Mục tiêu của đề tài là hệ thống lại các phương pháp xác định hiệu quả hoạt động kinh doanh của một ngân hàng thương mại; đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh của các NHTM Việt Nam bằng các phương pháp khác nhau; đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh của các NHTM Việt Nam.
M ỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
Đề tài nghiên cứu nhằm đạt được các mục tiêu sau:
− Hệ thống lại các phương pháp xác định hiệu quả hoạt động kinh doanh của một ngân hàng thương mại
− Đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh của các NHTM Việt Nam bằng các phương pháp khác nhau
− Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh của các NHTM Việt Nam.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
− Phương pháp định tính: đánh giá hiệu quả hoạt động của các NHTM Việt Nam bằng các chỉ tiêu truyền thống
Phương pháp định lượng được áp dụng thông qua phương pháp bao dữ liệu DEA để phân tích hiệu quả hoạt động và mô hình kinh tế lượng nhằm xác định các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại tại Việt Nam.
Để thực hiện nghiên cứu này, tác giả đã áp dụng phương pháp thu thập số liệu từ các nguồn thứ cấp, bao gồm báo cáo tài chính thường niên, tài liệu sách báo, tạp chí và các nghiên cứu có sẵn liên quan đến hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam.
− Phương pháp xử lý số liệu: Nghiên cứu này sử dụng phần mềm DEAP 2.1,
Eviews 5.0 Phương pháp được sử dụng trong nghiên cứu là thống kê mô tả, phân tích tổng hợp, so sánh.
KẾT CẤU ĐỀ TÀI
Kết cấu luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại
Chương 2: Thực trạng hiệu quả hoạt động kinh doanh của các NHTM Việt Nam
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của các NHTM Việt Nam
Nghiên cứu này phân tích hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam thông qua các chỉ số tài chính và phương pháp bao dữ liệu DEA, nhằm cung cấp cái nhìn toàn diện về hiệu quả kinh doanh Sự kết hợp này giúp các NHTM nhận diện vị thế của mình trong ngành, từ đó xác định các mục tiêu cần đạt được để nâng cao hiệu quả hoạt động.
TỔNG QUAN VỀ HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
Một số quan điểm về hiệu quả hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Thương Mại
1.1.1 Hiệu quả hoạt động kinh doanh của NHTM a Một số khái niệm liên quan đến NHTM
Ngân hàng thương mại là loại hình ngân hàng hoạt động trực tiếp với các doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân thông qua việc nhận tiền gửi và tiết kiệm, sau đó sử dụng vốn để cho vay, chiết khấu, cung cấp phương tiện thanh toán và dịch vụ ngân hàng Đây là loại ngân hàng phổ biến và chiếm số lượng lớn trong nền kinh tế Sự hiện diện của ngân hàng thương mại trong nhiều lĩnh vực hoạt động của xã hội cho thấy rằng, nơi nào có hệ thống ngân hàng thương mại phát triển, nơi đó kinh tế xã hội sẽ phát triển nhanh chóng và ngược lại.
NHTM có những đặc điểm sau:
Ngân hàng thương mại (NHTM) là một loại hình doanh nghiệp hoạt động chủ yếu vì lợi nhuận, với cơ cấu tổ chức tương tự như các doanh nghiệp khác NHTM có quan hệ kinh tế bình đẳng với các doanh nghiệp, tự chủ về tài chính và có nghĩa vụ đóng thuế cho ngân sách nhà nước Cấu trúc tài chính của NHTM cũng giống như các doanh nghiệp khác, yêu cầu phải có vốn để hoạt động, vốn này có thể đến từ ngân sách nhà nước đối với ngân hàng nhà nước hoặc từ cổ đông đối với ngân hàng cổ phần, và phải tự chủ về tài chính thông qua việc tự tạo ra thu nhập để bù đắp chi phí.
Ngân hàng thương mại (NHTM) là một loại doanh nghiệp đặc biệt, hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực tiền tệ, tín dụng và dịch vụ ngân hàng Lĩnh vực này có ảnh hưởng sâu rộng đến mọi khía cạnh của đời sống kinh tế - xã hội, đòi hỏi sự cẩn trọng cao trong quản lý để tránh thiệt hại cho nền kinh tế Tiền tệ, công cụ quan trọng mà Nhà nước sử dụng để quản lý kinh tế vĩ mô, quyết định sự phát triển hoặc suy thoái của nền kinh tế, vì vậy hoạt động của NHTM phải được kiểm soát chặt chẽ bởi Nhà nước.
Nguồn vốn kinh doanh của ngân hàng thương mại chủ yếu được huy động từ bên ngoài, trong khi vốn tự có của ngân hàng chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn.
Trong tổng tài sản của ngân hàng, tài sản hữu hình chiếm tỷ lệ thấp, chủ yếu là tài sản vô hình dưới dạng tài sản tài chính như kỳ phiếu, trái phiếu, thương phiếu, cổ phiếu, hợp đồng tín dụng, khế ước nhận nợ và các giấy tờ có giá trị khác.
Hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại (NHTM) bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi chính sách tiền tệ của Ngân hàng Trung ương Khi Ngân hàng Trung ương thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ để kiểm soát lạm phát, NHTM sẽ gặp khó khăn trong việc mở rộng hoạt động kinh doanh và ngược lại.
Ngân hàng thương mại (NHTM) là một tổ chức tài chính trung gian, có vai trò huy động và tập trung các nguồn vốn tạm thời từ dân cư và các tổ chức kinh tế, biến những nguồn vốn nhỏ lẻ thành nguồn tín dụng lớn để đáp ứng nhu cầu vay vốn cho kinh doanh, đầu tư và tiêu dùng NHTM cũng đóng vai trò cầu nối giữa những chủ thể thừa vốn và những chủ thể thiếu vốn Ngoài ra, ngân hàng còn thực hiện các giao dịch thanh toán giữa khách hàng, hỗ trợ hoàn tất các quan hệ kinh tế thương mại.
Các nghiệp vụ của NHTM
Nghiệp vụ tạo lập nguồn vốn trong bảng tổng kết tài sản là các hoạt động hình thành nguồn vốn hoạt động của ngân hàng, bao gồm các nghiệp vụ nợ.
Vốn điều lệ và các quỹ;
Vốn huy động; nguồn vốn đi vay;
Nguồn vốn khác o Nghiệp vụ sử dụng vốn (Nghiệp vụ có): với nguồn vốn có được, ngân hàng sử dụng cho các hoat động:
Ngân hàng thương mại (NHTM) cần thiết lập dự trữ bằng cách dành một phần nguồn vốn cho các hoạt động như đáp ứng yêu cầu dự trữ bắt buộc của Ngân hàng Nhà nước, thực hiện lệnh rút tiền và thanh toán chuyển khoản của khách hàng, chi trả các khoản tiền gửi đến hạn và lãi suất, cũng như đáp ứng nhu cầu vay vốn hợp lý trong ngày và các khoản chi tiêu hàng ngày tại ngân hàng.
Cấp tín dụng bao gồm các hoạt động cho vay, chiết khấu thương phiếu và chứng từ có giá, cho thuê tài chính, bảo lãnh và bao thanh toán Đầu tư tài chính diễn ra qua các hình thức góp vốn, liên doanh, mua cổ phần của công ty, xí nghiệp hoặc tổ chức tín dụng khác, cũng như mua chứng khoán và giấy tờ có giá để thu lợi tức và chênh lệch giá.
Sử dụng vốn cho nhiều mục đích khác nhau như mua sắm thiết bị, dụng cụ phục vụ hoạt động kinh doanh, xây dựng trụ sở ngân hàng, hệ thống kho bãi và các chi phí liên quan Ngoài ra, ngân hàng còn thực hiện nghiệp vụ trung gian, bao gồm các dịch vụ phi tín dụng và các hoạt động kinh doanh khác.
Dịch vụ ngân quỹ Dịch vụ ủy thác Dịch vụ bảo hiểm Dịch vụ thông tin tư vấn
Dịch vụ giữ hộ Dịch vụ địa ốc
Tổ chức thanh toán Kinh doanh vàng bạc, đá quý, ngoại tệ
- Các nghiệp vụ ngoài bảng tổng kết tài sản:
Trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng khốc liệt, các ngân hàng đang tích cực tìm kiếm lợi nhuận thông qua các hoạt động ngoại bảng Những hoạt động này bao gồm hợp đồng bảo lãnh tín dụng, hợp đồng trao đổi lãi suất, hợp đồng tài chính tương lai, hợp đồng quyền chọn, hợp đồng cam kết cho vay và hợp đồng tỷ giá hối đoái.
Cơ cấu thu nhập của NHTM
Khoản thu từ hoạt động kinh doanh bao gồm thu nhập từ hoạt động tín dụng (lãi suất) và thu ngoài lãi, như thu từ dịch vụ, kinh doanh ngoại hối, lãi góp vốn, mua cổ phần, giao dịch cổ phiếu, trái phiếu, giấy tờ có giá, hoạt động mua bán nợ, chênh lệch tỷ giá và các hoạt động kinh doanh khác.
Khoản thu khác của ngân hàng thương mại (NHTM) bao gồm doanh thu từ việc nhượng bán và thanh lý tài sản cố định, thu hồi vốn đã xử lý bằng dự phòng rủi ro, cùng với kinh phí quản lý từ các công ty thành viên độc lập Ngoài ra, NHTM cũng thu tiền phạt từ khách hàng vi phạm hợp đồng và các khoản thu khác, góp phần vào hiệu quả hoạt động kinh doanh.
Ngân hàng được xem là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt, chuyên cung cấp các sản phẩm tài chính liên quan đến tiền tệ, tín dụng và dịch vụ ngân hàng Hiệu quả hoạt động của ngân hàng thương mại (NHTM) tương tự như các doanh nghiệp khác, được thể hiện qua khả năng tối ưu hóa việc chuyển hóa các yếu tố đầu vào thành đầu ra, nhằm đạt hiệu suất tối đa trên đường giới hạn khả năng sản xuất của mình.
Các phương pháp đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh của NHTM
Có nhiều phương pháp để đánh giá hoạt động của tổ chức, đặc biệt là ngân hàng thương mại (NHTM) Các phương pháp này chủ yếu được phân loại thành ba nhóm chính.
1.2.1 Phương pháp phân tích truyền thống
1.2.1.1 Nhóm chỉ tiêu phản ánh khả năng sinh lời Để đánh giá tình hình hoạt động ngân hàng, người ta thường sử dụng các chỉ tiêu thể hiện tỷ lệ sinh lời sau:
• Tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản Có (ROA)
ROA= Lợi nhuận sau thuế
ROA (Return on Assets) cho biết mỗi đồng tài sản có thể tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận ròng, phản ánh chất lượng tài sản của ngân hàng thương mại (NHTM) ROA cao cho thấy ngân hàng đang hoạt động hiệu quả trong việc đầu tư và khai thác tài sản, trong khi ROA thấp chỉ ra kết quả đầu tư không đạt kỳ vọng Tuy nhiên, chỉ số ROA cao không luôn đồng nghĩa với tín hiệu tích cực, vì nó có thể chỉ ra rằng ngân hàng đang đầu tư vào các danh mục có rủi ro cao với tỷ suất sinh lợi lớn.
• Tỷ suất lợi nhuận trên Tổng vốn chủ sở hữu (ROE)
ROE= Lợi nhuận sau thuế
Tổng vốn chủ sở hữu
Tương tự như ROA, tỷ lệ ROE cho biết mức lợi nhuận ròng mà một đồng vốn chủ sở hữu tạo ra, phản ánh thu nhập của cổ đông ngân hàng ROE càng cao chứng tỏ hiệu quả hoạt động của ngân hàng thương mại càng tốt.
Thực tế, để đánh giá đầy đủ hơn, người ta thường dùng các đẳng thức thể hiện mối liên hệ giữa 2 chỉ số này:
ROE = Lợi nhuận sau thuế x Doanh thu x Tổng tài sản Doanh thu Tổng tài sản Vốn chủ sở hữu
Hệ số nhân vốn chủ sở hữu được tính bằng tổng tài sản có chia cho vốn chủ sở hữu, phản ánh số lượng tài sản có trên mỗi đơn vị vốn chủ sở hữu Chỉ tiêu này đo lường mức độ đòn bẩy tài chính của ngân hàng thương mại, cho thấy tỷ lệ tài sản có được tạo ra từ vốn chủ sở hữu so với vốn vay.
1.2.1.2 Nhóm chỉ tiêu phản ánh hiệu suất biên
• Tỷ lệ thu nhập lãi ròng cận biên (NIM)
NIM = Thu nhập lãi - chi phí lãi
Tài sản có sinh lời được đo lường qua NIM, phản ánh chênh lệch giữa thu nhập lãi và chi phí lãi mà ngân hàng đạt được Ngân hàng cần kiểm soát hiệu quả các tài sản sinh lời và tìm kiếm nguồn vốn có chi phí thấp hơn để tối ưu hóa lợi nhuận.
• Tỷ lệ thu nhập lãi cận biên (NM)
NM Thu nhập ngoài lãi - chi phí ngoài lãi
Tài sản có sinh lời Ý nghĩa của NM là đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh dịch vụ và chi phí kinh doanh trong ngân hàng
• Chênh lệch lãi suất bình quân
Chênh lệch lãi suất BQ = Tổng thu nhập lãi - Tổng chi phí lãi
Tài sản Có sinh lời Tổng nguồn vốn phải trả
Chỉ tiêu này được sử dụng để đánh giá hiệu quả hoạt động trung gian tín dụng của ngân hàng thương mại, cụ thể là hiệu quả trong việc huy động vốn và thực hiện cho vay.
1.2.1.3 Nhóm chỉ tiêu phản ánh hiệu quả lao động
• Tỷ số hiệu quả hoạt động = Tổng chi phí hoạt động
Tổng thu từ hoạt động Chỉ tiêu này phản ánh khả năng bù đắp chi phí trong hoạt động của ngân hàng
• Tỷ số năng suất lao động = Thu nhập hoạt động
Số nhân viên làm việc đầy đủ thời gian Chỉ tiêu này được sử dụng khi cần phản ánh hiệu quả sử dụng lao động của ngân hàng
• Tỷ lệ hiệu suất sử dụng tài sản = Tổng thu từ hoạt động
Tổng tài sản Đây là chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng tài sản
1.2.1.4 Nhóm chỉ tiêu phản ánh rủi ro tài chính
• Chỉ tiêu về tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu: cho phép đánh giá mức độ an toàn vốn của ngân hàng
(CAR) = Vốn tự có / Tổng tài sản Có rủi ro
Tỷ lệ cho vay được tính bằng cách chia cho vay ròng cho tổng tài sản, giúp phản ánh mức độ an toàn của khoản vay ngân hàng Việc ngân hàng tăng cường sử dụng nguồn vốn vay có thể dẫn đến rủi ro thanh khoản, đặc biệt nếu nhu cầu rút tiền của công chúng không như dự kiến và tình trạng nợ xấu gia tăng.
Tỷ lệ nợ xấu được tính bằng cách chia nợ quá hạn (thuộc nhóm 3, 4, 5) cho tổng dư nợ cho vay Chỉ số này có ý nghĩa quan trọng trong việc phản ánh chất lượng tín dụng của ngân hàng; tỷ lệ nợ xấu càng cao cho thấy chất lượng tín dụng của ngân hàng càng kém.
Phương pháp đánh giá hiệu quả hoạt động của ngân hàng thương mại (NHTM) qua các chỉ tiêu truyền thống tuy đơn giản và dễ áp dụng, nhưng chỉ phản ánh riêng lẻ các mặt hoạt động mà chưa thể hiện hiệu quả toàn diện Do đó, từ khi Farrell (1957) giới thiệu phương pháp đánh giá dựa trên đường biên sản xuất, nhiều nhà phân tích đã phát triển và áp dụng các phương pháp phân tích biên tham số và phi tham số để xác định hiệu quả của tổ chức, đặc biệt là NHTM.
1.2.2 Phương pháp phân tích hiệu quả biên - cách tiếp cận tham số (Stochastic frontier Analysis – SFA)
Phân tích hiệu quả biên (Stochastic Frontier Analysis - SFA) là một phương pháp tiếp cận tham số, dựa trên nguyên tắc rằng sự không hiệu quả được thể hiện qua dư lượng hoặc phần nhiễu Điều này có nghĩa là sự khác biệt giữa mức độ sản xuất thực tế và đường giới hạn sản xuất ước tính là yếu tố chính để đánh giá hiệu quả sản xuất.
Khi kĩ thuật sản xuất cho một đầu ra duy nhất và có nhiều đầu vào, phương pháp này ước tính đầu ra theo hàm:
Yi và Xi lần lượt biểu thị đầu ra và các vector đầu vào của các cơ sở sản xuất i và β là vector của các tham số ước tính
Số dư εi được coi là tổng hợp của một sai số ngẫu nhiên và tính không hiệu quả μi, được biểu diễn qua công thức yi = f(xi,β) + vi - μi Trong đó, μi được giả định không âm và tuân theo các quy luật phân phối nhất định.
1.2.3 Phương pháp phân tích hiệu quả biên - cách tiếp cận phi tham số (Data Envelopment Analysis – DEA)
Phương pháp phân tích hiệu quả biên (DEA) được phát triển bởi Charnes, Cooper và Rhodes vào năm 1978, dựa trên các ý tưởng của Boles (1966) và Afriat (1972), cùng với định hướng hiệu quả của Farrell (1957) Phương pháp này giả định rằng một tổ chức hay công ty có thể sản xuất đầu ra Y từ các yếu tố đầu vào X, và nếu một Đơn vị Quản lý Quyết định (DMU) có thể đạt được điều đó, thì các DMU khác cũng nên có khả năng tương tự Bằng cách tích hợp tất cả các điểm hiệu quả của các DMU, DEA xây dựng một đường biên hiệu quả tối ưu để so sánh hiệu quả hoạt động giữa các DMU.
Phương pháp so sánh ngân hàng này giúp xác định ngân hàng hiệu quả và không hiệu quả dựa trên điểm hiệu quả, trong đó ngân hàng hiệu quả có điểm bằng 1 và ngân hàng không hiệu quả có điểm nhỏ hơn 1 Mô hình DEA cho phép các nhà nghiên cứu lựa chọn đầu ra và đầu vào phù hợp với mục tiêu nghiên cứu, đồng thời hỗ trợ sử dụng các biến với nhiều đơn vị khác nhau mà không cần quy về một chuẩn thống nhất Kỹ thuật này cho phép xử lý nhiều biến đầu ra và đầu vào khác nhau mà không yêu cầu mối quan hệ giữa chúng.
Phương pháp DEA nổi bật với nhiều ưu điểm, bao gồm khả năng phân tích hiệu quả ngay cả khi mối quan hệ giữa các nguồn lực và kết quả trong hệ thống sản xuất khó giải thích DEA cũng có thể xử lý một số lượng lớn các yếu tố đầu vào và đầu ra, đồng thời cho phép đánh giá sự đóng góp của từng yếu tố đầu vào vào tổng thể hiệu quả hoặc phi hiệu quả của hệ thống.
Các nghiên cứu về hiệu quả hoạt động kinh doanh NHTM
1.3.1 Các nghiên cứu tại Việt Nam
Luận án tiến sĩ của TS Nguyễn Việt Hùng tập trung vào việc phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của 32 ngân hàng thương mại tại Việt Nam trong giai đoạn 2001-2005 Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng để nâng cao hiệu quả của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam, cần cải thiện các yếu tố phi hiệu quả đang tác động tiêu cực đến hoạt động của các ngân hàng.
Bài nghiên cứu của TS Ngô Đặng Thành về hiệu quả sử dụng nguồn lực của 22 ngân hàng thương mại cổ phần tại Việt Nam vào năm 2008, ứng dụng phương pháp bao dữ liệu (DEA), cho thấy rằng hầu hết các ngân hàng trong mẫu nghiên cứu đều đạt hiệu quả cao trong hoạt động kinh doanh của mình.
Bài nghiên cứu của Liễu Thu Trúc và Võ Thành Danh mang tên “So sánh hiệu quả hoạt động của hai hệ thống ngân hàng thương mại Nhà nước và Cổ phần Việt Nam” đã phân tích 22 ngân hàng thương mại trong giai đoạn 2005-2009 Kết quả cho thấy hiệu quả hoạt động của hai nhóm ngân hàng này có sự khác biệt rõ rệt, cung cấp cái nhìn sâu sắc về tình hình tài chính của các ngân hàng tại Việt Nam trong thời kỳ nghiên cứu.
NHTM Việt Nam trong mẫu nghiên cứu không cao, trong đó NHTMCP đạt hiệu quả thấp hơn
Bài nghiên cứu của ThS Nguyễn Minh Sáng mang tên “Phân tích hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại niêm yết Việt Nam” tập trung vào việc đánh giá hiệu quả của 9 ngân hàng thương mại đã niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội và TP Hồ Chí Minh trong hai năm 2010 và 2011 Nghiên cứu này cung cấp cái nhìn sâu sắc về hoạt động của các ngân hàng thương mại trong bối cảnh thị trường chứng khoán Việt Nam.
Bài nghiên cứu của TS Nguyễn Thị Loan và Trần Thị Ngọc Hạnh về "Hiệu quả hoạt động tại các ngân hàng thương mại Việt Nam" áp dụng phương pháp phân tích bao dữ liệu DEA để đánh giá hiệu quả của 21 ngân hàng thương mại trong giai đoạn 2007-2011 Ngoài ra, nghiên cứu còn sử dụng mô hình hồi quy để phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam.
− Bài nghiên cứu của ThS Trương Quang Thịnh “Hiệu quả kỹ thuật ngân hàng thương mại Việt Nam” nghiên cứu 39 ngân hàng thương mại trong giai đoạn
Từ năm 2008 đến 2010, nghiên cứu chỉ ra rằng 69% ngân hàng thương mại (NHTM) tại Việt Nam vẫn còn lãng phí trong việc sử dụng nguồn lực Điều này cho thấy sự không đồng đều trong khả năng sử dụng nguồn lực giữa các NHTM, mặc dù một số ngân hàng vẫn đạt hiệu quả cao.
1.3.2 Các nghiên cứu trên thế giới
Trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu về hiệu quả hoạt động ngân hàng như:
Bài viết "Đánh giá hiệu quả của các ngân hàng Malaysia bằng Phân tích Bao dữ liệu" của Izah Mohd Tahir áp dụng phương pháp DEA để phân tích hiệu suất hoạt động của các ngân hàng Malaysia trong giai đoạn 2000-2006 Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng hiệu quả kỹ thuật của các ngân hàng thương mại đã được cải thiện trong suốt thời gian nghiên cứu.
Bài viết "Tài chính doanh nghiệp nhỏ và hiệu quả ngân hàng Indonesia: Phương pháp DEA" của Monkhamad Anwar áp dụng phương pháp phân tích bao dữ liệu (DEA) để đánh giá hiệu quả hoạt động của 116 ngân hàng Indonesia trong giai đoạn 2002-2010 Nghiên cứu chỉ ra rằng nhóm ngân hàng có vốn nước ngoài đạt hiệu quả cao nhất và đồng thời cho thấy sự cải thiện trong hiệu quả hoạt động của các ngân hàng trong suốt thời gian nghiên cứu.
− “Analysis on the efficiency of China’s banking industry and the influencing factors” của Wang Yu nghiên cứu về hiệu quả của các ngân hàng Trung Quốc từ năm 1994-2000
Bài viết "Hiệu quả của các ngân hàng trong nền kinh tế đang phát triển: trường hợp Ấn Độ" của Milind Sathye phân tích hiệu quả hoạt động của các ngân hàng Ấn Độ trong hai năm 1997 và 1998 Nghiên cứu chỉ ra rằng các ngân hàng thương mại nhà nước (NHTMNN) có hiệu quả thấp hơn so với ngân hàng nước ngoài, nhưng lại cao hơn so với nhóm ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP).
Trên toàn cầu và tại Việt Nam, đã có nhiều nghiên cứu về hiệu quả hoạt động của các ngân hàng Tuy nhiên, các nghiên cứu tại Việt Nam thường gặp hạn chế về thời gian, thời điểm và mẫu nghiên cứu Do đó, tác giả đã tổng hợp và đánh giá các nghiên cứu trước đó, đồng thời mở rộng số lượng mẫu và kéo dài thời gian nghiên cứu đến năm.
2012 nhằm làm cho đề tài đầy đủ và hoàn thiện hơn
Chương 1 đã trình bày một số cơ sở lý thuyết về hiệu quả hoạt động cùng các yếu ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của một NHTM Chương này cũng đưa ra các phương pháp khác nhau để đánh giá hiệu quả hoạt động NHTM bao gồm phương pháp phân tích chỉ tiêu truyền thống (phản ánh khả năng sinh lời, hiệu suất lao động, hiệu suất biên, hiệu quả lao động, rủi ro tài chính) cũng như hai phương pháp đánh giá hiện đại là phương pháp phân tích hiệu quả biên cách tiếp cận tham số và phi tham số, trong đó chú trọng giới thiệu Phương pháp phân tích hiệu quả biên các tiếp cận phi tham số (Data Envelopment Analysis – DEA)- phương pháp chính được sử dụng trong bài nghiên cứu.Đồng thời tác giả cũng giới thiệu các bài nghiên cứu liên quan trong phạm vi Việt Nam và thế giới làm cơ sở tham khảo cho tác giả lựa chọn mô hình phân tích hiệu quả phù hợp tại Chương 2.
THỰC TRẠNG HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA CÁC NHTM
Tổng quan về hệ thống NHTM Việt Nam và tình hình môi trường kinh doanh ngành ngân hàng
Ngày 06/05/1951, Ngân hàng Quốc gia Việt Nam được thành lập, đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong sự phát triển của hệ thống tiền tệ và ngân hàng Việt Nam Sau hơn 60 năm phát triển, ngành ngân hàng đã có nhiều cải cách để phù hợp với cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế Bài viết này sẽ giới thiệu những nét chung về hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam, cùng với các đặc điểm của môi trường kinh tế và pháp lý đang ảnh hưởng đến hoạt động của các ngân hàng thương mại hiện nay.
2.1.1 Tổng quan về hệ thống NHTM Việt Nam
Ngân hàng Quốc gia Việt Nam được thành lập với các nhiệm vụ chủ yếu như quản lý phát hành giấy bạc, tổ chức lưu thông tiền tệ và quản lý kho bạc nhà nước Ngoài ra, ngân hàng còn có trách nhiệm huy động vốn và cho vay để hỗ trợ sản xuất và lưu thông hàng hóa, quản lý hoạt động tín dụng thông qua biện pháp hành chính, quản lý ngoại hối và các giao dịch bằng ngoại tệ, cũng như đấu tranh tiền tệ với các thế lực thù địch.
Vào ngày 21 tháng 1 năm 1960, Ngân hàng quốc gia Việt Nam được đổi tên thành Ngân hàng nhà nước Việt Nam Đến năm 1975, các chính sách và cơ chế quản lý kinh tế cùng hệ thống tiền tệ - ngân hàng theo mô hình miền Bắc đã được áp dụng thống nhất trên toàn quốc.
Tháng 5 năm 1990, hai Pháp lệnh ngân hàng ra đời (Pháp lệnh ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Pháp lệnh ngân hàng, Hợp tác xã, công ty tài chính) đã chính thức chuyển cơ chế hoạt động của hệ thống ngân hàng Việt Nam từ 1 cấp sang 2 cấp đó là cấp ngân hàng quản lý và cấp ngân hàng kinh doanh
Năm 1997, Quốc hội khóa X thông qua Luật ngân hàng nhà nước Việt Nam và Luật các Tổ chức tín dụng
Năm 2000, thực hiện cơ cấu lại tài chính và hoạt động của các NHTMNN và các NHTMCP
Vào năm 2002, việc tự do hóa lãi suất cho vay VND của các ngân hàng thương mại đã được thực hiện, đánh dấu bước cuối cùng trong quá trình tự do hóa lãi suất hoàn toàn ở cả đầu vào và đầu ra trên thị trường tín dụng.
Năm 2003, việc cơ cấu lại hoạt động của các ngân hàng thương mại (NHTM) được thực hiện theo chiều sâu, nhằm đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế Đồng thời, ngân hàng chính sách xã hội được thành lập để phân tách rõ ràng giữa tín dụng chính sách và tín dụng theo cơ chế thị trường.
Năm 2008, sau khi Việt Nam gia nhập WTO, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã chính thức cho phép thành lập 5 ngân hàng 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam, bao gồm ANZ Việt Nam, Hong Leong Việt Nam, HSBC Việt Nam và Standard Chartered Việt Nam.
Tính đến ngày 30/6/2013, ngành Ngân hàng Việt Nam đã có những đóng góp đáng kể cho sự phát triển kinh tế của đất nước, với sự hiện diện của 5 ngân hàng thương mại nhà nước, 5 ngân hàng 100% vốn nước ngoài, 50 chi nhánh ngân hàng nước ngoài, 4 ngân hàng liên doanh, 34 ngân hàng thương mại cổ phần, cùng với các quỹ tín dụng nhân dân và nhiều công ty tài chính khác Các nghiệp vụ ngân hàng ngày càng trở nên đa dạng, phong phú và phát triển nhanh chóng.
2.1.2 Tình hình chung của nền kinh tế và chính sách điều hành hệ thống ngân hàng giai đoạn 2006-2012
Thập niên 1990 và đầu 2000 đánh dấu giai đoạn Việt Nam tích cực hội nhập kinh tế toàn cầu, với sự kiện quan trọng là ký kết hiệp định gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) vào năm 2007.
2006) và Hiệp định Thương mại Việt-Mỹ (năm 2001) Sau khi Việt Nam gia nhập
Kể từ khi gia nhập WTO vào năm 2006, Việt Nam đã chứng kiến sự gia tăng nhanh chóng về vốn FDI Tuy nhiên, đến năm 2009, lượng vốn FDI bắt đầu có dấu hiệu chững lại do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu.
Suy thoái kinh tế toàn cầu và tình hình tại Mỹ đã ảnh hưởng đến đầu tư quốc tế, trong khi khả năng cải thiện cơ sở hạ tầng, thủ tục hành chính, môi trường pháp lý và tính minh bạch trong chính sách vẫn còn kém hấp dẫn so với các quốc gia lân cận, điều này đã tác động tiêu cực đến nguồn vốn FDI vào Việt Nam.
Biểu đồ 2.1: Dòng vốn FDI vào Việt Nam giai đoạn 2006 - 2012 Đơn vị: triệu USD
Nguồn: Tổng cục thống kê
Sự gia tăng nguồn vốn FDI đã thúc đẩy kinh tế Việt Nam tăng trưởng 8,5% vào năm 2007, mức cao nhất kể từ năm 1997 Để kiểm soát lạm phát, Ngân hàng Nhà nước đã thực hiện nhiều biện pháp mạnh, bao gồm việc khống chế lãi suất tiền gửi dưới 12% và sau đó nới lỏng dần vào cuối năm Trong hai năm 2007 và 2008, lạm phát đã tăng tốc và duy trì ở mức cao hàng năm.
NHNN đã thực hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ bằng cách phát hành 20.300 tỷ VND trái phiếu kho bạc trong năm 2008 và điều chỉnh lãi suất huy động tiền gửi nhằm thu hút tiền trong lưu thông.
Dòng vốn đổ vào mạnh mẽ cùng với việc chi tiêu để ổn định giá trị tiền đồng đã khiến chính sách tiền tệ trở nên không độc lập, buộc phải áp dụng các biện pháp bị động nhằm kiểm soát lạm phát.
Năm 2009, tốc độ tăng trưởng GDP tụt xuống còn 5,32%, năm 2010 là 6,78% và năm 2011 là 5,89%
Tháng 5 năm 2009, Chính phủ tung ra gói kích cầu có giá trị 143.000 tỷ đồng (tương đương 8 tỷ USD), sau đó tăng lên 160 nghìn tỷ đồng (tương đương 9 tỷ USD) Gói kích cầu có ảnh hưởng tốt nhất định (kích thích nhu cầu tăng, dẫn tới tăng GDP), tuy nhiên cũng để lại nhiều hệ lụy sau này: tạo bong bóng đầu cơ bong bóng chứng khoán và bất động sản, lạm phát tăng cao, thâm hụt ngân sách nặng dẫn tới nợ nhà nước tăng cao, gây bất ổn định tỷ giá và bất ổn định kinh tế vĩ mô Ngày 25/11/2009 VND bị phá giá khoảng 5% và đến tháng 12, Chính phủ phải tuyên bố dừng gói kích cầu, kinh tế vĩ mô bất ổn định
Biểu đồ 2.2: Lạm phát và tăng trưởng Đơn vị %
Phân tích hiệu quả hoạt động kinh doanh của các NHTM Việt Nam theo phương pháp bao dữ liệu DEA
2.3.1 Xác định các biến đầu vào và đầu ra
Theo Farrell (1957), hiệu quả được đo lường bằng mối quan hệ giữa các biến số đầu ra và đầu vào trong ngân hàng Để đánh giá hiệu quả của một ngân hàng thương mại (NHTM), cần xác định rõ các đầu vào và đầu ra Điều này cũng phản ánh sự khác biệt trong quan điểm nghiên cứu về hiệu quả ngân hàng.
Các hướng tiếp cận đầu vào và đầu ra
Trong lĩnh vực ngân hàng, quy trình sản xuất liên quan đến việc sử dụng các khoản tiền gửi và tài sản, khiến cho việc đo lường đầu ra trở nên phức tạp do tính chất vô hình của các sản phẩm ngân hàng Sự thiếu rõ ràng trong định nghĩa đầu ra đã dẫn đến nhiều tranh luận về những gì mà các ngân hàng thực sự tạo ra Bài viết này phân tích bốn phương pháp chính để xác định đầu ra ngân hàng, bao gồm các tiếp cận sản xuất, trung gian (tài sản), chi phí sử dụng (lợi nhuận) và giá trị tăng thêm.
Ngân hàng được xem như nhà cung cấp dịch vụ với vai trò quản lý giao dịch khách hàng, duy trì tài khoản, cho vay và phát hành séc Trong cách tiếp cận này, tiền gửi được coi là đầu ra, trong khi chi phí trả lãi không tính vào tổng chi phí của ngân hàng Đầu vào và đầu ra được xác định dựa trên các đơn vị lượng như số lượng tài khoản và quy trình giao dịch.
Hướng tiếp cận trung gian trong ngân hàng coi các khoản nợ ngân hàng là đầu vào, cung cấp nguyên liệu cho quỹ đầu tư, trong khi tài sản của ngân hàng là đầu ra, tạo ra doanh thu Ngân hàng hoạt động như những trung gian tài chính giữa chủ nợ và người nhận quỹ, với các khoản cho vay và tài sản khác được xem là đầu ra, còn tiền gửi và khoản nợ là đầu vào Điều này có nghĩa là ngân hàng huy động tiền gửi và chuyển đổi chúng thành các khoản vay, với lao động, vốn và chi phí lãi suất là một phần trong tổng chi phí của ngân hàng, khác với hướng tiếp cận sản xuất, nơi ngân hàng sử dụng lao động và vốn để tạo ra tiền gửi và khoản cho vay.
Cách tiếp cận chi phí sử dụng xác định sản phẩm tài chính là đầu vào hay đầu ra dựa trên mức đóng góp ròng vào doanh thu của ngân hàng Nếu doanh thu từ tài sản vượt chi phí cơ hội của quỹ hoặc chi phí tài chính của khoản nợ thấp hơn chi phí cơ hội, tài sản đó được coi là đầu ra tài chính; ngược lại, nó là đầu vào tài chính Mục tiêu của người quản lý ngân hàng là tối đa hóa lợi nhuận thông qua việc đánh giá chi phí và thu nhập từ quy trình sản xuất, xác định danh mục tài sản hoặc nợ đóng góp vào đầu ra tài chính của ngân hàng.
Cách tiếp cận giá trị tăng thêm tập trung vào việc phân tích danh mục nợ và tài sản để xác định các đầu ra quan trọng, khác với việc phân biệt đầu vào và đầu ra theo cách loại trừ lẫn nhau Những danh mục có giá trị tăng thêm lớn, sử dụng nguồn phân bổ chi phí hoạt động bên ngoài, được coi là đầu ra quan trọng, trong khi các danh mục khác chỉ đại diện cho những đầu ra không quan trọng hoặc sản phẩm trung gian Các ứng dụng của phương pháp này nhận diện các khoản tiền gửi và cho vay lớn là đầu ra quan trọng vì chúng tạo ra giá trị tăng thêm lớn, trong khi các quỹ khác được xem là đầu vào tài chính trong quy trình trung gian với yêu cầu thấp về đầu vào vật chất Ngoài ra, chứng khoán chính phủ và đầu tư phi cho vay được xem là đầu ra không quan trọng do đóng góp thấp vào giá trị tăng thêm Nghiên cứu tại Việt Nam và các nước cũng thường lựa chọn biến đầu vào và đầu ra dựa trên quan điểm của phương pháp DEA.
Bảng 2.12: Tổng hợp các nghiên cứu sử dụng phương pháp DEA
Thời gian nghiên cứu Đầu vào Đầu ra
TSCĐ, tiền gửi, chi phí kinh doanh
Thu từ lãi, thu khác
Chi phí khấu hao, chi phí lao động, chi phí lãi suất
Thu từ lãi, thu khác
3 Trương 39 NHTM 2008-2010 Chi phí lãi, chi Thu từ lãi, thu
Việt Nam phí tiền lương, chi phí khác khác
Chi phí nhân viên, tài sản cố định , tiền gửi
Thu nhập lãi ròng, thu nhập ngoài lãi
Chi phí nhân viên, chi phí lãi, chi phí ngoài lãi
Thu nhập lãi ròng, thu nhập ngoài lãi, tổng tài sản
22 ngân hàng 2000-2006 Tiền gửi, chi phí Tổng tài sàn
7 Monkhamad 116 ngân hàng 200201010 Chi phí quản lý,
TSCĐ, tiền gửi tổng tín dụng, tổng đầu tư
Doanh thu hoạt động, chi phí hoạt động, tổng tài sản, tổng tiền gửi
Nguồn: Tổng hợp của tác giả
Xác định các biến đầu vào và đầu ra
Các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam đóng vai trò như một định chế tài chính trung gian, huy động vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế để tạo quỹ cho vay cho các đơn vị thiếu vốn Để đạt được mục tiêu lợi nhuận, các NHTM cần kiểm soát hai yếu tố quan trọng là chi phí lãi và chi phí hoạt động Việc xác định các biến đầu vào và đầu ra khác nhau sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động, do đó, bài nghiên cứu này sẽ phân tích hai mô hình khác nhau để có cái nhìn toàn diện hơn về các phương pháp tiếp cận.
Trong mô hình 1, tác giả áp dụng phương pháp tiếp cận trung gian, trong đó chi phí trả lãi được coi là đầu vào quan trọng bên cạnh chi phí nhân viên và chi phí khác Đối với biến đầu ra, tác giả lựa chọn hai yếu tố chính là khoản thu từ lãi và khoản thu ngoài lãi, dựa trên khảo sát và kinh nghiệm từ các nghiên cứu trước Tuy nhiên, bài nghiên cứu không tính toán kết quả từ thu nhập và chi phí của hoạt động kinh doanh vàng, chứng khoán do hai hoạt động này chỉ có tại một số ngân hàng và có mức độ biến động lớn, cần nghiên cứu riêng cho lĩnh vực này.
Mô hình 1 xem xét ngân hàng thương mại (NHTM) như một đơn vị kinh doanh thông thường, trong đó huy động vốn và cho vay là các hoạt động chính trong chuỗi tạo ra lợi nhuận Tuy nhiên, mô hình này không phản ánh đầy đủ đặc điểm kinh doanh tiền tệ của NHTM.
Mô hình 2 sử dụng biến tiền gửi huy động và chi phí trả lãi làm đầu vào, trong khi các khoản cho vay và thu nhập lãi được xem là đầu ra Các biến này tập trung vào việc phân tích mối quan hệ giữa nguồn vốn huy động và lợi nhuận từ hoạt động cho vay.
2 hoạt động là đầu vào đầu ra quan trọng của NHTM, chính là huy động vốn và cho vay
Bảng 2.13: Các biến trong mô hình DEA hiệu Ký Biến Giải thích Đơn vị
X1 Chi phí lãi chi phí trả lãi & các khoản tương đương triệu đồng
X2 Chi phí nhân viên chi phí cho nhân viên
X3 Chi phí khác chi phí ngoài lãi (loại trừ chi phí lao động)
Y1 Khoản thu từ lãi Doanh thu từ lãi và tương đương
Y2 Khoản thu ngoài lãi Doanh thu ngoài lãi bao gồm doanh thu hoạt động dịch vụ, doanh thu hoạt động khác)
X1 Tiền gửi huy động Tiền gửi khách hàng
X2 chi phí trả lãi chi phí trả lãi & các khoản tương đương
Y1 Cho vay Tiền vay khách hàng
Y2 Khoản thu từ lãi Doanh thu từ lãi và tương đương
2.3.2 Mô tả thống kê số liệu mẫu nghiên cứu theo mô hình DEA
Dữ liệu nghiên cứu được lấy từ các Báo cáo tài chính được kiểm toán do các NHTM công bố từ 2006 đến 2012
Sau quá trình tổng hợp và tính toán dựa trên dữ liệu báo cáo thường niên của
Trong giai đoạn 2006-2012, 27 ngân hàng đã được phân tích với các biến số được tổng hợp, bao gồm giá trị trung bình, giá trị lớn nhất, giá trị nhỏ nhất và độ lệch chuẩn, được trình bày trong bảng dưới đây.
Bảng 2.14: Giá trị thống kê mô tả các biến đầu vào và đầu ra của 27 NHTM Việt
Nguồn: Tính toán của tác giả
Giá trị trung bình và độ lệch chuẩn của các biến trong nghiên cứu cho thấy sự đa dạng về quy mô và hoạt động của các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam Các biến đầu ra có xu hướng tăng theo thời gian, trong đó thu nhập từ lãi chiếm tỷ trọng lớn và là nguồn thu chính yếu của NHTM Mặc dù thu nhập ngoài lãi cũng có xu hướng tăng, nhưng tỷ trọng của nó vẫn còn nhỏ.
Trong mô hình 2, giá trị vốn huy động và cho vay của các NHTM trong mẫu nghiên cứu tăng lên qua các năm
2.3.3 Kết quả ước lượng kỹ thuật bằng DEA
2.3.3.1 Hiệu quả kỹ thuật (TE), hiệu quả kỹ thuật thuần (PTE) và hiệu quả quy mô (SE)
Nghiên cứu này tập trung vào 27 ngân hàng thương mại Việt Nam trong giai đoạn 2006-2012, sử dụng phần mềm DEAP 2.1 để áp dụng hai mô hình DEACRS và DEAVRS nhằm ước lượng hiệu quả kỹ thuật, hiệu quả kỹ thuật thuần và hiệu quả quy mô Qua đó, tác giả đã thực hiện việc xếp hạng các ngân hàng theo hiệu quả kỹ thuật (TE-CRS) bình quân trong giai đoạn nghiên cứu, nhằm cung cấp cái nhìn tổng quát về sự khác biệt trong hiệu quả hoạt động giữa các NHTM.
2012 như biểu đồ 2.13 dưới đây:
Biểu đồ 2.15: Hiệu quả kỹ thuật các NHTM Việt Nam giai đoạn 2006-2012
Nguồn: Tổng hợp từ phần mềm DEA
Trong giai đoạn 2006-2012, chỉ có Ngân hàng OCB đạt hiệu quả tối đa trong số 27 ngân hàng được nghiên cứu Mức độ chênh lệch hiệu quả giữa các ngân hàng là tương đối, với MHB có hiệu quả kỹ thuật bình quân thấp nhất là 0,75 trong 7 năm, trong khi hầu hết các ngân hàng khác đều đạt hiệu quả từ mức trung bình trở lên.
Mức hiệu quả kỹ thuật bình quân của 27 ngân hàng đạt 0,889, với 80% trở lên Tuy nhiên, các ngân hàng thương mại nhà nước (NHTMNN) mặc dù có quy mô vốn lớn và kinh nghiệm dày dạn, lại không nằm trong nhóm dẫn đầu Cụ thể, Vietcombank (VCB) xếp thứ 6, trong khi BIDV và VietinBank (CTG) lần lượt đứng ở vị trí 14 và 15 Đáng chú ý, ngân hàng MHB là đơn vị có hiệu quả thấp nhất trong mẫu khảo sát.
Trong giai đoạn từ 2006-2012, số lượng ngân hàng đạt mức hiệu quả kỹ thuật cao nhất mỗi năm không nhiều: cao nhất là năm 2011 có 11 ngân hàng, năm 2006-
Đánh giá các yếu tố nội tại tác động đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của các
Để xác định các yếu tố nội tại ảnh hưởng đến hệ số hiệu quả kỹ thuật (TE) của các ngân hàng thương mại (NHTM), tác giả đã thực hiện phân tích bằng mô hình hồi quy Tobit, tập trung vào các ngân hàng trong mẫu nghiên cứu từ năm 2006 đến 2012.
Mô hình hồi quy Tobit, được giới thiệu lần đầu bởi nhà kinh tế học James Tobin vào năm 1958, còn được biết đến với tên gọi mô hình hồi quy chuẩn được kiểm duyệt Do các chỉ số hiệu quả kỹ thuật và hiệu quả chi phí được xác định bằng phương pháp DEA chỉ dao động trong khoảng từ 0 đến 1, chúng được coi là các biến số phụ thuộc trong phân tích hồi quy Tobit.
Việc lựa chọn các biến ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động kinh doanh ngân hàng thương mại dựa trên việc lượng hóa các yếu tố quan trọng Các biến này được chia thành hai loại: biến tài chính kế toán, bao gồm khả năng thanh khoản, khả năng sinh lời và hiệu suất hoạt động; và biến môi trường như tỷ lệ lạm phát, tỷ lệ tăng trưởng GDP thực và tỷ lệ tăng trưởng vốn Bài nghiên cứu chỉ tập trung vào các biến nội tại mà ngân hàng có thể tự cải thiện để nâng cao hiệu quả hoạt động.
Trên cơ sở tổng hợp kết quả của một số bài nghiên cứu của các tác giả như
Mokhamad Anwar (2012), Hiroyuki Kiyota (2011), tác giả xây dựng mô hình cho bài nghiên cứu:
TE it = γ 0 + γ 1 EQTA it + γ 2 ROA it + γ 3 NIE it + γ 4 NPL it + γ 5 MS it + γ 6 LNTA it + γ 7 LOATA it + γ 8 NII it +ε it
Trong mô hình này, biến hiệu quả kỹ thuật thuần (TE) được ước lượng từ mô hình DEA cho cả mô hình 1 và mô hình 2 Các biến giải thích trong mô hình hồi quy bao gồm EQTA, ROA, NIE, NPL, MS, LNTA, LOATA, và NII.
TE là giá trị của chỉ số hiệu quả kỹ thuật được tính toán thông qua phương pháp phân tích cận biên DEA, như đã đề cập trong phần 2.3 của nghiên cứu Hệ số β là yếu tố quan trọng trong phương trình hồi quy cần được xác định.
Các biến giải thích bao gồm:
Nhân tố EQTA là chỉ số đo lường mức độ vốn hóa của ngân hàng, được xác định bằng tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản Chỉ tiêu này phản ánh sức mạnh vốn của ngân hàng, giúp giảm rủi ro thanh khoản và chi phí vay mượn Một tỷ lệ vốn hóa cao thường có tác động tích cực đến hiệu quả hoạt động ngân hàng bằng cách giảm thiểu chi phí bù đắp cho nợ xấu Ngược lại, tỷ lệ an toàn vốn thấp có thể mang lại lợi nhuận ngắn hạn thông qua đòn bẩy tài chính, nhưng lại tiềm ẩn nguy cơ thiếu thanh khoản và phá sản trong dài hạn Do đó, chỉ số này không chỉ phản ánh khả năng quản trị của ngân hàng mà còn quyết định hiệu quả hoạt động của nó.
ROA, hay tỷ lệ lợi nhuận ngân hàng, được tính bằng tỷ lệ lợi nhuận sau thuế trên tổng tài sản Tác động của ROA đến hiệu quả hoạt động của ngân hàng thường được kỳ vọng là tích cực, vì ngân hàng tạo ra nhiều thu nhập cho thấy hoạt động của họ ngày càng hiệu quả hơn.
NIE được đo lường qua chi phí ngoài lãi trên tổng tài sản Có Khi chi phí ngoài lãi giảm, hiệu quả hoạt động của ngân hàng sẽ tăng lên, do đó, tác động của NIE đến hiệu quả ngân hàng được kỳ vọng là tiêu cực.
NII, hay Lợi nhuận từ hoạt động ngân hàng, được tính bằng tỷ số giữa doanh thu ngoài lãi và tổng tài sản có Chỉ tiêu này giúp đo lường ảnh hưởng của sự đa dạng hóa các hoạt động ngân hàng đến hiệu quả hoạt động Tuy nhiên, dấu hiệu của chỉ tiêu này vẫn chưa xác định được tác động cụ thể đến hiệu quả hoạt động ngân hàng.
NPL, hay nợ xấu, là chỉ số đo lường rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng, được tính bằng tỷ lệ nợ xấu trên tổng cho vay khách hàng Tỷ lệ nợ xấu cao cho thấy rủi ro tín dụng lớn, có thể dẫn đến tình trạng phá sản của ngân hàng Do đó, nợ xấu ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu quả hoạt động của ngân hàng, dù kỳ vọng có thể là tích cực.
Thị phần (MS) của mỗi ngân hàng được xác định bằng tổng tài sản của ngân hàng đó so với tổng tài sản của tất cả các ngân hàng Các ngân hàng có thị phần lớn thường đạt hiệu quả cao hơn nhờ vào lợi thế kinh tế theo quy mô, do đó có mối liên hệ tích cực giữa hiệu quả hoạt động của ngân hàng và thị phần.
LNTA đại diện cho quy mô ngân hàng, được đo bằng giá trị logarit tự nhiên của tổng tài sản mỗi ngân hàng Các ngân hàng lớn thường có chi phí đầu vào thấp hơn và tăng doanh thu nhờ khả năng phân bổ chi phí cố định hiệu quả Do đó, quy mô ngân hàng được kỳ vọng sẽ có tác động tích cực đến hiệu quả hoạt động của ngân hàng.
LOATA là chỉ số quan trọng trong ngân hàng, dùng để đo lường rủi ro thanh khoản Tỷ lệ này được tính bằng tổng giá trị khoản cho vay chia cho tổng tài sản có, giúp phản ánh mức độ an toàn tài chính của ngân hàng Chỉ tiêu LOATA cung cấp cái nhìn rõ ràng về khả năng thanh khoản và quản lý rủi ro trong hoạt động cho vay.
Phân bổ vào các khoản cho vay của ngân hàng có mối quan hệ tích cực với hiệu quả hoạt động ngân hàng Khi ngân hàng thực hiện nhiều khoản cho vay hợp lý, thu nhập chính từ hoạt động này sẽ tăng, dẫn đến sự gia tăng hiệu quả ngân hàng Tuy nhiên, chất lượng khoản vay cũng đóng vai trò quan trọng; nếu chất lượng giảm, nó có thể gây thiệt hại cho hiệu quả ngân hàng.
NII, hay thu nhập ròng từ lãi, được tính bằng tỷ số giữa doanh thu ngoài lãi và tổng tài sản có Chỉ tiêu này giúp đo lường ảnh hưởng của việc đa dạng hóa các hoạt động ngân hàng đến hiệu quả hoạt động Tuy nhiên, dấu hiệu của chỉ tiêu này vẫn chưa xác định rõ tác động đến hiệu quả hoạt động ngân hàng.
2.4.2 Kết quả ước lượng mô hình
Bảng 2.24 Kết quả hồi quy Tobit cho biến phụ thuộc TE
Variable Coefficient Std Error Z-Statistic Prob
TE của mô hình DEA 1
TE của mô hình DEA 2
Nguồn: Tổng hợp từ Chương trình Eviews
Theo bảng 2.22 Ta thấy hệ số của các biến ROA, EQTA, MS, LNTA, NIE,
LOATA đạt mức ý nghĩa 5% Như vậy các biến này sẽ giải thích tốt sự ảnh hưởng của nó đến hiệu quả hoạt động của ngân hàng.