1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

Luận án tiến sĩ các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng kiểm toán của kiểm toán nhà nước việt nam

245 2 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Chất Lượng Kiểm Toán Của Kiểm Toán Nhà Nước Việt Nam
Tác giả Lê Thị Tuyết Nhung
Người hướng dẫn GS. TS. Đoàn Xuân Tiên, TS. Đoàn Thanh Nga
Trường học Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
Chuyên ngành Kế Toán
Thể loại luận án tiến sĩ
Năm xuất bản 2021
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 245
Dung lượng 1,13 MB

Cấu trúc

  • Chương 1 GIỚI THIỆU CHUNG VỀ NGHIÊN CỨU (12)
    • 1.1. Tính cấp thiết của đề tài (12)
    • 1.2. Tổng quan nghiên cứu (14)
      • 1.2.1. Theo quan điểm hành vi (14)
      • 1.2.2. Nghiên cứu dựa trên yếu tố đầu vào, đầu ra của quá trình kiểm toán (17)
      • 1.2.3. Khía cạnh tổ chức (18)
      • 1.2.4. Khoảng trống nghiên cứu và định hướng nghiên cứu (21)
    • 1.3. Mục tiêu nghiên cứu (22)
    • 1.4. Câu hỏi nghiên cứu (23)
    • 1.5. Đối tượng và Phạm vi nghiên cứu (23)
      • 1.5.1. Đối tượng nghiên cứu (23)
      • 1.5.2. Phạm vi nghiên cứu (23)
    • 1.6. Đóng góp mới của nghiên cứu (23)
    • 1.7. Kết cấu của luận án (24)
  • Chương 2 CƠ SỞ LÝ THUYẾT CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CHẤT LƯỢNG KIỂM TOÁN CỦA KIỂM TOÁN NHÀ NƯỚC (26)
    • 2.1. Một số vấn đề chung về kiểm toán và chất lượng kiểm toán (26)
      • 2.1.1. Khái quát về kiểm toán (26)
      • 2.1.2. Khái quát về chất lượng kiểm toán (28)
      • 2.1.3. Đặc trưng trong hoạt động của cơ quan Kiểm toán nhà nước (33)
      • 2.1.4. Nguyên tắc đảm bảo chất lượng kiểm toán theo Chuẩn mực Kiểm toán nhà nước (35)
    • 2.2. Các lý thuyết nền (36)
      • 2.2.1. Lý thuyết tháp nhu cầu của Abraham Maslow (36)
      • 2.2.2. Lý thuyết về thể chế của Douglas North (39)
      • 2.2.3. Lý thuyết quản trị quan liêu của Max Weber (40)
    • 2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng kiểm toán của Kiểm toán nhà nước 29 1. Nhóm các nhân tố thuộc về Kiểm toán viên nhà nước (41)
      • 2.3.2. Nhóm các nhân tố thuộc về Kiểm toán nhà nước (45)
      • 2.3.3. Nhóm các nhân tố thuộc về môi trường thể chế (46)
  • Chương 3 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU (52)
    • 3.1. Quy trình nghiên cứu và dữ liệu sử dụng (52)
    • 3.2. Nghiên cứu định tính (54)
      • 3.2.1. Nghiên cứu tài liệu (55)
      • 3.2.2. Phỏng vấn sơ bộ (56)
      • 3.2.3. Phỏng vấn sâu chính thức (56)
      • 3.2.4. Kết quả nghiên cứu định tính (58)
    • 3.3. Nghiên cứu định lượng (78)
      • 3.3.1. Quy trình xây dựng bảng hỏi (78)
      • 3.3.2. Thu thập dữ liệu (79)
    • 3.4. Giả thuyết nghiên cứu (82)
    • 3.5. Thang đo các biến (86)
      • 3.5.1. Thang đo biến độc lập (86)
      • 3.5.2. Thang đo biến phụ thuộc (86)
  • Chương 4 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU (89)
    • 4.1. Khái quát về Kiểm toán nhà nước và chất lượng kiểm toán của Kiểm toán nhà nước (89)
      • 4.1.1. Khái quát về Kiểm toán nhà nước Việt Nam (89)
      • 4.1.2. Thực trạng chất lượng kiểm toán của Kiểm toán nhà nước Việt Nam (90)
    • 4.2. Kết quả nghiên cứu (105)
      • 4.2.1. Đo lường độ tin cậy của thang đo (105)
      • 4.2.2. Phân tích nhân tố khám phá (113)
      • 4.2.3. Kiểm định tương quan Pearson (122)
      • 4.2.4. Phân tích hồi quy tuyến tính bội (126)
  • Chương 5 THẢO LUẬN KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ KHUYẾN NGHỊ (134)
    • 5.1. Thảo luận kết quả nghiên cứu (134)
      • 5.1.1. Ảnh hưởng của nhóm các nhân tố thuộc về kiểm toán viên nhà nước đến chất lượng kiểm toán của Kiểm toán nhà nước (135)
      • 5.1.2. Ảnh hưởng của nhóm các nhân tố thuộc về Kiểm toán nhà nước đến chất lượng kiểm toán (136)
      • 5.1.3. Ảnh hưởng của nhóm các nhân tố thuộc về môi trường thể chế đến chất lượng kiểm toán của Kiểm toán nhà nước (138)
    • 5.2. Các khuyến nghị nhằm nâng cao chất lượng kiểm toán của Kiểm toán nhà nước Việt Nam (139)
      • 5.2.1. Phương hướng nâng cao chất lượng kiểm toán của Kiểm toán nhà nước Việt (139)
      • 5.2.2. Khuyến nghị các giải pháp nâng cao chất lượng kiểm toán của Kiểm toán nhà nước Việt Nam (140)
      • 5.2.3. Một số yếu tố cần thiết để thực hiện giải pháp (152)
  • KẾT LUẬN (149)
  • PHỤ LỤC (166)

Nội dung

GIỚI THIỆU CHUNG VỀ NGHIÊN CỨU

Tính cấp thiết của đề tài

Chất lượng kiểm toán (CLKT) đã trở thành trọng tâm của nhiều nghiên cứu trong lĩnh vực kiểm toán trong hơn 20 năm qua, như được chỉ ra bởi Theo DeFond và Zhang (2014) Hội đồng Tiêu chuẩn Kiểm toán và Đảm bảo Quốc tế (IAASB) cũng nhấn mạnh rằng CLKT là vấn đề cần được chú ý nhiều hơn Tuy nhiên, hầu hết các nghiên cứu hiện nay chủ yếu tập trung vào CLKT của các công ty kiểm toán độc lập, trong khi lĩnh vực kiểm toán tài chính công lại thiếu các nghiên cứu sâu sắc (Dwyer và Wilson, 1989) Dựa trên khung lý thuyết về CLKT từ các nghiên cứu khu vực tư nhân, Donald và cộng sự (1992) đã tiến hành thử nghiệm để xác định các yếu tố ảnh hưởng đến CLKT trong khu vực công Kết quả cho thấy, danh tiếng và xung đột quyền lực là những yếu tố quyết định chính, bên cạnh đó, thời gian kiểm toán cũng là một chỉ số có thể so sánh giữa các công ty có quy mô tương đồng Nghiên cứu của Donald và cộng sự không thể phủ nhận đã đóng góp quan trọng vào hiểu biết về CLKT.

Năm 1992, một số yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng kiểm toán (CLKT) trong quản lý và sử dụng tài chính công đã được đề xuất Tuy nhiên, việc chỉ dựa vào nghiên cứu CLKT từ các công ty kiểm toán độc lập không thể thay thế cho nghiên cứu về CLKT khu vực công do các cơ quan kiểm toán nhà nước (KTNN) thực hiện Các nghiên cứu như của Mazur và cộng sự (2005), Haneef (2013) đã chỉ ra một số khía cạnh cụ thể trong việc đảm bảo CLKT của KTNN thông qua phương pháp nghiên cứu định tính và phân tích tài liệu Dù vậy, cho đến nay, chưa có công trình nào xác định toàn diện các nhân tố ảnh hưởng đến CLKT của KTNN và kiểm định mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố.

Tại Việt Nam, một số công trình nghiên cứu khoa học cấp cơ sở và cấp ngành của KTNN đã được thực hiện về chất lượng kiểm toán (CLKT) trong các lĩnh vực như kiểm toán ngân sách bộ, ngành, và kiểm toán đầu tư xây dựng cơ bản Tuy nhiên, các nghiên cứu này chủ yếu dựa vào phân tích dữ liệu thứ cấp để chỉ ra thực trạng CLKT hiện nay và đề xuất giải pháp khắc phục, mà chưa tập trung vào việc xác định các nhân tố ảnh hưởng đến CLKT và kiểm định mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố Một nghiên cứu gần đây của Hoàng Phú Thọ (2012) về KSCL kiểm toán đã sử dụng phương pháp phân tích định tính để làm rõ vấn đề này.

Bài viết của tác giả Nguyễn Mạnh Cường phân tích thực trạng công tác kiểm soát chất lượng kiểm toán tại Kiểm toán Nhà nước Việt Nam (KTNN) và đưa ra các khuyến nghị nhằm nâng cao chất lượng kiểm soát này Nghiên cứu cũng tập trung vào việc kiểm toán các dự án đầu tư sử dụng nguồn vốn ODA do KTNN thực hiện, nhằm cải thiện hiệu quả và tính minh bạch trong quản lý tài chính công.

Năm 2017, nghiên cứu tập trung vào kiểm toán nguồn vốn ODA cho các dự án đầu tư xây dựng cơ bản Tác giả nhận thấy rằng tại Việt Nam, chưa có công trình nghiên cứu nào về chất lượng kiểm toán của Kiểm toán nhà nước (KTNN) nhằm xác định và kiểm định mức độ ảnh hưởng của từng yếu tố, đồng thời coi đây là mục tiêu nghiên cứu duy nhất.

Hoạt động của các cơ quan kiểm toán Nhà nước không nhằm mục đích lợi nhuận và tập trung vào kiểm toán các tổ chức quản lý tài sản công và tài chính công Những tổ chức này không chỉ mang lại lợi ích kinh tế mà còn phục vụ các mục đích chính trị Vì vậy, việc phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng kiểm toán của KTNN là rất quan trọng để nâng cao chất lượng này, đặc biệt khi kết quả kiểm toán luôn thu hút sự quan tâm lớn từ Quốc hội, Chính phủ, các cơ quan chức năng và người dân.

Gần đây, nhiều thông tin truyền thông đã tập trung vào kết quả kiểm toán của KTNN VN, đặc biệt là trong các lĩnh vực như quản lý và sử dụng trang thiết bị y tế, kiểm toán các dự án BOT, BT, và cổ phần hoá doanh nghiệp Những kết quả này đã góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng tài chính công và tài sản công Tuy nhiên, nhiều kết luận và kiến nghị của KTNN vẫn còn chung chung, thiếu cơ sở pháp lý và chưa sát với thực tiễn, dẫn đến tỷ lệ thực hiện kiến nghị chưa cao, cụ thể là 75,6% năm 2016, 78,2% năm 2017 và 73,2% năm 2018 Đồng thời, các phát hiện về gian lận và tham nhũng nghiêm trọng được đề nghị chuyển sang cơ quan điều tra vẫn còn hạn chế.

Trong giai đoạn từ 2018 đến 2020, đã có tổng cộng 14 vụ việc được chuyển giao, với 5 vụ vào năm 2018, 4 vụ vào năm 2019 và 5 vụ vào năm 2020 Tuy nhiên, theo Trần Văn Vương (2012), công tác phối hợp với cơ quan Tài chính trong việc thực hiện kết luận và kiến nghị kiểm toán vẫn gặp nhiều khó khăn Ông chỉ ra rằng nội dung tổng hợp đôi khi không phản ánh đúng bản chất của kiến nghị kiểm toán và phương pháp tổng hợp trong các báo cáo kiểm toán chưa hợp lý Theo quy định tại Điều 1, khoản 13 và 14 của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Kiểm toán nhà nước năm 2019, các cơ quan, tổ chức và cá nhân có quyền khiếu nại và khởi kiện về các đánh giá, kết luận và kiến nghị của KTNN, cũng như hành vi của KTVNN, mặc dù chưa có kết luận hay kiến nghị nào của KTNN được đưa ra trước tòa án cho đến nay.

KTNN Việt Nam hàng năm nhận nhiều khiếu nại và khởi kiện liên quan đến kết quả kiểm toán, và đã có một vụ việc KTVNN bị khởi tố vì vi phạm pháp luật và quy tắc đạo đức nghề nghiệp Để thực hiện trách nhiệm được giao phó, KTNN không ngừng nỗ lực nâng cao chất lượng kiểm toán thông qua việc phát hiện và đưa ra các kiến nghị giá trị Việc tìm hiểu nguyên nhân của những tồn tại và hạn chế là cần thiết để có phương án khắc phục phù hợp, từ đó nâng cao chất lượng kiểm toán, đáp ứng kỳ vọng của Đảng, Nhà nước và công chúng trong việc giám sát quản lý tài chính công và tài sản công, hướng tới một nền tài chính minh bạch và trách nhiệm giải trình.

Nhu cầu nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng kiểm toán (CLKT) của Kiểm toán Nhà nước (KTNN) là rất quan trọng Việc phân tích và kiểm định mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố giúp các cơ quan có thẩm quyền thực hiện các giải pháp nâng cao CLKT một cách hiệu quả Đề tài nghiên cứu này tập trung vào việc xem xét và phân tích các nhân tố chính ảnh hưởng đến CLKT trong lĩnh vực kiểm toán tài chính và tài sản công của KTNN Việt Nam Kết quả nghiên cứu không chỉ hệ thống hóa các luận điểm khoa học về CLKT mà còn cung cấp cơ sở cho các cơ quan, tổ chức tham khảo trong việc hoạch định chính sách, tổ chức thực hiện, quản lý và giám sát CLKT.

Tổng quan nghiên cứu

Để xác định các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng kỹ thuật (CLKT), các nhà nghiên cứu đã áp dụng nhiều phương pháp khác nhau, có thể phân chia thành các nhóm chính.

(i) Theo quan điểm hành vi;

(ii) Nghiên cứu dựa vào đầu vào, quá trình và đầu ra;

(iii) Khía cạnh tổ chức.

Schroeder và các cộng sự (1986) cùng với một số nhà nghiên cứu trước đó đã phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng thông tin, xem chất lượng thông tin được xác định bởi mức độ hài lòng của người sử dụng thông tin báo cáo kinh tế Nghiên cứu này được thực hiện dựa trên nhận thức về những yếu tố này.

CLKT của những người lập BCTC và KTV đã được Carcello và cộng sự (1992) xem xét dựa trên cảm nhận của họ cùng với người dùng thông tin kiểm toán Nghiên cứu này nhằm tìm hiểu các yếu tố tác động đến CLKT một cách toàn diện hơn so với các nghiên cứu trước Tiếp theo mô hình nghiên cứu của Carcello, Behn và cộng sự (1997) cũng đã có những đóng góp quan trọng trong lĩnh vực này.

B và cộng sự (2008) đã thực hiện khảo sát để tìm hiểu xem thuộc tính nào của CLKT liên quan trực tiếp đến sự hài lòng của khách hành Tuy nhiên, Kym, B và cộng sự

Nghiên cứu năm 2008 chỉ dựa vào cảm nhận của kiểm soát viên công ty khách hàng và chuyên gia tài chính, cũng như KTV nội bộ của hội đồng địa phương trong việc lập BCTC Điều này dẫn đến việc khảo sát không bao quát, hạn chế tính toàn diện của kết quả so với các nghiên cứu trước đây.

Kilgore và cộng sự (2014) đã nghiên cứu cảm nhận về chất lượng kiểm toán (CLKT) từ hai góc độ: người lập báo cáo tài chính (BCTC) và người sử dụng thông tin kiểm toán Họ cho rằng CLKT bao gồm các thuộc tính được đánh giá bởi các nhóm có liên quan và tầm quan trọng của các thuộc tính này khác nhau giữa các nhóm lợi ích Nghiên cứu chỉ ra các nhân tố ảnh hưởng đến CLKT và mức độ quan trọng của từng nhân tố dựa trên cảm nhận của các đối tượng khác nhau, đồng thời củng cố các kết quả trước đó về CLKT theo quan điểm hành vi Tuy nhiên, hạn chế về số lượng mẫu trong phương pháp nghiên cứu đã ảnh hưởng đến kết quả của nhóm tác giả.

Các nghiên cứu hành vi đã phân loại các thuộc tính của kiểm toán viên thành hai nhóm chính: thuộc tính của nhóm kiểm toán và thuộc tính của công ty kiểm toán Thuộc tính của nhóm kiểm toán bao gồm các đặc điểm của kiểm toán viên, như được nêu bởi các tác giả Schroeder và cộng sự (1986), Carcello và cộng sự (1992), Beattie và Fearnley (1995), Zerni (2008), Warming-Rasmussen và Jensen (1998), cùng với Behn và cộng sự (1997) và Francis.

Các thuộc tính của công ty kiểm toán, như được nêu bởi Kym và các cộng sự (2004), Bùi Thị Thủy (2008), và Nguyễn Mạnh Cường (2013, 2017), đóng vai trò quan trọng trong việc đánh giá chất lượng kiểm toán Trong số đó, thuộc tính của nhóm kiểm toán được xem là yếu tố quyết định hơn so với các thuộc tính khác của công ty kiểm toán.

Các thuộc tính của nhóm kiểm toán, bao gồm đạo đức và tính độc lập của kiểm toán viên, có ảnh hưởng đáng kể đến chất lượng kiểm toán Nghiên cứu của Krohmer và Lae (2010) cùng Kym và các cộng sự (2008) nhấn mạnh tầm quan trọng của đạo đức trong nghề kiểm toán Bên cạnh đó, tính độc lập của kiểm toán viên cũng được khẳng định là yếu tố then chốt, theo các nghiên cứu của Baotham (2009), Tepalagun và Lin (2016), cũng như Kym và cộng sự (2008).

5 v.v.), Kinh nghiệm (Behn và cộng sự, 1997, Kym, B và cộng sự, 2008, Carcello và cộng sự, 1992, Bùi Thị Thuỷ, 2013 v.v), Quan hệ và các quan điểm hành vi (Mock và Samet,

1982), nguồn lực con người (human capital - trình độ học vấn, kinh nghiệm, chuyên môn ngành) của Cheng và cộng sự (2009) v.v.

Theo Pankov và cộng sự (2011) cùng Pankov (2016), CLKT không chỉ được xác định qua việc tuân thủ quy định kiểm toán mà còn bị ảnh hưởng bởi những yếu tố bổ sung quan trọng, bao gồm kỳ vọng của người sử dụng báo cáo tài chính và động lực của kiểm toán viên trong việc đảm bảo chất lượng kiểm toán Yếu tố bổ sung này, theo Pankov (2016), đóng vai trò thiết yếu trong quá trình kiểm toán.

MTTC ảnh hưởng đến chất lượng kiểm toán (CLKT) không chỉ trực tiếp mà còn gián tiếp, tạo động lực cho kiểm toán viên (KTV) và các bên liên quan Pankov (2016) nhấn mạnh rằng, để đảm bảo kiểm toán chất lượng cao, cần tuân thủ các chuẩn mực và hướng dẫn kỹ thuật, cùng với sự tương tác tốt với môi trường thể chế bên ngoài Tiếp theo, Elizarieva (2012) phát triển mô hình về tác động của thể chế đến CLKT tại Nga, chỉ ra rằng thể chế ảnh hưởng qua bốn yếu tố: chính trị, pháp luật, kinh tế và đạo đức Sự tác động này diễn ra qua hai hình thức: hành chính và tự điều chỉnh, bao gồm cả tự điều chỉnh bên ngoài và bên trong.

Năm 2012, Elizarieva đã chỉ ra rằng nhiều yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng kiểm toán (CLKT) của các công ty kiểm toán độc lập, không chỉ bao gồm sự tuân thủ pháp luật, chuẩn mực kiểm toán và quy tắc đạo đức nghề nghiệp của kiểm toán viên (KTV), mà còn có yếu tố chính trị Tác giả nhấn mạnh rằng yếu tố chính trị có thể tác động đến việc lựa chọn đơn vị kiểm toán trong các gói thầu tại doanh nghiệp khu vực công, với những điều kiện đấu thầu thường mang tính chất ngầm định Mặc dù có nhiều phát hiện quan trọng về CLKT, nhưng nghiên cứu vẫn gặp hạn chế do chủ yếu dựa vào phân tích tài liệu thứ cấp.

Trong lĩnh vực kiểm toán của Kiểm toán Nhà nước (KTNN), việc thực hiện kiểm toán tại các đơn vị và doanh nghiệp nhà nước là bắt buộc và không thu phí Điều này đặt ra câu hỏi về tác động của yếu tố thể chế và chính trị đến chất lượng kiểm toán (CLKT) của KTNN Tại Việt Nam và nhiều cơ quan kiểm toán độc lập (SAI) trên thế giới, báo cáo kiểm toán (BCKT) của KTNN đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp thông tin cho Quốc hội trong quá trình xem xét và giám sát các quyết định liên quan đến nền kinh tế.

Chính phủ dựa vào kết quả kiểm toán của KTNN để thực hiện chức năng quản lý và điều hành, với báo cáo kiểm toán có giá trị pháp lý bắt buộc đối với các đơn vị và cá nhân liên quan Điều này tạo điều kiện cho các đơn vị thực hiện quyền khiếu nại về các kết luận và kiến nghị kiểm toán Hoạt động kiểm toán của KTNN nhận được sự quan tâm và phối hợp chặt chẽ từ Quốc hội, Chính phủ và các cơ quan liên quan, điều này phù hợp với quan điểm của Pankov (2016) rằng sự tương tác tốt với môi trường bên ngoài là cần thiết để đảm bảo chất lượng kiểm toán Theo quan điểm của Kirgore và cộng sự (2014), những nhóm này cũng là đối tượng quan tâm hoặc bị ảnh hưởng bởi quá trình kiểm toán của KTNN.

Nguyễn Mạnh Cường (2017) trong nghiên cứu "Kiểm toán các dự án đầu tư sử dụng vốn ODA do Kiểm toán nhà nước Việt Nam thực hiện" đã xác định 09 nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng kiểm toán các dự án ODA Mô hình nghiên cứu của tác giả cung cấp cái nhìn sâu sắc về các yếu tố quyết định trong quá trình kiểm toán, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ODA tại Việt Nam.

CHATLUONG = 0 + 1* PHAPLY + 2* DVKT + 3* CHUYENMON + 4* TINHTHONG + 5 * THAIDO + 6 * TUANTHU + 7 * DIEUKIEN + 8 * THOIGIAN + 9* KIEMSOAT + i

Mục tiêu nghiên cứu

Mục tiêu của nghiên cứu là xác định các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng kiểm toán của Kiểm toán Nhà nước (KTNN) Việt Nam thông qua lý thuyết và phỏng vấn chuyên gia Nghiên cứu sẽ kiểm định và đo lường mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố, từ đó đề xuất bộ giải pháp phù hợp nhằm nâng cao chất lượng kiểm toán của KTNN trong thời gian tới.

Mục tiêu cụ thể: Từ mục tiêu chung luận án xác định 05 mục tiêu cụ thể sau đây:

Nhận diện các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng kiểm toán của Kiểm toán Nhà nước Việt Nam bao gồm các yếu tố thuộc về kiểm toán viên nhà nước, các yếu tố thuộc về Kiểm toán Nhà nước và các yếu tố thuộc về môi trường kiểm toán.

(2) Kiểm định mối quan hệ giữa các nhân tố thuộc về KTVNN với CLKT của KTNN Việt Nam và đo lường mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố.

(3) Kiểm định mối quan hệ giữa các nhân tố thuộc về KTNN với CLKT của KTNN Việt Nam và đo lường mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố.

Kiểm định mối quan hệ giữa các nhân tố thuộc môi trường thể chế, bao gồm các cơ quan Quốc hội, Chính phủ, cơ quan dân cử và hành lang pháp lý, là cần thiết để đánh giá chất lượng kiểm toán của Kiểm toán Nhà nước Việt Nam Đồng thời, việc đo lường mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố cũng đóng vai trò quan trọng trong việc cải thiện hiệu quả hoạt động kiểm toán.

(5) Đề xuất giải pháp nhằm nâng cao CLKT của KTNN Việt Nam.

Câu hỏi nghiên cứu

Để thực hiện mục tiêu nghiên cứu luận án xác định các câu hỏi nghiên cứu chính cần giải quyết gồm có:

(1) Các nhân tố nào có ảnh hưởng như thế nào đến CLKT của KTNN Việt Nam?

Mối quan hệ giữa các nhân tố thuộc về KTVNN, KTNN và MTTC đối với chất lượng kiểm toán (CLKT) của KTNN Việt Nam là một vấn đề quan trọng Cần xác định mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố này đến CLKT, từ đó có thể đưa ra các giải pháp cải thiện hiệu quả kiểm toán trong bối cảnh hiện tại Việc nghiên cứu mối liên hệ và ảnh hưởng của các yếu tố này sẽ góp phần nâng cao chất lượng và độ tin cậy của kiểm toán nhà nước tại Việt Nam.

(3) Những giải pháp nào phù hợp với bối cảnh hiện tại giúp nâng cao CLKT của KTNN Việt Nam hiện nay?

Đối tượng và Phạm vi nghiên cứu

1.5.1 Đố i t ượ ng nghiên c ứ u Đối tượng nghiên cứu của luận án là mối quan hệ giữa các nhân tố thuộc về KTVNN, các nhân tố thuộc về KTNN và các nhân tố thuộc về MTTC và CLKT của KTNN Việt Nam hiện nay.

Về không gian: Nghiên cứu tại KTNN Việt Nam.

Luận án nghiên cứu dữ liệu từ năm 2006, khi Luật Kiểm toán Nhà nước số 81/2005/QH13 có hiệu lực, cho đến nay Để đảm bảo tính thời sự, nghiên cứu chủ yếu tập trung vào dữ liệu từ năm 2010 đến 2019.

Luận án nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng kiểm toán (CLKT) của Kiểm toán nhà nước (KTNN) Việt Nam, tập trung vào lĩnh vực kiểm toán tài chính và kiểm toán tuân thủ Mặc dù KTNN đang tăng cường áp dụng kiểm toán hoạt động thông qua nhiều cuộc kiểm toán chuyên đề, nhưng trước thời điểm nghiên cứu, kiểm toán tài chính và kiểm toán tuân thủ vẫn giữ vai trò chủ đạo.

Đóng góp mới của nghiên cứu

* Những đóng góp mới của luận án về mặt lý luận gồm có:

Thứ nhất, Luận án bổ sung cơ sở lý luận về các nhân tố ảnh hưởng đến CLKT của

Luận án áp dụng đồng thời phương pháp nghiên cứu định tính qua phỏng vấn sâu và phương pháp nghiên cứu định lượng nhằm xây dựng mô hình hồi quy.

13 quy và cung cấp bộ dữ liệu đáng tin cậy về các nhân tố ảnh hưởng đến CLKT của KTNN Việt Nam;

Luận án đã xác định được ba nhóm nhân tố tổng quan cùng với tám nhân tố cấu thành, tất cả đều có ảnh hưởng tích cực đến chất lượng kiểm toán của Kiểm toán Nhà nước Việt Nam Những đóng góp này có thể làm nền tảng cho các nghiên cứu tiếp theo về chủ đề này trong tương lai.

Thứ tư, Luận án rút ra các khuyến nghị nhằm nâng cao CLKT của KTNN Việt Nam.

* Những đóng góp của luận án về mặt thực tiễn gồm có:

Nghiên cứu đã xác định ba nhóm nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng kiểm toán của Kiểm toán Nhà nước Việt Nam, bao gồm: (i) Nhóm nhân tố liên quan đến kiểm toán viên nhà nước như kinh nghiệm, chuyên môn, trình độ đào tạo, tuân thủ các quy định về kiểm toán, và duy trì tính độc lập, chuyên nghiệp; (ii) Nhóm nhân tố thuộc về Kiểm toán Nhà nước, bao gồm các yếu tố như kiểm soát chất lượng kiểm toán, sự tham gia của lãnh đạo, và uy tín của Kiểm toán Nhà nước; (iii) Nhân tố thuộc môi trường thể chế, thể hiện qua sự quan tâm và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan của Quốc hội, Chính phủ và các cơ quan dân cử.

Nghiên cứu và khuyến nghị giải pháp nâng cao chất lượng kiểm toán (CLKT) của Kiểm toán Nhà nước (KTNN) sẽ cung cấp cơ sở cho KTNN thực hiện các biện pháp cụ thể nhằm giảm thiểu các yếu tố tiêu cực ảnh hưởng đến CLKT Đồng thời, kết quả nghiên cứu cũng sẽ cung cấp thông tin đáng tin cậy cho các cơ quan thuộc Quốc hội, Chính phủ, các cơ quan dân cử và đơn vị được kiểm toán về các yếu tố ảnh hưởng đến CLKT, cũng như vai trò và nhiệm vụ của từng cấp, từng đơn vị trong việc đảm bảo và nâng cao CLKT của KTNN.

Kết cấu của luận án

Ngoài phần mở đầu và kết luận luận án được kết cấu thành 05 chương như sau: Chương 1 Giới thiệu chung về nghiên cứu

Chương 2 Cơ sở lý thuyết các nhân tố ảnh hưởng đến CLKT của KTNN

Chương 3 Phương pháp nghiên cứu

Chương 4 Kết quả nghiên cứu

Chương 5 Khuyến nghị một số giải pháp nâng cao CLKT của KTNN Việt Nam

Chương 1 chủ yếu hệ thống hóa các nghiên cứu trong và ngoài nước về CLKT và các nhân tố ảnh hưởng đến CLKT Có 02 trường phái chính về khái niệm CLKT: (i) CLKT là khả năng phát hiện và báo cáo những sai sót trọng yếu trong BCTC; (ii) CLKT được xem xét dựa trên mức độ hài lòng của đối tượng sử dụng BCKT đối với các kết quả, kết luận kiểm toán. Đi sâu vào nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến CLKT các nhà nghiên cứu dựa trên các quan điểm chính gồm: (i) Theo quan điểm hành vi; (ii) Nghiên cứu dựa vào đầu ra, quá trình và đầu vào; (iii) Khía cạnh tổ chức Từ kết quả tổng quan nghiên cứu luận án xác định khoảng trống nghiên cứu, mục tiêu, câu hỏi, phương pháp, quy trình nghiên cứu làm cơ sở cho các bước nghiên cứu tiếp theo của luận án.

CƠ SỞ LÝ THUYẾT CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CHẤT LƯỢNG KIỂM TOÁN CỦA KIỂM TOÁN NHÀ NƯỚC

Một số vấn đề chung về kiểm toán và chất lượng kiểm toán

Khái niệm kiểm toán sơ khai xuất hiện từ thế kỷ III trước công nguyên, liên quan đến nền văn minh Ai Cập và La Mã, với từ "audit" trong tiếng Latin có nghĩa là "nghe" Kiểm toán cổ điển là quá trình kiểm tra tài sản thông qua việc một kế toán viên đọc to số liệu cho bên độc lập nghe và chứng thực Đến đầu thế kỷ XX, khái niệm kiểm toán phát triển mạnh mẽ tại Bắc Mỹ và Tây Âu, tập trung vào việc kiểm tra độc lập và bày tỏ ý kiến, nhằm bảo vệ quyền lợi của các nhà quản lý và nhà đầu tư Các nhà đầu tư cần sự đảm bảo từ kiểm toán viên độc lập rằng báo cáo tài chính phản ánh trung thực và chính xác thông tin tài chính của công ty.

Theo định nghĩa của tổ chức IFAC, kiểm toán được hiểu là quá trình mà các kiểm toán viên độc lập tiến hành kiểm tra và đưa ra ý kiến về các báo cáo tài chính.

Theo Arens và Loebbecker (1995), kiểm toán được định nghĩa là quá trình thu thập bằng chứng kiểm toán và thông tin liên quan từ các chuyên gia độc lập, nhằm xác nhận và báo cáo mức độ tuân thủ các chuẩn mực của đơn vị.

Khái niệm kiểm toán tại Việt Nam chỉ mới xuất hiện trong hơn 30 năm qua, bắt đầu với sự thành lập các công ty tư vấn và kiểm toán thuộc Bộ Tài chính Theo Nguyễn Quang Quynh (1998, tr.30), hoạt động kiểm toán được hiểu một cách tổng quát như sau:

Kiểm toán là quá trình xác minh và đánh giá hoạt động thông qua các phương pháp kỹ thuật, bao gồm kiểm toán chứng từ và ngoài chứng từ Hoạt động này được thực hiện bởi các kiểm toán viên có trình độ chuyên môn phù hợp, dựa trên hệ thống pháp lý hiện hành.

Kiểm toán là quá trình mà kiểm toán viên có trình độ chuyên môn thực hiện độc lập để kiểm tra sổ sách kế toán, nhằm đưa ra ý kiến về tính chính xác và trung thực của thông tin tài chính của tổ chức hoặc công ty.

Có 02 phương pháp chính để phân loại kiểm toán như sau:

- Theo chủ thể kiểm toán gồm: Kiểm toán nhà nước, kiểm toán độc lập và kiểm toán nội bộ.

Kiểm toán nhà nước, hay còn gọi là cơ quan kiểm toán tối cao ở một số quốc gia, là tổ chức được thành lập bởi Quốc hội hoặc Chính phủ, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật Theo Điều 4 của Luật Kiểm toán nhà nước, đối tượng kiểm toán bao gồm việc quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công, cùng với các hoạt động liên quan đến quản lý và sử dụng các nguồn lực này của các đơn vị được kiểm toán.

Kiểm toán độc lập là các công ty được thành lập và hoạt động theo quy định của luật Doanh nghiệp, chuyên cung cấp dịch vụ kiểm toán Những công ty này ký hợp đồng với khách hàng để thực hiện các dịch vụ kiểm toán có tính phí, đảm bảo tính minh bạch và độ tin cậy trong báo cáo tài chính.

Kiểm toán nội bộ là hoạt động do ban lãnh đạo doanh nghiệp thiết lập nhằm kiểm tra và đánh giá việc tuân thủ các quy định, chuẩn mực tài chính – kế toán cũng như hiệu quả của hệ thống kiểm soát nội bộ trong tổ chức.

- Phân loại theo loại hình kiểm toán, có 03 loại hình kiểm toán: Kiểm toán tài chính, kiểm toán tuân thủ và kiểm toán hoạt động.

Kiểm toán tài chính nhằm mục tiêu xác minh tính chính xác và trung thực của báo cáo tài chính (BCTC) cùng các thông tin tài chính liên quan Qua việc kiểm tra, kiểm toán viên đánh giá xem BCTC có được lập và trình bày đúng theo các quy định hiện hành hay không, từ đó đưa ra ý kiến xác nhận về sự đúng đắn của các thông tin tài chính.

Kiểm toán tuân thủ là quá trình kiểm tra việc thực hiện các quy định liên quan đến tài chính, kế toán, cũng như các chế độ, chính sách mà tổ chức cần tuân thủ.

Kiểm toán hoạt động, một loại hình kiểm toán mới tại Việt Nam, tập trung vào việc đánh giá tính kinh tế, hiệu quả và hiệu lực trong quản lý tài chính và tài sản của đơn vị, thường được gọi là kiểm toán 3E Mục tiêu của kiểm toán hoạt động là đưa ra ý kiến nhằm cải tiến và khắc phục những hoạt động chưa đạt hiệu quả Điều này giúp phân biệt Kiểm toán Nhà nước với các chủ thể kiểm toán khác theo loại hình kiểm toán.

Kiểm toán nhà nước (KTNN) là cơ quan do Quốc hội thành lập, với chức năng và nhiệm vụ được quy định tại Điều 118 của Hiến pháp Việt Nam Các quy định chi tiết về KTNN được nêu trong Luật KTNN và Luật KTNN sửa đổi Ngoài KTNN, còn có các chủ thể kiểm toán khác như kiểm toán độc lập và kiểm toán nội bộ, hoạt động theo Luật Kiểm toán độc lập cùng các quy định liên quan.

Các cơ quan Kiểm toán Nhà nước (KTNN) thực hiện ba loại hình kiểm toán: kiểm toán báo cáo tài chính, kiểm toán tuân thủ và kiểm toán nội bộ, khác với các công ty kiểm toán độc lập chỉ tập trung vào dịch vụ kiểm toán báo cáo tài chính Việc thực hiện kiểm toán có thể được tiến hành riêng lẻ hoặc kết hợp cả ba loại hình nhằm đạt được mục tiêu kiểm toán và phù hợp với đặc thù của lĩnh vực kiểm toán tài chính công và tài sản công.

2.1.2 Khái quát v ề ch ấ t l ượ ng ki ể m toán

2.1.2.1 Khái niệm về chất lượng

Theo từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê (2000) chủ biên, chất lượng được định nghĩa là "cái tạo nên phẩm chất, giá trị của một con người, một sự vật, sự việc" Bên cạnh đó, cuốn Từ điển tiếng Nga của tác giả Ozhegova, tái bản và bổ sung năm 2020, định nghĩa chất lượng là "sự tồn tại của những dấu hiệu, tính chất, đặc điểm tạo nên sự khác biệt giữa sự vật, hiện tượng này với sự vật, hiện tượng khác".

Các lý thuyết nền

2.2.1 Lý thuy ế t tháp nhu c ầ u c ủ a Abraham Maslow

Nhu cầu là yếu tố cơ bản hình thành bản chất con người, theo nghiên cứu của Maslow về "Hệ thống cấp bậc của nhu cầu" (1943) Con người có nhu cầu bậc thấp như sự nhận thức bản thân, được kính trọng, và an toàn, cùng với nhu cầu bậc cao như tự khẳng định và tự tôn bản ngã Nhu cầu bậc thấp thường được thỏa mãn qua các yếu tố bên ngoài, trong khi nhu cầu bậc cao liên quan đến nội tại của mỗi cá nhân Maslow cho rằng khi các nhu cầu cơ bản được thỏa mãn, chúng sẽ dẫn đến sự hình thành nhu cầu ở cấp độ cao hơn, trở thành động lực cho hành vi của con người Năm cấp bậc nhu cầu theo học thuyết Maslow gồm: nhu cầu sinh học, nhu cầu an toàn, nhu cầu xã hội, nhu cầu được tôn trọng và nhu cầu tự thể hiện bản thân Nhu cầu chính là cơ sở hình thành động cơ thúc đẩy con người hành động, với việc ưu tiên thỏa mãn những nhu cầu cấp thiết nhất trước tiên.

Phát triển tháp nhu cầu của Maslow vào việc tạo động lực cho người lao động trong môi trường tổ chức tác giả Trương Minh Đức (2011), Dinibutun (2012) coi 05 cấp

26 bậc nhu cầu của con người là các biến độc lập, các tác giả cụ thể các yếu tố trong tháp nhu cầu như sau:

Bảng 2.1 Tháp nhu cầu Nhu cầu

Nhu cầu sinh học cơ bản

Nhu cầu được tôn trọng

Nhu cầu tự thể hiện bản thân

Nguồn: Tổng hợp từ Trương Minh Đức (2011), Dinibutun (2012)

Theo lý thuyết nhu cầu của Maslow (1943), nhân viên sẽ cống hiến tối đa nếu họ nhận thức được rằng kết quả của hành động của mình sẽ đáp ứng những nhu cầu nhất định.

Trong hoạt động kiểm toán của Kiểm toán Nhà nước (KTNN), kiểm toán viên (KTV) đóng vai trò quan trọng khi trực tiếp thực hiện nhiệm vụ kiểm toán và thu thập bằng chứng cần thiết Những bằng chứng này sẽ là cơ sở để đưa ra các kết luận về tình hình tài chính và hoạt động của các đơn vị được kiểm toán.

27 luận, kiến nghị kiểm toán đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành báo cáo kiểm toán (BCKT), vì chất lượng kiểm toán (CLKT) phụ thuộc vào việc kiểm toán viên (KTV) có thu thập đầy đủ bằng chứng kiểm toán hay không Động lực để KTVNN duy trì tính độc lập, khách quan và chuyên nghiệp chính là nhu cầu tự khẳng định bản thân, bao gồm sự phát triển, thăng tiến và sáng tạo Khi KTVNN nhận thức được rằng chất lượng BCKT sẽ đáp ứng những nhu cầu này, họ sẽ nỗ lực hết mình để đảm bảo CLKT.

2.2.2 Lý thuy ế t v ề th ể ch ế c ủ a Douglas North

Douglas North, một trong những người tiên phong trong học thuyết kinh tế về thể chế, định nghĩa rằng "thể chế là những luật lệ của cuộc chơi trong xã hội" Thể chế được hiểu là tập hợp các ràng buộc do con người tạo ra nhằm điều chỉnh và định hình các tương tác xã hội Vai trò của thể chế rất quan trọng, vì nó cung cấp cấu trúc cho các hoạt động, giúp giảm thiểu sự bất trắc trong các tương tác hàng ngày Ngoài ra, thể chế còn hướng dẫn cách thức tương tác giữa con người trong các hoạt động như mua bán, mở công ty hay kết hôn Mỗi hoạt động diễn ra ở các địa phương khác nhau đều phải tuân theo những quy định riêng, từ đó thể chế xác định và giới hạn các lựa chọn của từng cá nhân.

Hệ thống thể chế bao gồm hai thành phần quan trọng: thể chế chính thức như luật pháp, quy định, chính sách và thể chế phi chính thức như tục lệ, quy tắc xử thế, chuẩn mực văn hóa Các thể chế có thể được con người sáng tạo ra như hiến pháp và pháp luật, hoặc tiến hóa theo thời gian như tục lệ văn hóa Thể chế tạo ra khung cho các hoạt động tương tác giữa con người, và mọi vi phạm sẽ bị xử lý bằng hình phạt tương ứng với mức độ nghiêm trọng.

Thể chế đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra một khuôn khổ ổn định, giúp giảm thiểu sự bất định trong các tương tác giữa con người Một môi trường thể chế minh bạch không chỉ thúc đẩy đổi mới mà còn góp phần vào sự tăng trưởng kinh tế Đối với các tổ chức, thể chế chính thống đảm bảo sự ổn định trong các mối quan hệ kinh tế, trong khi đó, thể chế không chính thống điều chỉnh hành vi của các chủ thể thông qua các giá trị hành vi được xã hội công nhận.

Việt Nam hiện đang trải qua giai đoạn chuyển đổi với một môi trường thể chế phức tạp và hệ thống pháp lý còn nhiều bất cập, điều này ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của các tổ chức và doanh nghiệp.

Chất lượng kiểm toán (CLKT) không chỉ được xác định qua việc tuân thủ các yêu cầu chuyên môn mà còn phụ thuộc vào kỳ vọng của người sử dụng báo cáo và động lực của kiểm toán viên (KTV) trong việc đảm bảo chất lượng Nhiệm vụ quan trọng của Kiểm toán Nhà nước (KTNN) là cung cấp số liệu cho Quốc hội, nhằm đảm bảo tính minh bạch và bền vững trong quản lý tài chính quốc gia Quốc hội có kỳ vọng lớn đối với CLKT của KTNN, trong khi các thể chế chính thức và không chính thức tạo ra động lực và áp lực cho KTNN và KTV trong việc nâng cao giá trị báo cáo kiểm toán (BCKT) Lãnh đạo KTNN cần quản lý và giám sát chặt chẽ hoạt động của KTV, đồng thời KTV cần tự giác đảm bảo tính độc lập, khách quan và liêm chính trong kiểm toán, giảm thiểu sai sót và đảm bảo các BCKT đầy đủ, chính xác làm căn cứ cho các đánh giá và kiến nghị.

KTNN là cơ quan nhà nước hoạt động theo Luật KTNN, Luật NSNN và các văn bản pháp luật liên quan, tạo thành một thể chế chính thống Hệ thống pháp lý đầy đủ giúp KTVNN thực hiện nhiệm vụ hiệu quả, đồng thời giúp đơn vị được kiểm toán hiểu rõ vai trò, quyền lợi và các quy định liên quan Việc phối hợp tốt với KTNN sẽ nâng cao chất lượng kiểm toán KTVNN cần tuân thủ nghiêm ngặt các quy định pháp luật và lãnh đạo từ Tổng KTNN, đồng thời chú ý đến các chuẩn mực xã hội trong môi trường thể chế và văn hóa-xã hội.

2.2.3 Lý thuy ế t qu ả n tr ị quan liêu c ủ a Max Weber

Theo Weber (1922), để đạt được mục tiêu, tổ chức cần hoạt động theo hệ thống phân cấp, trong đó mọi quyết định của tổ chức và các thành viên phải rõ ràng, hợp pháp và hợp lý Hệ thống phân cấp đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo sự hiệu quả và tính minh bạch trong hoạt động của tổ chức.

29 từ trên xuống dưới theo nguyên tắc cấp dưới chịu trách nhiệm trước cấp trên trực thuộc và người đứng đầu là đại diện cao nhất của tổ chức.

Mỗi quyết định của tổ chức và các thành viên phải rõ ràng, dễ hiểu, hợp lý và hợp pháp, với tính hợp lý và hợp pháp được xác định qua các chính sách và thủ tục phù hợp với thực tiễn và quy định pháp luật Trong hoạt động của Kiểm toán Nhà nước (KTNN) Việt Nam, tổ chức được thể chế hoá từ Tổng KTNN đến từng Kiểm toán viên Nhà nước (KTVNN) Mỗi KTVNN phải chịu trách nhiệm trước Tổng KTNN và pháp luật về các đánh giá và kết luận kiểm toán, dựa trên bằng chứng thu thập đầy đủ Các đoàn kiểm toán được tổ chức thành nhiều tổ, mỗi tổ có ít nhất 03 KTVNN, với Tổ trưởng và Trưởng đoàn kiểm toán chịu trách nhiệm chung Kiểm toán trưởng KTNN giám sát và chỉ đạo hoạt động của các đoàn kiểm toán, đồng thời đảm bảo các kiến nghị của KTNN phải rõ ràng, khách quan, kịp thời và tuân thủ quy định pháp luật hiện hành.

Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng kiểm toán của Kiểm toán nhà nước 29 1 Nhóm các nhân tố thuộc về Kiểm toán viên nhà nước

Bài viết xem xét vấn đề chất lượng kiểm toán từ góc độ hành vi và tổng quan nghiên cứu, đồng thời phân tích cơ sở lý thuyết cùng với đặc điểm hoạt động của cơ quan Kiểm toán Nhà nước (KTNN) Luận án xác định ba nhóm nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng kiểm toán của KTNN Việt Nam, bao gồm: (i) Nhóm các nhân tố liên quan đến kiểm toán viên nhà nước (KTVNN); (ii) Nhóm các nhân tố thuộc về KTNN; và (iii) Nhóm các nhân tố thuộc về môi trường thể chế.

Tác giả nghiên cứu về chất lượng kiểm toán (CLKT) của Kiểm toán Nhà nước (KTNN) Việt Nam dựa trên các kết quả công bố từ các nghiên cứu hành vi, bao gồm cả những nghiên cứu về CLKT trong khu vực tư do các công ty kiểm toán thực hiện Các cơ sở cho nghiên cứu này bao gồm: Thứ nhất, các công bố trong và ngoài nước về CLKT của KTNN như Mazur và cộng sự (2005), Haneef (2013), Hoàng Phú Thọ (2012), Nguyễn Mạnh Cường (2017); Thứ hai, đặc trưng trong hoạt động của các cơ quan KTNN và nguyên tắc đảm bảo CLKT; Thứ ba, kết hợp với các nghiên cứu về CLKT của KTNN để đưa ra cái nhìn toàn diện hơn.

Nghiên cứu này xem xét ảnh hưởng của các nhân tố từ nhóm kiểm toán viên (KTV), tổ chức kiểm toán (KTNN/công ty kiểm toán) và các yếu tố bên ngoài như hành lang pháp lý đến chất lượng kiểm toán (CLKT) của KTNN Mặc dù có sự đa dạng trong phương pháp nghiên cứu, nhưng điểm chung là các nhân tố này đều có tác động đến CLKT Tác giả dự đoán rằng các yếu tố từ KTVNN và KTNN sẽ ảnh hưởng đến CLKT, đồng thời môi trường thể chế cũng đóng vai trò quan trọng Ngoài ra, cả KTV và tổ chức thực hiện kiểm toán đều phải tuân thủ quy định pháp luật và chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp; bất kỳ vi phạm nào dẫn đến bỏ sót gian lận hay sai sót trên báo cáo tài chính đều phải chịu trách nhiệm trước pháp luật.

Tác giả sẽ kiểm định tính đầy đủ và phù hợp của ba nhóm nhân tố thông qua nghiên cứu định tính, bao gồm phỏng vấn sâu các chuyên gia Sau đó, dữ liệu sẽ được thu thập từ khảo sát diện rộng để thực hiện phân tích định lượng.

2.3.1 Nhóm các nhân t ố thu ộ c v ề Ki ể m toán viên nhà n ướ c

Theo Rayburn (1996), tính cách có ảnh hưởng trực tiếp đến định hướng cá nhân Kỹ năng và phẩm chất của lãnh đạo cũng như nhân viên kiểm toán, cùng với quá trình đào tạo, là những yếu tố then chốt quyết định chất lượng nguồn nhân lực trong ngành kiểm toán.

Carcello và cộng sự (1992) là những nhà nghiên cứu tiên phong trong việc phân tích mối liên hệ giữa chất lượng kiểm toán (CLKT) và sự hài lòng của khách hàng, dựa trên cảm nhận của người lập báo cáo tài chính, kiểm toán viên và người sử dụng báo cáo tài chính Họ đã khảo sát 264 kiểm soát viên và 120 chủ nợ, nhà đầu tư để xác định các thuộc tính liên quan đến chất lượng dịch vụ kiểm toán Qua phân tích nhân tố khám phá, tác giả đã rút ra 12 yếu tố CLKT, bao gồm kinh nghiệm, chuyên môn ngành, khả năng đáp ứng nhu cầu khách hàng, tuân thủ các quy định và sự tham gia của lãnh đạo công ty Tuy nhiên, các tác giả chưa xác định rõ những yếu tố nào thực sự ảnh hưởng đến sự hài lòng của khách hàng Tiếp nối nghiên cứu này, Behn và cộng sự (1997) đã khảo sát cảm nhận của các bên liên quan.

Nghiên cứu của Kym, B và cộng sự (2008) đã chỉ ra rằng 06 trong số 12 thuộc tính của CLKT có tác động trực tiếp đến sự hài lòng tổng thể của khách hàng, dựa trên khảo sát 235 chuyên gia tài chính và 35 kiểm toán viên nội bộ tại New South Wales, Australia Giả thuyết cho rằng các công ty kiểm toán lớn sẽ phân cấp trách nhiệm cá nhân của KTV ở mức cao hơn nhằm duy trì danh tiếng, từ đó cung cấp dịch vụ kiểm toán chất lượng cao hơn Đặc biệt, thuộc tính “sự tuân thủ CMKT” được tách thành 03 nhân tố riêng biệt: năng lực kỹ thuật, tính độc lập và sự chăm sóc khách hàng Kết quả phân tích đã đưa ra 14 nhân tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của người sử dụng thông tin tại BCKT trong bối cảnh đấu thầu dịch vụ kiểm toán.

Bài viết chỉ ra rằng có 48 tiêu chí đo lường quan trọng trong việc đánh giá chất lượng dịch vụ kiểm toán, trong đó các thuộc tính chính bao gồm chuyên môn trong ngành, kinh nghiệm hội đồng, năng lực kỹ thuật, duy trì tính độc lập, tuân thủ tiêu chuẩn đạo đức và sự quan tâm đúng mức của lãnh đạo công ty kiểm toán Những yếu tố như sự hoài nghi nghề nghiệp, quan điểm mới mẻ, quy mô công ty kiểm toán và dịch vụ phi kiểm toán được coi là ít quan trọng hơn Nghiên cứu của Kym và cộng sự (2008) đã chứng minh rằng các yếu tố liên quan đến kiểm toán viên như chuyên môn, kinh nghiệm, năng lực chuyên môn, tuân thủ tính độc lập và chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp có ảnh hưởng tích cực đến chất lượng kiểm toán.

Dựa trên nghiên cứu của Carcello và cộng sự (1992) cùng với các công bố liên quan, tác giả Kilgore và cộng sự (2014) đã tiến hành kiểm tra nhận thức về kiểm toán nội bộ (CLKT) của hai nhóm: thành viên nhóm kiểm toán và ban kiểm toán.

Nghiên cứu này so sánh quan điểm của các chủ tịch và thành viên ủy ban kiểm toán với các nhà phân tích tài chính thông qua bảng câu hỏi khảo sát, thu thập dữ liệu từ 39 người trong cuộc và 42 người bên ngoài Phân tích dữ liệu bằng phương pháp phân tích liên hợp thích ứng cho thấy cả hai nhóm đều nhận thức được tầm quan trọng của các yếu tố như trình độ chuyên môn, kinh nghiệm và hiểu biết của kiểm toán viên trong việc đánh giá chất lượng kiểm toán Tuy nhiên, mức độ quan trọng của một số thuộc tính cụ thể lại khác nhau giữa hai nhóm đối tượng này.

Nghiên cứu của Krohmer và Noël (2010) chỉ ra rằng có mối liên hệ tích cực giữa các đặc tính của KTV và chất lượng công việc (CLKT) Đặc biệt, đạo đức nghề nghiệp được xác định là yếu tố quan trọng quyết định đến CLKT, do đó cần được đánh giá và xem xét trong các hoạt động nhân sự như tuyển dụng, đào tạo và phát triển sự nghiệp.

Để nâng cao chất lượng kiểm toán, các cơ quan kiểm toán cần chú trọng đến việc cải thiện đạo đức nghề nghiệp của kiểm toán viên Nghiên cứu của Baotham (2009) chỉ ra rằng có mối liên hệ tích cực giữa tính độc lập của kiểm toán viên và chất lượng kiểm toán Ngoài ra, chất lượng kiểm toán cũng ảnh hưởng đáng kể đến thành công và uy tín của tổ chức Cheng và cộng sự (2009) đã chứng minh rằng có mối quan hệ thuận chiều giữa nguồn lực con người, bao gồm trình độ học vấn, kinh nghiệm và chuyên môn, với chất lượng kiểm toán.

Bùi Thị Thủy (2013) đã tiến hành nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng kiểm toán tại các doanh nghiệp niêm yết tại Việt Nam, thông qua khảo sát 546 kiểm toán viên từ 42 công ty kiểm toán độc lập, trong đó thu về 138 phiếu hợp lệ Nghiên cứu này dựa trên các công bố của Kym.

B và cộng sự (2008) có điều chỉnh để phù hợp với bối cảnh nghiên cứu Kết quả phân tích trên phần mềm SPSS cho thấy, nhóm nhân tố thuộc về KTV như kinh nghiệm, chuyên nghiệp, áp lực, độc lập, trình độ có ảnh hưởng cao nhất đến CLKT.

Trong lĩnh vực kiểm toán nhà nước, Luật Kiểm toán nhà nước và các quy định liên quan nhấn mạnh yêu cầu về trình độ, chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp của kiểm toán viên nhà nước (KTVNN) Việc tuân thủ các quy định về đạo đức và chất lượng kiểm toán là điều kiện tiên quyết cho mỗi cuộc kiểm toán Nghiên cứu của Nguyễn Mạnh Cường (2017) chỉ ra rằng chất lượng đội ngũ KTVNN đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo chất lượng kiểm toán, với 09 thuộc tính chất lượng và 55 tiêu chí đo lường Phân tích định lượng cho thấy các yếu tố như sự tinh thông nghề nghiệp, thời gian kiểm toán và thái độ nghề nghiệp của KTVNN có ảnh hưởng đáng kể đến chất lượng kiểm toán nhà nước tại Việt Nam.

Tóm lại, các nhân tố thuộc về KTVNN ảnh hưởng đến CLKT xác định đưa vào nghiên cứu của luận án gồm:

(5) Tuân thủ chuẩn mực nghề nghiệp và các hướng dẫn kỹ thuật chuyên môn;

(7) Sự tuân thủ chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp.

Trên cơ sở kế thừa bộ thang đo của các nghiên cứu chủ đạo như Kym, B và cộng sự

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

THẢO LUẬN KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ KHUYẾN NGHỊ

Ngày đăng: 03/07/2021, 05:29

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Arens, A. và Loebbecker, J. (1995), Kiểm toán (bản dịch), Tái bản lần thứ 4, Nhà xuất bản Thống kê Sách, tạp chí
Tiêu đề: Kiểm toán (bản dịch)
Tác giả: Arens, A. và Loebbecker, J
Nhà XB: Nhà xuất bản Thống kê
Năm: 1995
2. Baotham (2004), 'Audit independence, quality, and credibility: effects on reputation and sustainable success of CPAs in Thailand', International Journal of Business Research, số 9, tập 1, tr.1-15 Sách, tạp chí
Tiêu đề: International Journal ofBusiness Research
Tác giả: Baotham
Năm: 2004
4. Behn, B. K., Carcello, J. V., Hermanson, D. R. and Hermanson, R. H. (1997), 'The Determinants of Audit Client Satisfaction among Clients of Big 6 Firms', Accounting Horizons, Vol. 11, Iss. 1, (Mar 1997): 7-24 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Accounting Horizons
Tác giả: Behn, B. K., Carcello, J. V., Hermanson, D. R. and Hermanson, R. H
Năm: 1997
7. Bùi Thị Thủy (2013), Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng kiểm toán báo cáo tài chính các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam, Luận án tiến sĩ, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng kiểmtoán báo cáo tài chính các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoánViệt Nam
Tác giả: Bùi Thị Thủy
Năm: 2013
8. Carcello, J. V., Hermanson, R. H. and N. T. McGrath (1992), 'Audit Quality Attributes: The Perceptions of Audit Partners, Preparers, and Financial Statement Users, Auditing', A Journal of Practice and Theory, số 11, tập 1, tr. 1-15 Sách, tạp chí
Tiêu đề: A Journal of Practice and Theory
Tác giả: Carcello, J. V., Hermanson, R. H. and N. T. McGrath
Năm: 1992
9. Christiansen, Ó. (2011), 'Rethinking ‘quality’ by classic grounded theory', International Journal of Quality and Service Sciences, số 3, tập 2, tr. 199-210 Sách, tạp chí
Tiêu đề: International Journal of Quality and Service Sciences
Tác giả: Christiansen, Ó
Năm: 2011
10. Costin, H. (1994), 'Readings in total quality management’, Dryden press, Orlando Sách, tạp chí
Tiêu đề: Dryden press
Tác giả: Costin, H
Năm: 1994
11. Công an nhân dân, 4 cán bộ Kiểm toán nhà nước nhận hối lộ bị bắt, truy cập ngày 11 tháng 02 năm 2021 từ http://cand.com.vn/Kinh-te/4-can-bo-Kiem-toan-Nha-nuoc-nhan-hoi-lo-bi-bat-96846/ Sách, tạp chí
Tiêu đề: 4 cán bộ Kiểm toán nhà nước nhận hối lộ bị bắt
12. Cronbach, L. J. (1951), 'Coefficient alpha and the internal structure of tests' Psychometrika, 16, 297-334 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Psychometrika
Tác giả: Cronbach, L. J
Năm: 1951
13. DeAngelo, L. E. (1981), 'Auditor Size and Audit Quality', Journal of Accounting and Economics, số 3, tr. 183-199 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Journal of Accounting and Economics
Tác giả: DeAngelo, L. E
Năm: 1981
14. DeFond, M. and Zhang, Z. (2014), 'A review of archival auditing research', Journal of Accounting and Economics, số 58, tập 2, tr. 275-326 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Journal of Accounting and Economics
Tác giả: DeFond, M. and Zhang, Z
Năm: 2014
15. Denibutun, S. R. (2012), 'Work Motivation: Theoretical Framework', Journal on GSTF Business Review, số 1, tập 4, tr. 133-139 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Journal on GSTF Business Review
Tác giả: Denibutun, S. R
Năm: 2012
16. Đoàn Xuân Tiên (2008), Nâng cao năng lực cạnh tranh của các công ty kiểm toán độc lập ở Việt Nam hiện nay, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, Kiểm toán nhà nước Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nâng cao năng lực cạnh tranh của các công ty kiểmtoán độc lập ở Việt Nam hiện nay
Tác giả: Đoàn Xuân Tiên
Năm: 2008
17. Donald, R., Deis, Jr. and Gary, A. G. (1992), 'Determinants of Audit Quality in the Public Sector', The accounting review, số 67, tập 3, tr. 462-479 Sách, tạp chí
Tiêu đề: The accounting review
Tác giả: Donald, R., Deis, Jr. and Gary, A. G
Năm: 1992
18. Dwyer, P. D. and Wilson, E. R. (1989), 'An empirical investigation of factors affecting the timeliness of reporting by municipalities', Journal of Accounting and Public Policy, số 8, tr. 29-55 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Journal of Accountingand Public Policy
Tác giả: Dwyer, P. D. and Wilson, E. R
Năm: 1989
19. Francis, J.R. (2004), 'What do we know about audit quality?', The British Accounting Review, số 36, tr. 345-368 Sách, tạp chí
Tiêu đề: The British Accounting Review
Tác giả: Francis, J.R
Năm: 2004
20. Francis, J. R. (2011), 'A Framework for Understanding and Researching Audit Quality', A Journal of Practice and Theory, tr. 125 – 152 Sách, tạp chí
Tiêu đề: A Journal of Practice and Theory
Tác giả: Francis, J. R
Năm: 2011
21. Gendron, Y. (2009), Discussion of ‘The audit committee oversight process’:Advocating openess in accounting research”, Contemporary accounting research, số 26, tập 1, tr. 123-134 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Contemporary accountingresearch
Tác giả: Gendron, Y
Năm: 2009
22. Gryna, F. M.; Chua, Richard, C.H.; Defeo, J. A. (2007), Juran’s Quality Planning and Analysis, truy cập ngày 20 tháng 6 năm 2018 từhttps://secure.asq.org/perl/msg.pl?prvurl=http://asq.org/2007/01/leadership/jura ns-quality-planning-analysis-for-enterprise-quality-fifth-edition-chapter-1.pdf?ct=full Sách, tạp chí
Tiêu đề: Juran’s Quality Planningand Analysis
Tác giả: Gryna, F. M.; Chua, Richard, C.H.; Defeo, J. A
Năm: 2007
23. Hà Thị Ngọc Hà (2011), Các giải pháp hoàn thiện, tăng cường kiểm soát chất lượng công tác kiểm toán báo cáo tài chính các đơn vị có lợi ích công chúng, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, Bộ Tài chính Sách, tạp chí
Tiêu đề: Các giải pháp hoàn thiện, tăng cường kiểm soát chấtlượng công tác kiểm toán báo cáo tài chính các đơn vị có lợi ích công chúng
Tác giả: Hà Thị Ngọc Hà
Năm: 2011

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w