1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Tiểu luận PHÂN TÍCH địa lý KINH tế và tổ CHỨC LÃNH THỔ của THÀNH PHỐ HUẾ TỈNH THỪA THIÊN HUẾ

31 3 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Phân Tích Địa Lí Kinh Tế Và Tổ Chức Lãnh Thổ Của Thành Phố Huế - Tỉnh Thừa Thiên Huế
Tác giả Nguyễn Thị Dương
Người hướng dẫn Nguyễn Thị Hoài Việt
Trường học Trường Đại Học Gia Định
Thể loại tiểu luận
Năm xuất bản 2021
Thành phố TP. Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 31
Dung lượng 478,23 KB

Cấu trúc

  • b.Khí hậu

  • Tổng diện tích rừng trồng tập trung đạt 3.570 ha;

Nội dung

do bản thân mình tìm kiếm thu thập nhiều kiến thức để tạo ra được bài tiểu luận này . Bài tiểu luận dành đến cho các bạn tham khảo hay sử dụng nó làm bài của mình , bài tiểu luận ngắn gọn , súc tích dễ hiểu sẽ giúp các bạn đạt được kết quả cao nhé

TỔNG THỂ KINH TẾ THẾ GIỚI HIỆN NAY

CÁC TIÊU THỨC XÁC ĐỊNH MỨC ĐỘ PHÁT TRIỂN KINH TẾ CÁC NƯỚC

Tổng sản phẩm quốc dân (GNI) là một chỉ tiêu quan trọng được sử dụng để so sánh và đánh giá quy mô, mức độ phát triển kinh tế cũng như mức sống giữa các quốc gia.

GNP, hay Tổng sản phẩm quốc gia, là tổng giá trị của tất cả các sản phẩm cuối cùng và dịch vụ được sản xuất hàng năm trong mỗi quốc gia, không bao gồm sản phẩm trung gian và các khoản chi trả cho người nước ngoài.

Tổng sản phẩm trong nước (GDP) và tổng sản phẩm quốc dân (GNP) là hai chỉ tiêu kinh tế quan trọng thường được sử dụng để so sánh GNP có thể được coi là một tiêu chí thay thế cho GDP, vì cả hai đều phản ánh quy mô và sức mạnh của nền kinh tế.

Hầu hết các quốc gia trên thế giới nằm trong hai trường hợp sau:

Các quốc gia có GNP lớn hơn GDP thường là những nhà đầu tư lớn, với nhiều cơ sở sản xuất đặt tại nước ngoài Những nước này thường nhận đầu tư nước ngoài vào trong nước ít hơn so với số vốn mà họ đầu tư ra nước ngoài.

Các quốc gia có GNP nhỏ và GDP thấp thường thiếu nguồn lực để đầu tư ra nước ngoài, đồng thời chấp nhận nhiều nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài vào trong nước.

Tổng thu nhập quốc dân (GNI) là chỉ số quan trọng phản ánh giá trị gia tăng từ cả nguồn trong nước và nước ngoài, được quy đổi sang đô la quốc tế theo sức mua GNI/người giúp đánh giá mức sống trung bình và chênh lệch giàu nghèo giữa các quốc gia Chỉ số phát triển con người (HDI) kết hợp ba yếu tố: tuổi thọ, giáo dục và GDP/người, không chỉ thể hiện quy mô sản xuất và tiêu dùng mà còn giá trị tinh thần và văn hóa Cơ cấu kinh tế (%GDP) cũng là một tiêu chí quan trọng để đánh giá trình độ phát triển và sức mạnh kinh tế của một quốc gia, dựa trên ba nhóm ngành: nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ.

CÁC NHÓM NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI CHIA THEO TỪNG ĐỘ PHÁT TRIỂN SẢN XUẤT NHÓM

a Các nước đã phát triển công nghiệp

Nhóm 1A, bao gồm các nước phát triển công nghiệp hàng đầu như Mỹ, Nhật Bản, Đức, Anh, Ý và Canada, được gọi là G7, chiếm gần 70% GNP toàn cầu và 75% tổng sản phẩm công nghiệp thế giới Các quốc gia này sở hữu ngành công nghiệp chế biến hiện đại, phát triển mạnh mẽ, với giá trị tổng sản phẩm công nghiệp chiếm khoảng 70% trở lên Nhóm một Bê bao gồm các nước phát triển công nghiệp khai thác, chủ yếu là các quốc gia Tây Bắc Âu, Đông Âu và thêm Úc, New Zealand, Thổ Nhĩ Kỳ, tổng cộng hơn 20 nước.

Các quốc gia này có nền công nghiệp phát triển mạnh mẽ, với giá trị sản xuất công nghiệp vượt xa nông nghiệp, đạt 1.000.000.000 Hầu hết các nước này nằm trong số những quốc gia có nền kinh tế phát triển.

40 quốc gia có quy mô GNP dẫn đầu thế giới.

Nhóm 11 các nước đang phát triển: nhiều nước chưa có những bước tiến trên con đường phát triển cũng được xếp vào nhóm này Hầu hết các nước này trước thế chiến

11 còn là thuộc địa, có phong chào nổi dậy vào những năm 30 Các nước đang phát triển chiếm 70 % dân số thế giới nhưng chỉ chiếm 10% GNP Của thế giới

1.4: Các tổ chức liên kết kinh tế quốc tế đặc thù theo khu vực

European Union (EU) là một tổ chức liên chính phủ của các nước châu Âu Từ 6 thành viên ban đầu, hiện nay có 28 quốc gia thành viên.

Liên minh châu Âu, được thành lập theo Hiệp ước Maastricht năm 1992, có nguồn gốc từ nhiều tổ chức tiền thân từ thập niên 1950.

Liên minh châu Âu (EU), được thành lập và có trụ sở tại Brussels, Bỉ, trước đây được biết đến với tên gọi Cộng đồng Châu Âu (EC) cho đến ngày 1 tháng 11 năm 1993.

Lịch sử Liên minh châu Âu bắt đầu từ sau Chiến tranh thế giới thứ II, với mục tiêu ngăn chặn xung đột và tàn phá Ý tưởng về hội nhập châu Âu được Bộ trưởng Ngoại giao Pháp Robert Schuman đề xuất lần đầu tiên trong bài phát biểu nổi tiếng vào ngày 9 tháng 5 năm 1950 Ngày này hiện nay được xem là ngày thành lập EU và được kỷ niệm hàng năm như Ngày châu Âu.

Liên minh Châu Âu (EU) ban đầu chỉ có 6 quốc gia thành viên gồm Bỉ, Đức, Italia, Luxembourg, Pháp và Hà Lan Số lượng thành viên đã tăng lên 9 vào năm 1973, 10 vào năm 1981, 12 vào năm 1986, 15 vào năm 1995, 25 vào năm 2004 và cuối cùng là 27 vào năm 2007.

Sau đây là danh sách 27 quốc gia thành viên của Liên minh châu Âu xếp theo năm gia nhập:

1957: Bỉ, Đức, Italy, Luxembourg, Pháp, Hà Lan

1986: Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha

1995: Áo, Phần Lan, Thụy Điển

Ngày 1/5/2004: Séc, Hungary, Ba Lan, Slovakia, Slovenia, Litva, Latvia, Estonia, Malta, Cộng hòa Síp

Liên minh châu Âu (EU) hiện có diện tích 4.422.773 km² và dân số khoảng 492,9 triệu người (tính đến năm 2006), với tổng GDP đạt 11,6 nghìn tỉ euro (khoảng 15,7 nghìn tỉ USD) vào năm 2007 Hầu hết các quốc gia châu Âu đều là thành viên của EU.

Vẫn còn 22 quốc gia gồm Albania, Andorra, Armenia, Azerbaijan, Belarus, Bosnia & Herzegovina, Croatia, Grugia, Iceland, Liechtenstein, Macedonia, Moldova, Monaco, Montenegro, Na Uy,

San Marino, Serbia, Thổ Nhĩ Kỳ, Thụy Sĩ, Ukraina, và Vatican chưa gia nhập Liên minh châu Âu.

1.5 Hiệp hội các nước Đông Nam Á

Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) được thành lập vào ngày 08/08/1967 tại Băng-cốc, Thái Lan, với sự tham gia của 5 quốc gia thành viên ban đầu: In-đô-nê-xi-a, Ma-lai-xi-a, Phi-líp-pin, Xin-ga-po và Thái Lan Vào năm 1984, Bru-nây Đa-rút-xa-lam gia nhập ASEAN, và đến ngày 28/07/1995, Việt Nam trở thành thành viên thứ 7 của tổ chức này.

Vào ngày 23 tháng 7 năm 1999, ASEAN đã chính thức kết nạp Lào và Mi-an-ma, đánh dấu một bước quan trọng trong việc mở rộng tổ chức này Trước đó, vào ngày 30 tháng 4 năm 1999, Cam-pu-chia trở thành thành viên thứ 10 của ASEAN, hoàn thành ước mơ về một ASEAN bao gồm tất cả các quốc gia Đông Nam Á.

Tuyên bố ASEAN năm 1967, hay còn gọi là Tuyên bố Băng-cốc, xác định mục tiêu của ASEAN là thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tiến bộ xã hội và phát triển văn hóa trong khu vực Điều này được thực hiện thông qua các sáng kiến chung, dựa trên tinh thần bình đẳng và hợp tác, nhằm xây dựng một cộng đồng thịnh vượng và hòa bình cho các quốc gia Đông Nam Á.

Thúc đẩy hòa bình và ổn định khu vực yêu cầu tôn trọng công lý và pháp quyền trong quan hệ giữa các quốc gia, đồng thời tuân thủ các nguyên tắc của Hiến chương Liên Hợp Quốc.

Thúc đẩy hợp tác tích cực và hỗ trợ lẫn nhau trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hóa, kỹ thuật, khoa học và hành chính là điều quan trọng nhằm giải quyết các vấn đề chung mà các bên cùng quan tâm.

Hỗ trợ lẫn nhau thông qua đào tạo và cung cấp cơ sở vật chất cho nghiên cứu trong các lĩnh vực giáo dục, chuyên môn, kỹ thuật và hành chính.

Hợp tác hiệu quả là yếu tố then chốt để tối ưu hóa ngành nông nghiệp và công nghiệp, mở rộng thương mại Điều này bao gồm việc nghiên cứu các vấn đề liên quan đến thương mại hàng hóa quốc tế, cải thiện hạ tầng giao thông và liên lạc, cũng như nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân.

- Thúc đẩy nghiên cứu về Đông Nam Á; và

HIỆP HỘI CÁC NƯỚC ĐÔNG NAM Á

Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) được thành lập vào ngày 08/08/1967 tại Băng-cốc, Thái Lan, với 5 quốc gia thành viên ban đầu là In-đô-nê-xi-a, Ma-lai-xi-a, Phi-líp-pin, Xin-ga-po và Thái Lan Năm 1984, Bru-nây Đa-rút-xa-lam gia nhập ASEAN, và đến ngày 28/07/1995, Việt Nam trở thành thành viên thứ 7 của tổ chức này.

Vào ngày 23 tháng 7 năm 1999, ASEAN chính thức kết nạp Lào và Mi-an-ma, đánh dấu bước tiến quan trọng trong việc mở rộng tổ chức Trước đó, vào ngày 30 tháng 4 năm 1999, Campuchia đã trở thành thành viên thứ 10 của ASEAN, hoàn thành ước mơ về một cộng đồng ASEAN bao gồm tất cả các quốc gia Đông Nam Á.

Tuyên bố ASEAN năm 1967, hay còn gọi là Tuyên bố Băng-cốc, xác định rõ mục tiêu của ASEAN là thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tiến bộ xã hội và phát triển văn hóa trong khu vực Điều này được thực hiện thông qua các sáng kiến chung dựa trên tinh thần bình đẳng và hợp tác, nhằm xây dựng nền tảng cho một cộng đồng thịnh vượng và hòa bình giữa các quốc gia Đông Nam Á.

Thúc đẩy hòa bình và ổn định khu vực yêu cầu tôn trọng công lý và pháp quyền trong quan hệ giữa các quốc gia, đồng thời tuân thủ các nguyên tắc của Hiến chương Liên Hợp Quốc.

Thúc đẩy hợp tác tích cực và hỗ trợ lẫn nhau trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hóa, kỹ thuật, khoa học và hành chính là rất quan trọng để giải quyết những vấn đề chung mà các bên quan tâm.

Hỗ trợ lẫn nhau thông qua việc đào tạo và cung cấp cơ sở vật chất cho nghiên cứu trong các lĩnh vực giáo dục, chuyên môn, kỹ thuật và hành chính.

Hợp tác hiệu quả trong ngành nông nghiệp và công nghiệp là yếu tố then chốt để mở rộng thương mại quốc tế Việc nghiên cứu các vấn đề thương mại hàng hóa, cải thiện phương tiện giao thông và liên lạc sẽ góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân.

- Thúc đẩy nghiên cứu về Đông Nam Á; và

Duy trì hợp tác chặt chẽ và có lợi với các tổ chức quốc tế và khu vực có tôn chỉ tương đồng, đồng thời tìm kiếm các phương thức để nâng cao sự hợp tác giữa các tổ chức này.

VIỆT NAM TRONG TỔNG THỂ KINH TẾ THẾ GIỚI VÀ KHU VỰC ĐÔNG NAM Á

Kinh tế toàn cầu hiện nay bao gồm 226 quốc gia và tổ chức lãnh thổ, với tổng GNI năm 2001 đạt gần 32 ngàn tỷ USD GNI bình quân đầu người là 5.140 USD, nhưng có sự chênh lệch lớn giữa các quốc gia và khu vực Thế giới có thể được chia thành hai nhóm chính: các nước phát triển và các nước đang phát triển công nghiệp.

Việt Nam là một quốc gia đang phát triển với trình độ trung bình (IIb) và chỉ số GNI quân đội/ người thấp Năm 2001, quy mô GNI của Việt Nam đạt 32 tỷ USD, chiếm 0,10% GNI toàn cầu Theo chỉ số HDI, Việt Nam xếp thứ 109 trong tổng số 175 quốc gia vào năm 2003 Trong khu vực Đông Nam Á, Việt Nam đứng thứ hai về dân số, thứ năm về quy mô GNI theo phương pháp PPP (169 tỷ USD năm 2001), thứ sáu về GNI quân đội/người và thứ bảy về GDP/người.

Kinh tế ngoại lai của Việt Nam chuyên biệt phát triển mạnh trong 10 năm gần dây (1990-2000) và Việt Nam chính thức gia nhập Hiệp hội các nước Đông Nam Á

(ASEAN) vào tháng 7-1995 Cơ cấu kinh tế Việt Nam vẫn thuộc cơ sở kinh tế của các nước nghèo, có mức thấp thu nhập.

Việt Nam đang nỗ lực nâng cao sức mạnh sản xuất và chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa Mục tiêu là tiến tới cơ cấu kinh tế của các nước có thu nhập trung bình, với tham vọng trở thành quốc gia phát triển vào năm 2020.

PHÂN TÍCH ĐỊA LÝ KINH TẾ VÀ TỔ CHỨC LÃNH THỔ CỦA THÀNH PHỐ HUẾ - TỈNH THỪA THIÊN HUẾ

CÁC ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN

Thành phố Huế nằm ở trung tâm tỉnh Thừa Thiên Huế, địa bàn nằm trải dài theo dòng song hương và có vị trí địa lý:

 Phía đông giáp thị xã Hương Thủy và huyện Phú Vang

 Phía tây giáp thị xã Hương Trà

 Phía nam giáp thị xã Hương Thủy

 Phía bắc giáp huyện Quảng Điền và biển đông

Thành phố có diện tích 265,99 km², dân số năm 2020 là 652.572 người ,mật độ dân số đạt 2.453 người/km².

Thành phố nằm cách thủ đô Hà Nội 668 km về phía nam, cách TP Hồ Chí Minh

1039 km về phía bắc và cách Đà Nẵng 95 km về phía bắc.

Thành phố Huế nằm gần dãy núi Trường Sơn, thuộc đồng bằng hạ lưu sông Hương và sông Bồ, với độ cao trung bình khoảng 3 – 4 m so với mực nước biển Khu vực này thường xuyên bị ngập lụt khi có mưa lớn ở đầu nguồn sông Hương Đồng bằng Huế tương đối bằng phẳng, nhưng cũng có sự xuất hiện của một số đồi, núi thấp như núi Ngư Bình và đồi Vọng Cảnh.

Thành phố Huế có khí hậu đặc biệt khác biệt so với các vùng Bắc Bộ và Nam Bộ, với điều kiện thời tiết khắc nghiệt và sự phân hóa rõ rệt giữa các khu vực trong tỉnh.

Huế có khí hậu gió mùa theo phân loại khí hậu Köppen, với mùa khô kéo dài từ tháng Ba đến tháng Tám, nhiệt độ thường dao động từ 35 đến 40 °C (95 đến 104 °F) Mùa mưa diễn ra từ tháng Tám đến tháng Giêng, trong đó có một mùa lũ bắt đầu từ tháng Mười.

Nhiệt độ trung bình mùa mưa là 20 °C (68 °F), đôi khi thấp nhất là 9 °C (48 °F).

Mùa xuân kéo dài từ tháng giêng đến cuối tháng Hai c Tài nguyên

Thừa Thiên Huế có tổng diện tích tự nhiên 503.320,53 ha, bao gồm 465.205 ha đất và 37.125,53 ha hồ, ao, đầm, sông suối, núi đá Đất đồi núi chiếm hơn 75% tổng diện tích, trong khi đất đồng bằng duyên hải chỉ chiếm dưới 20%.

Tỉnh có diện tích 505.399 ha với sự đa dạng trong nhóm đất, bao gồm 10 loại khác nhau Nhóm đất đỏ vàng chiếm ưu thế với 347.431 ha, tương đương 68,7% tổng diện tích tự nhiên Diện tích đất bằng, bao gồm cả đất thung lũng do sản phẩm dốc tụ, chỉ đạt 98.882 ha, chiếm 19,5% diện tích toàn tỉnh Trong số đó, đất cần cải tạo như đất cồn cát, bãi cát và đất cát biển, cùng với các nhóm đất phèn và mặn, chiếm 60% diện tích đất bằng với tổng cộng 59.440 ha.

Diện tích đất phân bố ở địa hình dốc có 369.393 ha (kể cả đất sói mòn trơ sỏi đá).

Ngày 25/2/2020, UBND tỉnh ban hành Quyết định số 529/QĐ-UBND về việc công bố hiện trạng rừng tỉnh Thừa Thiên Huế

Tỉnh Thừa Thiên Huế hiện có tổng diện tích rừng là 288.334,37 ha, bao gồm 211.373,11 ha rừng tự nhiên và 76.961,26 ha rừng trồng Diện tích rừng được phân loại theo mục đích sử dụng gồm: rừng phòng hộ 76.957,28 ha, rừng đặc dụng 93.200,43 ha, và rừng sản xuất 118.176,66 ha Trong đó, diện tích rừng sản xuất thực tế là 99.615,11 ha, ngoài quy hoạch có 18.561,55 ha, và 5.679,73 ha là diện tích đã trồng nhưng chưa thành rừng Tính đến cuối năm 2019, tỷ lệ che phủ rừng của tỉnh đạt 57,37%.

Theo Quyết định số 07/2012/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, số liệu về hiện trạng rừng được công bố sẽ là cơ sở để các huyện, thành phố theo dõi diễn biến tài nguyên rừng Điều này nhằm đảm bảo tuân thủ quy định của Luật Bảo vệ và Phát triển rừng, đồng thời phân cấp trách nhiệm quản lý Nhà nước về rừng và đất lâm nghiệp cho UBND các cấp.

UBND tỉnh yêu cầu Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn quản lý và khai thác cơ sở dữ liệu diễn biến rừng, đồng thời cập nhật tình hình rừng hàng năm Sở Tài nguyên và Môi trường có trách nhiệm bổ sung kết quả diễn biến rừng vào hồ sơ quản lý đất đai hàng năm của từng huyện, thị xã và tỉnh.

-Tài nguyên biển và ven biển

Hệ thống thủy văn Thừa Thiên Huế rất phức tạp và độc đáo, với các con sông kết nối chằng chịt, tạo thành một mạng lưới đa dạng Những dòng sông như Ô Lâu, phá Tam Giang, sông Hương, sông Lợi Nông và sông Đại Giang đều góp phần tạo nên vẻ đẹp tự nhiên và hệ sinh thái phong phú của vùng đất này.

Hà Tạ - sông Cống Quan - sông Truồi- sông Nong - đầm

Cầu Hai là một phần của hệ thống thuỷ văn độc đáo của Thừa Thiên Huế, nơi hội tụ của nhiều con sông trước khi đổ ra biển Đầm phá Tam Giang - Cầu Hai kéo dài gần 70 cây số dọc bờ biển, với diện tích lớn nhất Đông Nam Á (ngoại trừ sông A Sáp và sông Bu Lu) Đây là đầm phá tiêu biểu nhất trong 12 vực nước ven biển Việt Nam và được công nhận là một trong những đầm phá lớn nhất thế giới.

Hệ thống sông và đầm phá Tam Giang - Cầu Hai kết nối với nhiều trằm, bàu tự nhiên và các hồ, đập nhân tạo lớn nhỏ Tổng diện tích mặt nước của khu vực này khoảng 231 km², với tổng lượng nước mặt từ các sông Đông Trường Sơn chảy ra lên tới hơn 9 tỷ mét khối.

Thành phố Huế, với tài nguyên nhân văn và tự nhiên phong phú, sở hữu hai di sản văn hóa thế giới được UNESCO công nhận cùng vịnh Lăng Cô, nằm trong danh sách các vịnh biển đẹp nhất thế giới Thừa Thiên - Huế có tiềm năng trở thành một trong những trung tâm du lịch lớn, đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển du lịch khu vực Bắc miền Trung.

Thừa Thiên - Huế, tỉnh nằm trong vùng kinh tế động lực miền Trung Việt Nam, có vị trí chiến lược quan trọng, kết nối hai đầu đất nước và là cửa ngõ của hành lang kinh tế Đông-Tây Địa phương này được xác định là một trong ba vùng phát triển du lịch trọng điểm quốc gia, với thành phố Huế được Chính phủ công nhận là một trong năm thành phố du lịch và đang nỗ lực trở thành thành phố Festival đặc trưng của Việt Nam.

Thừa Thiên - Huế sở hữu nguồn tài nguyên du lịch phong phú với nhiều di tích văn hóa, lịch sử và cách mạng, cùng với các hệ sinh thái biển, hồ và rừng đa dạng Tỉnh có bờ biển dài 128 km với nhiều bãi biển đẹp, trong đó vịnh Lăng Cô được công nhận là một trong những vịnh biển đẹp nhất thế giới, tạo điều kiện lý tưởng cho du lịch biển Ngoài ra, quần thể di tích Cố đô Huế và Nhã nhạc Cung đình Huế đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới, là nền tảng cho sự phát triển các sản phẩm du lịch đa dạng, đặc biệt là du lịch sinh thái, biển và văn hóa.

Khi quần thể di tích Cố đô Huế được công nhận là Di sản văn hóa thế giới năm 1993 và Nhã nhạc Cung đình Huế trở thành Di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại năm 2004, việc khai thác giá trị di sản này gắn liền với du lịch biển đã đạt được nhiều thành tựu Qua năm kỳ Festival Huế từ 2002 đến 2010 và các sự kiện như Festival Lăng Cô - huyền thoại biển, đã góp phần nâng cao nhận thức về văn hóa và du lịch tại khu vực.

TỔ CHỨC LÃNH THỔ SẢN XUẤT

Tỉnh Thừa Thiên Huế, nằm trong vùng kinh tế trọng điểm miền Trung, luôn chú trọng đến phát triển kinh tế bền vững trong bối cảnh địa lý, kinh tế, văn hóa, xã hội và môi trường đặc thù Trong giai đoạn 2021 - 2025, tỉnh tập trung phát triển công nghiệp bền vững theo hướng kinh tế xanh, khai thác tiềm năng và thế mạnh nguồn nguyên liệu tại chỗ cùng nguồn nhân lực chất lượng cao Mục tiêu là nâng cao hiệu quả sử dụng nguyên vật liệu, bảo vệ môi trường, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ cao và sử dụng thiết bị tiên tiến nhằm tăng giá trị gia tăng sản phẩm, nâng cao năng suất và khả năng cạnh tranh của ngành công nghiệp.

Tỉnh Thừa Thiên Huế sẽ ưu tiên phát triển các ngành công nghiệp có lợi thế cạnh tranh, bao gồm công nghiệp hỗ trợ dệt may, năng lượng, sản xuất ô tô, chế biến sâu silicat, công nghệ thông tin, phần mềm, dược liệu và thiết bị y tế Trong nhiệm kỳ 2021 - 2025, ngành Công Thương đặt mục tiêu tăng trưởng giá trị sản xuất công nghiệp đạt 14,5 - 15% và tỷ trọng công nghiệp và xây dựng trong GRDP đạt 38 - 39% Để đạt được những mục tiêu này, tỉnh sẽ triển khai các giải pháp và kiến nghị cụ thể nhằm thúc đẩy sự phát triển của ngành công nghiệp trong thời gian tới.

Thứ nhất, xây dựng, hoàn thiện hệ thống chính sách phát triển công nghiệp trên địa bàn tỉnh.

Rà soát và điều chỉnh các quy định để hoàn thiện môi trường kinh doanh là cần thiết Cần đơn giản hóa và công khai quy trình thủ tục hành chính, đồng thời triển khai thực hiện theo hướng một cửa và một cửa liên thông Điều này đặc biệt quan trọng đối với các thủ tục đầu tư trong lĩnh vực công nghiệp tại tỉnh.

Rà soát và điều chỉnh các chính sách phát triển công nghiệp nông thôn nhằm ưu tiên di dời các cơ sở sản xuất ra khỏi khu dân cư, đồng thời khuyến khích đầu tư mở rộng sản xuất tại các cụm công nghiệp Điều này sẽ góp phần phát triển hoạt động sản xuất trong các khu công nghiệp và thúc đẩy sự phát triển bền vững của công nghiệp nông thôn.

Thứ hai, đẩy mạnh công tác xúc tiến thu hút đầu tư lĩnh vực công nghiệp, đặc biệt đối với các ngành công nghiệp ưu tiên phát triển.

Tỉnh cần rà soát và lập danh mục các dự án đầu tư trọng điểm trong lĩnh vực công nghiệp để kêu gọi đầu tư đến năm 2025 Đặc biệt, cần tập trung vào các ngành công nghiệp ưu tiên như công nghiệp hỗ trợ dệt may, công nghiệp dược liệu và thiết bị y tế.

Tổ chức hội thảo xúc tiến và chương trình thu hút đầu tư cả trong và ngoài nước, nhằm kêu gọi đầu tư cho các dự án trọng điểm trong lĩnh vực công nghiệp của tỉnh, với mục tiêu đến năm 2025.

Thứ ba, thúc đẩy, nâng cao năng suất, chất lượng và giá trị gia tăng trong các ngành công nghiệp:

Khuyến khích doanh nghiệp áp dụng hệ thống tổ chức sản xuất tiên tiến và công nghệ cao trong nông nghiệp, kết hợp sản xuất công nghiệp với bảo vệ môi trường Đồng thời, cần sử dụng tài nguyên và năng lượng một cách tiết kiệm và hiệu quả để đáp ứng yêu cầu của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0.

Chúng tôi tập trung vào việc hỗ trợ và khuyến khích các doanh nghiệp áp dụng công nghệ tiên tiến trong sản xuất, nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm và giá trị gia tăng cho các sản phẩm công nghiệp Đồng thời, chúng tôi cũng xây dựng lộ trình đổi mới công nghệ, hiện đại hóa và thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu ngành để đáp ứng nhu cầu phát triển bền vững.

Để nâng cao hiệu quả khai thác và sử dụng tài nguyên khoáng sản, đặc biệt trong ngành chế biến thạch anh, cần hỗ trợ thuận lợi cho các dự án theo tiến độ cấp phép Đồng thời, tăng cường công tác xúc tiến đầu tư cho các dự án chế biến sâu và đề xuất giải pháp nhằm khai thác hiệu quả nguồn tài nguyên khoáng sản tại tỉnh.

Để phát triển bền vững ngành nuôi trồng thủy hải sản và chế biến gỗ, cần tạo điều kiện thuận lợi cho nguồn nguyên liệu Điều này bao gồm việc nghiên cứu và bố trí quỹ đất hợp lý, đồng thời hỗ trợ phát triển cây dược liệu phục vụ cho ngành công nghiệp hóa dược.

Hỗ trợ doanh nghiệp tham gia vào chuỗi giá trị sản xuất trong nước, khu vực và toàn cầu nhằm nâng cao giá trị gia tăng và giá trị xuất khẩu công nghiệp.

Thứ tư, tập trung nguồn lực hỗ trợ đầu tư hoàn thiện hạ tầng kĩ thuật các khu công nghiệp, cụm công nghiệp trên địa bàn tỉnh:

Chính quyền địa phương đang nỗ lực tạo điều kiện thuận lợi và thúc đẩy các nhà đầu tư hạ tầng để tăng tốc tiến độ hoàn thiện các khu công nghiệp như Phú Bài, Phong Điền, La Sơn và Tứ Hạ Đối với những khu công nghiệp chưa có nhà đầu tư hạ tầng như Phú Đa, Quang Vinh và khu công nghiệp trong Khu kinh tế Chân Mây - Lăng Cô, cần tập trung vào việc xúc tiến kêu gọi nhà đầu tư hạ tầng nhằm tạo tiền đề thu hút đầu tư hiệu quả hơn.

Để phát triển hạ tầng cho các cụm công nghiệp trên địa bàn tỉnh, cần ưu tiên bố trí tập trung nguồn lực ngân sách, sắp xếp theo thứ tự cấp thiết Đồng thời, cần tranh thủ nguồn ngân sách hỗ trợ từ Trung ương để đầu tư vào các hạng mục thiết yếu như nhà máy xử lý nước thải tập trung và san lấp mặt bằng, nhằm thu hút các dự án đầu tư hiệu quả.

Vào thứ năm, chúng tôi sẽ chú trọng vào việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao để đáp ứng nhu cầu sản xuất của ngành công nghiệp trong tỉnh.

Triển khai kế hoạch phát triển nhân lực chất lượng cao là ưu tiên hàng đầu, tập trung vào việc đáp ứng nhu cầu của ngành công nghiệp chủ lực Cần có chính sách thu hút các chương trình đào tạo nghề theo yêu cầu doanh nghiệp, đồng thời xây dựng cơ chế hấp dẫn nguồn nhân lực chất lượng cao từ cả trong và ngoài nước Đặc biệt, cần chú trọng đến chính sách tiền lương, môi trường làm việc và hỗ trợ về nhà ở cho lao động kỹ thuật cao Ngoài ra, cần mở rộng các ngành nghề đào tạo và liên kết với các trường đại học tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh để đáp ứng nhu cầu đầu tư phát triển trong lĩnh vực nông nghiệp.

TỔ CHỨC XÃ HỘI Ở VÙNG ĐÓ

Thành phố Huế, với diện tích chỉ 70 km2 (bằng 42% tiêu chuẩn thành phố thuộc tỉnh), đóng vai trò quan trọng như một đô thị trung tâm, đô thị di sản, và thành phố môi trường, xanh Dân số của thành phố đạt 345.000 người, với mật độ dân cư vượt mức 5.000 người/km2, so với tiêu chuẩn 2.000 – 3.000 người/km2, trong khi mật độ xây dựng đã lên đến 80% diện tích.

Huế đang phải đối mặt với áp lực gia tăng dân số và hạ tầng xã hội quá tải, trong khi hạ tầng kỹ thuật chưa đảm bảo sự kết nối đồng bộ Mặc dù vùng ven thành phố đã trải qua quá trình đô thị hóa, nhưng vẫn còn được quản lý bằng bộ máy chính quyền nông thôn Quy mô của thành phố hiện tại không chỉ chật chội cho việc bảo tồn di tích mà còn không đủ lớn để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, như Chủ tịch UBND tỉnh Thừa Thiên-Huế đã chia sẻ trước Quốc hội.

Việc mở rộng địa giới hành chính TP Huế là một nhu cầu khách quan, tạo điều kiện cho Huế phát triển thành đô thị trung tâm của tỉnh Thừa Thiên-Huế và là một trong những đô thị lớn của quốc gia Điều này không chỉ mang lại cơ hội cho người dân hưởng thụ điều kiện sống và làm việc tốt nhất, mà còn thúc đẩy công tác bảo tồn và phát huy di sản Cố đô Huế Hơn nữa, việc này sẽ là cơ sở để xây dựng tỉnh Thừa Thiên-Huế thành thành phố trực thuộc Trung ương theo hướng đô thị di sản, văn hóa, sinh thái và thân thiện với môi trường Tuy nhiên, điều chỉnh địa giới TP Huế cũng sẽ ảnh hưởng đến tiêu chuẩn phân loại đơn vị hành chính của một số huyện lân cận.

Cử tri Thừa Thiên-Huế bày tỏ mong muốn nhận được sự hỗ trợ và chỉ đạo từ Chính phủ cùng Ủy ban Thường vụ Quốc hội để thực hiện đề án mở rộng địa giới hành chính thành phố Huế, nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển và ổn định mô hình các đơn vị hành chính cấp huyện hiện tại Ông Phan Ngọc Thọ, đại diện cho cử tri, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc cải thiện cơ sở hạ tầng để thúc đẩy sự phát triển của TP.Huế.

Tỉnh Thừa Thiên Huế đã nhận thức rõ vai trò quan trọng của cơ sở hạ tầng trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội và thu hút đầu tư Để đáp ứng nhu cầu này, tỉnh đã huy động mọi nguồn lực từ trong và ngoài nước, cùng với việc áp dụng các chính sách khuyến khích đầu tư Hiện nay, hệ thống cơ sở hạ tầng tại Thừa Thiên Huế đã tương đối đồng bộ, bao gồm mạng lưới giao thông đường bộ, đường sắt, đường thủy và hàng không, với các tuyến Quốc lộ 1A, Quốc lộ 49, đường Hồ Chí Minh và hầm Hải Vân - hầm đường bộ lớn nhất Đông Nam Á, tạo điều kiện thuận lợi cho giao thương Cảng Chân Mây có khả năng tiếp nhận tàu du lịch 3.000 khách và tàu hàng 50.000 tấn, trong khi sân bay quốc tế Phú Bài đảm bảo an toàn cho các chuyến bay lớn như Airbus A320 và Boeing 747.

Mạng lưới truyền tải điện với các đường dây 110kV, 220kV và 500kV đảm bảo cung cấp điện ổn định và chất lượng cao, đáp ứng đầy đủ nhu cầu của các nhà đầu tư.

Hệ thống cung cấp nước sạch của thành phố và các thị trấn trong tỉnh hiện có 6 nhà máy với tổng công suất 95.500m³/ngày đêm Dự kiến đến năm 2010, công suất sẽ tăng lên 162.000m³/ngày đêm, đáp ứng nhu cầu phát triển công nghiệp, dịch vụ, du lịch và cải thiện đời sống nhân dân.

Dịch vụ tài chính ngân hàng hiện nay rất đa dạng và phát triển mạnh mẽ, với nhiều doanh nghiệp cung cấp các loại hình dịch vụ đạt tiêu chuẩn quốc tế Những dịch vụ này đóng vai trò là cầu nối an toàn và thuận lợi, giúp doanh nghiệp đáp ứng nhu cầu giao dịch với các đối tác trong lĩnh vực tài chính ngân hàng.

Dịch vụ tài chính viễn thông đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế tại Thừa Thiên Huế, với 100% thôn có máy điện thoại và kết nối Internet tại các UBND, HĐND xã Mật độ điện thoại đạt 85,93 máy/100 dân, phấn đấu đạt 100 máy/100 dân vào cuối năm 2009 Khu vực này có 4 doanh nghiệp bưu chính hoạt động, bao gồm Bưu điện Thừa Thiên Huế và Bưu chính Viettel, không ngừng mở rộng dịch vụ để đáp ứng nhu cầu người dân Bệnh viện Trung ương Huế, một trong ba trung tâm y tế chuyên sâu của cả nước, đã thành công trong việc ứng dụng kỹ thuật cao như ghép thận và phẫu thuật tim Đại học Huế, với 7 trường thành viên và nhiều chuyên ngành đào tạo, cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao cho tỉnh, tạo lợi thế lớn cho sự phát triển kinh tế và xã hội.

*Vì sao nói khu kinh tế thành phố Huế là khu khinh tế trọng điểm?

Thành phố Huế, với diện tích 71,7 km² và dân số đạt 455.230 người vào năm 2018, có mật độ dân số 5.076 người/km² Thành phố bao gồm 27 phường và không có xã, nằm giáp ranh với thị xã Hương Trà và huyện Quảng Điền ở phía Bắc, thị xã Hương Thuỷ ở phía Tây và Nam, và huyện Phú Vang ở phía Đông Đặc biệt, Huế là đô thị loại I đầu tiên của cả nước, được công nhận vào năm 2005.

Theo Quyết định số 649/QĐ-TTg được Thủ tướng Chỉnh phủ ban hành ngày 06 tháng

05 năm 2014 về việc phê duyệt điều chỉnh quy hoạch chung thành phố Huế đến năm

Đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2050, không gian đô thị Huế dự kiến sẽ mở rộng từ 70km2 lên gần 350km2, với mục tiêu xây dựng Huế thành phố Festival và trung tâm du lịch văn hóa đặc sắc của châu Á.

Thành phố Huế sở hữu vị trí địa lý và địa - kinh tế thuận lợi, đồng thời có vai trò quan trọng trong địa - chính trị, lịch sử và văn hóa Những yếu tố này góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Thừa Thiên Huế, khu vực miền Trung và toàn quốc.

Huế, thành phố đầu tiên của Việt Nam, đã được Quỹ bảo tồn Thiên nhiên Thế giới (WWF) công nhận là Thành phố xanh quốc gia vào năm 2016, đánh dấu một bước tiến quan trọng trong việc bảo vệ môi trường và phát triển bền vững.

“Thành phố văn hóa của ASEAN” (năm 2014), được công nhận Thành phố du lịch sạch của ASEAN (năm 2018).

Nằm ở vị trí trung tâm Việt Nam, địa điểm này kết nối các tuyến giao thông Bắc - Nam bao gồm đường bộ, đường sắt, hàng không và đường biển Nó cũng nằm trên hành lang Đông - Tây, gần các trung tâm kinh tế lớn đang phát triển nhanh chóng như Khu kinh tế Chân Mây - Lăng.

Thành phố Huế, với vị trí thuận lợi gần Đà Nẵng và Khu kinh tế mở Chu Lai, dễ dàng kết nối với các tỉnh, thành phố trên toàn quốc cũng như quốc tế qua đường hàng không, đường biển, đường bộ và đường sắt Huế nổi bật với thiên nhiên đa dạng và phong phú, sở hữu những cảnh quan hấp dẫn như núi Ngự Bình, sông Hương uốn khúc và những rừng thông xanh tốt Vùng đất này cũng gần biển Đông, tạo điều kiện lý tưởng cho du lịch, nghỉ dưỡng và các hoạt động thể thao biển.

Ngày đăng: 06/07/2021, 15:22

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w