CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC BAN HÀNH PHÁP LUẬT THUẾ TIÊU THỤ ĐẶC BIỆT ĐỐI VỚI Ô TÔ
Khái quát chung về thuế tiêu thụ đặc biệt
1.1.1 Khái niệm thuế tiêu thụ đặc biệt
Thuế là khoản nộp bắt buộc mang tính cƣỡng chế bằng pháp luật mà các cá nhân, tổ chức phải nộp vào ngân sách nhà nước 3
Theo mục tiêu điều tiết, thuế được phân thành nhiều loại như thuế GTGT, thuế TTĐB, thuế XK-NK, thuế BVMT, thuế TNCN, và thuế TNDN, mỗi loại thuế có vai trò và đặc điểm riêng Trong đó, thuế TTĐB ngày càng thu hút sự quan tâm của Nhà nước và cộng đồng, vì bên cạnh các hàng hóa thiết yếu, còn có những sản phẩm xa xỉ và tiêu dùng ảnh hưởng đến môi trường và sức khỏe, như thuốc lá, rượu, bia, và dịch vụ giải trí Để hạn chế tiêu dùng những hàng hóa này và khuyến khích sử dụng hợp lý, Nhà nước áp dụng thuế TTĐB với mức thuế suất cao, đánh thuế ở ba khâu: sản xuất, nhập khẩu và kinh doanh dịch vụ thuộc diện thuế TTĐB.
Thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB) là một loại thuế gián thu, áp dụng trực tiếp vào hoạt động sản xuất, nhập khẩu hàng hóa và kinh doanh dịch vụ thuộc diện chịu thuế này.
1.1.2 Đặc điểm của thuế tiêu thụ đặc biệt
Thứ nhất, thuế TTĐB là loại thuế gián thu
Thuế gián thu là loại thuế mà người nộp thuế không phải là người chịu thuế Cụ thể, người nộp thuế là nhà sản xuất hoặc doanh nghiệp cung cấp dịch vụ, trong khi người chịu thuế là người tiêu dùng khi họ mua hàng hóa hoặc dịch vụ với giá đã bao gồm thuế Qua cơ chế này, các nhà sản xuất và kinh doanh thu hộ thuế gián thu cho Nhà nước khi bán hàng hóa và dịch vụ, sau đó nộp khoản thuế này vào ngân sách nhà nước.
3 Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2012), Giáo trình Luật thuế, NXB Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam, tr 16
Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng thuế gián thu là một phần không thể thiếu trong giá bán của hàng hóa và dịch vụ chịu thuế.
Thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB) là loại thuế gián thu mà Nhà nước thu ngay tại khâu sản xuất hoặc nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ, thay vì ở khâu tiêu dùng Chẳng hạn, ô tô là hàng hóa chịu thuế TTĐB, và các cá nhân, tổ chức sản xuất hoặc nhập khẩu ô tô phải nộp thuế này ngay khi thực hiện các hành động đó Khi người tiêu dùng mua ô tô, họ cũng phải thực hiện nghĩa vụ thuế đối với Nhà nước cùng lúc với việc thanh toán tiền mua xe cho cơ sở sản xuất hoặc nhập khẩu.
Thứ hai, thuế TTĐB đánh vào các loại hàng hóa, dịch vụ không đƣợc khuyến khích tiêu dùng
Hàng hóa và dịch vụ bị đánh thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB) chủ yếu do tính chất xa xỉ của chúng, tác động tiêu cực đến sức khỏe, môi trường và xã hội Những sản phẩm này được coi là "đặc biệt" và không được khuyến khích tiêu dùng vì lý do bảo vệ lợi ích cộng đồng.
Các mặt hàng như tàu bay, du thuyền, thuốc lá, xăng và dịch vụ casino đều bị đánh thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB) do tính chất xa xỉ, tác động tiêu cực đến sức khỏe, ô nhiễm môi trường và ảnh hưởng đến trật tự xã hội Những sản phẩm và dịch vụ này không được Nhà nước khuyến khích sử dụng vì những lý do nhất định.
Mặc dù không bị cấm tiêu dùng, Nhà nước hạn chế tiêu dùng một số hàng hóa, dịch vụ bằng cách đưa chúng vào danh mục ngành nghề kinh doanh có điều kiện thuộc đối tượng chịu thuế TTĐB Do đó, nhà đầu tư muốn tham gia vào lĩnh vực này sẽ phải thực hiện thủ tục đăng ký kinh doanh phức tạp hơn so với các lĩnh vực khác.
Thứ ba, thuế TTĐB có diện đánh thuế hẹp
Thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB) chỉ áp dụng cho một số hàng hóa và dịch vụ xa xỉ hoặc có khả năng gây hại cho sức khỏe, môi trường và xã hội So với tổng số hàng hóa và dịch vụ trên thị trường, diện đánh thuế của TTĐB rất hẹp, vì hàng hóa và dịch vụ xa xỉ, gây tác hại chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ.
Do diện đánh thuế hẹp, Nhà nước áp dụng phương pháp liệt kê để xác định đối tượng chịu thuế TTĐB, chỉ bao gồm 10 nhóm hàng hóa và 6 nhóm dịch vụ Những hàng hóa và dịch vụ không được liệt kê sẽ không phải chịu thuế Ngược lại, với các loại thuế có diện đánh thuế rộng như thuế GTGT và thuế XK-NK, Nhà nước sử dụng phương pháp loại trừ, chỉ nêu rõ những hàng hóa, dịch vụ không chịu thuế, và tất cả những loại còn lại sẽ phải chịu thuế.
Thứ tư, thuế suất thuế TTĐB thường cao hơn thuế suất các loại thuế gián thu khác
Thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB) được áp dụng cho các hàng hóa và dịch vụ cần hạn chế tiêu dùng, do đó, mức thuế suất của loại thuế này thường cao hơn so với các loại thuế khác Trong khi thuế giá trị gia tăng (GTGT) có ba mức thuế suất là 0%, 5% và 10%, thì thuế TTĐB có mức thấp nhất là 10% (đối với xăng và điều hòa nhiệt độ) và cao nhất lên tới 70% (đối với vàng mã và hàng mã) Mục tiêu của việc áp dụng thuế suất cao là nhằm nâng giá hàng hóa, dịch vụ, từ đó khuyến khích người tiêu dùng cân nhắc kỹ lưỡng trước khi sử dụng.
Thứ năm, thuế TTĐB chỉ điều tiết một lần trong suốt quá trình lưu thông hàng hóa, dịch vụ
Trong thuế GTGT, hàng hóa và dịch vụ phải chịu thuế nhiều lần trong quá trình lưu thông Ngược lại, thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB) chỉ áp dụng một lần duy nhất từ khâu sản xuất, nhập khẩu, kinh doanh cho đến khi đến tay người tiêu dùng.
Sự khác biệt giữa thuế GTGT và thuế TTĐB nằm ở bản chất đánh thuế Thuế GTGT chỉ áp dụng cho phần giá trị tăng thêm của hàng hóa, dịch vụ qua từng khâu lưu thông, không gây ra hiện tượng thuế chồng thuế Ngược lại, thuế TTĐB đánh vào toàn bộ giá trị hàng hóa, dịch vụ khi chúng lần đầu xuất hiện trên thị trường Việt Nam Nếu Nhà nước tiếp tục đánh thuế TTĐB trên toàn bộ giá trị trong quá trình lưu thông, sẽ dẫn đến tình trạng thuế chồng thuế Để tránh điều này, nếu quy định chỉ thu thuế TTĐB trên phần giá trị tăng thêm, thì thực chất không khác gì thuế GTGT và không thể hiện được vai trò hạn chế sản xuất và tiêu dùng đối với hàng hóa, dịch vụ xa xỉ, không thiết yếu.
Thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB) chỉ được áp dụng một lần trong suốt quá trình sản xuất và lưu thông hàng hóa, dịch vụ, với điều kiện hàng hóa, dịch vụ đó không thay đổi bản chất hay tính năng Nếu hàng hóa đã được biến đổi thành sản phẩm mới và sản phẩm mới này cũng thuộc đối tượng chịu thuế TTĐB, thì sản phẩm mới vẫn phải chịu thuế mặc dù có phần cấu thành từ hàng hóa cũ đã chịu thuế Nhà nước đánh thuế TTĐB trong trường hợp này vì sản phẩm mới tồn tại như một sản phẩm độc lập, có đặc tính khác biệt và đáp ứng nhu cầu tiêu dùng cụ thể.
Sản phẩm rượu thuốc và rượu hoa quả thuộc đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB), mặc dù trong thành phần có rượu trắng cũng chịu thuế Khi nộp thuế TTĐB cho rượu thuốc và rượu hoa quả, người nộp thuế sẽ được khấu trừ số thuế TTĐB đã nộp cho rượu trắng.
1.1.3 Vai trò của thuế tiêu thụ đặc biệt
Những vấn đề lý luận chung về thuế tiêu thụ đặc biệt đối với ô tô
1.2.1 Những tiêu chí để xác định hàng hóa, dịch vụ là đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt
1.2.1.1 Tính xa xỉ của hàng hóa, dịch vụ
Xã hội ngày càng phát triển, nhu cầu vui chơi giải trí của con người cũng tăng cao, dẫn đến sự ra đời của nhiều loại hàng hóa, dịch vụ đa dạng Trong số đó, có những sản phẩm xa xỉ chỉ người có thu nhập cao mới có khả năng tiêu dùng, không cần thiết cho cuộc sống hàng ngày nhưng lại thể hiện giá trị bản thân Để điều tiết thu nhập và hạn chế tiêu dùng hàng hóa xa xỉ, Nhà nước áp dụng thuế tiêu thụ đặc biệt đối với những loại hàng hóa, dịch vụ này.
Khi đánh giá tính xa xỉ của hàng hóa và dịch vụ, cần xem xét không chỉ loại hàng hóa mà còn cả người sử dụng và hoàn cảnh sử dụng Một sản phẩm có thể được xem là xa xỉ trong trường hợp này nhưng lại là tiêu dùng bình thường trong trường hợp khác Chẳng hạn, tàu bay và du thuyền là hàng hóa xa xỉ chịu thuế tiêu thụ đặc biệt, vì việc sở hữu chúng vượt quá khả năng thu nhập trung bình của người dân Việt Nam Tuy nhiên, nếu những phương tiện này được sử dụng cho mục đích kinh doanh như vận chuyển hàng hóa hoặc khách du lịch, chúng sẽ không bị đánh thuế, vì hành vi tiêu dùng này mang tính chất khác.
1.2.1.2 Tác hại của hàng hóa, dịch vụ đối với môi trường
Tính xa xỉ và tác hại đến môi trường là những tiêu chí quan trọng trong việc áp dụng thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB) đối với hàng hóa và dịch vụ Sự phát triển công nghiệp, kết hợp với việc thiếu ý thức bảo vệ môi trường, đã dẫn đến nhiều hệ lụy nghiêm trọng, ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống Bảo vệ môi trường đang trở thành một vấn đề toàn cầu, khi thiên nhiên đang lên tiếng qua các hiện tượng thiên tai như động đất, lũ lụt, và hạn hán, mà nguyên nhân chủ yếu xuất phát từ hành vi con người Tại Việt Nam, Nhà nước đã chú trọng đến vấn đề này thông qua pháp luật như Luật Bảo vệ môi trường và tham gia nhiều công ước quốc tế Mặc dù thuế TTĐB không phải là công cụ chính, nhưng nó góp phần định hướng người tiêu dùng sử dụng hàng hóa và dịch vụ một cách hợp lý, giảm thiểu ô nhiễm môi trường.
Mặc dù xăng, nap-ta, chế phẩm tái hợp và các chế phẩm pha chế xăng là những mặt hàng chiến lược thiết yếu cho sản xuất và sinh hoạt, nhưng chúng vẫn chịu thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB) nhằm hạn chế tiêu dùng Việc sử dụng xăng quá mức góp phần gây ô nhiễm môi trường, đặc biệt là ô nhiễm không khí.
1.2.1.3 Tác hại của hàng hóa, dịch vụ đối với sức khỏe con người
Không phải hàng hóa, dịch vụ nào trên thị trường cũng mang lại lợi ích; một số loại có thể gây hại trực tiếp cho sức khỏe người tiêu dùng và những người xung quanh Việc sử dụng thường xuyên những hàng hóa này làm tăng nguy cơ bệnh tật và giảm sức lao động, ảnh hưởng đến nguồn nhân lực quốc gia Do đó, tác hại của hàng hóa đối với sức khỏe được xem xét như một tiêu chí để xác định đối tượng chịu thuế TTĐB, nhằm hạn chế tiêu dùng và bảo vệ sức khỏe cộng đồng Tuy nhiên, cần cân nhắc giữa tác hại và công dụng tích cực của hàng hóa để đưa ra quyết định phù hợp từ phía Nhà nước.
Rượu, bia là những sản phẩm phổ biến ở Việt Nam, có tác dụng tích cực như kích thích tiêu hóa và thắt chặt quan hệ bạn bè Tuy nhiên, việc tiêu thụ quá mức có thể gây hại cho sức khỏe, dẫn đến các bệnh như gan, tiểu đường, và mệt mỏi Chính vì vậy, mặc dù không bị cấm, Nhà nước khuyến cáo hạn chế tiêu thụ rượu, bia và áp dụng thuế tiêu thụ đặc biệt đối với mặt hàng này.
1.2.1.4 Ảnh hưởng tiêu cực của hàng hóa, dịch vụ đến trật tự xã hội
Theo triết học Mác - Lênin, mọi sự vật và hiện tượng đều tồn tại trong một thế giới khách quan và có mối quan hệ biện chứng với nhau Hàng hóa và dịch vụ là những thực thể trong thế giới này, và khi chúng được tiêu dùng, chúng sẽ tác động đến các sự vật khác Nếu tác động này tích cực, nó sẽ thúc đẩy sự phát triển xã hội; ngược lại, nếu tác động tiêu cực, nó sẽ gây hại cho xã hội.
Mỗi người đều mong muốn sống trong một xã hội lành mạnh, an toàn và thoải mái Tuy nhiên, hiện nay, tệ nạn xã hội tại Việt Nam đang gia tăng cả về số lượng và tính chất phức tạp Nguyên nhân của tình trạng này phần lớn xuất phát từ việc sử dụng quá mức một số loại hàng hóa và dịch vụ.
Việc sử dụng rượu, bia quá mức có thể dẫn đến những hành động quá khích như xung đột và gây rối trật tự công cộng, đồng thời vi phạm quy định giao thông gây tai nạn Hơn nữa, các dịch vụ giải trí như vũ trường, massage, karaoke, casino và đặt cược cũng tạo điều kiện cho các tệ nạn xã hội như mại dâm, ma túy và trộm cắp phát sinh.
Trong bối cảnh hiện nay, khả năng tác động đến trật tự xã hội của hàng hóa và dịch vụ đã trở thành tiêu chí quan trọng để các quốc gia xác định đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB) Nhà nước áp dụng thuế đối với những mặt hàng này nhằm hạn chế tiêu dùng, bảo đảm trật tự xã hội và đồng thời tạo nguồn thu cho ngân sách từ những cá nhân có thu nhập cao.
1.2.1.5 Điều kiện kinh tế xã hội của đất nước
Pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB) khác nhau giữa các quốc gia, với đối tượng chịu thuế thường là những hàng hóa và dịch vụ không thiết yếu cho nhu cầu tiêu dùng hàng ngày, có thể gây hại đến sức khỏe, môi trường và xã hội Việc xác định hàng hóa xa xỉ mang tính tương đối, phụ thuộc vào quyết định của Nhà nước và điều kiện kinh tế - xã hội của từng quốc gia Hầu hết các quốc gia đều đánh thuế TTĐB lên rượu, bia, thuốc lá, và xăng dầu; trong khi Thụy Điển còn áp dụng thuế cho rác thải, năng lượng, và quảng cáo Các mặt hàng như vàng, kim cương, và dịch vụ gây ô nhiễm môi trường cũng bị đánh thuế ở một số nước khác Sự khác biệt trong pháp luật thuế TTĐB chủ yếu xuất phát từ điều kiện kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia Ví dụ, du thuyền cá nhân là hàng hóa xa xỉ ở Việt Nam nhưng có thể không được xem là xa xỉ ở các nước phát triển Tương tự, dịch vụ karaoke bị đánh thuế TTĐB tại Việt Nam do tiềm ẩn tệ nạn, nhưng nếu được quản lý tốt, nó có thể không còn ảnh hưởng tiêu cực đến xã hội.
1.2.2 Cơ sở lý luận của việc ban hành pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt đối với ô tô
Dựa trên các tiêu chí xác định hàng hóa, dịch vụ chịu thuế TTĐB, có thể phân tích các đặc điểm riêng của ô tô để hiểu rõ lý do tại sao ô tô không được khuyến khích tiêu dùng.
5 Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, tlđd số 3, tr 152
1.2.2.1 Tính xa xỉ của ô tô Ở Việt Nam, ô tô đƣợc xem là mặt hàng đắt tiền Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, GDP bình quân đầu người của Việt Nam năm 2014 đạt 2.028 USD (tức là khoảng 43.287.660 VNĐ), trong khi giá một chiếc ô tô 4 chỗ ngồi loại trung bình khoảng trên
Sở hữu ô tô tại Việt Nam hiện nay vẫn là một điều xa xỉ, vì với mức giá khoảng 100 triệu đồng, ô tô gấp hơn 2 lần thu nhập trung bình Điều này cho thấy ô tô không phải là mặt hàng dành cho người có thu nhập thấp và trung bình, mà chủ yếu thuộc về những người có thu nhập cao trong xã hội Mặc dù thu nhập của người dân ngày càng tăng và số lượng người sử dụng ô tô cũng gia tăng, nhưng vẫn còn nhiều người chưa đủ khả năng tài chính để sở hữu một chiếc xe.
Sở hữu ô tô không chỉ phục vụ nhu cầu công việc mà còn thể hiện sở thích và phong cách cá nhân của một bộ phận người dân Việc sở hữu ô tô, dù vì lý do gì, không phải là hành vi xấu mà là nhu cầu chính đáng khi có điều kiện, góp phần vào sự phát triển kinh tế Tuy nhiên, khi xem xét việc đánh thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB) đối với ô tô, cần xác định xem mặt hàng này có thiết yếu hay không; nếu thiếu ô tô, cuộc sống có bị ảnh hưởng hay không Do đó, ô tô bị đánh thuế TTĐB vì đây là mặt hàng không thiết yếu.
1.2.2.2 Tác hại của ô tô đối với môi trường
CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA VIỆC HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT THUẾ TIÊU THỤ ĐẶC BIỆT ĐỐI VỚI Ô TÔ VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
Cơ sở thực tiễn của việc hoàn thiện pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt đối với ô tô
2.1.1 Thực trạng pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt đối với ô tô ở Việt Nam hiện nay
2.1.1.1 Sơ lược lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt đối với ô tô ở Việt Nam
Luật thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB) được ban hành từ năm 1990, nhưng ô tô chưa nằm trong diện chịu thuế cho đến năm 1995 Tại thời điểm này, Nhà nước đã sửa đổi, bổ sung Luật TTĐB, lần đầu tiên đưa ô tô dưới 24 chỗ ngồi vào danh sách đối tượng chịu thuế Cụ thể, ô tô nhập khẩu, bao gồm cả dạng lắp ráp (SKD), sẽ bị đánh thuế TTĐB Mức thuế suất được quy định là 100% đối với ô tô từ 5 chỗ ngồi trở xuống và 60% cho ô tô từ 6 đến 15 chỗ ngồi.
Xe từ 16 đến 24 chỗ ngồi sẽ chịu thuế suất 30%, đánh dấu sự phát triển mạnh mẽ trong việc điều tiết của pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt Quy định này thể hiện rõ chính sách bảo hộ sản xuất ô tô trong nước.
Năm 1998, Quốc hội đã thông qua Luật thuế tiêu thụ đặc biệt mới, thay thế Luật năm 1990 cùng các sửa đổi năm 1993 và 1995 Luật này được ban hành với sự xem xét đến ảnh hưởng đối với sản xuất trong nước, nhu cầu tiêu dùng và tổng thu ngân sách Nhà nước Một số hàng hóa và dịch vụ mới, như điều hòa nhiệt độ, kinh doanh vũ trường, massage và karaoke, đã được bổ sung vào danh sách chịu thuế Tuy nhiên, quy định về thuế TTĐB đối với ô tô vẫn giữ nguyên cả về loại ô tô bị đánh thuế và mức thuế suất.
Luật thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB) năm 1998 đã trải qua hai lần sửa đổi để phù hợp với sự phát triển kinh tế và yêu cầu hội nhập quốc tế Lần sửa đổi đầu tiên vào ngày 17/06/2003 đã điều chỉnh thuế suất cho ô tô, cụ thể ô tô từ 5 chỗ ngồi trở xuống có thuế suất 80%, ô tô từ 6 đến 15 chỗ ngồi thuế suất 50%, và ô tô từ 16 đến 24 chỗ ngồi thuế suất 25%.
6 SKD (Semi-Knocked Down) là loại xe lắp ráp trong nước có một số linh kiện đã được nội địa hoá
7 Luật số 43-L/CTN của Quốc hội ngày 28/10/1995 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế TTĐB
8 Luật thuế TTĐB số 05/1998/QH10 do Quốc hội khóa X, kỳ họp thứ 3 thông qua ngày 20/5/1998
9 Luật số 08/2003/QH11 của Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ 3, ngày 17/6/2003 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế TTĐB
Vào ngày 29 tháng 11 năm 2005, thuế suất thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB) đối với ô tô đã được giảm tiếp Cụ thể, ô tô từ 5 chỗ ngồi trở xuống có thuế suất 50%, ô tô từ 6 đến 15 chỗ ngồi có thuế suất 30%, và ô tô từ 16 đến dưới 24 chỗ ngồi có thuế suất 15%.
Sau một thời gian áp dụng, Nhà nước đã nhận thấy sự cần thiết phải hoàn thiện quy định pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB) để phù hợp với tình hình mới Năm 2008, Quốc hội đã thông qua Luật thuế TTĐB mới, thay thế các luật trước đó Theo luật mới, thuế TTĐB đối với ô tô được điều chỉnh theo từng loại xe với các mức thuế suất khác nhau, dựa trên tiêu chí số chỗ ngồi, loại nhiên liệu tiêu thụ và dung tích xi lanh Mức thuế suất cao nhất là 60% đối với ô tô chở người từ 9 chỗ trở xuống có dung tích xi lanh trên 3000 cm³, trong khi mức thấp nhất là 15% áp dụng cho xe từ 16 đến dưới 24 chỗ ngồi và xe vừa chở người vừa chở hàng Đặc biệt, ô tô sử dụng năng lượng sinh học, điện, hoặc kết hợp giữa xăng và các loại năng lượng này sẽ được áp dụng mức thuế suất thấp hơn, do chúng tiêu tốn ít xăng và ít gây ô nhiễm môi trường.
Năm 2014, Luật thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB) 2008 đã được sửa đổi, tập trung điều chỉnh các vấn đề liên quan đến xăng, tàu bay và du thuyền, đồng thời điều chỉnh mức thuế suất cho một số đối tượng chịu thuế khác Tuy nhiên, quy định về ô tô vẫn không có sự thay đổi.
Thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB) đối với ô tô đã được áp dụng hơn 20 năm và trải qua ba lần sửa đổi vào các năm 2003, 2005 và 2008 Mỗi lần điều chỉnh, pháp luật về thuế TTĐB đã được cải tiến hợp lý, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế và định hướng sản xuất, tiêu dùng trong nước.
2.1.1.2 Quy định của pháp luật hiện hành về thuế tiêu thụ đặc biệt đối với ô tô Đối tượng chịu thuế
Xe ô tô dưới 24 chỗ ngồi thuộc diện chịu thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB) theo quy định tại Điều 2, khoản 1, điểm d của Luật thuế TTĐB 2008 Thuế TTĐB được áp dụng cho các mặt hàng xa xỉ, không áp dụng cho tất cả các loại ô tô.
10 Luật số 57/2005/QH11 của Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ 8, ngày 29/11/2005 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế TTĐB và luật thuế GTGT
11 Luật thuế TTĐB số 27/2008/QH12 của Quốc hội khóa XII , kỳ họp thứ 4, thông qua ngày 28/11/2008
Luật số 70/2014/QH13, được Quốc hội khóa XIII thông qua vào ngày 26/11/2014, đã sửa đổi và bổ sung một số điều của Luật thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB) Theo quy định mới, thuế TTĐB chỉ áp dụng đối với các loại xe ô tô dưới 24 chỗ ngồi, tức là các xe ô tô nhỏ, chủ yếu phục vụ cho mục đích di chuyển cá nhân.
Mặc dù thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB) chủ yếu áp dụng cho xe ô tô cá nhân, nhưng do tình trạng một số chủ xe ô tô từ 5 đến 7 chỗ ngồi cố tình cải biến xe thành xe tải van để trốn thuế, Nhà nước đã quy định rằng các loại xe ô tô vừa chở người vừa chở hàng, có từ hai hàng ghế trở lên và thiết kế vách ngăn cố định giữa khoang chở người và khoang chở hàng cũng phải chịu thuế TTĐB.
Tuy nhiên, xe ô tô dưới 24 chỗ ngồi sẽ được loại trừ ra khỏi diện chịu thuế TTĐB trong một số trường hợp sau:
Ô tô được xuất khẩu ra nước ngoài, vận chuyển quá cảnh hoặc mượn đường qua cửa khẩu, biên giới Việt Nam, hoặc chuyển khẩu theo quy định pháp luật Thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB) chỉ áp dụng cho một số loại hàng hóa, dịch vụ tiêu dùng trên lãnh thổ Việt Nam Do đó, ô tô sản xuất tại Việt Nam nhưng xuất khẩu để tiêu dùng ở nước ngoài sẽ không phải chịu thuế TTĐB.
Ô tô nhập khẩu được xem là hàng viện trợ nhân đạo và viện trợ không hoàn lại, đồng thời cũng là quà tặng dành cho các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, cũng như các tổ chức chính trị - xã hội.
Trong trường hợp sử dụng ô tô cho các tổ chức xã hội và đơn vị vũ trang nhân dân, việc đánh thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB) không phù hợp, vì đây không phải là hành vi tiêu dùng cá nhân Chủ thể sử dụng ô tô là Nhà nước, do đó nếu áp dụng thuế TTĐB, chính Nhà nước sẽ là bên chịu thuế Điều này dẫn đến việc ngân sách nhà nước sẽ chỉ chuyển tiền từ một phần của ngân sách sang một phần khác, vì vậy pháp luật thuế TTĐB quy định ô tô trong trường hợp này được miễn thuế.
Ô tô tạm nhập khẩu, tái xuất khẩu và tạm xuất khẩu, tái nhập khẩu sẽ không phải nộp thuế nhập khẩu và thuế xuất khẩu trong thời gian quy định theo pháp luật về thuế xuất khẩu và thuế nhập khẩu.
Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt đối với ô tô
Dựa trên những hạn chế và vướng mắc trong việc áp dụng pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB) đối với ô tô, tác giả đề xuất một số giải pháp định hướng nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật này.
2.2.1 Siết chặt hàng rào thuế quan và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý thuế
Chính sách thuế và phí cao đối với ô tô đã dẫn đến việc người tiêu dùng tìm cách giảm chi phí mua xe, tạo ra tình trạng trốn thuế, gian lận thuế và nhập lậu ô tô Để khắc phục tình trạng này, cần thực hiện một số giải pháp hiệu quả.
Để nâng cao ý thức chấp hành pháp luật thuế, cần tăng cường hoạt động tuyên truyền giáo dục về chính sách thuế, đặc biệt là đối với thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB) cho người nộp thuế ô tô Mặc dù đây không phải là biện pháp mới, Nhà nước đã áp dụng nhiều hình thức tuyên truyền như băng rôn, biểu ngữ, chương trình phát thanh, truyền hình và các cuộc thi tìm hiểu pháp luật Tuy nhiên, đây vẫn là giải pháp quan trọng giúp người dân hình thành quan điểm đúng đắn về quyền lợi và nghĩa vụ của họ trong việc tuân thủ pháp luật thuế.
Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật thuế là cần thiết, đặc biệt đối với ô tô nhập khẩu Thuế TTĐB được thu tại khâu nhập khẩu cùng với thuế nhập khẩu và thuế GTGT, do đó, quản lý chặt chẽ tại biên giới Việt Nam là giải pháp hiệu quả để ngăn chặn buôn lậu và trốn thuế TTĐB Cần quy định rõ ràng về thanh tra, kiểm tra thuế ở khâu nhập khẩu và xử lý nghiêm các hành vi vi phạm để tạo tính răn đe cho những đối tượng vi phạm cũng như các chủ thể khác.
Để nâng cao hiệu quả quản lý thuế, cần cải thiện năng lực và đạo đức của đội ngũ cán bộ quản lý thuế Việc tuyển dụng công chức thuế cần được chú trọng để chọn lựa những cá nhân có năng lực Đồng thời, tổ chức thường xuyên các buổi tập huấn và chia sẻ kinh nghiệm quản lý thuế sẽ giúp cán bộ cập nhật kiến thức và kỹ năng Bên cạnh đó, giáo dục tư tưởng và đạo đức nghề nghiệp cho cán bộ là rất cần thiết nhằm ngăn chặn tình trạng lợi dụng chức vụ Chính sách lương cho cán bộ quản lý thuế cũng cần được xem xét để tạo động lực làm việc Nếu cán bộ không nâng cao năng lực chuyên môn hoặc vi phạm pháp luật, cần áp dụng chế tài nghiêm khắc tùy theo mức độ vi phạm.
2.2.2 Giảm thuế ở mức độ nhất định phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước
Thuế suất thuế TTĐB đối với ô tô tại Việt Nam hiện đang ở mức cao, ảnh hưởng đến lượng ô tô tiêu thụ và sự phát triển của ngành công nghiệp ô tô trong nhiều năm qua, mặc dù có chính sách ưu đãi từ Nhà nước Với việc gia nhập WTO và sắp trở thành thành viên của Cộng đồng kinh tế ASEAN, Việt Nam đang đối mặt với nhiều thách thức trong quá trình hội nhập Tại Đại hội lần thứ XI, Đảng và Nhà nước đã điều chỉnh mục tiêu để ưu tiên kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và duy trì tăng trưởng hợp lý Nghị quyết số 22-NQ/TW về hội nhập quốc tế đã được ban hành vào ngày 10/4/2014, đánh dấu bước tiến quan trọng trong việc thống nhất về hội nhập quốc tế Nhờ vào các chính sách kịp thời và nỗ lực của toàn dân, tình hình kinh tế xã hội đã có nhiều chuyển biến tích cực, đặc biệt là thị trường ô tô đã phục hồi sau thời gian suy giảm.
Từ năm 2013 đến 2014, sản lượng tiêu thụ ô tô có sự tăng trưởng nhất định, và đầu năm 2015, thị trường ô tô trong nước chứng kiến sự bùng nổ với tổng sản lượng tiêu thụ tăng 80% so với cùng kỳ năm 2014, điều này cho thấy dấu hiệu tích cực cho nền kinh tế Tuy nhiên, ngành công nghiệp ô tô vẫn gặp nhiều khó khăn do tay nghề sản xuất còn hạn chế và chính sách thuế chưa đồng bộ, không khuyến khích sự phát triển Để nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành ô tô trên thị trường quốc tế, việc giảm thuế suất thuế tiêu thụ đặc biệt đối với ô tô đến mức hợp lý là cần thiết.
Ô tô không còn được xem là mặt hàng xa xỉ như trước đây, khi đất nước vừa thoát khỏi chiến tranh và nền kinh tế chưa phát triển Hiện nay, với sự phát triển kinh tế và thu nhập của người dân tăng cao, nhu cầu di chuyển cũng gia tăng, ô tô đã trở thành một sản phẩm thiết yếu, phản ánh chất lượng cuộc sống ngày càng được cải thiện Do đó, cần xem xét lại quan điểm về tính xa xỉ của ô tô trong bối cảnh hiện tại.
Ô tô là một trong những phương tiện gây ô nhiễm môi trường, điều này không thể phủ nhận Tuy nhiên, xe máy lại là phương tiện phổ biến nhất tại Việt Nam, nơi có số lượng xe máy cao nhất thế giới Với lượng xe máy lớn như vậy, ô nhiễm môi trường từ xe máy thậm chí có thể vượt qua ô tô Do đó, cần xem xét lại mức độ ô nhiễm mà ô tô gây ra để đánh giá tính hợp lý của việc áp dụng thuế tiêu thụ đặc biệt cao đối với loại phương tiện này.
Việc sử dụng ô tô đang dẫn đến tình trạng kẹt xe nghiêm trọng, trong khi lượng xe máy tham gia giao thông cũng tăng nhanh chóng do mỗi cá nhân sử dụng một chiếc xe máy hàng ngày Hạn chế tiêu dùng ô tô vì hệ thống giao thông chưa đáp ứng nhu cầu là không phù hợp với chiến lược phát triển ngành công nghiệp ô tô của Nhà nước, một phần quan trọng trong việc thúc đẩy kinh tế và khoa học – kỹ thuật Hệ thống giao thông không chỉ là bộ mặt của đất nước mà còn phản ánh sự phát triển, vì vậy việc đầu tư vào cơ sở hạ tầng giao thông là điều cần thiết.
Thứ tư, vấn đề sức khỏe và an toàn giao thông là vấn đề đƣợc quan tâm hàng đầu
Việc sử dụng ô tô mang lại nhiều lợi ích cho sức khỏe người tiêu dùng, như bảo vệ da khỏi tác động của tia cực tím, tránh nhiễm bệnh trong mưa và giảm thiểu hít phải khói bụi Ô tô được coi là phương tiện an toàn hơn xe máy, có khả năng chở nhiều người cùng lúc mà vẫn đảm bảo an toàn Thực trạng nhiều người đi xe máy cùng lúc gây ra lo ngại về an toàn giao thông Một ví dụ điển hình là vụ tai nạn xảy ra vào ngày 4/3/2015, khi một bệnh nhân tử vong trên xe cứu thương do bị kẹt xe và bị xe máy bao vây Nếu ô tô là phương tiện phổ biến, có thể đã không xảy ra tình huống gây cản trở cho xe cứu thương và nạn nhân có thể đã được cứu sống.
Tác giả kiến nghị giảm thuế suất thuế tiêu thụ đặc biệt đối với ô tô ở mức hợp lý, nhằm phản ánh tính tiện ích của ô tô và phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội cũng như chính sách phát triển của đất nước trong thời kỳ hội nhập Mức thuế suất đề xuất cho ô tô dưới 24 chỗ ngồi được nêu cụ thể.
(%) a) Xe ô tô chở người từ 9 chỗ trở xuống, trừ loại quy định tại điểm đ, e và g Điều này
Loại có dung tích xi lanh từ 2.000 cm 3 trở xuống 30
Loại có dung tích xi lanh trên 2.000 cm 3 đến 3.000 cm 3 40
Loại có dung tích xi lanh trên 3.000 cm 3 50 b) Xe ô tô chở người từ 10 đến dưới 16 chỗ, trừ loại quy định tại điểm đ, e và g Điều này
25 c) Xe ô tô chở người từ 16 đến dưới 24 chỗ, trừ loại quy định tại điểm đ, e và g Điều này
15 d) Xe ô tô vừa chở người, vừa chở hàng, trừ loại quy định tại điểm đ, e và g Điều này
15 đ) Xe ô tô chạy bằng xăng kết hợp năng lƣợng điện, năng lƣợng sinh học, trong đó tỷ trọng xăng sử dụng không quá
70% số năng lƣợng sử dụng
Xe ô tô chạy bằng năng lượng sinh học sẽ áp dụng mức thuế suất 70% so với xe cùng loại quy định tại các điểm a, b, c và d Đối với xe ô tô chạy bằng điện, mức thuế suất sẽ là 50% so với xe cùng loại theo quy định tại các điểm a, b, c và d.
Loại chở người từ 9 chỗ trở xuống 20
Loại chở người từ 10 đến dưới 16 chỗ 15
Loại chở người từ 16 đến dưới 24 chỗ 10
Loại thiết kế vừa chở người, vừa chở hàng 10
2.2.3 Định hướng đổi mới khi nền kinh tế Việt Nam hòa nhập với nền kinh tế thế giới là miễn thuế tiêu thụ đặc biệt đối với ô tô
Hệ thống giao thông là mạch máu của đất nước, và trong tương lai, cơ sở hạ tầng giao thông cần được xây dựng tốt nhất để thúc đẩy kinh tế và nâng cao đời sống người dân Khi một quốc gia có hệ thống giao thông chất lượng, việc sử dụng ô tô sẽ trở thành lựa chọn ưu tiên, đảm bảo an toàn sức khỏe và phù hợp với điều kiện kinh tế Do đó, việc áp dụng thuế TTĐB đối với ô tô nên chỉ kéo dài tối đa 10 năm, trong thời gian này, Nhà nước cần có chính sách phát triển hạ tầng giao thông, đặc biệt tại các thành phố lớn, để tạo điều kiện thuận lợi cho việc sử dụng ô tô Kinh phí xây dựng có thể huy động từ nhiều nguồn, bao gồm hợp tác với nhà đầu tư nước ngoài qua các hình thức đầu tư BOT, BTO và BT Cuối cùng, ô tô cần được loại ra khỏi diện chịu thuế TTĐB để đáp ứng nhu cầu sống tốt nhất cho người dân và thúc đẩy ngành công nghiệp ô tô phát triển.
Tác giả đã đưa ra một số ý kiến quan trọng nhằm hoàn thiện pháp luật thuế TTĐB đối với ô tô Những kiến nghị này hy vọng sẽ tạo điều kiện cho ngành công nghiệp ô tô Việt Nam phát triển mạnh mẽ, từ đó nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế trong tương lai.