ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN
Vị trí địa lý, đặc điểm địa hình
Việt Nam nằm ở phía Đông bán đảo Đông Dương, trong phạm vi 8 o 30’ –
Việt Nam nằm giữa vĩ tuyến 23° Bắc và kinh tuyến 102° 08’ – 109° 28’ Đông, với tổng diện tích đất liền đạt 329.241 km² Quốc gia này có biên giới dài 3.730 km giáp với Trung Quốc ở phía Bắc, Lào và Campuchia ở phía Tây Phía Đông, Nam và Tây Nam của Việt Nam tiếp giáp với Biển Đông và Vịnh Thái Lan, có đường bờ biển dài 3.260 km Địa hình và địa chất của Việt Nam rất đa dạng, bao gồm ba dạng địa hình chính là đồi, núi và đồng bằng.
Đồi núi chiếm 3/4 diện tích lãnh thổ Việt Nam, hình thành qua quá trình vận động và phát triển lâu dài Địa hình đồi núi đa dạng về cao độ và hướng do sự vận động kiến tạo giữa các vùng khác nhau Hệ núi nước ta kéo dài hơn 1.400 km từ cao nguyên Đồng Văn (Hà Giang) đến vùng Đông Nam Bộ, chia thành hai nhánh chính: nhánh phía Bắc và Đông Bắc với đồng bằng sông Hồng kém phát triển, bao gồm các dãy núi và cao nguyên cao, sắp xếp theo dạng cánh cung và nan quạt hướng về núi Tam Đảo Nhánh phía Nam và Tây Nam đồng bằng sông Hồng phát triển mạnh mẽ, kéo dài và mở rộng theo hướng Tây Bắc.
Dãy Trường Sơn kéo dài từ Đông Nam đến đèo Hải Vân, sau đó chuyển hướng gần Bắc - Nam và Đông Bắc - Tây Nam, tạo thành một vòng cung lớn với mặt lồi quay ra biển Dãy núi này được chia thành hai đoạn: Trường Sơn Bắc từ hữu ngạn sông Cả (Nghệ An) đến đèo Hải Vân và Trường Sơn Nam từ đèo Hải Vân đến miền Đông Nam Bộ.
Đồng bằng chiếm 1/3 diện tích Việt Nam, nằm ở hạ lưu các con sông, với đồng bằng sông Cửu Long là lớn nhất, giáp biển và được bồi đắp bởi trầm tích hỗn hợp sông - biển Địa hình của đồng bằng khá bằng phẳng nhưng không đều, với nhiều vùng thấp trũng như Đồng Tháp Mười và tứ giác Long Xuyên, cùng các vùng đất cao dọc theo sông Tiền, sông Hậu và dải cát ven biển Đồng bằng sông Hồng là phần hạ lưu của hệ thống sông Hồng.
Thái Bình có địa hình bằng phẳng, nghiêng về phía biển theo hướng Tây Bắc - Đông Nam, với các tuyến sông được bao bọc bởi hệ thống đê sông và đê biển, tạo thành những vùng đồng bằng nhỏ có cao độ khác nhau Ngoài ra, còn có một số đồng bằng lớn như đồng bằng Thanh Hoá, Nghệ An, Quảng Nam, Bình Định, Phú Yên và Đông Nam Bộ, nằm ở hạ lưu các con sông lớn Các đồng bằng ở Quảng Ninh và ven biển miền Trung thường không rộng và bị chia cắt bởi các dãy núi.
Vùng trung du, nằm giữa miền núi và đồng bằng, được đặc trưng bởi địa hình đồi núi thấp với độ cao khoảng 500 – 800 m Tuy nhiên, ở một số khu vực, đặc biệt là sườn núi phía Đông dãy Trường Sơn thuộc các tỉnh miền Trung, địa hình chuyển tiếp từ núi xuống đồng bằng diễn ra nhanh chóng, dẫn đến việc không có vùng trung du rõ ràng.
Việt Nam sở hữu hơn 3.000 đảo lớn nhỏ trải dài dọc theo bờ biển, với tổng chiều dài lên tới 3.260 km từ Móng Cái (Quảng Ninh) đến Hà Tiên (Kiên Giang) Trung bình, cứ 100 km bờ biển lại có 1 km, tạo nên những khúc khuỷu và nhiều eo, vũng ven bờ Đặc biệt, trong khoảng 20 km bờ biển lại có một con sông chảy ra biển, với tổng cộng khoảng 114 cửa sông.
Với địa hình chủ yếu là đồi núi và hai đồng bằng lớn là sông Hồng và sông Cửu Long, các đồng bằng miền Trung thường nhỏ hẹp Đường bờ biển kéo dài từ Bắc đến Nam khiến khu vực này thường xuyên chịu ảnh hưởng của nhiều loại thiên tai như lũ quét, sạt lở đất, ngập lụt, nước biển dâng và các tác động từ biển.
Đặc điểm khí hậu
Việt Nam nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa với ba vùng khí hậu riêng biệt: miền Bắc và Bắc Trung Bộ có khí hậu cận nhiệt đới ẩm, trong khi miền Trung và Nam Trung Bộ mang khí hậu nhiệt đới gió mùa Miền Bắc trải qua bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu và Đông Miền cực Nam Trung Bộ và Nam Bộ có đặc điểm nhiệt đới với hai mùa mưa và mùa khô Do vị trí địa lý ở rìa phía Đông Nam của châu Á, giáp Biển Đông, Việt Nam chịu ảnh hưởng trực tiếp của khí hậu gió mùa mậu dịch, thường xuất hiện ở các vùng vĩ độ thấp.
Nhiệt độ không khí trung bình hàng năm tại Việt Nam dao động từ dưới 10°C ở vùng núi Hoàng Liên Sơn (12,7°C) đến hơn 27°C ở đồng bằng sông Cửu Long (27,4°C tại Rạch Giá) Nhiệt độ có xu hướng tăng dần từ Bắc vào Nam và giảm dần khi địa hình cao lên.
Nhiệt độ không khí trung bình năm trên phần lớn lãnh thổ Việt Nam dao động từ 18 đến 24 độ C, với mức tăng lên trên 26 độ C tại ven biển Nam Trung Bộ và Nam Bộ Ở các vùng núi cao, nhiệt độ giảm xuống dưới 18 độ C, có nơi ghi nhận nhiệt độ tối cao trên 40 độ C, đặc biệt là ở khu vực ven biển Trung Bộ Ngoài ra, nhiệt độ thấp nhất cũng được ghi nhận dưới 10 độ C, với một số khu vực ở miền núi Bắc có nhiệt độ dưới 0 độ C.
Bộ (-5,7 0 C tại Hoàng Liên Sơn) và dưới 5 0 C ở Tây Nguyên và Đông Nam Bộ (-0,1 0 C tại Đà Lạt)
Việt Nam có trung bình từ 1.400 đến 3.000 giờ nắng mỗi năm, với lượng nắng giảm dần từ Nam ra Bắc và từ hải đảo vào đất liền Khu vực ít nắng nhất là sườn Đông dãy Hoàng Liên Sơn và phần lớn Đông Bắc, chỉ đạt 1.400 – 1.600 giờ/năm Đồng bằng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ có 1.600 – 1.800 giờ nắng/năm, trong khi các cao nguyên và vùng núi thấp phía Tây dãy Hoàng Liên Sơn có thể đạt 1.800 – 2.000 giờ Khu vực nhiều nắng nhất là đồng bằng duyên hải cực Nam Trung Bộ và Đông Nam Bộ, với 2.600 – 3.000 giờ nắng/năm Đại bộ phận Nam Trung Bộ, Tây Nguyên và Nam Bộ có từ 2.400 đến 2.600 giờ nắng/năm, trong khi một số vùng núi vừa và cao ở Nam Tây Nguyên chỉ có 2.000 - 2.200 giờ nắng/năm, trở thành khu vực ít nắng tại phía Nam.
Thời gian và không gian phân bố mưa ở Việt Nam có những đặc điểm độc đáo, khác biệt so với các khu vực khác trên thế giới Nguồn ẩm và các yếu tố gây mưa thay đổi theo từng địa phương và thời kỳ, với nguyên nhân sâu xa là hoàn lưu khí quyển và địa hình, tạo nên các chế độ mưa đặc trưng trong bối cảnh chung của cả nước.
Theo số liệu quan trắc, lượng mưa trung bình năm ở nước ta vào khoảng
Trên hầu hết lãnh thổ, lượng mưa dao động từ 700 đến 5.000 mm, với trị số phổ biến khoảng 1.400 đến 2.400 mm Những khu vực có lượng mưa vượt ngoài mức phổ biến này chủ yếu là các vùng có lượng mưa lớn hoặc rất nhỏ.
Việt Nam có 11 khu vực mưa lớn với lượng mưa trên 2.400 mm, được sắp xếp theo vĩ độ từ Bắc vào Nam Đầu tiên là Sìn Hồ (Lai Châu) với lượng mưa từ 2.400 đến 3.200 mm, tiếp theo là Sa Pa (Lào Cai) với 2.400 – 3.600 mm Bắc Quang (Hà Giang) có lượng mưa từ 2.400 đến 5.000 mm, trong khi Móng Cái (Quảng Ninh) có lượng mưa từ 2.400 đến 2.800 mm Tam Đảo (Vĩnh Phúc) và Kỳ Anh (Hà Tĩnh) đều có lượng mưa từ 2.400 đến 2.800 mm Nam Đông (Thừa Thiên - Huế) có lượng mưa từ 2.400 đến 3.600 mm, còn Trà My (Quảng Nam) từ 2.400 đến 4.000 mm Ba Tơ (Quảng Ngãi) có lượng mưa từ 2.400 đến 3.600 mm, Bảo Lộc (Lâm Đồng) từ 2.400 đến 2.800 mm, và cuối cùng là Phú Quốc (Kiên Giang) với lượng mưa từ 2.400 đến 3.200 mm.
Việt Nam có 08 khu vực mưa nhỏ với lượng mưa trung bình năm dưới 1.400 mm, bao gồm: (1) Bảo Lạc (Cao Bằng) với lượng mưa từ 1.200 – 1.400 mm, (2) Na Sầm - Đồng Đăng (Lạng Sơn) với 1.100 – 1.400 mm, (3) Yên Châu (Sơn La) từ 1.200 – 1.400 mm, (4) Sông Mã (Sơn La) với 1.100 – 1.400 mm, và (5) Mường Xén (Nghệ An).
Các khu vực như An (800 – 1.300 mm), Ayunpa (Gia Lai, 1.200 – 1.400 mm), Nha Hố (Ninh Thuận, 700 – 1.400 mm) và Phan Thiết (Bình Thuận, 1.100 – 1.400 mm) đều có lượng mưa khác nhau Dải hội tụ nhiệt đới có đặc điểm hoạt động tiến một chiều từ phía Nam lên phía Bắc, thường kéo dài từ 5 đến 7 ngày trước khi tan biến Tại Việt Nam, thời kỳ hoạt động của dải hội tụ nhiệt đới diễn ra vào đầu mùa hè, với sự rõ nét nhất vào tháng Tám ở miền Bắc.
Vào cuối mùa hạ (tháng IX, X) và có thể cả đầu mùa hạ (tháng V, VI) ở miền Nam, thời tiết khu vực dải hội tụ nhiệt đới thường có nhiều mây và mưa vừa đến lớn Đặc biệt, mưa ngâu vào tháng VII âm lịch ở miền Bắc là do ảnh hưởng của dải hội tụ này gây ra.
Tháng 10 năm 2020, dải hội tụ nhiệt đới gây mưa lớn kéo dài ở miền Trung (tính từ 19h/05/10 - 19h/12/10 tổng lượng mưa ở các tỉnh Quảng Trị 900 - 1.800 mm; Thừa Thiên Huế 1.300 - 2.000 mm) đ) Bão và áp thấp nhiệt đới
Bão và ATNĐ, hay còn gọi là xoáy thuận nhiệt đới, là hiện tượng khí tượng đặc trưng với vùng gió xoáy có đường kính lên tới hàng trăm kilômét, thường hình thành trên các vùng biển nhiệt đới.
Là quốc gia có đường bờ biển dài trên 3.260 km, trung bình hàng năm có khoảng
Mùa bão ở Việt Nam kéo dài từ tháng 6 đến giữa tháng 12, với 5 đến 6 cơn bão và 2 đến 3 áp thấp nhiệt đới (ATNĐ) có khả năng ảnh hưởng Thời gian bão hoạt động mạnh nhất thường rơi vào các tháng 8, 9 và 10.
Trong 40 năm qua, có 363 cơn bão hoạt động trên biển Đông, trong đó 143 cơn bão đổ bộ vào đất liền, chiếm 39% Trung bình hàng năm, biển Đông ghi nhận 09-10 cơn bão và 04 ATNĐ, với 04-05 cơn bão và 01-02 ATNĐ ảnh hưởng trực tiếp đến đất liền Gần đây, số lượng bão trên biển Đông có xu hướng gia tăng cả về số lượng lẫn cường độ, đặc biệt là năm 2013 với 14 cơn bão và 5 ATNĐ, và năm 2017 đạt kỷ lục 16 cơn bão.
Đặc điểm hình thái thời tiết là yếu tố quan trọng trong việc hình thành thiên tai, cùng với tác động kinh tế xã hội không bền vững và biến đổi khí hậu Các quốc gia có chung biên giới đang đối mặt với thiên tai ngày càng cực đoan, với tính chất và mức độ nguy hiểm gia tăng, ảnh hưởng lớn đến phát triển kinh tế xã hội và ngành nông nghiệp.
Đặc điểm sông ngòi và phân phối dòng chảy năm
Với địa hình chủ yếu là đồi núi và khí hậu nhiệt đới gió mùa, Việt Nam có mạng lưới sông suối dày đặc Trên toàn lãnh thổ, có khoảng 2.360 sông suối có chiều dài từ 10 km trở lên, với mật độ trung bình khoảng 0,6 km/km² Tuy nhiên, sự phát triển của mạng lưới sông suối không đồng đều, dao động từ 0,3 km/km² ở vùng đồng bằng khô hạn đến 4 km/km² ở các khu vực khác.
Vùng núi cao có địa hình chia cắt mạnh và lượng mưa lớn, dẫn đến mạng lưới sông suối phát triển với mật độ từ 1 – 2 km/km² Trong khi đó, phần lớn lãnh thổ còn lại có mật độ sông suối khoảng 0,5 – 1 km/km² Đặc biệt, ở những khu vực có lượng mưa dưới 1.000 mm, mật độ sông suối giảm xuống dưới 0,15 km/km².
Trong tổng số 2.360 sông suối, có 106 sông chính và 2.254 sông nhánh thuộc các cấp khác nhau Cụ thể, sông cấp I chiếm 24,7% với 573 sông, sông cấp II chiếm 34,2% với 808 sông, sông cấp III cũng chiếm 24,7% với 583 sông, sông cấp IV có 224 sông (9,5%), sông cấp V có 51 sông (2,2%) và sông cấp VI.
Mạng lưới sông suối tại Việt Nam có nhiều đặc điểm quan trọng, trong đó các hệ thống sông lớn thường là sông liên quốc gia, với phần lớn hoặc một phần lưu vực nằm trên lãnh thổ nước khác Các hệ thống sông như Hồng, Cả, Mê Kông và sông Mã đều có đoạn chảy qua Lào Đặc biệt, sông Kỳ Cùng và Bằng Giang bắt nguồn từ Việt Nam nhưng chảy sang Trung Quốc Nhiều sông khác như Mậm Rốm, cùng với các sông ở Quảng Trị, Thừa Thiên Huế và Tây Nguyên, cũng bắt nguồn từ Việt Nam, chảy qua Lào và Campuchia trước khi đổ vào sông Mê Kông Tổng diện tích lưu vực sông suối chảy trên lãnh thổ Việt Nam khoảng 1.162.230 km², trong đó 831.018 km² (71,5%) nằm ở nước ngoài và 331.212 km² (28,5%) nằm trong lãnh thổ Việt Nam.
Hướng dòng chảy của các sông phụ thuộc vào địa hình, đặc biệt là các dãy núi Phần lớn sông suối ở Bắc Bộ và Nam Bộ chảy theo hướng Tây Bắc - Đông Nam, trong khi các sông ven biển Trung Bộ có hướng Đông hoặc Tây Bắc - Đông Nam, thậm chí Bắc - Nam Tại Tây Nguyên, dòng chảy thường theo hướng Đông Bắc - Tây Nam hoặc Đông - Tây, còn ở Lạng Sơn và Cao Bằng, dòng chảy chủ yếu theo hướng Tây Nam - Đông Bắc.
Trên toàn lãnh thổ, dòng chảy của các sông suối được chia thành hai mùa chính: mùa lũ và mùa cạn Thời gian xuất hiện của hai mùa này không đồng đều và phụ thuộc vào từng khu vực cụ thể.
Mùa lũ ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ thường diễn ra từ tháng 5 đến tháng 10, trong khi tại Tây Nguyên, Nam Bộ và ven biển cực Nam Trung Bộ (Ninh Thuận – Bình Thuận), mùa lũ xuất hiện từ tháng 6 đến tháng 12 Sự ảnh hưởng của dãy Trường Sơn khiến mùa lũ ở ven biển Trung Bộ có xu hướng bắt đầu muộn hơn và ngắn dần từ Bắc vào Nam, thường bắt đầu từ tháng 8.
Từ tháng IX đến tháng XII, tỷ lệ dòng chảy mùa lũ so với dòng chảy cả năm có sự biến đổi đáng kể theo từng năm và từng vùng, dao động từ 50-55% đến 80-85%, với mức trung bình trong khoảng này.
6 khoảng 70% trên phần lớn các sông, nhưng chỉ khoảng 60÷70% trên các sông ở ven biển Trung Bộ
Lũ trên các sông ở Bắc Bộ và phần phía Bắc của Bắc Trung Bộ có các đặc điểm sau:
+ Biên độ mực nước lũ hàng năm rất lớn, ở các sông lớn thuộc trung du và đồng bằng có thể tới 12 đến 16 m
Cường suất lũ tăng nhanh, với mức từ 3 đến 7 m/ngày ở thượng lưu, và từ 2 đến 4 m/ngày ở trung và hạ lưu; tại trạm thủy văn Hà Nội, cường suất lũ có thể đạt tới 10 cm/h.
Tốc độ lũ ở vùng núi có thể đạt 4-5 m/s và 3-4 m/s ở đồng bằng, khiến lũ về nhanh chỉ sau 2-3 ngày mưa Quan trắc thủy văn gần đây cho thấy tốc độ truyền lũ đang tăng dần, nguyên nhân chủ yếu do chặt phá rừng đầu nguồn, thay đổi địa hình lòng sông và tác động của các công trình hồ chứa cùng khai thác cát Tại Trung Bộ, lưu lượng lũ biến đổi lớn, lũ lên và xuống nhanh, có thể đạt cường suất trên 3-4 m/h khi gặp triều cường Ở Nam Bộ, lũ lụt tại ĐBSCL kéo dài 6 tháng từ tháng VII đến tháng XII, với độ ngập sâu từ 0,3 đến 2,5 m do địa hình thấp và ảnh hưởng của triều cường.
+ Trên các sông suối ở Bắc Bộ và phần phía Bắc của Bắc Trung Bộ từ tháng X, XI đến tháng IV, V;
+ Phía Nam của Bắc Trung Bộ và phía Nam Trung Bộ từ tháng I đến tháng VIII, IX;
+ Tây Nguyên và Nam Bộ từ tháng XII, I đến tháng V, VI
Việc phát triển kinh tế - xã hội và nông nghiệp gặp thuận lợi nhờ vào hệ thống sông ngòi dày đặc, tuy nhiên, 2/3 diện tích lưu vực của các sông lớn nằm ngoài quốc gia, gây khó khăn trong quản lý nguồn nước Chế độ dòng chảy phân bố theo mùa làm tăng thách thức trong việc phòng chống lũ, hạn hán, xâm nhập mặn và quản lý rủi ro thiên tai.
Thảm phủ thực vật
a) Thảm phủ thực vật ở thượng nguồn
Thảm thực vật ở Việt Nam rất đa dạng, được chia thành hai nhóm chính: thảm thực vật nhiệt đới ở vùng núi thấp và thảm thực vật vùng núi cao Gần đây, tình trạng chặt phá rừng và khai thác tài nguyên gia tăng, trong khi việc trồng rừng chưa đủ bù đắp cho sự mất mát của rừng nguyên sinh, dẫn đến suy giảm khả năng điều tiết nước Theo báo cáo tính đến ngày 31/12/2019, diện tích rừng đủ tiêu chuẩn che phủ toàn quốc đạt 13.864.223 ha, với tỷ lệ che phủ là 41,89%.
Quá trình suy thoái rừng phòng hộ đầu nguồn làm giảm khả năng điều tiết nước, dẫn đến tình trạng nước lũ tập trung nhanh hơn trong mùa mưa, gia tăng lưu tốc dòng chảy, biên độ và cường suất lũ Ngược lại, vào mùa kiệt, lượng nước ngầm trong lưu vực giảm, khiến mực nước thường xuyên ở mức rất thấp, gây khó khăn cho sản xuất nông nghiệp bền vững và góp phần thay đổi khí hậu Rừng ngập mặn ven biển cũng đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ môi trường và duy trì hệ sinh thái.
Từ năm 1943, tổng diện tích rừng ngập mặn toàn quốc đạt 408.500 ha, nhưng do tác động của con người và thiên tai, diện tích này đã suy giảm nghiêm trọng Đến năm 2013, diện tích rừng ngập mặn giảm xuống còn 168.688 ha, mức thấp nhất trong lịch sử Theo báo cáo của Tổng cục Lâm Nghiệp vào năm 2019, cả nước hiện chỉ còn 169.954 ha rừng ngập mặn ven biển.
Trong gần 80 năm qua, diện tích rừng ngập mặn đã giảm 234.361 ha, tương đương 57,37% Từ năm 2000 đến 2017, rừng ngập mặn giảm thêm 15.061 ha, chiếm 7,9%, chủ yếu ở vùng đồng bằng sông Cửu Long Nguyên nhân chính là do bờ biển bị sạt lở mạnh và việc chuyển đổi rừng để nuôi trồng thủy, hải sản, tập trung chủ yếu tại các tỉnh Bạc Liêu, Cà Mau và Kiên Giang.
Suy giảm rừng ngập mặn ven biển làm giảm khả năng chống sóng, gia tăng áp lực sóng vào bờ, đặc biệt trong bão và áp thấp nhiệt đới Điều này dẫn đến nguy cơ xói lở bờ biển và xâm nhập mặn, ảnh hưởng tiêu cực đến sản xuất nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản ven biển.
Đặc điểm bờ biển, thủy triều
Bờ biển Việt Nam trải dài từ Móng Cái (Quảng Ninh) đến Hà Tiên (Kiên Giang) với tổng chiều dài 3.260 km Trung bình, cứ 100 km thì có 1 km bờ biển, tạo nên một hệ thống bờ biển phong phú và đa dạng.
Vùng bờ biển miền Trung Việt Nam nổi bật với những đụn cát và đồi cát lớn, có độ dốc từ 1/5 đến 1/500, hình thành qua một quá trình phức tạp và kéo dài Các đặc điểm của khu vực này phụ thuộc nhiều vào điều kiện của đới bờ Ngoài ra, dọc theo bờ biển còn có những dãy núi đua ra biển, tạo nên các vụng và vịnh lớn, mang lại cơ hội phát triển kinh tế - xã hội, cũng như an ninh quốc phòng Tuy nhiên, vùng bờ biển này cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro và được coi là không ổn định, nhạy cảm và dễ bị tổn thương.
Vùng bờ biển đồng bằng sông Hồng và sông Cửu Long có địa hình tương đối bằng phẳng với độ dốc từ 1/50 đến 1/1.000 Khu vực này được bao phủ bởi rừng ngập mặn và có hệ thống đê biển nhằm bảo vệ cư dân cũng như cơ sở hạ tầng dọc bờ biển, đặc biệt là tại các cửa sông.
Chế độ thuỷ triều trong vùng biển Việt Nam khá phức tạp
- Vùng ven biển thuộc đồng bằng Bắc Bộ chịu ảnh hưởng của nhật triều, mỗi ngày thuỷ triều lên xuống một lần, độ lớn xấp xỉ 4m
Khu vực từ Thanh Hoá đến Hà Tĩnh có đặc điểm triều không đều, với độ lớn triều lên đạt từ 2,5 m đến 3,5 m Đặc biệt, thời gian triều rút kéo dài từ 14 đến 16 giờ, trong khi thời gian triều dâng chỉ dưới 10 giờ.
Vùng ven biển từ Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế đến Đà Nẵng có đặc điểm thủy triều bán nhật triều không đều Ở phía bắc Cửa Thuận An, độ lớn thủy triều dao động từ 2,3 m đến 2,5 m, trong khi phía nam có mức độ từ 1,0 m đến 1,2 m Đặc biệt, tại Cửa Thuận An có một đoạn ngắn có thủy triều bán nhật triều đều đặn với trị số cực đại khoảng 0,5 m.
- Vùng ven biển từ Quảng Nam đến Khánh Hoà thuỷ triều mang đặc tính nhật triều không đều, có độ lớn cực đại là 2,0 m
Vùng biển từ Ninh Thuận đến Mũi Cà Mau là khu vực chuyển tiếp giữa vùng nhật triều phía bắc và bán nhật triều phía nam, với độ lớn triều lên cao nhất đạt khoảng 4 mét và giảm dần về phía nam.
- Vùng biển từ Mũi Cà Mau đến Hà Tiên mang đặc tính triều hỗn hợp, với độ lớn khoảng 1,0 m
Độ lớn nhất của thuỷ triều trong năm thường trùng hợp với mùa bão hoặc các đới gió mùa hoạt động mạnh, gây ra hiện tượng nước biển dâng Điều này đã tác động mạnh đến các vùng ven biển, trở thành một trong những nguyên nhân cơ bản gây xói lở bờ biển, ảnh hưởng đáng kể đến các hoạt động dân sinh và phát triển kinh tế - xã hội.
Với điều kiện bờ biển và chế độ thủy triều đặc thù, khu vực này thường xuyên chịu ảnh hưởng từ các thiên tai như bão, áp thấp nhiệt đới, mưa lớn, lũ lụt, và sạt lở bờ sông, bờ biển Do đó, việc xác định các biện pháp phòng chống thiên tai cho những vùng chịu tác động là rất cần thiết để tích hợp vào Kế hoạch phòng chống thiên tai của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn giai đoạn 2021.
2025 và Kế hoạch đầu tư công trung hạn để chủ động nguồn lực triển khai thực hiện nhằm giảm thiểu thiệt hại là rất cần thiết.
TÌNH HÌNH THIÊN TAI
Một số loại hình thiên tai lớn đã xảy ra trong thời gian qua
Trong 40 năm qua (1980-2019), biển Đông đã ghi nhận 363 cơn bão, trung bình 9 cơn mỗi năm, trong đó 143 cơn bão đổ bộ vào đất liền, với 88 cơn tại miền Trung, 50 cơn ở miền Bắc và 5 cơn ở miền Nam Cường độ gió khi bão đổ bộ thường đạt cấp 9-10, giật cấp 11-12 ở Bắc Bộ và Trung Bộ, trong khi miền Nam ghi nhận cấp 8-9, giật cấp 10-11 So với 20 năm trước, số lượng bão ngày càng tăng, cường độ mạnh hơn và diễn biến phức tạp hơn, gây đe dọa nghiêm trọng đến tính mạng người dân và các hoạt động ven biển cũng như trên biển.
Bão Linda năm 1997 đã tấn công phía Nam bán đảo Cà Mau, và đúng 20 năm sau, vào năm 2017, bão Tembin xuất hiện với hướng di chuyển và cường độ tương tự như bão Linda.
Bão Damrey năm 2005 đã tấn công Bắc Bộ vào thời điểm triều cường, mang theo gió cấp 12, giật cấp 14, gây thiệt hại nặng nề cho hệ thống đê biển và cơ sở hạ tầng Đến năm 2017, bão Damrey lại đổ bộ vào Khánh Hòa và Phú Yên với cường độ gió cấp 12, giật trên cấp 12, một hiện tượng chưa từng xảy ra tại các tỉnh Nam Trung Bộ.
Năm 2017, Việt Nam ghi nhận kỷ lục với 16 cơn bão và 6 áp thấp nhiệt đới (ATNĐ), trong đó có 3 cơn bão được đánh giá có rủi ro thiên tai cấp độ 4, bao gồm bão số 10, 12 và 16.
Trong 11 tháng đầu năm 2020, đã có 13 cơn bão xuất hiện trên biển Đông và ảnh hưởng trực tiếp đến Việt Nam, đặc biệt là trong giai đoạn giữa tháng.
Từ tháng 9 đến tháng 11, miền Trung đã trải qua 08 cơn bão và 01 áp thấp nhiệt đới, cho thấy sự xuất hiện bất thường về tần suất và phạm vi ảnh hưởng Điều này đã dẫn đến mưa lớn kéo dài trong khu vực.
Trong 5 năm qua, mưa lớn và mưa đặc biệt lớn xảy ra thường xuyên trên diện rộng và cục bộ khắp cả nước, dẫn đến tình trạng lũ lớn, ngập lụt, lũ quét và sạt lở đất nghiêm trọng tại nhiều khu vực.
- Mưa lớn kéo dài liên tục từ giữa tháng 6 đến đầu tháng 7/2017 tại các tỉnh
Bắc Bộ ghi nhận lượng mưa vượt trung bình nhiều năm từ 10-30%, có nơi lên đến trên 50%, như Bắc Quang (Hà Giang) với 4.983 mm và Việt Lâm (Hà Giang) với 3.836 mm Đặc biệt, đợt mưa lớn trái mùa vào giữa tháng 10/2017 tại Hòa Bình, Thanh Hóa, Ninh Bình đã gây ra tổng lượng mưa từ 400 đến trên 600 mm, trong khi các hồ đã đầy nước, buộc phải xả lũ khẩn cấp, với hồ Hòa Bình lần đầu tiên phải xả qua 08 cửa đáy.
Vào đầu tháng 11/2017, sau bão số 12, các tỉnh miền Trung, đặc biệt là thành phố Huế và thị xã Hội An, đã trải qua đợt mưa lớn kỷ lục, với tổng lượng nước lên đến khoảng 19,0 tỷ m³ Hiện tượng này đã gây ra tình trạng ngập sâu đúng vào thời điểm diễn ra tuần lễ Hội nghị cấp cao APEC.
- Đợt mưa lớn xảy ra vào đầu tháng 8 và giữa tháng 10/2019 đã gây ngập nặng cho thành phố Vinh (Nghệ An) và huyện đảo Phú Quốc (Kiên Giang);
Đợt mưa lũ tháng 10 tại miền Trung đã ghi nhận lượng mưa kỷ lục, lên tới hơn 3.000 mm tại Hương Trà, Thừa Thiên Huế, dẫn đến tình trạng ngập lụt nghiêm trọng ở thành phố Huế và các khu vực lân cận.
Lũ và ngập lụt là thiên tai gây thiệt hại nghiêm trọng về người và tài sản trong những năm gần đây Hiện tượng này có thể xảy ra đồng thời với bão hoặc áp thấp nhiệt đới, cũng như khi có sự kết hợp của các yếu tố thời tiết như không khí lạnh, giải hội tụ nhiệt đới và xoáy thuận Ngoài ra, lũ cũng có thể phát sinh từ các con sông nằm ngoài lãnh thổ Việt Nam Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến lũ lớn trên hầu hết các sông thường là do mưa lớn sau bão hoặc áp thấp nhiệt đới.
Một số đặc điểm của lũ trên các vùng, miền:
- Lũ các sông Bắc Bộ: Khu vực Bắc Bộ có các lưu vực sông lớn là sông
Hồng – Thái Bình, sông Bằng Giang – Kỳ Cùng Mùa lũ trên hệ thống sông Bắc
Bộ lũ xuất hiện từ tháng 6 đến tháng 9, với trung bình 3 đến 5 trận lũ mỗi năm trên các lưu vực Thời gian lũ kéo dài từ 8 đến 15 ngày, tùy theo quy mô Trận lũ lớn trên sông Hồng chủ yếu do sông Đà, sông Thao và sông Lô gây ra, trong đó sông Đà đóng vai trò quyết định, chiếm 37% đến 69% lượng lũ ở Sơn Tây (trung bình 49,2%) Sông Lô chiếm 17% đến 41,5% (trung bình 28%), và sông Thao chiếm ít nhất 13% đến 30% (trung bình 19%) Lũ trên sông Thái Bình xuất phát từ sông Cầu, Thương, Lục Nam và một phần nước từ sông Hồng qua sông Đuống Biên độ mực nước lũ trên hệ thống sông Hồng dao động mạnh, tại Hà Nội trên 10 m và trên sông Thái Bình tại Phả Lại trên 6 m.
Mùa lũ trên các sông miền Trung, từ Thanh Hoá đến Hà Tĩnh, diễn ra từ tháng 6 đến tháng 10 Lũ chủ yếu tập trung trong dòng chính của các sông do có hệ thống đê ngăn lũ, với biên độ dao động lên đến hơn 7 m.
Mùa lũ ở khu vực từ Quảng Bình đến Bình Thuận thường diễn ra từ tháng 9 đến tháng 12, với hệ thống sông Cả có chiều dài trên 9 m Các sông trong khu vực này ngắn, dốc và có khả năng lũ lên nhanh, xuống nhanh Hệ thống đê ngăn lũ ở đây thường thấp hoặc chưa được xây dựng, dẫn đến tình trạng nước lũ không chỉ chảy trong dòng chính mà còn tràn qua đồng bằng, với biên độ dao động lên đến trên 8 m.
Khu vực Tây Nguyên không có các hệ thống sông lớn và có lượng mưa trung bình hàng năm thấp, dẫn đến phạm vi ảnh hưởng hạn chế Thường xuyên xuất hiện lũ núi và lũ quét, với biên độ lũ tại cầu Đabla trên sông Đabla đạt mức 10m.
Tổng hợp thiệt hại do thiên tai gây ra
Trong 20 năm qua, mỗi năm trung bình thiên tai làm gần 400 người chết và mất tích, thiệt hại về kinh tế khoảng 1-1,5% GDP và đang có xu hướng gia tăng trong những năm gần đây (hình 1) Ngoài ra, thiên tai còn tác động đến môi trường, các hoạt động kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng, đồng thời ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của đất nước Trong đó, thiên tai gây thiệt hại nặng nề về người và tài sản là bão, lũ, ngập lụt và lũ quét, sạt lở đất chiếm 87,6% và 91% so với toàn bộ các loại hình thiên tai
Biểu đồ 1: Thiệt hại về người và tài sản do thiên tai, giai đoạn 1990-2019
Biểu đồ 2: So sánh thiệt hại về người và tài sản giữa các loại hình thiên tai
Thiệt hại do thiên tai trong 5 năm gần đây:
- Năm 2016: Thiên tai đã làm 264 người chết và mất tích (215 người chết do lũ, lũ quét, sạt lở đất; 04 người do bão; 45 người chết do lốc, sét, mưa đá),
Hậu quả thiên tai đã gây ra 431 người bị thương và thiệt hại nặng nề về cơ sở hạ tầng, với 5.431 nhà bị đổ, sập hoặc trôi, cùng 364.997 nhà bị ngập, hư hại hoặc tốc mái Diện tích lúa và hoa màu bị thiệt hại lên tới 828.661 ha, trong khi hàng triệu mét khối đất đá đã gây sạt lở, bồi lấp ảnh hưởng đến giao thông và thủy lợi Ngoài ra, 115 km đê, kè, 938 km kênh mương và 122 km bờ sông, bờ biển cũng bị sạt lở Tổng thiệt hại kinh tế ước tính khoảng 39.726 tỷ đồng, trong đó thiệt hại về nông nghiệp chiếm 25.100 tỷ đồng.
Năm 2017 chứng kiến nhiều thiên tai nghiêm trọng, gây thiệt hại lớn về người và tài sản, để lại hậu quả lâu dài mà phải mất nhiều năm mới có thể khắc phục, ảnh hưởng đáng kể đến tăng trưởng của nền kinh tế quốc dân.
Trong năm qua, thiên tai đã gây ra thiệt hại nặng nề với 386 người chết, trong đó bão số 12 chiếm 43 người, chủ yếu với 37 người tử vong Mưa lũ và ngập lụt đã làm 243 người thiệt mạng, trong khi lũ quét và sạt lở đất khiến 71 người mất Ngoài ra, các thiên tai khác đã làm 29 người chết Tổng thiệt hại về kinh tế ước tính lên tới khoảng 60.000 tỷ đồng, tăng 300% so với mức trung bình nhiều năm.
Nhiều tỉnh đang chịu thiệt hại nặng nề, ảnh hưởng nghiêm trọng đến kinh tế địa phương, với Khánh Hòa thiệt hại hơn 14.700 tỷ đồng, Hòa Bình hơn 2.820 tỷ đồng, Yên Bái hơn 1.599 tỷ đồng, Hà Tĩnh trên 7.485 tỷ đồng và Quảng Bình gần 8.000 tỷ đồng Tổng thiệt hại về nông nghiệp lên tới 34.751 tỷ đồng.
Năm 2018, thiên tai không xảy ra dồn dập và khốc liệt như năm 2017, nhưng vẫn ghi nhận nhiều hiện tượng thiên tai lớn và các yếu tố cực đoan, dị thường trên toàn quốc Cụ thể, đã có 16/21 hình thái thiên tai diễn ra, bao gồm 14 cơn bão và áp thấp nhiệt đới, 212 trận dông, lốc sét, cùng với 15 trận lũ, lũ quét và sạt lở đất lớn.
09 đợt gió mạnh trên biển; 04 đợt rét đậm, rét hại; 11 đợt nắng nóng, 23 đợt không khí lạnh; 30 đợt mưa lớn trên diện rộng; lũ thượng nguồn sông Cửu Long
Triều cường ở Nam Bộ đã đạt mức cao nhất kể từ năm 2011, gây ra nhiều thiệt hại nghiêm trọng, bao gồm sạt lở bờ sông và bờ biển tại đồng bằng sông Cửu Long và các tỉnh ven biển miền Trung Tổng thiệt hại về nông nghiệp ước tính lên đến 13.736 tỷ đồng.
Năm 2019, Việt Nam chứng kiến nhiều hiện tượng thời tiết cực đoan, bao gồm dông, lốc, sét và sạt lở đất tại các tỉnh miền núi phía Bắc và Thanh Hoá Bên cạnh đó, mưa lũ nghiêm trọng đã xảy ra ở Tây Nguyên và Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang, trong khi triều cường đạt mức cao kỷ lục trong lịch sử.
Trong tháng 6-7, khu vực miền Trung, đặc biệt là Cà Mau, đã phải đối mặt với hạn hán và nắng nóng nghiêm trọng Thiên tai đã gây ra thiệt hại nặng nề, khiến 78 người chết và mất tích do lốc, sét, lũ, lũ quét và sạt lở đất Tổng thiệt hại về nông nghiệp ước tính lên tới khoảng 3.183 tỷ đồng.
Trong 11 tháng đầu năm 2020, thiên tai đã gây ra 352 người chết và mất tích, cùng với thiệt hại tài sản ước tính khoảng 38.075 tỷ đồng, trong đó thiệt hại trong lĩnh vực nông nghiệp lên tới 15.551 tỷ đồng.
Ảnh hưởng của thiên tai và biến đổi khí hậu đến phát triển ngành nông nghiệp
Thiên tai và biến đổi khí hậu đang trở thành mối đe dọa thường trực đối với sự ổn định và phát triển bền vững của kinh tế - xã hội, là thách thức lớn nhất đối với nhân loại, đặc biệt trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp Việt Nam, đặc biệt là vùng đồng bằng sông Cửu Long, được đánh giá là một trong những quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề nhất từ thiên tai và biến đổi khí hậu Theo các kịch bản dự báo, vào cuối thế kỷ 21, tình hình sẽ trở nên nghiêm trọng hơn.
+ Nhiệt độ trung bình năm của nước ta tăng 2- 3 o C;
+ Tổng lượng mưa năm và lượng mưa mùa mưa tăng, trong khi đó lượng mưa mùa khô lại giảm;
+ Mực nước biển có thể dâng cao từ 75 – 100 cm so với thời kỳ 1980 –
Năm 1999, nếu mực nước dâng cao 100 cm, sẽ có 39% diện tích đồng bằng sông Cửu Long, hơn 10% diện tích đồng bằng sông Hồng và 2,5% diện tích các tỉnh ven biển bị ngập Trong đó, thành phố Hồ Chí Minh sẽ bị ngập hơn 20% diện tích, khoảng 10-12% dân số cả nước sẽ chịu ảnh hưởng trực tiếp, dẫn đến tổn thất khoảng 10% GDP.
Tác động của thiên tai và biến đổi khí hậu đối với Việt Nam đang ở mức độ nghiêm trọng, gây ra nhiều rủi ro cho mục tiêu xóa đói giảm nghèo và sự phát triển bền vững của quốc gia.
Biến đổi khí hậu đang đe dọa nghiêm trọng đến an ninh lương thực và sự phát triển nông nghiệp, đặc biệt là việc thu hẹp diện tích đất nông nghiệp Các vùng đất thấp như đồng bằng ven biển, đồng bằng sông Hồng và sông Cửu Long đang phải đối mặt với tình trạng ngập mặn do nước biển dâng, ảnh hưởng lớn đến sinh trưởng và năng suất cây trồng, cũng như thời vụ gieo trồng Hơn nữa, biến đổi khí hậu còn làm tăng nguy cơ lây lan sâu bệnh, gây thêm khó khăn cho nông dân và sản xuất nông nghiệp.
Biến đổi khí hậu đang gia tăng tần suất và mức độ khốc liệt của thiên tai, ảnh hưởng nghiêm trọng đến các ngành kinh tế Nhiệt độ tăng cao, mưa và lũ lụt cực đoan, bão mạnh và siêu bão bất thường, cùng với mực nước biển dâng, dẫn đến ngập lụt, sạt lở đất, và phá hủy cơ sở hạ tầng Thiệt hại không chỉ ảnh hưởng đến nông nghiệp mà còn gây tổn thất lớn cho các cơ sở hạ tầng phòng chống thiên tai, thủy lợi, thủy sản và các lĩnh vực khác.
Biến đổi khí hậu đã dẫn đến những diễn biến phức tạp của thiên tai trong những năm qua, gây ra tổn thất lớn về người và tài sản, cũng như ảnh hưởng xấu đến hạ tầng kinh tế, văn hóa và xã hội Theo thống kê trong 30 năm qua, thiên tai đã làm chết và mất tích khoảng 300 người mỗi năm, hàng nghìn người bị thương, với thiệt hại vật chất trung bình ước tính gần 1,5% GDP, trong đó thiệt hại trong lĩnh vực nông nghiệp chiếm từ 50 đến 70% tổng thiệt hại.
Xâm nhập mặn ở khu vực ven biển đang làm thu hẹp diện tích đất nông nghiệp, đặc biệt là tại vùng Đồng Bằng Sông Hồng (ĐBSH) và Đồng Bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL) do độ cao thấp hơn mực nước biển Hiện tượng này dẫn đến việc giảm diện tích đất canh tác, làm hệ số sử dụng đất giảm từ 3-4 lần/năm xuống còn 1-1,5 lần/năm Nếu mực nước biển dâng thêm 1m, khoảng 1,77 triệu ha đất sẽ bị nhiễm mặn, chiếm 45% diện tích đất ở ĐBSCL, và ước tính có khoảng 85% người dân trong vùng này cần được hỗ trợ về nông nghiệp.
Nhiệt độ tăng và hạn hán đang tác động tiêu cực đến sự phân bố cây trồng, đặc biệt là làm giảm năng suất Cụ thể, năng suất lúa vụ Xuân có xu hướng giảm mạnh hơn so với vụ mùa, trong khi năng suất ngô vụ Đông tăng ở Đồng bằng Bắc Bộ nhưng lại giảm ở Trung Bộ và Nam Bộ.
Đánh bắt và nuôi trồng thủy sản là những sinh kế chủ yếu dựa vào nguồn nước và sự phong phú của tài nguyên ven biển, đồng thời là những lĩnh vực nhạy cảm và dễ bị ảnh hưởng bởi biến đổi khí hậu.
PHÁT TRIỂN NGÀNH NÔNG NGHIỆ VÀ CƠ SỞ HẠ TẦNG
Chăn nuôi
Thực hiện Chiến lược phát triển chăn nuôi đến năm 2020 (Quyết định số 10/2008/QĐ-TTg ngày 16/01/2008) và tái cơ cấu ngành (Quyết định số 984/QĐ-
Ngành chăn nuôi Việt Nam đã có những chuyển biến mạnh mẽ từ năm 2014, chuyển từ quy mô nhỏ sang chăn nuôi công nghiệp lớn và áp dụng công nghệ tiên tiến Đến cuối năm 2020, tổng đàn bò đạt 5,95 triệu con, đàn lợn 27,25 triệu con, đàn gia cầm 496,5 triệu con, với sản lượng thịt hơi đạt 5,3 triệu tấn, trứng khoảng 14,15 tỷ quả, sữa trên 1,15 triệu tấn và mật ong 27,5 nghìn tấn Sau 5 năm, ngành chăn nuôi đã có nhiều nỗ lực trong việc tái cấu trúc đối tượng vật nuôi, xác định ưu tiên sản phẩm chính từ lợn, gà, bò thịt và bò sữa, cùng với sự chuyển biến tích cực trong tổ chức sản xuất và chăn nuôi theo chuỗi, hữu cơ Sản xuất thức ăn chăn nuôi công nghiệp cũng tăng liên tục, giúp đảm bảo nguồn nguyên liệu cho ngành chăn nuôi, đồng thời đạt được mục tiêu tăng trưởng giá trị sản xuất.
Mặc dù có những nỗ lực, giá trị tăng thêm trong ngành chăn nuôi vẫn còn thấp và chưa đạt mục tiêu đề ra Sản lượng thịt hơi các loại chỉ đạt 5,7 triệu tấn vào năm 2020, thấp hơn mục tiêu 6,3 triệu tấn Một trong những nguyên nhân chính dẫn đến việc không đạt được mục tiêu này là ảnh hưởng của thiên tai, đặc biệt là thiệt hại do mưa lũ hàng năm.
2017 và tháng 10/2020 và đợt rét hại đầu năm 2020 đã gây thiệt hại đáng kể về gia súc, gia cầm.
Trồng trọt
Giai đoạn 2016-2020, cơ cấu giá trị sản xuất trồng trọt đã có sự chuyển biến tích cực, với tỷ trọng sản phẩm có lợi thế tăng lên và sản phẩm hiệu quả thấp giảm mạnh Cụ thể, nhóm cây lương thực giảm từ 47,5% xuống 40,9% vào năm 2019; nhóm cây công nghiệp hàng năm giảm từ 5,1% xuống 3,6%; trong khi rau và nhóm cây ăn quả lần lượt tăng từ 12,1% lên 13,0% và từ 11,1% lên 13,9% Nhóm cây công nghiệp lâu năm cũng tăng từ 17,4% lên 18,9% Tuy nhiên, tốc độ tăng giá trị sản xuất trồng trọt trong giai đoạn này chỉ đạt 1,93%/năm.
Biến đổi khí hậu đang gây ra các hiện tượng thiên tai cực đoan, ảnh hưởng nghiêm trọng đến ngành nông nghiệp Để ứng phó, Bộ và các địa phương đã rà soát quy hoạch và cơ cấu cây trồng chủ lực, đồng thời chuyển đổi mạnh mẽ cơ cấu cây trồng phù hợp với lợi thế của từng vùng Việc điều chỉnh thời vụ và sử dụng giống ngắn ngày đã giúp giảm thiểu thiệt hại, như việc chuyển dịch vụ đông xuân năm 2020 đã tránh được hạn mặn.
Giai đoạn 2016-2020, Việt Nam đã chuyển đổi 464 ngàn ha đất lúa kém hiệu quả sang trồng cây khác hoặc nuôi trồng thủy sản, dẫn đến diện tích gieo trồng lúa giảm mạnh Tuy nhiên, giá trị sản xuất lúa gạo vẫn tăng 0,3% mỗi năm và năng suất tăng 2%, đạt mức cao hơn 1,3 tạ/ha vào năm 2020 so với năm 2015 Điều này đã giúp đảm bảo an ninh lương thực trong nước và xuất khẩu ổn định từ 5-6 triệu tấn gạo mỗi năm.
* Kết quả thực hiện cơ cấu lại của một số cây trồng chủ lực
Diện tích cao su tại Việt Nam đã giảm trung bình 1,8% mỗi năm, với tổng diện tích đạt 941,3 ngàn ha vào năm 2019 và năng suất mủ đạt 16,7 tạ/ha Dù vậy, khối lượng xuất khẩu cao su và các sản phẩm từ cao su trong năm 2019 vẫn đạt 3 tỷ USD, tăng trung bình 7,8% về khối lượng và 0,6% về giá trị so với năm trước.
Cà phê đóng góp 8,4% cho tăng trưởng trồng trọt giai đoạn 2013-2019 Năm 2019, diện tích trồng cà phê đạt 688 ngàn ha với năng suất 27 tạ/ha, sản lượng cà phê nhân đạt 1,68 triệu tấn, tăng 357 ngàn tấn so với năm 2013 Xuất khẩu cà phê đạt 2,74 tỷ USD, giúp Việt Nam trở thành nước xuất khẩu cà phê lớn thứ hai thế giới.
Trong năm 2019, ngành trồng trọt ghi nhận sự đóng góp của cây điều với mức tăng trưởng 0,13% Diện tích trồng điều đạt 295 nghìn ha, năng suất đạt 10,3 tạ/ha, sản lượng đạt 283,3 ngàn tấn, tăng 7,8 ngàn tấn so với năm 2013 Cây điều cung cấp khoảng 40% tổng nguyên liệu cho ngành chế biến điều tại Việt Nam, với xuất khẩu đạt 3,29 tỷ USD, tăng 12,3% so với năm trước.
Hồ tiêu đóng góp 6,32% vào tăng trưởng trồng trọt giai đoạn 2013-2019 Đến năm 2019, diện tích trồng hồ tiêu đạt 140,2 ngàn ha với sản lượng 264,8 ngàn tấn, và giá trị xuất khẩu đạt 715 ngàn USD Việt Nam đã trở thành quốc gia dẫn đầu thế giới về sản xuất và xuất khẩu hồ tiêu, xuất khẩu sang hơn 90 quốc gia, trong đó các thị trường chính bao gồm Mỹ, Đức, Hà Lan, Anh và Ấn Độ.
Diện tích trồng chè tại Việt Nam ổn định ở mức 120-130 ngàn ha, với năng suất và chất lượng ngày càng tăng Năm 2019, năng suất đạt 94,4 tạ/ha, sản lượng chè đạt 1 triệu tấn Xuất khẩu chè mang về 235 triệu USD, tăng trưởng trung bình 0,4% mỗi năm.
1 Năm 2019, diện tích gieo trồng lúa đạt 7,46 triệu ha, giảm trên 430 ngàn ha
Giá trị sản xuất cây ăn quả đã đóng góp 30,5% cho tăng trưởng trồng trọt giai đoạn 2013-2019 Đến năm 2019, tổng diện tích cây ăn quả cả nước đạt 1,06 triệu ha, tăng 360 ngàn ha so với năm 2013, với ĐBSCL là vùng sản xuất chủ lực lớn nhất Năng suất bình quân của các loại cây ăn quả hiện nay đạt hơn 10 tấn/ha, tổng sản lượng quả khoảng 12,8 triệu tấn, tăng 6 triệu tấn so với năm 2013 Một số loại quả như thanh long, vải, chuối, cây có múi (bưởi, cam), dứa, xoài, nhãn đã hình thành vùng sản xuất hàng hóa quy mô lớn.
Năm 2019, kim ngạch xuất khẩu rau quả của Việt Nam đạt 3,75 tỷ USD, đứng đầu trong các mặt hàng nông sản với mức tăng trưởng bình quân 23,1% mỗi năm Sản phẩm rau quả Việt Nam đã có mặt tại gần 60 thị trường toàn cầu, trong đó các loại trái cây như vải thiều, chôm chôm, thanh long, xoài và nhãn đã thâm nhập thành công vào những thị trường khó tính như Mỹ, Australia, Nhật Bản và Hàn Quốc.
Năm 2019, diện tích trồng sắn đạt 519,4 ngàn ha với năng suất 194,6 tạ/ha, tổng sản lượng đạt 10,1 triệu tấn Khối lượng xuất khẩu sắn và các sản phẩm từ sắn đạt 973 triệu USD, tuy nhiên, đã giảm bình quân 2% mỗi năm trong giai đoạn 2013 - 2019.
Sản xuất rau trong những năm qua đã ghi nhận sự tăng trưởng liên tục về diện tích, năng suất và sản lượng, với sự đa dạng về chủng loại Cụ thể, vào năm 2019, diện tích rau đạt 971,3 ngàn ha, tăng 124 ngàn ha so với năm 2013, trong khi sản lượng đạt 17,7 triệu tấn, tăng 3,1 triệu tấn so với năm 2013, với mức tăng trưởng bình quân 3,3% mỗi năm Giá trị sản xuất rau đã đóng góp 17,7% vào sự tăng trưởng của ngành trồng trọt trong giai đoạn 2013-2019.
Trên toàn quốc, nhiều diện tích sản xuất rau đã được hình thành, áp dụng thực hành nông nghiệp tốt (GAP) nhằm tổ chức sản xuất, sơ chế và tiêu thụ rau an toàn một cách hiệu quả.
Ngành trồng trọt đã đạt được nhiều kết quả tích cực, nhưng vẫn tồn tại một số vấn đề cần khắc phục Đặc biệt, việc giảm thiểu thiệt hại do thiên tai là nhiệm vụ quan trọng, bao gồm xây dựng kế hoạch mùa vụ thích ứng với biến đổi khí hậu, chuyển đổi cơ cấu cây trồng và ứng dụng khoa học công nghệ Những biện pháp này cần được lồng ghép vào Kế hoạch phòng chống thiên tai của Bộ giai đoạn 2021-2025 để nâng cao hiệu quả và bền vững cho ngành trồng trọt.
Về phòng chống thiên tai
Công tác phòng chống thiên tai, đặc biệt là trong lĩnh vực nông nghiệp bền vững, luôn nhận được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và Chính phủ.
Sửa đổi, bổ sung Luật Phòng chống thiên tai cùng các văn bản pháp luật liên quan nhằm quy định rõ ràng về lực lượng phòng chống thiên tai tại cơ sở Điều này yêu cầu đảm bảo an toàn trong công tác phòng chống thiên tai, đồng thời kiện toàn bộ máy phòng chống thiên tai ở cả trung ương và địa phương.
Ngày 03/7/2017, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 26/2017/QĐ-TTg, quy định rõ chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của Tổng cục Phòng chống thiên tai thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Ngoài ra, các Nghị quyết của Chính phủ như 76/NQ-CP ngày 18/06/2018 về công tác phòng, chống thiên tai và 120/NQ-CP ngày 17/11/2018 về phát triển bền vững đồng bằng sông Cửu Long trong bối cảnh biến đổi khí hậu cũng được ban hành nhằm nâng cao hiệu quả quản lý và ứng phó với thiên tai.
Ban Bí thư đã phát hành Chỉ thị số 42-CT/TW vào ngày 24/3/2020, nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phòng ngừa, ứng phó và khắc phục hậu quả thiên tai Chỉ thị này nhấn mạnh tầm quan trọng của việc nâng cao hiệu quả quản lý và bảo vệ an toàn cho cộng đồng trước các thảm họa tự nhiên.
Qua đó đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận:
Nhận thức của chính quyền và cộng đồng về công tác phòng chống thiên tai đã có sự chuyển biến tích cực, chuyển từ cách ứng phó bị động sang chủ động phòng ngừa Quản lý rủi ro thiên tai ngày càng được chú trọng, với mục tiêu phòng ngừa được đặt lên hàng đầu.
Phòng, tránh bão và áp thấp nhiệt đới trên biển và ven bờ đã đạt được kết quả lớn, với số lượng tàu cá hoạt động nhiều và phạm vi rộng Mặc dù bão ngày càng mạnh và cực đoan, nhưng thiệt hại về người gần như không có, và thiệt hại về tài sản cũng được giảm thiểu đáng kể.
Phòng chống hạn hán và xâm nhập mặn đã được kiểm soát hiệu quả nhờ vào việc xây dựng và vận hành các hồ chứa và công trình cống kiểm soát mặn.
Phòng chống lũ ở đồng bằng sông Hồng, sông Cả, sông Mã thông qua hệ thống đê điều và hồ chứa cắt lũ đã nâng cao an toàn cho dân sinh và kinh tế Tại miền Trung, Tây Nguyên và đồng bằng sông Cửu Long, công tác phòng chống lũ đã chuyển biến rõ rệt, tập trung vào việc chủ động phòng ngừa, giảm nhẹ rủi ro và phát triển bền vững kinh tế - xã hội.
Trong giai đoạn 2016 – 2020, thiên tai đã trở nên đa dạng và nghiêm trọng hơn với 20 loại hình khác nhau xuất hiện Nổi bật là số lượng và cường độ bão đạt kỷ lục vào năm 2017, cùng với hạn hán xâm nhập mặn năm 2016, được xem là khốc liệt nhất trong vòng 90 năm qua.
Trong những năm gần đây, thiên tai đã ảnh hưởng tiêu cực đến sản xuất nông nghiệp, dẫn đến tăng trưởng âm trong ngành nông nghiệp vào 6 tháng đầu năm 2016 Mưa lớn kéo dài 5 tháng ở Bắc Bộ năm 2017 và sự xuất hiện của 08 cơn bão cùng 01 áp thấp nhiệt đới từ giữa tháng 9 đến tháng 11 năm 2020 đã gây ra mưa lũ lịch sử tại nhiều triền sông miền Trung Tuy nhiên, thiệt hại do thiên tai gây ra trong 5 năm qua đã giảm đáng kể so với 5 năm trước đó.
+ Về người: Số người chết và mất tích trong 5 năm gần đây là 1.359 người, trung bình 244 người/năm, giảm 47% so với bình quân 5 năm trước (509 người);
Tổng hợp thiệt hại do thiên tai giai đoạn từ 2016 đến tháng 12/2020
STT Chỉ tiêu thiệt hại Đơn vị tính
1 Thiệt hại về người (chết và mất tính)
1.1 Chết và mất tích người 264 386 224 133 352
2.1 Thiệt hại hoàn toàn cái 5.431 8166 1.987 1319 3705
2.2 Thiệt hại một phần cái 364.997 588.139 103.529 79459 325588
2.3 Di dời khẩn cấp cái - 19.527 9.469 4027 -
3 Thiệt hại về Nông, Lâm, Diêm nghiệp
3.1 Lúa và hoa màu ha 691.485 363.890 267.801 101.042 182.771
3.2 Cây an quả, cây trồng hàng năm và lâu năm ha 242.827 169.640 42.352 22.865 88.006
4 Thiệt hại về chăn nuôi
5 Thiệt hại về thủy lợi
5.2 Kênh mương bị hư hỏng m 937.858 690.635 464.582 196.245 621.973
5.7 Bờ sông, bờ biển bị sạt lở m 121.885 177.002 88.905 56.231 232.380
6 Đường giao thông bị sạt lở, hư hỏng m 2.014.679 1.586.223 717.786 397.326 1.063.742
7 Thiệt hại về thủy sản
7.2 Lồng, bè nuôi thủy, hải sản các loại 100m3/ lồng 3.016 76.490 1.075 962 1.350
7.3 Phương tiện khai thác thủy, hải sản chiếc 1.459 3.682 107 243 529
8 Thiệt hại về thông tin liên lạc
8.1 Cột ăng ten, treo cáp bị đổ, gãy cái 12.788 2.953 390 81 377
9 Thiệt hại về công nghiệp
9.1 Cột điện gãy đổ cái 32.893 18.207 1.639 760 4.214
9.2 Nhà xưởng, xí nghiệp, công trình công nghiệp cái 2.769 249 56 7 260
10 Thiệt hại về nước sạch và vệ sinh môi trường
10.1 Diện tích vùng dân cư bị ô nhiễm ha 416.494 - 6 8 102.684
STT Chỉ tiêu thiệt hại Đơn vị tính
10.2 Số hộ thiếu nước sạch sử dụng hộ 545.011 - 8.120 1.764 240.743 ƯỚC TÍNH TỔNG THIỆT HẠI BẰNG TIỀN Tỷ đồng 39.726 59.960 16.162 6.863 38.075
(giá trị thiệt hại quy đổi bằng tiền được ước tính)
Trong giai đoạn 2016-2020, thiệt hại vật chất ước tính khoảng 688 triệu USD mỗi năm, giảm 29% so với giai đoạn 2011-2015, khi thiệt hại trung bình là 967 triệu USD/năm Đặc biệt, thiệt hại trong lĩnh vực nông nghiệp trong cùng giai đoạn này đạt 92.322 tỷ đồng.
Tổng hợp thiệt hại do thiên tai đối với ngành Nông nghiệp giai đoạn từ
TT Chỉ tiêu thiệt hại Đơn vị tính
1 THIỆT HẠI VỀ NÔNG, LÂM,
1.3 Diện tích rau màu, hoa màu ha 150.459 130.676 61.229 21.017 50.302 1.4 Diện tích cây trồng lâu năm ha 80.428 40.921 5.280 3.337 55.856 1.5 Diện tích cây trồng hàng năm ha 81.189 97.839 30.607 14.762 21.439 1.6 Diện tích cây ăn quả tập trung ha 81.211 30.881 6.465 4.215 10.710 1.7 Diện tích rừng hiện có ha 56.306 132.395 925 3.801 122.934
2 THIỆT HẠI VỀ CHĂN NUÔI tỷ đồng 793 756 320 54 693
2.1 Gia súc bị chết, cuốn trôi con 75.874 69.757 30.228 3.082 40.671 2.2 Gia cầm bị chết, cuốn trôi con 1.860.000 1.976.339 781.643 296.073 3.677.954
3 THIỆT HẠI VỀ THỦY LỢI tỷ đồng 2.010 4.362 8.358 642 3399
3.1 Đê từ cấp III đến cấp đặc biệt
- Chiều dài bị sạt, nứt, vỡ m 7.112 11.306 1.842 100 2.000
3.2 Đê từ cấp IV trở xuống, đê bối, bờ bao
- Chiều dài bị sạt, nứt, vỡ m 43.104 105.051 425.718 31.204 167.322
- Khối lượng đá, bê tông m3 283 - - - -
- Chiều dài bị sạt lở, hư hỏng m 64.866 160.547 120.210 7.520 46.687
- Khối lượng đất, đá, bê tông m3 312.316 1.257 6.554 1.746 -
3.4 Kênh mương bị sạt trôi, hư hỏng
- Khối lượng đá, bê tông m3 68.410 23.710 8.190 12.684 -
- Cống bị hư hỏng cái 905 414 579 80 677
- Đập bị sạt lở, hư hỏng cái 471 251 365 282 475
- Kiên cố bị hư hỏng cái 154 73 35 6 304
- Bán kiên cố bị hư hỏng cái 97 - - 11 11
TT Chỉ tiêu thiệt hại Đơn vị tính
3.8 Công trình thủy lợi khác bị vỡ, trôi và hư hỏng cái 967 1.095 447 269 33
3.9 Bờ biển, bờ sông, suối bị sạt
- Khối lượng đá, bê tông m3 2.633 134.018 9.000 - -
4 THIỆT HẠI VỀ THỦY SẢN tỷ đồng 989 11.775 225 182 313
4.1 Diện tích nuôi cá truyền thống ha 27.178 48.085 113.032 6.217 19.109
4.2 Diện tích nuôi cá da trơn ha 6 1.504 27 - -
4.3 Diện tích nuôi tôm ha 6.194 8.180 1.611 69 2.900
4.4 Diện tích nuôi ngao ha 4.675 2.468 70 102 228
4.5 Các loại thủy, hải sản khác ha 71.288 154 - 197 200
4.6 Lồng, bè nuôi thủy, hải sản các loại 100m3/lồng 3.016 76.490 1.075 962 1.350
4.7 Phương tiện khai thác thủy, hải sản chiếc 1.459 3.682 - 108 529
TỔNG THIỆT HẠI BẰNG TIỀN tỷ đồng 25.100 34.751 13.736 3.183 15.551
(giá trị thiệt hại quy đổi bằng tiền được ước tính)
Về thuỷ lợi
Lần đầu tiên, Luật Thuỷ lợi đã được ban hành, tạo nền tảng cho việc tổ chức và thực hiện các hoạt động thuỷ lợi nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển trong sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản và cấp nước sinh hoạt.
- Năng lực tưới, tiêu của các công trình thủy lợi: Trong 5 năm 2016 - 2020, các công trình thủy lợi đã tăng năng lực tưới thêm trên 97 nghìn ha (năm 2015:
Diện tích đất nông nghiệp đã tăng thêm 127 nghìn ha, đạt tổng cộng 35 nghìn ha, trong khi diện tích đảm bảo nước gieo cấy lúa đạt 7,5 triệu ha, đáp ứng 98% diện tích gieo trồng trong năm 2015.
Đến năm 2020, 177 hồ chứa thủy lợi đã được sửa chữa và nâng cấp để đảm bảo an toàn, trong đó 93 hồ sử dụng nguồn vốn vay ODA và 84 hồ từ ngân sách trung ương Hiện tại, công tác sửa chữa, nâng cấp cho 250 hồ chứa khác đang được thi công và dự kiến sẽ hoàn thành vào năm 2021.
Năm 2020, các dự án thủy lợi trọng điểm sẽ được hoàn thành hoặc khởi công nhằm phục vụ sản xuất nông nghiệp, đóng góp quan trọng vào sự phát triển của quốc gia và các vùng, địa phương Những dự án này bao gồm Hồ Bản Lải tại Lạng Sơn, công trình thủy lợi Ngàn Trươi-Cẩm Trang ở Hà Tĩnh, và hồ Bản Mồng tại Nghệ An.
Mỹ Lâm (Phú Yên), Hệ thống thủy lợi Tân Mỹ (Ninh Thuận), Hệ thống thủy lợi
Tà Pao ở Bình Thuận, hồ chứa nước Krông Pách Thượng và hồ EaHleo1 tại Đắk Lắk, hồ Ia Mơr ở Gia Lai, cống âu Ninh Quới tại Bạc Liêu, đập Trà Sư Tha La ở An Giang, HTTL Bắc Bến Tre, kênh Mây Phốp - Ngã Hậu ở Trà Vinh, cùng công Cái Lớn - Cái Bé ở Kiên Giang là những công trình thủy lợi quan trọng, góp phần vào phát triển nông nghiệp và quản lý nguồn nước tại các tỉnh miền Nam Việt Nam.
Thủy sản
Cơ cấu lại lĩnh vực thủy sản đã mang lại sự chuyển dịch tích cực trong ngành và cơ cấu sản phẩm, với tổng sản lượng thủy sản đạt 8,26 triệu tấn vào năm 2019, vượt mục tiêu đề ra cho năm 2020 Giá trị sản xuất trên 1 ha đất nuôi trồng thủy sản năm 2019 đạt 234,2 triệu đồng, gấp 1,3 lần so với năm trước.
Từ năm 2015, hệ thống dịch vụ hậu cần đã được đầu tư mạnh mẽ, dẫn đến việc xây dựng 82 cảng cá hoạt động tại 27 tỉnh, thành phố ven biển, đạt 65% so với quy hoạch Trong số đó, có 25 cảng cá loại I và 57 cảng cá loại II Năng lực chứa của các cảng cá và bến cá đã được nâng cao, với tổng lượng hàng hóa khoảng 1,8 triệu tấn/ngày và khoảng 9,2 nghìn lượt tàu thuyền ra vào mỗi ngày.
Trong 5 năm vừa qua, công suất cảng cá, bến cá duy trì tăng thêm 300 nghìn tàu thuyền/năm Công suất các khu neo đậu, tránh bão tăng thêm hàng năm cũng duy trì số lượng 67,5 nghìn trong 4 năm 2016 – 2019 và ước tính giảm nhẹ xuống 60 nghìn tàu thuyền trong năm 2020 Nguyên nhân do ở nhiều địa phương chưa triển khai được dự án xây dựng khu neo đậu, trú bão do thiếu hụt đầu tư (Quảng Ninh, Bà Rịa – Vũng Tàu) hoặc cắt giảm đầu tư công tại công trình mở rộng khu neo đậu tránh trú bão Qua 5 năm, tổng công suất cảng cá, bến cá tăng thêm toàn giai doạn đạt 1.500 nghìn tàu thuyền, thấp hơn chỉ tiêu kế hoạch (1.535 nghìn) nhưng tổng công suất các khu neo đậu, tránh nú bão tăng thêm vượt mục tiêu kế hoạch (330 nghìn tàu thuyền, cao hơn kế hoạch là 297 nghìn)
Hệ thống hạ tầng nghề cá đã được đầu tư và nâng cấp để phục vụ cho hoạt động khai thác và nuôi trồng Các khu neo đậu tránh trú bão kết hợp với dịch vụ hậu cần đã phát huy hiệu quả, góp phần phát triển kinh tế, an sinh xã hội và bảo vệ tài sản, tính mạng của ngư dân Đến năm 2020, cả nước có khoảng 89 khu neo đậu tránh trú bão cho tàu cá tại 23 tỉnh, với sức chứa tối đa 42.464 tàu cá có công suất lớn nhất lên đến 1.000 CV Hiện tại, có 83 cảng cá được đầu tư nâng cấp và mở rộng, với tổng lượng hàng hóa qua cảng thiết kế mỗi năm khoảng 1,8 triệu tấn và 9.298 lượt tàu.
Lâm nghiệp
Sau 5 năm thực hiện Chương trình mục tiêu phát triển Lâm nghiệp bền vững giai đoạn 2016 - 2020 (Quyết định số 886/QĐ-TTg ngày 16/6/2017) và Đề án tái cơ cấu ngành (Quyết định số 1565/QĐ-BNN-TCLN ngày 08/7/2013), ngành lâm nghiệp tiếp tục phát huy kết quả đạt được, khắc phục những tồn tại hạn chế để quản lý, bảo vệ phát triển và sử dụng hiệu quả bền vững diện tích rằng hiện có và quỹ đất được quy hoạch cho phát triển lâm nghiệp, tăng tỷ lệ che phủ rừng lên 42% vào năm 2020; tiếp tục chuyển đổi mạn m hình tăng trưởng
Nhằm nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh trong lĩnh vực lâm nghiệp, cần phát triển toàn diện theo chuỗi giá trị, đảm bảo tính bền vững về kinh tế, xã hội và môi trường Công tác bảo vệ, phòng cháy và chữa cháy rừng đã có nhiều tiến bộ, đồng thời tình trạng vi phạm pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng đã giảm rõ rệt so với trước đây.
Giá trị xuất khẩu gỗ và lâm sản của Việt Nam đã tăng từ 7,1 tỷ USD năm 2015 lên 11,38 tỷ USD năm 2019, và ước đạt 12,5 tỷ USD vào năm 2020, đạt 150% so với mục tiêu của Chương trình Tổng diện tích rừng có chứng chỉ quản lý bền vững hiện là 278.974ha, trải dài trên 24 địa phương, và dự kiến sẽ đạt khoảng 280.000ha vào cuối năm 2020.
- Tỷ lệ che phủ rừng: tăng đều qua các năm, từ 39,7% năm 2011 lên
Tỷ lệ đạt được từ 40,84% năm 2015 đã tăng lên 41,89% vào năm 2019, với mức tăng trung bình 0,2% mỗi năm Đến năm 2020, tỷ lệ này đã hoàn thành kế hoạch đề ra là 42%, đáp ứng chỉ tiêu nhiệm vụ giao và chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng.
Giai đoạn 2016 – 2020, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã triển khai hiệu quả kế hoạch đầu tư công cho 27 dự án hạ tầng nông lâm nghiệp, với dự kiến hoàn thành 84 công trình và dự án trong năm.