GIỚI THIỆU
Giới thiệu
Việt Nam, với khí hậu nhiệt đới gió mùa và tài nguyên thiên nhiên phong phú, sở hữu nhiều sông ngòi và địa hình đa dạng, đã tạo điều kiện thuận lợi cho nghề nuôi cá nước ngọt phát triển Diện tích nuôi cá ngày càng mở rộng với nhiều hình thức nuôi phong phú, trong đó một số loài đã được nuôi thâm canh với quy mô ngày càng lớn (Phạm Anh Tuấn, 2007).
Cá rô phi đỏ là loài cá dễ nuôi, có tốc độ tăng trưởng nhanh và được thị trường trong và ngoài nước ưa chuộng, theo Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Tỉnh Thừa Thiên Huế (2014) Loài cá này nằm trong danh mục mặt hàng xuất khẩu chủ lực giai đoạn 2015-2020, theo Quyết định 332/QĐ - TTg ngày 3/3/2011.
Hiện nay, sản xuất giống và nuôi cá rô phi đỏ đang phát triển mạnh mẽ, tuy nhiên, vấn đề khẩu phần ăn và giá trị dinh dưỡng trong giai đoạn ương vẫn là mối quan tâm lớn của nhiều nhà sản xuất Để nâng cao hiệu quả sản xuất giống, nghiên cứu “Ảnh hưởng của thức ăn và khẩu phần ăn lên một số chỉ tiêu tăng trưởng và tỷ lệ sống của cá rô phi đỏ (Oreochromis sp.) giai đoạn từ bột lên giống” được thực hiện nhằm tìm ra thức ăn và khẩu phần phù hợp.
Mục tiêu nghiên cứu
Xác định hàm lượng đạm trong thức ăn và khẩu phần ăn hợp lý là yếu tố quan trọng cho sự tăng trưởng và tỷ lệ sống của cá rô phi đỏ (Oreochromis sp.) trong giai đoạn từ bột lên giống Việc cung cấp chế độ dinh dưỡng phù hợp giúp tối ưu hóa sức khỏe và phát triển của cá, từ đó nâng cao hiệu quả nuôi trồng thủy sản.
Góp phần bổ sung thêm một số thông tin về kỹ thuật để ương cá trong giai đoạn từ bột lên giống.
Nội dung nghiên cứu
Xác định một số chỉ tiêu môi trường như nhiệt độ, pH trong hệ thống thí nghiệm
Nghiên cứu này so sánh ảnh hưởng của các loại thức ăn có hàm lượng đạm khác nhau đến sự tăng trưởng và tỷ lệ sống của cá rô phi đỏ (Oreochromis sp.) trong giai đoạn từ bột lên hương Kết quả cho thấy rằng hàm lượng đạm trong thức ăn có tác động đáng kể đến sự phát triển và sức sống của cá, từ đó cung cấp thông tin hữu ích cho việc nuôi trồng và quản lý cá rô phi đỏ hiệu quả hơn.
So sánh ảnh hưởng của khẩu phần thức ăn lên tăng trưởng và tỷ lệ sống của cá rô phi đỏ (Oreochromis sp.) giai đoạn từ hương lên giống
LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU
Một số đặc điểm sinh học của cá rô phi
Cá rô phi, có nguồn gốc từ Châu Phi, lần đầu tiên được nuôi ở Kenya vào năm 1924 và sau đó đã lan rộng ra nhiều quốc gia ở Châu Phi cũng như trên toàn thế giới, chủ yếu ở các vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới Trong vài thập kỷ gần đây, nuôi cá rô phi đã phát triển mạnh mẽ thành một ngành công nghiệp quy mô lớn, mang lại sản lượng thương phẩm cao và hiệu quả kinh tế tốt Rô phi đỏ (Oreochromis sp.) được lai tạo từ cá bố có đột biến màu đỏ của loài O.mossambicus và cá mẹ thuộc giống Oreochromis khác, tất cả đều được gọi chung là Red Tilapia.
Theo Villegas (1990), cá rô phi đỏ được phân loại như sau:
Hình 2.1 Hình thái bên ngoài của cá rô phi đỏ (Oreochromis sp.)
Cá rô phi phát triển mạnh mẽ trong khoảng nhiệt độ từ 20-31 độ C và pH tối ưu từ 6,5-8,5 Chúng có khả năng sinh sống cả trong môi trường nước ngọt và nước mặn, với độ muối lên đến 32 ‰.
Cá rô phi đỏ có khả năng sống ở mọi tầng nước, nhưng tầng giữa là môi trường lý tưởng nhất cho sự sinh trưởng và phát triển của chúng.
Cá bột sau 3-5 ngày tuổi có thể bắt đầu ăn các loại phiêu sinh động vật nhỏ như Moina, Daphnia và Cyclops Đến 20 ngày tuổi, cá có chế độ dinh dưỡng tương tự như cá trưởng thành, chủ yếu ăn thực vật thủy sinh và mùn bã hữu cơ.
Võ Văn Tuấn, 2005) Trong điều kiện ao nuôi, cá có thể ăn thức ăn tự chế và thức ăn công nghiệp (Đoàn Khắc Độ, 2008)
Cá rô phi đỏ là loài có tốc độ tăng trưởng nhanh, với trọng lượng đạt 2-3 g/con sau 1 tháng nuôi và 10-12 g/con sau 2 tháng Sau 5-6 tháng nuôi, cá đực có thể đạt 200-250 g/con, trong khi cá cái chỉ đạt 150-200 g/con (Dương Nhựt Long, 2003).
Theo Ngô Trọng Lư và Thái Bá Hồ (2003), sau 12 tháng nuôi, cá có thể đạt trọng lượng từ 0,5-0,6 kg/con, và sau năm thứ hai, trọng lượng có thể đạt 0,9-1,0 kg/con Tốc độ tăng trọng của cá trong suốt chu kỳ nuôi có thể dao động từ 3,2-4,0 g/ngày.
Mùa vụ sinh sản: Cá rô phi đẻ quanh năm, mùa vụ chính từ tháng 5 đến tháng 10 (Nguyễn Văn Hữu và Ngô Quang Luận, 2005)
Cá rô phi đạt độ thành thục sinh dục rất sớm, bắt đầu sinh sản chỉ sau 3-4 tháng sau khi nở, với kích thước tối thiểu khoảng 40g Thời gian tái thành thục của cá khoảng 1-2 tháng (Nguyễn Văn Hữu và Ngô Quang Luận, 2005).
Cá rô phi thường có tập tính sinh sản đa lần trong năm, với khoảng thời gian giữa hai lần đẻ trứng từ 20 đến 30 ngày Sau khi hoàn thành việc đẻ trứng, cá cái sẽ ngậm trứng trong miệng cho đến khi cá con phát triển hoàn toàn và hết noãn hoàng.
Tình hình nuôi cá rô phi
2.2.1 Nuôi cá rô phi trên thế giới
Cá rô phi, đặc biệt là cá rô phi vằn O.niloticus, là loài cá được nuôi phổ biến trên toàn cầu, với sản lượng đạt khoảng 1 triệu tấn mỗi năm, chiếm 84% tổng sản lượng cá rô phi theo báo cáo của FAO năm 2004.
Thái Lan và Mexico đang áp dụng mô hình nuôi cá rô phi kết hợp với ao nuôi tôm thâm canh với mật độ thả nuôi 0,5 con/m² Nghiên cứu cho thấy việc nuôi cá rô phi cùng với tôm sú không chỉ không ảnh hưởng đến tỷ lệ sống của tôm mà còn cải thiện chất lượng nước trong ao nuôi (Yang và Fitzsimmons, 2005).
Cá rô phi hiện nay được nuôi rộng rãi trên toàn cầu với các phương pháp thâm canh và bán thâm canh, trong ao hoặc bè, đạt sản lượng trung bình khoảng 2,8 triệu tấn mỗi năm (FishStat, 2008).
Cá rô phi đã được nuôi ở Brazil từ năm 1953 và nhanh chóng phát triển thành ngành nuôi trồng thủy sản quy mô thương mại trong vòng một thập kỷ Từ năm 1999, nghề nuôi cá rô phi tại Brazil đã mở rộng với tốc độ tăng trưởng trung bình hàng năm đạt 18% Đến năm 2009, Bộ Thủy sản và Nuôi trồng Thủy sản Brazil đã báo cáo sản lượng thu hoạch cá rô phi lên tới 133.000 tấn mỗi năm.
Tại hội nghị INFOFISH TILAPIA vào cuối tháng 10/2010 tại Kuala Lumpur, Malaysia, sản lượng cá rô phi toàn cầu năm 2010 đạt 3,7 triệu tấn Châu Á đứng đầu về sản lượng cá rô phi với các quốc gia như Trung Quốc, Indonesia, Thái Lan và Đài Loan, chiếm 94% tổng sản lượng của châu lục này Trong đó, Trung Quốc dẫn đầu với sản lượng từ 1,1 đến 1,2 triệu tấn.
2.2.2 Tình hình nuôi cá rô phi trong nước
Cá rô phi hiện nay được nuôi chủ yếu trong lồng và ao, cả trong môi trường nước ngọt và nước lợ Cá rô phi vằn tập trung ở các tỉnh phía Bắc, trong khi cá rô phi đỏ phổ biến ở phía Nam Năm 2012, diện tích nuôi cá rô phi đạt 16.337ha, chiếm 1,41% tổng diện tích nuôi thủy sản và 3,88% diện tích nuôi cá nước ngọt toàn quốc Đến tháng 11/2014, sản lượng cá rô phi đạt 118.800 tấn, với diện tích nuôi trong ao hồ là 15.992ha và nuôi lồng bè đạt 410.732m3, tăng 25% so với năm 2013 Đồng Bằng Sông Cửu Long là vùng nuôi cá rô phi đỏ lớn nhất, chiếm 58,4% tổng sản lượng cá rô phi đỏ cả nước, trong đó sản lượng nuôi trong ao đầm khoảng 74 ngàn tấn, nuôi lồng bè khoảng 10.200 tấn và các hình thức nuôi khác là 6.400 tấn.
Nuôi cá rô phi theo hình thức bán thâm canh trong ao có diện tích 1.000m², với cá giống kích thước từ 5cm trở lên và mật độ thả 4 con/m², sau 5-6 tháng sẽ đạt trọng lượng từ 500-600g/con, tỷ lệ sống đạt 95% và năng suất khoảng 2,28 tấn (Đoàn Khắc Độ, 2008).
Hồ Thị Thanh Trúc (2011) đã thực hiện thí nghiệm ương cá rô phi đỏ từ bột lên hương trong hệ thống bể ương bằng thùng nhựa 20 lít với ba nghiệm thức mật độ 3 con/lít, 6 con/lít và 9 con/lít Kết quả sau 32 ngày ương cho thấy mật độ 3 con/lít là tối ưu nhất cho sự phát triển của cá rô phi đỏ.
5 mức tăng trưởng tuyệt đối theo khối lượng và tỷ lệ sống lần lượt là 14,1 mg/ngày và
66,7%, khác biệt có ý nghĩa thống kê so với các chỉ tiêu tương ứng của các nghiệm thức còn lại
Hiện nay, cả nước có 2.036 lồng nuôi cá rô phi, trong đó miền Bắc có 948 lồng, miền
Trung 158 lồng, miền Nam 1.130 lồng bè Trong đó, khu vực Đồng Bằng Sông Cửu
Long nuôi cá có năng suất cao nhất, đạt 18,12 tấn/ha (Kinh tế nông thôn Việt Nam,
Nhiều cơ sở tại miền Nam đã đầu tư mạnh mẽ vào việc nuôi cá rô phi theo phương pháp công nghiệp Trong năm 2014, sản lượng cá rô phi nuôi tại Việt Nam ước đạt 50 nghìn tấn, chiếm một tỷ lệ đáng kể trong ngành thủy sản.
2,2% tổng sản lượng thủy sản nuôi (Phạm Thanh Liêm, 2014)
Các tỉnh phía Bắc chỉ nuôi cá rô phi đỏ với tỷ lệ nhỏ, chiếm 5,3% tổng sản lượng cá rô phi của cả nước Trong khi đó, miền Trung đóng góp 9,1% và Tây Nguyên chiếm 4,1%.
Bắc Ninh và Yên Bái đã nuôi cá rô phi thịt ở cả 2 vụ lúa với mật độ nuôi 3 ngàn con/ha
Cá rô phi vằn có thể được nuôi ghép với cá trôi và cá trắm Trong quá trình nuôi, chỉ sử dụng thức ăn tự nhiên, giúp sản lượng cá đạt từ 500-600 kg/ha.
Tại Quảng Ninh, phong trào nuôi cá rô phi đang phát triển mạnh mẽ, với xu hướng chuyển đổi từ đất nông nghiệp sang nuôi trồng thủy sản ngày càng gia tăng Năng suất nuôi cá rô phi trung bình đạt từ 10-12 tấn/ha, mang lại lợi nhuận khoảng 40-50 triệu đồng/ha.
Từ năm 2003, cá rô phi đã được nuôi thâm canh tại Thanh Hóa, và đến năm 2013, sản lượng xuất khẩu đạt hơn 400 tấn Đến năm 2014, sản lượng xuất khẩu cá rô phi tăng lên trên 2.000 tấn, thể hiện sự phát triển mạnh mẽ của ngành nuôi trồng thủy sản tại địa phương.
Năm 2014, Trung tâm Khuyến nông - Lâm - Ngư tỉnh Thừa Thiên Huế đã triển khai mô hình nuôi thâm canh cá rô phi đỏ trong lồng bè tại các khu vực Thủy Tân, Hương Thủy và Quảng Phú.
Quảng Điền áp dụng quy mô nuôi 120m³ cho 4 hộ, với mật độ thả 10 con/m² Sau 5 tháng nuôi, cá đạt khối lượng trung bình từ 0,35-0,4 kg/con và tỷ lệ sống đạt 70-72% Hiện tại, giá cá rô phi đỏ trên thị trường dao động từ 35.000-45.000 đồng, mang lại lợi nhuận bình quân từ 17-20 triệu đồng cho mỗi lồng 30m³ (Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Thừa Thiên Huế, 2014).
Ảnh hưởng của thức ăn đến cá rô phi
Theo Lê Thanh Hùng (2008), nhu cầu protein của cá rô phi dao động từ 28-35N Trần Thị Thanh cũng khẳng định nhu cầu này.
Hiền và Nguyễn Anh Tuấn (2009), hàm lượng đạm tối ưu nhất cho tăng trưởng của cá rô giai đoạn cá nhỏ là từ 25-35N
Theo Lê Văn Thắng (1999), nhu cầu protein của một số loài cá rô phi được trình bày trong bảng 2.1 như sau:
Bảng 2.1 Nhu cầu protein của cá rô phi
Loài Giai đoạn Thức ăn (N) Hệ thống nuôi Nguồn
Cá thịt 20 - 30 Bể nước mặn Clark, 1990
Cá bột 30 - 40 Nước ngọt Sintiago, 1991
Cá bột 40 Ao nước ngọt Siddiqui, 1988
Cá nhỏ 24 Bể nước mặn Shiau và
Tilaphia Cá lớn 28 Lồng nước mặn Utanabe, 1990
Theo Đoàn Khắc Độ (2008), khi ương cá rô phi trong ao đất, ngoài thức ăn tự nhiên cần bổ sung thức ăn cho cá như sau:
Tuần lễ đầu: 0,3 kg cám mịn+0,3 kg bột cá lạt, xay nhuyễn cho 10.000 cá bột
Trong tuần thứ hai, lượng thức ăn cho cá tăng từ 1,5-2 lần tùy thuộc vào sự phát triển của chúng Bắt đầu từ tuần thứ ba, cần ước tính số lượng cá giống trong ao và nhu cầu ăn của cá để điều chỉnh lượng thức ăn hàng ngày cho phù hợp Thành phần thức ăn nên bao gồm 40% bột cá và 60% cám hoặc bột mì, bột bắp Sau một tháng, cá đạt kích thước 0,5-0,7 g/con Tiếp tục nuôi cá giống lớn với thành phần thức ăn là 70% cám mịn và 30% bột cá Sau 15-20 ngày, cá giống có thể đạt kích thước 1,2-1,5 g/con.
Từ tháng 6 đến tháng 8/1997, Viện Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản I đã tiến hành thử nghiệm ương cá rô phi bằng thức ăn tự chế, với khẩu phần ăn chiếm 10% khối lượng cá Cá được ương từ cỡ cá hương (1,17 g/con) lên cỡ cá giống tại hồ chứa nước ở huyện Ba Vì, tỉnh Hà Tây, với mật độ 600 con/m³ Thành phần thức ăn tự chế bao gồm 40% cá khô, 10% đỗ tương, 15% khô lạc, 34% cám gạo và 1% vitamin khoáng, tổng lượng đạm thô từ 30-34% Thức ăn được nghiền mịn và cho cá ăn dưới dạng bột ẩm trong tháng đầu, sau đó chuyển sang dạng viên 2mm ở tháng thứ hai, với tần suất cho ăn hai lần mỗi ngày Sau 2 tháng ương, tỷ lệ sống của cá rô phi đạt 92,5%, với trọng lượng trung bình đạt 15 g/con (Kinh tế nông thôn Việt Nam, 2014).
Võ Thị Tố Như (2011) đã tiến hành thử nghiệm ương cá rô phi đỏ từ bột lên hương trong thùng nhựa 60 lít với các loại thức ăn khác nhau Sau 32 ngày thí nghiệm, kết quả cho thấy thức ăn có độ đạm cao (42N) mang lại hiệu quả tốt nhất cho sự tăng trưởng và tỷ lệ sống của cá rô phi đỏ, với mức tăng trưởng tuyệt đối đạt 10,9 mg/ngày và tỷ lệ sống lên tới 88,0%, có sự khác biệt thống kê đáng kể so với các nghiệm thức khác.
Nguyễn Thị Diệu Phương và Phạm Anh Tuấn (2001) đã nghiên cứu tác động của hàm lượng protein và tần suất cho ăn đến sự sinh trưởng của cá rô phi Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng, trong giai đoạn cá nhỏ, việc cung cấp thức ăn có hàm lượng protein cao và cho ăn nhiều lần trong ngày là cần thiết để tối ưu hóa sự phát triển của cá.
Trong 7 ngày, cá có trọng lượng từ 3-30g nên được cho ăn thức ăn có hàm lượng đạm 30-35N, chia thành 4 bữa mỗi ngày Đối với cá có trọng lượng từ 50-100g, nên sử dụng thức ăn 30N và cho ăn 3 lần mỗi ngày.
Nguyễn Như Trí và Nguyễn Thị Mỹ Hạnh (2009) đã nghiên cứu tần số và tỷ lệ cho ăn phù hợp cho cá rô phi vằn Thí nghiệm bao gồm 3 nghiệm thức với tần số cho ăn là 2 lần mỗi ngày.
Nghiên cứu cho thấy, việc cho cá rô phi vằn ăn 3 hoặc 4 lần mỗi ngày trong 8 tuần không có ảnh hưởng đáng kể đến tốc độ tăng trưởng, tỷ lệ sống và hệ số chuyển đổi thức ăn (FCR).
Theo nghiên cứu của Philippart và Melard (1981), khẩu phần thức ăn phù hợp cho các giai đoạn phát triển của cá rô phi đỏ được chi tiết trong bảng 2.2.
Bảng 2.2 Khẩu phần thức ăn cho cá rô phi
Cỡ cá (g/con) Khẩu phần ăn (%/khối lượng thân)
0-5 30 giảm xuống 20 5-20 15 giảm xuống 12 20-40 7 giảm xuống 6,5 40-100 6 giảm xuống 4,5 100-200 4 giảm xuống 2
VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thời gian và địa điểm nghiên cứu
3.1.1 Thời gian Đề tài được thực hiện từ tháng 10 năm 2014 đến tháng 4 năm 2015
Thí nghiệm được bố trí tại trại cá giống, khu vực An Phú, Phường Phú Thứ, Quận Cái Răng Thành Phố Cần Thơ.
Vật liệu và trang thiết bị trong nghiên cứu
3.2.1 Dụng cụ, thiết bị và hóa chất
Thiết bị: máy phát điện, máy thổi khí, máy bơm chìm, cân điện tử
Dụng cụ: bể xi măng (2,5 m x 2,0 m x 1,0 m), thùng xốp (55 cm x 39 cm x 32 cm), nhiệt kế, thau, vợt, ống dẫn khí, đá bọt, giấy kẻ ô li
Chemicals used include flocculants [Al(OH)xCly]n (with n > 4 and x + y = 3), chlorine in the form of Ca(OCl)2 and NaOCl pH testing is conducted using test kits, while chlorine levels are measured with Sera test kits, both of which are manufactured in Germany.
3.2.2 Vật liệu và mẫu vật Đối tượng và nguồn cá thí nghiệm:
Nghiên cứu được thực hiện trên đối tượng là cá rô phi đỏ (Oreochromis sp.)
Cá thí nghiệm có độ tuổi khoảng 10 ngày, với khối lượng trung bình là 0,015g và chiều dài trung bình là 0,847 cm.
Cá dùng để bố trí thí nghiệm 2 khoảng 2 tháng tuổi với giá trị trung bình về khối lượng và chiều dài ban đầu lần lượt là 2,33g và 5,08 cm
Nguồn cá được mua tại Trung Tâm Quốc gia Giống Thủy sản nước ngọt Nam Bộ, xã An Thái Trung, huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang
Thức ăn dùng trong thí nghiệm
Thức ăn dùng để ương cá rô phi đỏ trong hệ thống thí nghiệm được cung cấp bởi cùng một công ty sản xuất, với độ đạm là 25N, 30N và 35N Thành phần chính của thức ăn bao gồm bột cá, tấm gạo, cám gạo, cám mì, đạm đậu nành cô đặc, acid amin, cùng với các chất bổ sung như khoáng và vitamin, đặc biệt có DHA và EPA.
Bảng 3.1 Thành phần dinh dưỡng của thức ăn dùng trong hệ thống thí nghiệm
Bố trí thí nghiệm
3.3.1 Chuẩn bị nguồn nước, bể ương và nguồn cá thí nghiệm
Nguồn nước ngọt cho thí nghiệm được lấy từ sông Ngã Bát, đã được xử lý bằng thuốc lắng với liều lượng từ 20-200 g/m3, tùy thuộc vào hàm lượng chất lơ lửng và tính chất của nước.
Bể xi măng chứa nước ngọt được xử lý bằng chlorine với nồng độ 30 ppm, sau đó nước đã qua xử lý được chuyển vào bể và sục khí mạnh trong 24-48 giờ Để đảm bảo chất lượng nước, cần sử dụng bộ test kits để kiểm tra nồng độ chlorine.
Bể ương cá được thiết lập trong một hệ thống thùng xốp với dung tích 50 lít nước mỗi bể Thí nghiệm này diễn ra trong nhà có mái che và được cung cấp sục khí liên tục để đảm bảo môi trường sống tốt cho cá.
Tiêu chuẩn chọn cá thí nghiệm: cá khỏe mạnh, đều cỡ, màu sắc sáng, không dị hình, phản ứng nhanh với môi trường
3.3.2 Thí nghiệm 1: So sánh ảnh hưởng của thức ăn lên tăng trưởng và tỷ lệ sống của cá rô phi đỏ (Oreochromis sp.) giai đoạn từ bột lên hương
Trước khi tiến hành thí nghiệm, cá được nuôi trong bể xi măng để làm quen với môi trường nước và thức ăn nhân tạo trong 1 tuần Thí nghiệm được thực hiện với mật độ 3 con/lít trong 45 ngày, bao gồm 3 nghiệm thức với các mức độ đạm khác nhau, mỗi nghiệm thức được lặp lại 3 lần.
Nghiệm thức 1: Cho cá ăn thức ăn chứa 25N
Nghiệm thức 2: Cho cá ăn thức ăn chứa 30N
Nghiệm thức 3: Cho cá ăn thức ăn chứa 35N
Hình 3.1 Sơ đồ bố trí thí nghiệm 1
Protein Lipit Xơ Độ ẩm
Các chỉ tiêu cần theo dõi và tính toán
Chăm sóc và quản lý: Cá được cho ăn hàng ngày bằng thức ăn công nghiệp kích cỡ nhỏ
Để nuôi cá hiệu quả, cần cho cá ăn thức ăn phù hợp với kích cỡ miệng cá, chia làm 4 lần trong ngày vào các khung giờ 7 giờ, 11 giờ, 15 giờ và 19 giờ Đồng thời, quan sát khả năng bắt mồi của cá để điều chỉnh lượng thức ăn cho phù hợp Khi phát hiện dấu hiệu nhiễm bẩn, nên thay 20-30% lượng nước trong bể ương để duy trì môi trường sống trong sạch cho cá.
3.3.3 Thí nghiệm 2: Nghiên cứu ảnh hưởng của khẩu phần thức ăn lên tăng trưởng và tỷ lệ sống của cá rô phi đỏ (Oreochromis sp.) giai đoạn từ bột lên giống
Trong thí nghiệm này, cá được nuôi với mật độ 30 con trong mỗi thùng 50 lít nước trong vòng 45 ngày Thí nghiệm sử dụng cùng một nguồn nước và chế độ chăm sóc quản lý đồng nhất, bao gồm 3 nghiệm thức với khẩu phần ăn khác nhau, mỗi nghiệm thức được lặp lại 3 lần.
Nghiệm thức 1: cho cá ăn với khẩu phần ăn bằng 10% khối lượng thân/ngày
Nghiệm thức 2: cho cá ăn với khẩu phần ăn bằng 15% khối lượng thân/ngày
Nghiệm thức 3: cho cá ăn với khẩu phần ăn bằng 20% khối lượng thân/ngày
Hình 3.2 Sơ đồ bố trí thí nghiệm 2
Để chăm sóc và quản lý cá ương, sử dụng thức ăn công nghiệp 35N và cho cá ăn 3 lần mỗi ngày vào lúc 7 giờ, 12 giờ và 17 giờ Sau khi cho ăn, cần vớt thức ăn thừa sau khoảng 30 phút và thay nước khi có dấu hiệu ô nhiễm, mỗi lần thay từ 20-30% thể tích nước bể ương Sau 22 ngày ương, tiến hành thu và cân 10 cá thể để xác định khối lượng, từ đó điều chỉnh lượng thức ăn cung cấp cho phù hợp.
3.4 Các chỉ tiêu theo dõi và tính toán
Nhiệt độ và pH của nước trong hệ thống thí nghiệm được kiểm tra hai lần mỗi ngày, vào lúc 6 giờ 30 và 14 giờ Nhiệt độ nước được xác định bằng nhiệt kế, trong khi pH được kiểm tra bằng bộ test pH.
3.4.2 Các chỉ tiêu của cá (SR, LG, WG, FCR)
Trước khi bố trí thí nghiệm: tiến hành cân đo 30 cá thể để xác định chiều dài và khối lượng trung bình ban đầu
Kết thúc thí nghiệm thu toàn bộ cá ở các bể ương và xác định các chỉ tiêu sau:
Tỷ lệ sống (Survival rate, SR) được tính bằng cách chia tổng số cá thể thu được sau khi kết thúc thí nghiệm cho tổng số cá thể đã thả lúc bắt đầu thí nghiệm, sau đó nhân với 100 Công thức tính tỷ lệ sống được trình bày như sau: (3.1).
Tăng trọng (Weight Gain, WG) được xác định bằng khối lượng cá thu được sau khi kết thúc thí nghiệm, trừ đi khối lượng cá lúc thả ương, theo công thức (3.2).
Tăng trưởng khối lượng tuyệt đối theo ngày (Daily Weight Gain, DWG) được tính bằng cách lấy khối lượng cá thu được sau khi kết thúc thí nghiệm trừ đi khối lượng cá lúc thả ương, sau đó chia cho thời gian thí nghiệm tính theo ngày Công thức tính DWG là (3.3).
Tốc độ tăng trưởng tương đối (%/ngày) (Specific Growth Rate, DWG)
Tăng trưởng chiều dài (Length Gain, LG): chiều dài cá thả lúc đầu trừ cho chiều dài cá sau khi kết thúc thí nghiệm được tính theo công thức (3.5)
Tăng trưởng chiều dài theo ngày (Daily Length Gain - DLG) được tính bằng cách lấy chiều dài cá thả lúc đầu trừ chiều dài cá sau khi kết thúc thí nghiệm, sau đó chia cho thời gian bố trí thí nghiệm Công thức tính DLG là (3.6).
Sự phân hóa tăng trưởng của cá đề cập đến sự không đồng đều trong khối lượng và kích thước của cá trong cùng một khoảng thời gian và không gian sống Hiện tượng này được đo lường thông qua tỷ lệ phần trăm theo nhóm khối lượng và chiều dài, áp dụng công thức (3.7).
Tổng số cá thể thu được
Tổng số cá thể thả ban u sả n
Hệ số tiêu tốn thức ăn (Feed Conversion Ratio - FCR) là tỷ lệ giữa khối lượng thức ăn cung cấp cho cá trong suốt thời gian thí nghiệm và tăng trọng của cá khi kết thúc thí nghiệm FCR được tính theo công thức (3.8), giúp đánh giá hiệu quả sử dụng thức ăn trong nuôi trồng thủy sản.
Trong đó: Wđ và Wc lần lượt là khối lượng của cá lúc thả và lúc thu (g)
Lđ, Lc lần lượt là chiều dài của cá trước và sau khi kết thúc thí nghiệm (cm)
T là thời gian thí nghiệm (ngày)
Phương pháp xử lý số liệu và viết bài
Các số liệu trung bình và độ lệch chuẩn của các chỉ tiêu được xử lý bằng phần mềm
So sánh sự khác biệt giữa các giá trị tính toán bằng phần mềm SPSS 16.0
Bài viết được viết bằng phần mềm Microsoft Office Word 2007
Khối lượng thức ăn Tăng trọng của cá sả n