Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của kháng nghị phúc thẩm vụ án dân sự
Kháng nghị phúc thẩm là quyền năng và biện pháp pháp lý quan trọng giúp Viện kiểm sát nhân dân thực hiện chức năng kiểm sát tuân thủ pháp luật trong tố tụng dân sự Hoạt động này không chỉ đảm bảo việc thi hành pháp luật một cách nghiêm chỉnh và thống nhất mà còn thể hiện rõ ràng vai trò của Viện kiểm sát trong hệ thống tư pháp.
Kháng nghị đã có mặt trong lịch sử tố tụng Việt Nam từ lâu, tuy nhiên, hiện nay có nhiều quan điểm và khái niệm khác nhau về hoạt động này, đặc biệt là kháng nghị phúc thẩm vụ án dân sự Theo từ điển luật học, kháng nghị được định nghĩa là hành vi tố tụng của người có thẩm quyền, nhằm phản đối toàn bộ hoặc một phần nội dung bản án, quyết định của Tòa án, với mục đích đảm bảo sự chính xác và công bằng trong xét xử, cũng như sửa chữa sai lầm trong bản án Mặc dù định nghĩa này đã nêu rõ chủ thể, đối tượng và thủ tục, nhưng vẫn còn thiếu sót, bởi trong thời gian kháng nghị phúc thẩm, bản án hoặc quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật, do đó kháng nghị không thể làm “ngưng” hiệu lực của bản án, quyết định sơ thẩm.
2 Điều 254 BLTTDS sửa đổi, bổ sung năm 2011) Ngoài ra, khái niệm chưa nêu được chủ thể có quyền kháng nghị là Viện kiểm sát nhân dân.
Từ phân tích trên, chúng ta thấy rằng khái niệm kháng nghị phúc thẩm phải nêu được các vấn đề như sau:
1 Từ điển Luật học , Bộ Tư Pháp , Viện Khoa học pháp lý, NXB từ điển Bách Khoa, NXB Tư Pháp, Ngày xuất bản
GVHD: Thân Thị Ngọc Bích SVH: Nguyễn Hoàng Duy
Viện kiểm sát nhân dân, bao gồm Viện kiểm sát cùng cấp và Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp của Tòa án đã xét xử sơ thẩm, là chủ thể có quyền kháng nghị Kháng nghị này khác với kháng nghị giám đốc thẩm và tái thẩm, vì quyền kháng nghị chỉ thuộc về Viện kiểm sát cấp trên và một số chủ thể khác.
Đối tượng kháng nghị phúc thẩm chỉ áp dụng cho bản án và quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật Khi bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật, chúng sẽ không còn là đối tượng của kháng nghị phúc thẩm mà chuyển sang kháng nghị giám đốc thẩm hoặc kháng nghị tái thẩm.
Kháng nghị phúc thẩm vụ án dân sự là quyền được Nhà nước giao cho Viện kiểm sát các cấp, thông qua văn bản pháp lý, yêu cầu Tòa án cấp trên xem xét lại vụ án theo trình tự phúc thẩm Khái niệm này chưa được quy định thống nhất trong Bộ luật Tố tụng dân sự và các văn bản pháp lý hiện hành Việc kháng nghị phúc thẩm không chỉ bảo vệ quan điểm của Viện kiểm sát mà còn nhằm khắc phục các vi phạm pháp luật nghiêm trọng liên quan đến các bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án chưa có hiệu lực pháp luật.
Kháng nghị phúc thẩm trong vụ án dân sự thể hiện sự bất đồng với bản án của Tòa án cấp sơ thẩm từ các chủ thể có thẩm quyền Khi có kháng nghị, việc xét xử lại là cần thiết để kiểm tra tính hợp pháp và căn cứ của bản án sơ thẩm chưa có hiệu lực Do đó, kháng nghị phúc thẩm là một quy trình phù hợp theo quy định pháp luật.
“nguyên tắc hai cấp xét xử” và đảm bảo cho nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa.
1.1.2 Đặc điểm của kháng nghị phúc thẩm vụán dân sự
- Kháng nghị phúc thẩm là quyền năng pháp lý đặc biệt mà Nhà nước chỉ giao cho ngành kiểm sát
Theo quy định tại khoản 1 Điều 21 Bộ luật tố tụng dân sự sửa đổi bổ sung năm
Vào năm 2011, công tác kháng nghị phúc thẩm trong vụ án dân sự được quy định bởi pháp luật, trở thành quyền năng quan trọng của ngành kiểm sát Quyền này cho phép ngành kiểm sát thực hiện chức năng giám sát việc tuân thủ pháp luật của Tòa án trong quá trình giải quyết các vụ việc dân sự Mục đích chính là phát hiện kịp thời các vi phạm pháp luật trong giải quyết tranh chấp dân sự, từ đó thực hiện thẩm quyền kháng nghị nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên liên quan.
GVHD: Thân Thị Ngọc Bích SVH: Nguyễn Hoàng Duy
Kháng nghị phúc thẩm là một công cụ đặc biệt, thể hiện rõ quyền năng của Viện kiểm sát trong việc giám sát tuân thủ pháp luật trong hoạt động xét xử của Tòa án.
Trong quá trình thực hiện chức năng kiểm sát, Viện kiểm sát có quyền kháng nghị khi phát hiện bản án hoặc quyết định sơ thẩm vi phạm pháp luật, yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xét xử lại vụ án Qua kháng nghị phúc thẩm, Viện kiểm sát đảm bảo việc tuân thủ pháp luật và giám sát hoạt động tư pháp của Tòa án.
1.1.3 Ý nghĩa của kháng nghị phúc thẩm vụ án dân sự
Kháng nghị phúc thẩm trong tố tụng dân sự có ý nghĩa quan trọng trong việc đáp ứng các yêu cầu của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Khi Viện kiểm sát thực hiện quyền kháng nghị, họ giúp Tòa án cấp trên nhận biết những sai lầm của Tòa án cấp dưới, từ đó có sự chỉ đạo kịp thời để khắc phục sai phạm và rút kinh nghiệm trong công tác xét xử Điều này đảm bảo việc áp dụng pháp luật thống nhất giữa các cấp Tòa án Nội dung kháng nghị cũng giúp các cơ quan bảo vệ pháp luật nhận diện những vướng mắc trong quy định, từ đó kiến nghị sửa đổi và hoàn thiện hệ thống pháp luật.
Chế định kháng nghị phúc thẩm là cơ sở pháp lý quan trọng cho thủ tục phúc thẩm, cho phép Tòa án cấp trên mở phiên tòa để xét xử lại vụ án, kiểm tra tính hợp pháp của bản án sơ thẩm Trong quá trình này, Tòa án phúc thẩm có khả năng phát hiện và sửa chữa các sai lầm, thiếu sót trong xét xử sơ thẩm, từ đó bảo vệ lợi ích của Nhà nước và quyền lợi hợp pháp của tổ chức, công dân Đồng thời, việc sửa chữa sai lầm cũng giúp Tòa án cấp dưới hiểu rõ hơn về cách áp dụng pháp luật đúng đắn.
Kháng nghị phúc thẩm trong vụ án dân sự không chỉ mang ý nghĩa pháp lý quan trọng mà còn là nền tảng để ghi nhận và đảm bảo thực hiện các nguyên tắc cơ bản của Luật tố tụng dân sự, đặc biệt là nguyên tắc “thực hiện chế độ hai cấp xét xử”.
Kháng nghị phúc thẩm đối với bản án và quyết định sơ thẩm vi phạm pháp luật không chỉ thể hiện kết quả kiểm sát tuân thủ pháp luật mà còn đảm bảo việc áp dụng pháp luật nghiêm chỉnh và thống nhất Điều này góp phần giữ vững kỷ cương pháp luật và tăng cường pháp chế Việc kháng nghị khi phát hiện thiếu sót trong bản án và quyết định của Tòa án là quyền hạn và nhiệm vụ quan trọng của Viện kiểm sát.
GVHD: Thân Thị Ngọc Bích SVH: Nguyễn Hoàng Duy
Vai trò, nhiệm vụ của Viện kiểm sát trong kháng nghị phúc thẩm vụ án dân sự
1.2.1 Vai trò của Viện kiểm sát trong kháng nghị phúc thẩm vụ án dân sự
Kháng nghị phúc thẩm trong vụ án dân sự đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, góp phần nâng cao tính công bằng và minh bạch trong hoạt động xét xử của Tòa án.
Pháp chế là chế độ pháp luật yêu cầu tất cả cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội và công dân tôn trọng và thực hiện pháp luật nghiêm túc Viện kiểm sát thực hiện chức năng kháng nghị, đặc biệt là kháng nghị phúc thẩm trong vụ án dân sự, nhằm đảm bảo hoạt động xét xử của Tòa án tuân thủ pháp luật một cách nghiêm ngặt Qua đó, mọi sai sót và vi phạm được phát hiện và xử lý kịp thời, đồng thời đảm bảo xét xử công bằng, khách quan, không có sự ưu ái hay nhân nhượng, và áp dụng đúng pháp luật.
Việc kháng nghị phúc thẩm trong các vụ án dân sự đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện chức năng của Viện kiểm sát, đảm bảo tuân thủ pháp luật và giám sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn xét xử.
Viện kiểm sát có trách nhiệm kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn xét xử Khi phát hiện bản án hoặc quyết định sơ thẩm vi phạm pháp luật, Viện kiểm sát có quyền kháng nghị phúc thẩm để yêu cầu Tòa án xem xét lại vụ án, nhằm đảm bảo Tòa án ra được bản án chính xác và đúng căn cứ pháp luật.
Việc thực hiện kháng nghị phúc thẩm đóng vai trò quan trọng trong chức năng của Viện kiểm sát nhân dân Khi phát hiện bản án hoặc quyết định của Tòa án vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng hoặc sai phạm trong áp dụng pháp luật dân sự, ảnh hưởng đến lợi ích của Nhà nước, xã hội và quyền lợi hợp pháp của các bên tham gia tố tụng, Viện kiểm sát có trách nhiệm yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử lại vụ án thông qua quyền kháng nghị phúc thẩm theo quy định của pháp luật.
1.2.2 Nhiệm vụ của Viện kiểm sát trong kháng nghị phúc thẩm vụ án dân sự
Nhiệm vụ và quyền hạn của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự được quy định trong Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) năm 1960, văn bản đầu tiên xác định rõ tổ chức, chức năng và nhiệm vụ của Viện kiểm sát Cụ thể, tại các Điều 17, 18, 19 của Luật này, Viện kiểm sát được quyền khởi tố hoặc tham gia tố tụng trong các vụ án dân sự quan trọng có liên quan đến lợi ích của Nhà nước và xã hội.
GVHD: Thân Thị Ngọc Bích SVH: Nguyễn Hoàng Duy
Nhà nước và nhân dân có quyền kháng nghị đối với các bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật hoặc đã có hiệu lực pháp luật nếu phát hiện sai lầm Quy định này không chỉ thể hiện thẩm quyền của Viện kiểm sát mà còn bảo vệ lợi ích chung của xã hội và đảm bảo công bằng giữa các giá trị xã hội Từ Luật tổ chức VKSND năm 1960 đến các luật sau này, nhiệm vụ và quyền hạn của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự được ghi nhận và quy định rõ ràng hơn Luật tổ chức VKSND năm 1992 quy định tại Điều 4 rằng Viện kiểm sát có quyền ra quyết định kháng nghị, kiến nghị và các quyết định này phải được thực hiện nghiêm chỉnh Luật tổ chức VKSND năm 2002 tiếp tục nhấn mạnh quyền kháng nghị phúc thẩm của Viện kiểm sát trong việc giải quyết các vụ án dân sự và các lĩnh vực khác theo quy định của pháp luật.
KSND thực hiện việc kiểm sát tuân thủ pháp luật trong Tố tụng dân sự, đồng thời thực hiện các quyền yêu cầu, kiến nghị và kháng nghị theo quy định pháp luật Mục tiêu là đảm bảo việc giải quyết các vụ, việc dân sự được kịp thời và đúng pháp luật.
Ta thấy, kể từ khi Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 và được sửa đổi, bổ sung năm
Kể từ khi có hiệu lực vào năm 2011, công tác kiểm sát dân sự đối mặt với nhiều thách thức mới, yêu cầu Viện kiểm sát các cấp phải đổi mới phương thức làm việc, dù chức năng kiểm sát việc tuân thủ pháp luật trong tố tụng dân sự vẫn không thay đổi Trong số các phương thức này, kháng nghị phúc thẩm đóng vai trò quan trọng, thể hiện nhiệm vụ của Viện kiểm sát Để đảm bảo việc giải quyết các vụ án dân sự đúng pháp luật và kịp thời, Viện kiểm sát có quyền áp dụng các biện pháp theo quy định pháp luật nhằm phát hiện và phòng ngừa vi phạm Việc nắm vững quyền năng pháp lý về thẩm quyền kháng nghị phúc thẩm theo Luật tổ chức VKSND và Bộ luật Tố tụng dân sự là rất quan trọng để có được quyết định kháng nghị chất lượng Đặc biệt, khi kháng nghị phúc thẩm đối với một số loại án, cần xác định chính xác mối quan hệ tranh chấp, các đương sự và các thủ tục pháp lý mà Tòa án đã áp dụng.
GVHD: Thân Thị Ngọc Bích, SVH: Nguyễn Hoàng Duy nhấn mạnh rằng khi nghiên cứu về kháng nghị, cần phân tích và đánh giá kỹ lưỡng các sai sót về thủ tục để làm rõ vi phạm Đặc biệt, mỗi loại vụ việc có tính chất riêng, đòi hỏi phải đánh giá chính xác vi phạm của bản án, quyết định và các điều luật liên quan Trên cơ sở đó, cần có nhận định và đề xuất giải pháp cho trình tự phúc thẩm Cuối cùng, quyết định kháng nghị phải được kiểm tra kỹ lưỡng về cả hình thức lẫn nội dung trước khi ban hành.
Kháng nghị phúc thẩm của Viện kiểm sát nhân dân đối với bản án và quyết định dân sự sơ thẩm của Tòa án là biện pháp quan trọng thể hiện chức năng kiểm tra, giám sát của Viện kiểm sát Hành động này không chỉ giúp phát hiện và khắc phục vi phạm trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự mà còn bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên liên quan.
Kháng nghị phúc thẩm vụ án dân sự là nhiệm vụ và quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân, nhằm thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động của Tòa án trong việc giải quyết các vụ, việc dân sự Viện kiểm sát không chỉ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân và tổ chức, mà còn đảm bảo rằng mọi hoạt động của cơ quan xét xử, cũng như bản án và quyết định của Tòa án, phải có căn cứ và tuân thủ pháp luật.
Điều kiện kháng nghị phúc thẩm vụ án dân sự
Để kháng nghị phúc thẩm có chất lượng và đúng pháp luật, việc đánh giá quyết định, bản án của Tòa án cần căn cứ vào các quy định pháp luật liên quan như Bộ luật dân sự, Luật đất đai, Luật hôn nhân và gia đình Các nghị quyết của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, cùng với các nghị định và thông tư liên tịch cũng đóng vai trò quan trọng Đặc biệt, cần chú trọng vào các văn bản hướng dẫn của ngành Kiểm sát và TANDTC, nhằm đảm bảo sự thống nhất trong áp dụng pháp luật tố tụng và nội dung.
Hiện nay, nhiều văn bản pháp luật quy định về thủ tục và nội dung kháng nghị phúc thẩm Tuy nhiên, để xây dựng tiêu chí kháng nghị, cần căn cứ vào quy định pháp luật và thực tiễn thực hiện kháng nghị đối với các bản án, quyết định của Tòa án chưa có hiệu lực pháp luật.
- Việc điều tra vụ án không đầy đủ;
GVHD: Thân Thị Ngọc Bích SVH: Nguyễn Hoàng Duy
- Kết luận trong bản án, quyết định không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án;
- Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng;
Việc áp dụng pháp luật sai lầm nghiêm trọng là một tiêu chí quan trọng để đánh giá các vụ án dân sự cần kháng nghị phúc thẩm Nếu bản án hoặc quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm vi phạm một trong bốn căn cứ quy định, điều này sẽ tạo cơ sở cho việc kháng nghị.
Viện kiểm sátthực hiện kháng nghị phúc thẩm theo quy định của pháp luật.
Khi xem xét các vi phạm thủ tục trong tố tụng, cần đánh giá mức độ nghiêm trọng của vi phạm, chẳng hạn như việc không triệu tập đầy đủ người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan hoặc không tham gia hòa giải, có thể dẫn đến sai sót trong nội dung vụ án và không bảo vệ quyền lợi của những người liên quan Do đó, Viện kiểm sát cần kháng nghị để khắc phục những vi phạm này Tuy nhiên, nếu vi phạm là ít nghiêm trọng, như trong vụ án chia thừa kế mà một đương sự không được triệu tập hợp lệ nhưng bản án vẫn đúng quy định pháp luật và không có kháng cáo, Viện kiểm sát chỉ cần kiến nghị để yêu cầu Tòa án khắc phục các vi phạm tương tự Đối với các vi phạm khác như điều tra không đầy đủ hoặc sai lệch trong kết luận bản án, cần thiết phải kháng nghị để xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm.
Cơ sở lý luận và cơ sở pháp lý của kháng nghị phúc thẩm vụ án dân sự
Trong xã hội, các cá nhân và tổ chức tạo nên trật tự xã hội, và để tồn tại, họ cần tham gia vào các quan hệ xã hội nhằm lưu thông giá trị vật chất và tinh thần, từ đó bảo vệ lợi ích của mỗi bên Pháp luật có vai trò quan trọng trong việc ghi nhận và bảo vệ những lợi ích này, không chỉ cho Nhà nước và cộng đồng mà còn để duy trì sự ổn định xã hội Mặc dù nguyên tắc bảo hộ lợi ích của Nhà nước và cộng đồng là bình đẳng, nhưng mức độ bảo hộ khác nhau tùy thuộc vào vai trò và ảnh hưởng của từng chủ thể đến trật tự xã hội Pháp luật quy định các phương thức bảo hộ khác nhau dựa trên tính chất và mức độ vi phạm, qua đó áp dụng trách nhiệm hình sự hoặc dân sự để bảo vệ lợi ích của các chủ thể.
GVHD: Thân Thị Ngọc Bích, SVH: Nguyễn Hoàng Duy Hoạt động xét xử của Tòa án thực hiện trách nhiệm pháp lý đối với hành vi vi phạm, đảm bảo xét xử đúng pháp luật theo nguyên tắc "độc lập và chỉ tuân theo pháp luật." Bản án và quyết định của Tòa án không chỉ ảnh hưởng đến các bên tham gia tố tụng mà còn tác động đến công bằng xã hội Do đó, cần đảm bảo tính chính xác và hợp pháp của các bản án Tuy nhiên, không phải lúc nào Tòa án, đặc biệt là cấp sơ thẩm, cũng đáp ứng được yêu cầu này Việc kháng nghị phúc thẩm của Viện kiểm sát đối với các bản án chưa có hiệu lực là cần thiết, vì Viện kiểm sát là cơ quan duy nhất kiểm sát tuân thủ pháp luật trong hoạt động xét xử Quan điểm của Viện kiểm sát về hoạt động xét xử thể hiện sự thống nhất hay không với đường lối của Tòa án, và không phụ thuộc vào ý kiến cá nhân mà là quan điểm khách quan của cơ quan bảo vệ pháp luật.
Trong bối cảnh hiện nay, nền kinh tế Việt Nam đang phát triển và hội nhập quốc tế, dẫn đến sự gia tăng đa dạng trong giao lưu dân sự và các tranh chấp dân sự ngày càng phức tạp Mặc dù pháp luật dân sự và kinh tế đã được sửa đổi, nhưng vẫn chưa theo kịp sự phát triển của xã hội, đặc biệt trong điều kiện hội nhập kinh tế toàn cầu Việc vi phạm trong giải quyết các vụ việc dân sự phức tạp có thể dẫn đến tranh chấp kéo dài, gây ảnh hưởng đến an ninh và trật tự xã hội, đồng thời làm giảm lòng tin của người dân vào pháp luật và Nhà nước Kháng nghị phúc thẩm trong tố tụng dân sự có vai trò quan trọng trong việc phát hiện sai sót và vi phạm, bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho các bên bị xâm phạm, từ đó tạo ra kết quả thiết thực và nâng cao niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và các cơ quan bảo vệ pháp luật.
Trong bối cảnh hiện nay, việc áp dụng pháp luật, đặc biệt là pháp luật dân sự, cần phải đảm bảo tính minh bạch và công bằng Mọi cá nhân đều phải được hưởng quyền bình đẳng trước pháp luật, nhất là khi nhận thức pháp luật của người dân còn hạn chế, dẫn đến khó khăn trong việc phân biệt đúng sai trong giải quyết tranh chấp Điều này khiến họ không thể tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi bị xâm phạm.
GVHD Thân Thị Ngọc Bích và SVH Nguyễn Hoàng Duy cho rằng, nhiều đương sự sau khi Tòa án giải quyết không biết phán quyết đúng hay sai, dẫn đến việc không kháng cáo Khi bản án có hiệu lực thi hành, họ mới phát hiện ra những sai lầm, nghịch lý không thể thực hiện Ngược lại, có trường hợp đương sự phải chấp nhận thi hành những bản án sai mà không hay biết, nếu không có sự can thiệp của các cơ quan bảo vệ pháp luật Kháng nghị phúc thẩm được thực hiện khi bản án sơ thẩm chưa có hiệu lực, nhằm khắc phục sai sót trong xét xử và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các bên liên quan.
Việc quy định kháng nghị phúc thẩm của Viện kiểm sát khi có vi phạm giúp Tòa án cấp phúc thẩm xem xét sai lầm trong xét xử sơ thẩm, đồng thời chỉ đạo và hướng dẫn khắc phục những sai phạm Điều này không chỉ rút ra kinh nghiệm cho công tác xét xử mà còn đảm bảo sự thống nhất trong việc áp dụng pháp luật của Tòa án các cấp.
Kháng nghị phúc thẩm trong vụ án dân sự không chỉ có ý nghĩa pháp lý quan trọng mà còn là cơ sở để thực hiện nguyên tắc "thực hiện chế độ hai cấp xét xử" Tòa án, với quyền xét xử được Nhà nước giao, có trách nhiệm xem xét lại bản án và quyết định khi có kháng nghị phúc thẩm Điều này nhằm đảm bảo sự công bằng của pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên, cũng như đạt được mục đích xét xử, do đó, chế định kháng nghị phúc thẩm là yêu cầu thiết yếu trong hệ thống pháp luật.
1.4.2 Cơ sở pháp lý quy định kháng nghị phúc thẩm vụ án dân sự
Căn cứ pháp lý cho việc Viện kiểm sát nhân dân kháng nghị phúc thẩm vụ án dân sự được quy định trong Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) sửa đổi, bổ sung năm 2011 và Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, cùng với hướng dẫn trong quy chế nghiệp vụ của Viện trưởng VKSND tối cao Theo Điều 250 BLTTDS sửa đổi, bổ sung năm 2011, Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp và cấp trên trực tiếp có quyền kháng nghị bản án, quyết định tạm đình chỉ hoặc đình chỉ giải quyết vụ án của Tòa án cấp sơ thẩm để yêu cầu Tòa án cấp trên trực tiếp giải quyết lại theo thủ tục phúc thẩm Các Điều từ 251 đến 256 trong BLTTDS sửa đổi, bổ sung 2011 cũng quy định về thời hạn và thủ tục kháng nghị phúc thẩm.
Luật Tổ chức Viện Kiểm sát Nhân dân năm 2002, tại Điều 6, quy định rằng Viện Kiểm sát Nhân dân có quyền ra quyết định kháng nghị và kiến nghị trong quá trình thực hiện chức năng và nhiệm vụ của mình.
GVHD: Thân Thị Ngọc Bích SVH: Nguyễn Hoàng Duy nghị, yêu cầu và chịu trách nhiệm trước pháp luật về các văn bản đó” Điều 21 quy định:
Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) có nhiệm vụ kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình theo quy định của pháp luật Trong quá trình này, VKSND có quyền yêu cầu Tòa án nhân dân cùng cấp và cấp dưới chuyển hồ sơ vụ án để xem xét, quyết định về việc kháng nghị Theo Điều 22, VKSND cũng có quyền kháng nghị trong các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, đảm bảo việc tuân thủ pháp luật trong quá trình giải quyết các vụ việc này.
Theo Khoản 1, Điều 21 Bộ luật Tố tụng dân sự 2004, Viện Kiểm sát nhân dân có trách nhiệm kiểm sát việc tuân thủ pháp luật trong tố tụng dân sự, đồng thời thực hiện các quyền yêu cầu, kiến nghị và kháng nghị theo quy định pháp luật Mục tiêu của những hoạt động này là nhằm đảm bảo việc giải quyết các vụ việc dân sự diễn ra kịp thời và đúng quy định của pháp luật.
Quy chế công tác kiểm sát giải quyết vụ việc dân sự, theo quyết định số 567/QĐ-VKSTC ngày 08/10/2012 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Tối cao, quy định tại khoản 1, 2 Điều 9 về thẩm quyền và hướng dẫn thực hiện quyền kháng nghị phúc thẩm.
Kháng nghị phúc thẩm là quyền năng pháp lý của Viện Kiểm sát Nhân dân (VKSND), thể hiện rõ chức năng giám sát và kiểm tra đối với hoạt động tố tụng dân sự của Tòa án Nhân dân (TAND) ở giai đoạn sơ thẩm Việc kháng nghị hợp pháp không chỉ giúp Tòa án ra quyết định có căn cứ và hợp pháp, mà còn góp phần nâng cao hiệu lực pháp luật và tăng cường pháp chế theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự.
Sơ lƣợc về quy định kháng nghị phúc thẩm vụ án dân sự của Viện kiệm sát nhân dân
Vào ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã công bố Tuyên ngôn độc lập, đánh dấu sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Ngay sau đó, bộ máy Nhà nước được thành lập nhanh chóng nhằm lãnh đạo nhân dân trong việc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Đồng thời, Tòa án cũng được thành lập, dẫn đến sự hình thành và phát triển của hoạt động kháng nghị phúc thẩm vụ án dân sự của Viện kiểm sát nhân dân qua các giai đoạn lịch sử.
1.5.1 Giai đoạn từ năm 1945 đến 1989
Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, chính quyền mới đã nhanh chóng ban hành Hiến pháp đầu tiên vào ngày 09/1/1946, tạo nền tảng pháp lý cho việc xây dựng và quản lý nhà nước Các sắc lệnh về Tố tụng dân sự cũng được ban hành, như sắc lệnh số 13/SL ngày 24/1/1946, quy định tổ chức các Tòa án và nguyên tắc “Tòa án thực hiện hai cấp xét xử” Tiếp theo, sắc lệnh số 85/SL ngày 22/5/1950 về cải cách bộ máy tư pháp đã quy định tại Điều 15 về Luật Tố tụng.
GVHD: Thân Thị Ngọc Bích SVH: Nguyễn Hoàng Duy
Công tố viên có quyền kháng cáo cả về việc hình sự và việc hộ, điều này đánh dấu sự thay đổi trong quan niệm pháp lý Trước đây, việc hộ thường được coi là vấn đề riêng tư, không cần sự can thiệp của xã hội Tuy nhiên, theo tờ trình về Sắc lệnh, công tố viện giờ đây có thể kháng cáo các án hộ khi thấy cần thiết.
Sau năm 1954, Việt Nam bị chia thành hai miền: miền Bắc hoàn toàn giải phóng và xây dựng xã hội chủ nghĩa, trong khi miền Nam vẫn dưới sự thống trị của chính quyền Ngụy Sài Gòn và đế quốc Mỹ Điều này dẫn đến việc hai miền có hệ thống pháp luật khác nhau.
Trong bối cảnh mới của đất nước, Hiến pháp năm 1946 đã không còn phù hợp và được thay thế bằng Hiến pháp năm 1959 Đây là Hiến pháp đầu tiên trong lịch sử lập hiến của Việt Nam, đánh dấu sự ra đời của cơ quan Viện kiểm sát trong bộ máy nhà nước, theo quy định tại Điều 105.
Năm 1959, quy định rằng Viện kiểm sát nhân dân tối cao của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa có nhiệm vụ kiểm sát việc tuân thủ pháp luật của các cơ quan thuộc Hội đồng Chính phủ, cơ quan Nhà nước địa phương, nhân viên cơ quan Nhà nước và công dân Đồng thời, các Viện kiểm sát nhân dân địa phương và Viện kiểm sát quân sự được quyền kiểm sát trong phạm vi do luật định.
Mô hình Viện kiểm sát ra đời thay thế cho Viện công tố ở Việt Nam nhằm bảo đảm pháp chế thống nhất, tạo nền tảng cho xây dựng nhà nước kiểu mới Ngày 26/7/1960, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Lệnh công bố Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, theo đó Hiến pháp năm 1959 và Luật này quy định Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ kiểm sát việc tuân theo pháp luật và thực hành quyền công tố nhà nước Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1960 cũng quy định quyền kháng nghị phúc thẩm của Viện kiểm sát, cho phép VKSND Tối cao và các VKSND địa phương kháng nghị các bản án hoặc quyết định sơ thẩm của TAND cùng cấp và dưới một cấp Đến năm 1975, sau khi đất nước thống nhất, ngành Kiểm sát được tổ chức và hoạt động trên toàn quốc.
Hệ thống Viện kiểm sát ở miền Nam được thành lập theo Sắc lệnh số 01/SL-76 ngày 15/3/1976 của Hội đồng Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, quy định về tổ chức TAND và VKSND Theo Điều 16 của Sắc lệnh này, Viện kiểm sát có quyền kháng nghị đối với các bản án và quyết định của TAND cần xem xét lại Sự độc lập của đất nước được củng cố khi Hiến pháp năm 1980 ra đời, thay thế cho Hiến pháp trước đó.
2 Xem: Bộ tư pháp, Tập luật lệ về tư pháp (theo các văn bản đã công bố đến ngày 10/7/1957), 1957, tr.10
GVHD: Thân Thị Ngọc Bích, SVH: Nguyễn Hoàng Duy, năm 1959 Bản Hiến pháp mới quy định quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm dân sự của Viện kiểm sát, tiếp tục được xác định trong Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1981.
Từ khi Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân được ban hành năm 1960, các vấn đề liên quan đến kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm đã được quy định rõ ràng và được áp dụng thống nhất trên toàn quốc.
1.5.2 Giai đoạn từ năm 1989 đến 2004 Đây là giai đoạn Nhà nước ta bước sang thời kỳ đổi mới, xóa bỏ nền kinh tế bao cấp, xây dựng kinh tế phát triển theo hướng cơ chế thị trường định hướng XHCN Trên tinh thần Đại hội Đảng lần thứ VI (ngày 12/01/1986) là tăng cường quản lý bằng pháp luật, bảo vệ lợi ích hợp pháp của công dân Ngày 29/11/1989, Hội đồng Nhà nước CHXHCN Việt Nam đã ban hành Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự Tại Pháp lệnh này, kháng nghị phúc thẩm đã được quy định tại chương XI từ Điều 58 đến Điều 62, các vần đề căn bản như thẩm quyền kháng nghị, thời hạn kháng nghị… đều được quy định khá chi tiết trong Pháp lệnh Nhằm cụ thể hóa các quy định về kháng nghị phúc thẩm,văn bản hướng dẫn đã được ban hành, cụ thể là Nghị quyết số 03/NQ-HĐTP ngày 19/10/1990 của Hội đồng thẩm phám TAND Tối cao đã hướng dẫn một số quy định về kháng nghị phúc thẩm trong Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự
Năm 1992, Luật tổ chức VKSND năm 1992 được ban hành, thay thế Luật tổ chức VKSND năm 1981, quy định về kháng nghị phúc thẩm của VKSND tại khoản 4, Điều 17 Theo đó, VKSND có nhiệm vụ và quyền hạn thực hiện kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự, bao gồm kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm các bản án, quyết định của Tòa án nhân dân Đồng thời, trong giai đoạn này, Nhà nước cũng ban hành 2 Pháp lệnh về thủ tục kháng nghị phúc thẩm, cụ thể là Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế ngày 16/3/1994 và Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động.
Ngày 11 tháng 4 năm 1996, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế năm 1994 đã quy định về kháng nghị phúc thẩm tại các Điều 59 đến 64 Tương tự, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động cũng quy định vấn đề này tại các Điều 60 đến 64 Nhìn chung, các quy định về kháng nghị phúc thẩm trong các vụ án kinh tế và lao động không có sự khác biệt đáng kể so với quy định trong Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự.
Dựa trên các quy định từ các văn bản pháp luật trước đây như Luật tổ chức VKSND năm 1981, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế năm 1994 và Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp, hệ thống pháp luật hiện hành đã được kế thừa và phát triển để đáp ứng nhu cầu giải quyết các vấn đề pháp lý một cách hiệu quả hơn.
GVHD: Thân Thị Ngọc Bích, SVH: Nguyễn Hoàng Duy Theo Điều 22 của Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002, quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm dân sự của Viện kiểm sát vẫn được duy trì So với các văn bản pháp luật trước đây, quy định này không có sự thay đổi và phạm vi kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm dân sự của Viện kiểm sát vẫn không bị giới hạn.
1.5.3 Giai đoạn từ năm 2004 đến nay
Phạm vi, thẩm quyền, thời hạn kháng nghị phúc thẩm vụ án dân sự
2.1.1 Phạm vi kháng nghị phúc thẩm vụ án dân sự Để thực hiện quyền kháng nghị phúc thẩm vụ án dân sự, Viện kiểm sát cần phải xác định rõ phạm vi kháng nghị phúc thẩm vụ án dân sự là những bản án, quyết định nào? Đây là một vấn đề mà các Pháp lệnh trước đây không quy định cụ thể, như Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự tại khoản 2 Điều 58 quy định:“Viện kiểm sát… có quyền kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm” Như vậy, Pháp lệnh đã cho phép Viện kiểm sát có quyền kháng nghị phúc thẩm đối với mọi bản án, mọi quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm
BLTTDS hiện hành quy định rằng Viện kiểm sát có quyền kháng nghị mọi bản án của Tòa án cấp sơ thẩm, tuy nhiên quyền kháng nghị phúc thẩm của Viện kiểm sát bị giới hạn đối với một số quyết định như tạm đình chỉ hoặc đình chỉ giải quyết vụ án dân sự Theo Điều 250 BLTTDS sửa đổi, bổ sung năm 2011, Viện kiểm sát không có quyền kháng nghị phúc thẩm đối với các quyết định khác của Tòa án cấp sơ thẩm liên quan đến việc giải quyết vụ án dân sự, bao gồm quyết định công nhận thỏa thuận của các đương sự, quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, và quyết định đưa vụ án ra xét xử.
Nội dung giữa Pháp lệnh và Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) hiện hành có sự khác biệt về quyền kháng nghị quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm Pháp lệnh quy định Viện kiểm sát có quyền kháng nghị đối với mọi quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm, không bị giới hạn Trong khi đó, BLTTDS hiện hành chỉ cho phép Viện kiểm sát kháng nghị đối với các quyết định tạm đình chỉ và đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, tạo ra một giới hạn nhất định Điều này cho thấy rằng, trong quá trình giải quyết vụ án dân sự, Tòa án cấp sơ thẩm có thể đưa ra nhiều quyết định khác nhau, nhưng theo quy định hiện hành, quyền kháng nghị của Viện kiểm sát chỉ áp dụng cho những quyết định cụ thể.
GVHD: Thân Thị Ngọc Bích, SVH: Nguyễn Hoàng Duy, đề cập đến việc đình chỉ giải quyết vụ án dân sự và quyết định tạm đình chỉ của Tòa án cấp sơ thẩm, đây là đối tượng kháng nghị phúc thẩm Tuy nhiên, pháp luật đã hạn chế quyền kháng nghị phúc thẩm của VKSND đối với các quyết định này của Tòa án cấp sơ thẩm, điều này cần được làm rõ để hiểu rõ hơn về quy định pháp lý hiện hành.
Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự đánh dấu sự kết thúc của quá trình giải quyết vụ án, dựa trên các căn cứ pháp lý cụ thể Theo Điều 192 của Bộ luật Tố tụng Dân sự (sửa đổi, bổ sung năm 2015), khi Tòa án cấp sơ thẩm ra quyết định này, điều đó có nghĩa là vụ án không tiếp tục được xem xét và giải quyết.
Theo quy định pháp luật, khi vụ án dân sự bị đình chỉ, đương sự không có quyền khởi kiện lại và Viện kiểm sát có quyền kháng nghị quyết định đình chỉ của Tòa án cấp sơ thẩm để bảo vệ quyền lợi của các bên Đối với quyết định tạm đình chỉ, Tòa án chỉ ngừng giải quyết vụ án tạm thời khi có căn cứ theo Điều 189 BLTTDS, và nếu căn cứ này không đúng, sẽ ảnh hưởng đến quyền lợi của đương sự, do đó cũng có thể bị kháng nghị phúc thẩm Ngược lại, các quyết định như công nhận sự thỏa thuận của đương sự chỉ mang tính chất ghi nhận và không thuộc đối tượng kháng nghị phúc thẩm trong vụ án dân sự.
2.1.2 Thẩm quyền kháng nghị phúc thẩm vụ án dân sự Để bảo đảm tính hợp pháp và có căn cứ của bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm Điều 250 BLTTDS hiện hành quy định: “Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp và cấp trên trực tiếp có quyền kháng nghị bản án, quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án của Tòa án cấp sơ thẩm để yêu cầu Tòa án cấp trên trực tiếp giải quyết lại theo thủ tục phúc thẩm” Theo đó, BLTTDS hiện hành đã quy định rõ chức danh người ký kháng nghị là Viện trưởng VKSND cùng cấp và cấp trên trực tiếp có quyền kháng nghị bản án, quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án của Tòa án cấp sơ thẩm Quy định nhằm nâng cao vai trò và trách nhiệm của Viện kiểm sát các cấp trong việc thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử của Tòa án trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự Khi phát hiện bản án, quyết định sơ thẩm có vi phạm trong quá trình giải quyết thì Viện kiểm sát có quyền kháng nghị để yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử lại, cụ thể quy định cả Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp và cấp trên trực tiếp đều có quyền kháng nghị là nhằm phát hiện và khắc phục kịp thời những sai sót
GVHD: Thân Thị Ngọc Bích, SVH: Nguyễn Hoàng Duy, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc xét xử tại Tòa án cấp sơ thẩm, nhằm đảm bảo tính hợp pháp và có căn cứ của bản án, quyết định sơ thẩm trước khi tiến hành thi hành.
So với các Pháp lệnh trước đây, quy định về người có quyền ký quyết định kháng nghị trong Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự còn chung chung, dẫn đến sự không thống nhất trong thực tiễn Viện kiểm sát nhân dân có hai chức danh là Viện trưởng và Kiểm sát viên, gây khó khăn trong việc xác định người có thẩm quyền ký quyết định kháng nghị Điều 250 BLTTDS hiện hành đã khắc phục tình trạng này bằng cách quy định rõ ràng rằng Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp trên trực tiếp có quyền kháng nghị bản án, quyết định dân sự của Tòa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật, từ đó thống nhất nhận thức về quyền kháng nghị.
Theo khoản 2 Điều 44 BLTTDS hiện hành, khi Viện trưởng vắng mặt, Phó Viện trưởng được ủy quyền thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn của Viện trưởng Do đó, trong thực tế, nhiều Viện trưởng thường ủy quyền cho Phó Viện trưởng ký quyết định kháng nghị, phù hợp với phân công công tác nghiệp vụ trong Ngành kiểm sát.
Từ thực tế đó, thẩm quyền kháng nghị của Viện kiểm sát các cấp cụ thể như sau 4 :
Viện trưởng hoặc Phó Viện trưởng VKSND cấp huyện có quyền được Viện trưởng ủy quyền để kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm đối với những bản án, quyết định tạm đình chỉ, và quyết định đình chỉ giải quyết vụ án chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa án cùng cấp.
Viện trưởng hoặc Phó Viện trưởng VKSND cấp tỉnh có quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm đối với các bản án, quyết định tạm đình chỉ, và quyết định đình chỉ giải quyết vụ án chưa có hiệu lực pháp luật của TAND cấp tỉnh và TAND cấp huyện khi được Viện trưởng ủy quyền.
Viện trưởng Viện thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm đã ký kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm đối với bản án và quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án của Tòa án cấp tỉnh Hành động này được thực hiện khi phát hiện có vi phạm pháp luật, mặc dù những quyết định này chưa có hiệu lực.
4 Xem: Khoản 1 Điều 9 Quy chế về công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ việc dân sự
GVHD: Thân Thị Ngọc Bích SVH: Nguyễn Hoàng Duy
2.1.3 Thời hạn kháng nghị phúc thẩm vụ án dân sự
Theo quy định tại Điều 252 BLTTDS hiện hành thì thời hạn kháng nghị được quy định như sau:
Thời hạn kháng nghị đối với bản án của Tòa án cấp sơ thẩm là mười lăm ngày, trong khi của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là ba mươi ngày, tính từ ngày tuyên án Nếu Kiểm sát viên không tham gia phiên tòa, thời hạn kháng nghị sẽ được tính từ ngày Viện kiểm sát cùng cấp nhận bản án.
2 Thời hạn kháng nghị của Viện kiểm sát cùng cấp đối với quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án của Tòa án cấp sơ thẩm là bảy ngày, của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là mười ngày, kể từ ngày Viện kiểm sát cùng cấp nhận được quyết định”.
Hình thức và nội dung quyết định kháng nghị phúc thẩm vụ án dân sự
Điều 251 Bộ luật Tố tụng Dân sự quy định rõ về quyết định kháng nghị của Viện kiểm sát, yêu cầu quyết định này phải đáp ứng các tiêu chí cụ thể về hình thức và nội dung.
- Quyết định kháng nghị phải bằng văn bản, trong đó phải nêu cụ thể những vi phạm pháp luật của bản án, quyết định sơ thẩm 6
- Quyết định kháng nghị phải có các nội dung chính sau đây:
Quyết định kháng nghị cần ghi rõ ngày, tháng, năm ban hành và số hiệu của quyết định Tên Viện kiểm sát ra quyết định kháng nghị cũng phải được nêu rõ Kháng nghị phải chỉ rõ phần nào của bản án hoặc quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật Ngoài ra, lý do kháng nghị và yêu cầu cụ thể của Viện kiểm sát cũng cần được trình bày Cuối cùng, họ và tên của người ký quyết định kháng nghị cùng với dấu của Viện kiểm sát phải được đính kèm.
So với các Pháp lệnh thủ tục giải quyết vụ án dân sự và tranh chấp lao động, pháp luật tố tụng dân sự hiện tại thiếu quy định cụ thể về hình thức và nội dung kháng nghị, dẫn đến nhiều trường hợp kháng nghị tùy tiện Tuy nhiên, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế đã quy định rõ ràng tại Điều 60 rằng Viện kiểm sát phải kháng nghị bằng văn bản, trong đó cần nêu rõ nội dung quyết định của bản án bị kháng nghị, lý do kháng nghị và yêu cầu cụ thể của kháng nghị.
Điều 251 BLTTDS sửa đổi, bổ sung năm 2011 kế thừa các quy định của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế, đồng thời khắc phục những bất cập trong các Pháp lệnh thủ tục giải quyết vụ án dân sự và tranh chấp lao động Theo đó, quyết định kháng nghị của Viện kiểm sát phải được lập bằng văn bản và cần có các nội dung chính cụ thể.
6 Xem: Khoản 2 Điều 9 Quy chế về công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ việc dân sự
GVHD: Thân Thị Ngọc Bích, SVH: Nguyễn Hoàng Duy Ngày, tháng, năm ra quyết định kháng nghị và số quyết định kháng nghị được ghi rõ Tên Viện kiểm sát ban hành quyết định kháng nghị cũng cần được nêu Kháng nghị sẽ chỉ rõ phần nào của bản án hoặc quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật Lý do kháng nghị và yêu cầu của Viện kiểm sát phải được trình bày cụ thể Cuối cùng, họ và tên của người ký quyết định kháng nghị cùng với dấu của Viện kiểm sát phải được đính kèm.
BLTTDS hiện hành quy định chi tiết về hình thức và nội dung của bản kháng nghị Khi có căn cứ vi phạm bản án hoặc quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm, việc ban hành kháng nghị phúc thẩm cần tuân thủ hình thức văn bản theo Điều 251 BLTTDS, yêu cầu này là bắt buộc và phải đảm bảo nội dung cần thiết trong mỗi bản kháng nghị.
Khi kháng nghị phần nào của bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật, bản kháng nghị cần nêu rõ nội dung vụ việc và phân tích tài liệu chứng cứ trong hồ sơ để xác định vi phạm của bản án sơ thẩm Đối với lý do kháng phúc thẩm, BLTTDS hiện hành không quy định căn cứ cụ thể, cho phép Viện kiểm sát kháng nghị đối với mọi bản án, quyết định sơ thẩm có vi phạm pháp luật Tuy nhiên, thực tế cho thấy Viện kiểm sát chỉ kháng nghị đối với những vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng Trong trường hợp bản án dân sự có sai lầm trong áp dụng pháp luật nhưng không vi phạm thủ tục, Viện kiểm sát tôn trọng quyền tự định đoạt của đương sự, để họ tự quyết định kháng cáo hay không.
Sau khi nêu rõ lý do kháng nghị, bản kháng nghị cần trình bày quan điểm và hướng giải quyết vụ việc dân sự tại Tòa án cấp phúc thẩm Tùy thuộc vào đối tượng của kháng nghị, quan điểm về hướng giải quyết vụ án có thể khác nhau Đối với bản án sơ thẩm vi phạm, kháng nghị yêu cầu Hội đồng xét xử phúc thẩm giải quyết lại vụ án theo các hướng: sửa bản án sơ thẩm, hủy bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm để giải quyết lại, hoặc hủy bản án.
GVHD: Thân Thị Ngọc Bích, SVH: Nguyễn Hoàng Duy, đề cập đến án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án theo khoản 2, 3, 4 Điều 275 BLTTDS sửa đổi, bổ sung năm 2011 Đối với quyết định sơ thẩm có vi phạm, kháng nghị yêu cầu Hội đồng phúc thẩm xem xét và quyết định theo các hướng: sửa quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm hoặc hủy quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ việc dân sự cho Tòa án cấp sơ thẩm để tiếp tục giải quyết (điểm b, c khoản 5 Điều 280 BLTTDS sửa đổi, bổ sung năm 2011).
Việc sử dụng văn phong pháp lý trong trình bày các vấn đề cần đảm bảo ngắn gọn, rõ ràng, chính xác và dễ hiểu Khi viện dẫn các quy phạm và văn bản pháp luật, cần ghi đúng tên loại, trích yếu nội dung, số ký hiệu, ngày, tháng, năm ban hành và cơ quan, tổ chức phát hành văn bản.
Hậu quả của kháng nghị phúc thẩm vụ án dân sự
Trong thời gian kháng nghị, bản án và quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật Khi hết thời hạn kháng nghị mà có quyết định kháng nghị, các phần của bản án và quyết định bị kháng nghị sẽ không được thi hành.
Theo quy định tại Điều 254 BLTTDS hiện hành, bản án hoặc quyết định sơ thẩm bị kháng nghị sẽ không có hiệu lực thi hành cho đến khi có phán quyết phúc thẩm, ngoại trừ một số quyết định được pháp luật cho phép thi hành ngay Những quyết định này bao gồm cấp dưỡng, bồi thường thiệt hại về tính mạng và sức khỏe, trả tiền công lao động, và các quyết định yêu cầu thực hiện hoặc cấm thực hiện hành vi nhất định Trong trường hợp này, Hội đồng xét xử có quyền quyết định cho thi hành ngay mà không cần chờ bản án phúc thẩm.
Bản án và quyết định sơ thẩm của Tòa án không bị kháng nghị sẽ có hiệu lực pháp luật từ ngày hết thời hạn kháng nghị, đảm bảo tính thi hành của bản án, giúp giải quyết vụ việc nhanh chóng và chính xác Theo quy định tại Điều 263 BLTTDS sửa đổi, Tòa án cấp phúc thẩm chỉ xem xét các phần của bản án có kháng nghị hoặc liên quan đến nội dung kháng nghị Do đó, Hội đồng xét xử phúc thẩm không có thẩm quyền xem xét các phần của bản án không bị kháng cáo hoặc không liên quan đến kháng nghị.
Các phần của bản án và quyết định sơ thẩm không bị kháng nghị sẽ có hiệu lực pháp luật từ ngày hết thời hạn kháng nghị Việc thi hành sẽ được thực hiện khi đủ các điều kiện cần thiết.
7 Xem: Khoản 2 Điều 375 BLTTDS sửa đổi, bổ sung năm 2011
8 Xem: Điều 9 Nghị quyết số 06/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012
GVHD: Thân Thị Ngọc Bích SVH: Nguyễn Hoàng Duy
- Độc lập với những phần của bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng nghị;
Việc xem xét kháng nghị đối với các phần của bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng nghị sẽ không ảnh hưởng đến những phần không bị kháng nghị của bản án, quyết định đó.
Tại bản án số 35/2006/HNGĐ-ST ngày 15/02/2013, Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh HT đã quyết định cho anh A ly hôn với chị B, giao quyền nuôi dưỡng con chung là cháu C cho chị B, đồng thời anh A có nghĩa vụ cấp dưỡng 200.000 đồng mỗi tháng Sau phiên xét xử sơ thẩm, chỉ Viện kiểm sát kháng nghị về quyết định chia tài sản chung, trong khi anh A và chị B không kháng cáo Những phần của bản án liên quan đến ly hôn, quyền nuôi dưỡng và nghĩa vụ cấp dưỡng không bị kháng nghị, do đó, chúng có hiệu lực pháp luật và sẽ được thi hành.
So với các Pháp lệnh trước đây, quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) hiện hành không thay đổi nội dung nhưng có sửa đổi về cách diễn đạt và được chia thành hai khoản.
- Những phần của bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng nghị thì chưa được đưa ra thi hành, trừ trường hợp pháp luật cho thi hành ngay.
Bản án và quyết định của Tòa án sơ thẩm sẽ có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng nghị, trừ khi chúng bị kháng nghị.
Tòa án cấp sơ thẩm cần gửi thông báo về kháng nghị cho cơ quan Thi hành án dân sự, nhằm tạo điều kiện cho cơ quan này thực hiện thi hành các phần bản án và quyết định sơ thẩm không bị kháng nghị, nếu có yêu cầu từ đương sự.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, bản án và quyết định sơ thẩm không có kháng nghị sẽ có nhiều thời điểm có hiệu lực pháp luật.
- Bản án sơ thẩm không có kháng nghị thì có hiệu lực pháp luật vào ngày thứ 31 kể từ ngày tuyên án.
- Quyết định sơ thẩm không có kháng nghị thì có hiệu lực pháp luật vào ngày thứ
11 (kể từ ngày giao quyết định cho Viện kiểm sát cùng cấp sơ thẩm)
GVHD: Thân Thị Ngọc Bích SVH: Nguyễn Hoàng Duy
Trình tự thủ tục kháng nghị phúc thẩm vụ án dân sự
2.4.1 Gửi quyết định kháng nghị cho Tòa án
Sau khi ban hành văn bản kháng nghị phúc thẩm vụ án dân sự, Viện kiểm sát cần ngay lập tức gửi quyết định kháng nghị cho Tòa án cấp sơ thẩm đã ra bản án bị kháng nghị Tòa án cấp sơ thẩm sẽ tiến hành các thủ tục theo quy định tại Điều 255 BLTTDS hiện hành Kèm theo quyết định kháng nghị, Viện kiểm sát phải cung cấp tài liệu và chứng cứ bổ sung (nếu có) để chứng minh tính hợp pháp và căn cứ của kháng nghị.
Trước đây, Pháp lệnh không quy định rõ ràng về việc kháng nghị phải được thực hiện bằng văn bản, nội dung của quyết định kháng nghị, cũng như yêu cầu gửi ngay kháng nghị cho Tòa án cấp sơ thẩm Điều này dẫn đến việc thiếu sót trong một số quyết định kháng nghị, chẳng hạn như không ghi số, không ghi ngày, hoặc không nêu rõ yêu cầu của Viện kiểm sát Hơn nữa, quy định cũng không yêu cầu gửi kèm các tài liệu, chứng cứ bổ sung để chứng minh tính hợp pháp và có căn cứ của kháng nghị.
Nghị định BLTTDS hiện hành đã quy định rõ ràng về quy trình ra quyết định kháng nghị, nhằm đảm bảo tính chặt chẽ và minh bạch Cụ thể, Điều 251 quy định rằng quyết định kháng nghị phải được gửi ngay lập tức đến Tòa án cấp sơ thẩm đã ban hành bản án hoặc quyết định sơ thẩm bị kháng nghị, để Tòa án này thực hiện các thủ tục theo quy định của Bộ luật.
Việc gửi quyết định kháng nghị cho Tòa án đã được thực hiện từ lâu nhưng chưa có quy định pháp lý rõ ràng trong các Pháp lệnh Trước đây, các Pháp lệnh chỉ quy định Viện kiểm sát gửi bản kháng nghị cho những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan Tuy nhiên, Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) hiện hành đã bổ sung quy định về việc gửi quyết định kháng nghị cho Tòa án cấp sơ thẩm, tạo nên sự chặt chẽ và đầy đủ hơn về mặt pháp lý.
2.4.2 Thông báo về việc kháng nghị Điều 253 BLTTDS hiện hành quy định về thông báo về việc kháng nghị Theo quy định tại Điều luật này, thì Viện kiểm sát đã ra quyết định kháng nghị phải gửi ngay quyết định kháng nghị đó cho các đương sự có liên quan đến kháng nghị Người được thông báo về việc kháng nghị có quyền gửi văn bản nêu ý kiến của mình về nội dung kháng nghị cho Tòa án cấp phúc thẩm Văn bản nêu ý kiến của người được thông báo phải được lưu vào hồ sơ vụ án.
Khi người được thông báo gửi ý kiến về nội dung kháng nghị cho Tòa án cấp sơ thẩm, nếu hồ sơ vụ án chưa được chuyển đến Tòa án cấp phúc thẩm, Tòa án cấp sơ thẩm sẽ đưa văn bản này vào hồ sơ vụ án và gửi cho Tòa án cấp phúc thẩm.
GVHD: Thân Thị Ngọc Bích, SVH: Nguyễn Hoàng Duy, cho biết rằng nếu hồ sơ vụ án đã được gửi đến Tòa án cấp phúc thẩm, Tòa án cấp sơ thẩm phải chuyển văn bản đó cho Tòa án cấp phúc thẩm để đưa vào hồ sơ vụ án và xem xét trong quá trình xét xử phúc thẩm.
Theo quy định mới, Bộ luật đã bổ sung quy định về quyền lợi của người có liên quan trong việc kháng nghị Cụ thể, ngoài việc Viện kiểm sát gửi bản kháng nghị, người được thông báo còn có quyền gửi văn bản nêu ý kiến của mình về nội dung kháng nghị cho Tòa án cấp phúc thẩm Những ý kiến này sẽ được đưa vào hồ sơ vụ án, đảm bảo tính minh bạch và công bằng trong quá trình giải quyết.
Viện kiểm sát có trách nhiệm gửi quyết định kháng nghị cho các đương sự, bên cạnh việc gửi quyết định kháng nghị cho Tòa án cấp sơ thẩm để giải quyết vụ việc Điều này nhấn mạnh vai trò của Viện kiểm sát trong quy trình tố tụng, không phải là trách nhiệm của Tòa án.
2.4.3 Gửi hồ sơ vụ án và kháng nghị Điều 255 BLTTDS hiện hành quy định về gửi hồ sơ vụ án có kháng nghị Theo quy định tại Điều luật này, thì việc gửi hồ sơ vụ án có kháng nghị được thực hiện như sau: Tòa án cấp sơ thẩm phải gửi hồ sơ vụ án có kháng nghị, tài liệu, chứng cứ kèm theo cho Tòa án cấp phúc thẩm trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày hết thời hạn kháng nghị.
Khi Viện kiểm sát có căn cứ để kháng nghị phúc thẩm vụ án dân sự, quyết định kháng nghị cần được gửi ngay cho Tòa án cấp sơ thẩm đã ra bản án bị kháng nghị, để tiến hành thủ tục gửi hồ sơ vụ việc cho Tòa án cấp phúc thẩm theo quy định Đồng thời, cần kèm theo các tài liệu và chứng cứ bổ sung (nếu có) để chứng minh tính hợp pháp và căn cứ của kháng nghị Quyết định kháng nghị cũng phải được gửi cho các đương sự liên quan đến vụ việc.
Thay đổi, bổ sung, rút kháng nghị phúc thẩm và hậu quả pháp lý của thay đổi, bổ sung, rút kháng nghị phúc thẩm vụ án dân sự
Để tôn trọng quan điểm của Viện kiểm sát và người ký quyết định kháng nghị, pháp luật quy định trình tự thay đổi, bổ sung hoặc rút kháng nghị Điều này nhằm đảm bảo rằng việc kháng nghị được thực hiện một cách chính xác, đầy đủ và cần thiết.
Trước đây, các Pháp lệnh liên quan đến thủ tục giải quyết các vụ án dân sự không có sự thống nhất Cụ thể, Pháp lệnh về thủ tục giải quyết vụ án dân sự quy định tại Điều 60 nêu rõ rằng: "Trước hoặc trong phiên tòa "
Viện kiểm sát có quyền điều chỉnh hoặc rút lại nội dung kháng nghị, theo quy định tại Điều 67 của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế và Điều 63 của Pháp lệnh thủ tục giải.
GVHD: Thân Thị Ngọc Bích, SVH: Nguyễn Hoàng Duy chỉ ra rằng các quy định hiện hành về kháng nghị của Viện kiểm sát không bao gồm việc thay đổi hay bổ sung kháng nghị, mà chỉ cho phép rút kháng nghị, điều này tạo ra một thiếu sót lớn trong pháp luật về quyền kháng nghị phúc thẩm của VKSND và không phù hợp với thực tiễn xét xử Hơn nữa, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự cho phép sửa đổi và rút kháng nghị mà không giới hạn phạm vi, dẫn đến khả năng sửa đổi và rút kháng nghị một cách tùy tiện, gây bất lợi cho các đương sự.
BLTTDS hiện hành đã cải thiện các hạn chế của các Pháp lệnh trước đó bằng cách quy định rõ ràng tại Điều 256 về quyền thay đổi, bổ sung và rút kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân.
Trước khi phiên tòa hoặc tại phiên tòa phúc thẩm diễn ra, Viện kiểm sát có quyền ra quyết định kháng nghị và được phép thay đổi, bổ sung kháng nghị Tuy nhiên, việc thay đổi này không được vượt quá phạm vi của kháng nghị ban đầu, đặc biệt nếu thời hạn kháng cáo hoặc kháng nghị đã hết.
Trước khi phiên tòa bắt đầu hoặc trong quá trình xét xử phúc thẩm, Viện kiểm sát có quyền ra quyết định kháng nghị, trong khi Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp cũng có quyền rút lại kháng nghị.
Tòa án cấp phúc thẩm đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với những phần của vụ án mà Viện kiểmsát đã rút kháng nghị.
Việc thay đổi, bổ sung hoặc rút kháng nghị trước khi phiên tòa được mở cần phải được thực hiện bằng văn bản và gửi đến Tòa án cấp phúc thẩm Tòa án cấp phúc thẩm có trách nhiệm thông báo cho các đương sự về những thay đổi, bổ sung hoặc việc rút kháng nghị này.
Việc thay đổi, bổ sung, rút kháng nghị tại phiên tòa phải được ghi vào biên bản phiên tòa”.
So với Điều 60 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự trước đây, Bộ luật tố tụng hiện hành không chỉ giữ nguyên quy định về quyền sửa đổi hoặc rút kháng nghị của Viện kiểm sát trước hoặc trong phiên tòa phúc thẩm, mà còn bổ sung các quy định cụ thể hơn, nhằm tăng cường tính minh bạch và hiệu quả trong quá trình xét xử.
- Về việc thay đổi, bổ sung kháng nghị:
Theo Điều 252 Bộ luật Tố tụng Dân sự hiện hành, nếu còn thời hạn kháng nghị, Viện kiểm sát có quyền thay đổi hoặc bổ sung nội dung kháng nghị đối với một phần hoặc toàn bộ bản án mà họ có quyền kháng nghị.
Trong trường hợp Viện kiểm sát đã rút một phần hoặc toàn bộ kháng nghị, nếu sau đó có kháng nghị lại và vẫn còn trong thời hạn kháng nghị, thì kháng nghị đó vẫn được chấp nhận để xét xử phúc thẩm theo thủ tục chung.
GVHD: Thân Thị Ngọc Bích SVH: Nguyễn Hoàng Duy
Khi hết thời hạn kháng nghị theo Điều 252 BLTTDS, Viện kiểm sát có quyền thay đổi hoặc bổ sung kháng nghị trước hoặc trong phiên tòa phúc thẩm, nhưng phải đảm bảo không vượt quá phạm vi kháng nghị đã gửi cho Tòa án trong thời gian quy định.
Chỉ có thể thay đổi hoặc bổ sung kháng nghị trong giới hạn của kháng nghị ban đầu Nếu thời hạn kháng nghị đã hết, việc thay đổi và bổ sung sẽ bị giới hạn Ngược lại, nếu thời hạn kháng nghị chưa hết, việc thay đổi và bổ sung không bị hạn chế.
Khi có sự thay đổi hoặc bổ sung kháng nghị được chấp nhận, Tòa án cấp phúc thẩm cần thông báo cho các đương sự về nội dung thay đổi đó trước khi mở phiên tòa hoặc tại phiên tòa.
- Về việc rút kháng nghị
+ Tòa án cấp phúc thẩm ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với những phần của vụ án mà Viện kiểm sát đã rút kháng nghị.
Khi Viện kiểm sát rút toàn bộ kháng nghị trước hoặc tại phiên tòa, việc xét xử phúc thẩm sẽ bị đình chỉ nếu không có kháng cáo Bản án sơ thẩm sẽ có hiệu lực pháp luật kể từ ngày Tòa án cấp phúc thẩm ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm.