lệ hộ đồng ý giao lại đất lên tới trên 42%, do các xã này có nhiều khu công nghiệp và đất nông nghiệp bị thu hồi lớn, khiến nhiều hộ dân muốn giao lại đất để tạo thêm không gian canh tác cho con cháu.
Bảng 2.31 trình bày ý kiến của hộ gia đình và cá nhân về chính sách thu hồi đất nhằm giao lại đất theo mặt bằng lao động mới tại huyện Xã ó Kết quả cho thấy, huyện Tiên không có ý kiến nào từ phía người dân về vấn đề này.
Xã Ngĩa Đạo 1,0% 92,0% 7,0% uyện ia
Nguồn: Tổng hợp số liệu điều tra của Trung tâm ưu trữ và Thông tin ất đai
Theo kết quả điều tra, hầu hết các hộ không bị thu hồi đất cho rằng nhà nước không nên giao lại đất sau khi hết thời hạn Ngược lại, các hộ bị thu hồi đất lại đồng ý với phương án giao lại đất Tỉnh Bắc Ninh ghi nhận nhiều biến động trong việc sử dụng đất, dẫn đến tỷ lệ trung bình các hộ đồng ý với chính sách thu hồi đất để giao lại theo mặt bằng lao động mới lên tới 23,5%.
Qua các cuộc trao đổi với các hộ không bị thu hồi đất, khoảng 60% ý kiến đồng ý không giao lại đất cho các hộ đã nhận tiền bồi thường, mà thay vào đó, đề xuất lập quỹ đất công ích để các hộ bị thu hồi có thể thuê lại Một số ít ý kiến, chủ yếu từ các xã Xuân Lâm, Đại Đồng Thành, Đông Cứu, Lãng Ngâm, cho rằng nên giao lại đất cho các hộ đã nhận tiền bồi thường và lập quỹ đất công ích Số còn lại không có ý kiến về vấn đề này.
Bảng 2.32 cho thấy ý kiến của hộ gia đình và cá nhân về việc thành lập quỹ đất công ích để cho thuê hoặc giao thêm cho hộ bị thu hồi đất tại huyện Xã Kết quả cho thấy không có ý kiến đồng thuận về vấn đề này.
Nguồn: Tổng hợp số liệu điều tra của Trung tâm ưu trữ và Thông tin ất đai
Kết quả điều tra tại tỉnh Hà Tĩnh
2.3.3.1 Hiện trạng nông dân không có đất sản uất và biến động đất đai
Khảo sát tại ba huyện ở tỉnh Hà Tĩnh cho thấy, có bốn nhóm đối tượng không được giao đất với tỷ lệ phần trăm khác nhau: 37,5% là những người sống chủ yếu bằng nông nghiệp nhưng không có hộ khẩu thường trú; 11,9% là xã viên hợp tác xã nông nghiệp đã chuyển sang làm việc ở các lĩnh vực khác nhưng hiện không có việc làm và muốn trở lại nông nghiệp; 33,7% là con của cán bộ, công nhân, viên chức Nhà nước sống tại địa phương nhưng chưa có việc làm; và 50,0% là cán bộ, công nhân, viên chức Nhà nước hoặc bộ đội nghỉ hưu không được giao đất, chỉ nhận trợ cấp một lần hoặc trong một số năm.
Bảng 2.34: Tỉ lệ đối tượng không được giao đất ối tƣợng giao đất uyện ẩm
Những người sống chính bằng nông nghiệp chưa có hộ khẩu thường trú
Xã viên đã chuyển sang phi nông nghiệp nhưng không có việc làm
Con của cán bộ, công nhân, viên chức Nhà nước sống tại địa phương
Cán bộ, công nhân, viên chức, công an, bộ đội nghỉ mất sức, sống thường trú tại địa phương
Nguồn: Tổng hợp số liệu điều tra của Trung tâm ưu trữ và Thông tin ất đai
Theo điều tra hộ, hầu hết các gia đình vẫn sản xuất kinh doanh trên diện tích được giao, với phần lớn diện tích đã được chuyển nhượng cho con cái để trồng cấy Một số ít diện tích bị thu hồi hoặc cho thuê, mượn Tỉnh chỉ mới thực hiện chuyển đổi ruộng đất từ năm 2008, nên đất nông nghiệp vẫn ổn định, và chỉ có một số ít được chuyển nhượng cho con sau khi họ có gia đình vào năm 2010 Công tác thu hồi đất để xây dựng các công trình hiện đang bị hạn chế, nhằm bảo vệ diện tích đất lúa, và chỉ thu hồi một phần rất nhỏ để phục vụ cho các công trình giao thông, mang lại lợi ích trực tiếp cho người dân.
Bảng 2.35: Thực trạng sử dụng đất hỉ tiêu uyện ẩm Xuyên
Tổng diện tích đất được giao 100.0% 100.0% 100.0% 100.0% Đang sản xuất kinh doanh 98.9% 99.0% 99.6% 99.2% Đã chuyển nhượng,cho thừa kế 0.2% 0.8% 0.4% 0.4%
Trong đó chuyển nhượng trong gia đình 0.0% 0.5% 0.4% 0.3% Đã thu hồi 1.0% 0.2% 0.0% 0.4%
Nguồn: Tổng hợp số liệu điều tra của Trung tâm ưu trữ và Thông tin ất đai
2.3.3.2 Khả năng tích tụ đất đai
Diện tích đất công ích của tỉnh đã được quy hoạch chủ yếu cho doanh nghiệp và một số ít người dân, với đất nông nghiệp chủ yếu là đất xấu khó canh tác Lãnh đạo tỉnh cho rằng thời hạn thuê đất 5 năm là hợp lý, bởi nếu kéo dài sẽ gây khó khăn trong việc thu hồi và tăng chi phí bồi thường Họ cũng đề xuất trích tỉ lệ đất công ích chủ yếu để cấp đổi cho các hộ gia đình bị thu hồi đất nông nghiệp phục vụ GPMB Tỉ lệ này không nên quy định chung mà cần phụ thuộc vào quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất của từng địa phương Đối với những khu vực có điều kiện phát triển công nghiệp tốt, tỉ lệ cần cao hơn, trong khi những huyện có ít triển vọng phát triển thì tỉ lệ nên thấp hơn Quy định như vậy sẽ giúp giảm chi phí bồi thường, giảm phức tạp trong thu hồi đất và đảm bảo tính công bằng xã hội.
Theo điều tra tại các xã thuộc 3 huyện, đa số người dân (59,7%) cho rằng thời hạn thuê không nên vượt quá 5 năm Mặc dù có một số ít ý kiến đề xuất tăng thời hạn thuê, nhưng tỷ lệ này vẫn không cao.
Bảng 2.36: Thời hạn thuê đất công ích uyện Không quá 5 năm Từ 5 đến 10 năm Trên 10 năm
Để khuyến khích nông dân đầu tư vào việc khai thác hiệu quả đất công ích, cần thiết phải có quy định rõ ràng và kịp thời nhằm giảm thiểu rủi ro cho những người đã bỏ vốn đầu tư Điều này giúp tránh tình trạng chấm dứt hợp đồng thuê đất ngay sau khi nông dân đã đầu tư cải tạo đất đai.
2.3.3.3 Ý kiến về chính sách giao lại đất khi hết thời hạn
Khi được hỏi về việc giao lại đất, đa số ý kiến từ cả các hộ không bị thu hồi đất lẫn các hộ bị thu hồi đều không ủng hộ việc này.
Mặc dù có 76,6% hộ dân bị thu hồi đất, nhưng chỉ một số ít ý kiến không muốn giao lại đất, chủ yếu tập trung ở 13,1% ý kiến đồng ý với chính sách thu hồi để giao lại đất theo mặt bằng lao động mới Một số khu vực như xã Phù Việt, xã Thạch Xuân và thị trấn Cẩm Xuyên có nhiều biến động về sử dụng đất, dẫn đến tỷ lệ hộ dân đồng ý giao lại đất tăng cao.
Còn lại số hộ không có ý kiến chiếm trung bình 10,3 , chủ yếu là các hộ còn toàn người già, con cái đã lớn và thoát ly nghề nông
Bảng 2.37 thể hiện ý kiến của hộ gia đình và cá nhân về chính sách thu hồi đất nhằm giao lại đất theo mặt bằng lao động mới tại huyện Xã ó Kết quả cho thấy không có ý kiến nào được đưa ra.
Nguồn: Tổng hợp số liệu điều tra của Trung tâm ưu trữ và Thông tin ất đai
Hầu hết các hộ dân, cả bị thu hồi và không bị thu hồi, đều đồng ý giao lại đất để dành một quỹ đất công ích cho những hộ bị thu hồi hoặc những hộ mới phát sinh, nhằm đảm bảo đất canh tác cho đời sống người dân Tuy nhiên, gần 90% số hộ không đồng ý giao lại đất cho những hộ đã bị thu hồi, mặc dù thực tế số hộ này chỉ chiếm một phần trong 13,1% tổng số hộ có ý kiến đồng ý giao lại đất.
Bảng 2.38 cho thấy ý kiến của hộ gia đình và cá nhân không bị thu hồi đất về việc thành lập quỹ đất công ích cho các hộ bị thu hồi thuê lại Tại xã X, không có ý kiến nào được đưa ra về vấn đề này.
Nguồn: Tổng hợp số liệu điều tra của Trung tâm ưu trữ và Thông tin ất đai
Bảng 2.39 cho thấy ý kiến của hộ gia đình và cá nhân không bị thu hồi đất về việc có nên giao lại đất cho hộ đã nhận tiền đền bù Kết quả cho thấy, tại huyện Xã, không có ý kiến nào được đưa ra.
Nguồn: Tổng hợp số liệu điều tra của Trung tâm ưu trữ và Thông tin ất đai
2.3.3.4 Những kết luận về kết quả điều tra tại Hà Tĩnh
Khảo sát cho thấy việc giao đất tại tỉnh diễn ra hiệu quả, nhưng vẫn còn một số đối tượng có nhu cầu tham gia sản xuất nông nghiệp chưa được giao đất.
Hà Tĩnh là tỉnh ven biển với diện tích nông nghiệp thấp, nổi bật với phát triển ngư nghiệp và một phần diện tích ruộng có nguồn gốc từ đất khai hoang Biến động trong sử dụng đất nông nghiệp tại Hà Tĩnh không lớn, chủ yếu diễn ra qua chuyển nhượng trong gia đình hoặc thừa kế Tỷ lệ diện tích ruộng đất bị thu hồi để sử dụng cho mục đích khác chỉ chiếm khoảng 0,4% tổng diện tích đất nông nghiệp đã giao.
Ý kiến của các hộ nông dân về thời hạn thuê đất công ích được chia thành hai nhóm: Nhóm thứ nhất, với thời gian thuê 5 năm, là những người không được thuê đất và mong muốn có cơ hội luân chuyển nhanh để đất đến tay họ Nhóm thứ hai, với thời gian thuê trên 10 năm, là những người đã được thuê đất công ích và mong muốn có thời gian dài hạn để đầu tư phát triển.
Khi được khảo sát về chính sách thu hồi đất để giao lại theo mặt bằng lao động mới, phần lớn các hộ gia đình và cá nhân phản đối việc giao lại đất Chỉ một số ít ý kiến đồng ý, chủ yếu đến từ nhóm các hộ bị thu hồi đất nông nghiệp và đã nhận tiền bồi thường.
Phân tích, đánh giá số liệu điều tra để phát hiện những thành công và bất cập còn tồn tại trong sử dụng đất nông nghiệp có thời hạn
2.4.1 Những thành công trong quản lý và sử dụng đất sản uất nông nghiệp được giao theo Nghị định 64-CP tại Hà Giang, Bắc Ninh, Hà Tĩnh
Nghị định 64-CP đã được triển khai rộng rãi, đảm bảo hầu hết người tham gia sản xuất nông nghiệp đều nhận được đất Việc giao đất này đã đóng góp quan trọng vào việc phát huy nguồn lực, giúp nông dân chủ động hơn trong quyết định sản xuất kinh doanh, từ đó nâng cao hiệu quả khai thác và sử dụng đất đai.
Trong giai đoạn đầu, niềm vui khi sở hữu đất sản xuất đã thúc đẩy các hộ dân tích cực đầu tư vào sản xuất, dẫn đến sự gia tăng mạnh mẽ về năng suất và sản lượng lương thực hàng năm.
- Theo số liệu thống kê sản lượng quy thóc hàng năm trên địa bàn tỉnh như sau:
Tỉnh Hà Giang đã chứng kiến sự tăng trưởng ấn tượng trong sản lượng nông nghiệp, từ 154.158 tấn năm 1995 lên 341.982 tấn vào năm 2010, tương ứng với mức tăng 121,8% Sự mở rộng diện tích đất nông nghiệp, cùng với việc người dân được hỗ trợ vốn và kỹ thuật, đã giúp chuyển đổi từ phương thức phát nương làm rẫy sang thâm canh, góp phần làm tăng sản lượng đáng kể.
+ Tỉnh Bắc Ninh năm 1995 có tổng sản lượng 308553 tấn, đến năm 2010 tổng sản lượng là 504000 tấn tăng 63,3
+ Tỉnh Hà Tĩnh năm 1995 có tổng sản lượng 373442 tấn, đến năm 2010 tổng sản lượng là 457000 tấn tăng 22,4%
Tỉ lệ hộ nghèo tại tỉnh Hà Giang đã giảm đáng kể, từ 15,8% vào năm 2010, giảm 65,7% so với thời điểm giao đất Tương tự, tỉnh Bắc Ninh cũng ghi nhận tỉ lệ hộ nghèo còn 7,3% vào năm 2010, giảm 48,4% so với thời điểm giao đất.
Hà Tĩnh tính đến năm 2010 tỉ lệ hộ nghèo còn 7,3 , giảm 48,4
Theo khảo sát tại ba tỉnh, hầu hết diện tích đất được giao đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng, đạt trung bình trên 95% Tuy nhiên, một số trường hợp vẫn chưa được chỉnh lý kịp thời do thực hiện dồn điền, đổi thửa hoặc người dân mua bán đất trao tay, dẫn đến tình trạng biến động trong sử dụng đất.
2.4.2 Những bất cập còn tồn tại trong quản lý và sử dụng đất sản uất nông nghiệp được giao theo nghị định 64-CP tại Hà Giang, Bắc Ninh, Hà Tĩnh
Trong quá trình giao đất nông nghiệp lâu dài theo Nghị định 64-CP, không phải tất cả các đối tượng tham gia sản xuất nông nghiệp đều được cấp đất Thực tế cho thấy, có một số nhóm người không được giao đất, chủ yếu thuộc bốn nhóm chính.
+ Những người sống chính bằng nông nghiệp cư trú tại địa phương nhưng chưa có hộ khẩu thường trú;
Nhiều xã viên hợp tác xã nông nghiệp trước đây đã chuyển sang làm việc tại các hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp hoặc các lĩnh vực khác, nhưng hiện tại họ đang gặp khó khăn trong việc tìm kiếm việc làm và đã quay trở lại với nông nghiệp.
+ Con của cán bộ, công nhân, viên chức Nhà nước sống tại địa phương đến tuổi lao động nhưng chưa có việc làm;
Cán bộ, công nhân, viên chức Nhà nước và bộ đội nghỉ mất sức hoặc do sắp xếp lại sản xuất, tinh giảm biên chế sẽ nhận trợ cấp một lần hoặc trợ cấp trong một số năm, tùy thuộc vào nơi họ sống thường trú.
Phương án giao đất hiện nay dẫn đến tình trạng đất đai manh mún và phân tán, với kích thước thửa đất sau khi dồn điền đổi thửa vẫn còn nhỏ Điều này gây khó khăn cho việc đầu tư và phát triển sản xuất hàng hóa quy mô lớn trong lĩnh vực nông nghiệp.
Mỗi vùng miền có phương án giao đất riêng, phù hợp với đặc trưng địa phương và đảm bảo công bằng để người dân đồng thuận Tại một số khu vực miền núi phía Bắc, việc giao đất không áp dụng do diện tích đất nông nghiệp chủ yếu do khai hoang từ cha ông để lại, thường áp dụng theo khoán 10 và khoán 100 Nghị định 64-CP chỉ công nhận quyền sử dụng đất cho phần diện tích ổn định mà người dân đã kê khai.
Việc giao đất dựa trên số nhân khẩu hiện tại chỉ phù hợp trong một thời điểm nhất định, do số lượng nhân khẩu của mỗi hộ gia đình luôn thay đổi liên tục Những biến động dân số như sinh tử, chuyển đi, và di cư đã tạo ra sự bất hợp lý và bất bình đẳng trong việc phân bổ đất đai Cụ thể, những hộ gia đình có người mới sinh hoặc mới chuyển đến không được cấp thêm đất, trong khi các hộ có người chuyển đi hoặc đã mất lại không bị điều chỉnh giảm diện tích đất đã được giao.
Bảng 2.40 thể hiện sự biến động về số thửa đất trước và sau khi thực hiện dồn điền đổi thửa tại 9 xã thuộc 3 huyện của tỉnh Hà Giang Thông tin này cho thấy sự thay đổi trong quản lý đất đai, góp phần cải thiện hiệu quả sử dụng đất tại địa phương.
Số thửa sau khi dồn điền
Nguồn: Tổng hợp số liệu điều tra của Trung tâm ưu trữ và Thông tin ất đai
Đất đai là nguồn tài nguyên quý giá, nhưng hiện nay việc khai thác vẫn chưa hiệu quả Nhiều người cho thuê, mượn hoặc để hoang đất, trong khi chi phí sản xuất nông nghiệp ngày càng tăng cao khiến nông dân mất hứng thú với việc canh tác Thêm vào đó, đất đai manh mún và phân tán, khiến người dân ít chú trọng đầu tư thâm canh trên diện tích nhỏ bé của mình.
Một số người sử dụng đất không mặn mà với việc đầu tư, dẫn đến tình trạng đất đai bị bỏ hoang hoặc cho thuê, trong khi nhiều hộ gia đình khác lại muốn mở rộng quy mô đất đai để tăng cường vốn đầu tư nhưng gặp khó khăn trong việc thực hiện Do đó, cần thiết phải có cơ chế rõ ràng nhằm khuyến khích các hộ gia đình không đủ điều kiện hoặc không muốn trực tiếp canh tác hợp tác để tích tụ đất, phù hợp với định hướng sản xuất hàng hóa.