1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Khảo sát nguyện vọng chăm sóc cuối đời của người cao tuổi bệnh ung thư giai đoạn iv tại khoa lão – chăm sóc giảm nhẹ bệnh viện đại học y dược thành phố hồ chí minh

113 14 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Khảo Sát Nguyện Vọng Chăm Sóc Cuối Đời Của Người Cao Tuổi Bệnh Ung Thư Giai Đoạn IV Tại Khoa Lão – Chăm Sóc Giảm Nhẹ Bệnh Viện Đại Học Y Dược Thành Phố Hồ Chí Minh
Tác giả Nguyễn Ngọc Hoành Mỹ Tiên
Người hướng dẫn TS.BS. Thân Hà Ngọc Thể
Trường học Đại học Y Dược Thành Phố Hồ Chí Minh
Chuyên ngành Lão Khoa
Thể loại Luận Văn Chuyên Khoa Cấp II
Năm xuất bản 2020
Thành phố TP. Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 113
Dung lượng 1,14 MB

Cấu trúc

  • BÌA

  • MỤC LỤC

  • DANH MỤC ĐỐI CHIẾU THUẬT NGỮ ANH – VIỆT

  • DANH MỤC CÁC BẢNG, HÌNH, BIỂU ĐỒ, SƠ ĐỒ

  • ĐẶT VẤN ĐỀ

  • TỔNG QUAN

  • ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

  • KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

  • BÀN LUẬN

  • KẾT LUẬN

  • TÀI LIỆU THAM KHẢO

  • PHỤ LỤC

Nội dung

ĐỐI TƯỢNG PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Đối tượng nghiên cứu

Tất cả NCT (≥ 60 tuổi) bệnh ung thư giai đoạn IV, điều trị nội trú tại Khoa Lão – CSGN, BV ĐHYD TPHCM.

Tất cả NCT (≥ 60 tuổi) bệnh ung thư giai đoạn IV điều trị nội trú tại Khoa Lão – CSGN trong thời gian nghiên cứu (từ 01/12/2019 đến 01/06/2020), BV ĐHYD TPHCM.

Tất cả NCT (≥ 60 tuổi) điều trị nội trú tại Khoa Lão – CSGN.

NB ung thư giai đoạn IV, dựa trên hồ sơ của NB đã được chẩn đoán bởi

BS chuyên khoa Ung bướu.

NB đồng ý tham gia nghiên cứu.

NB có khó khăn trong giao tiếp do: thính giác hoặc thị giác, hay do tình trạng bệnh lý nền quá nặng, quá yếu không thể giao tiếp được.

NB có tình trạng bệnh cấp tính chưa ổn định, kèm theo rối loạn nhận thức do các nguyên nhân như nhiễm trùng, sảng hoặc rối loạn điện giải.

NB không thể trao đổi bằng tiếng Việt.

Địa điểm và thời gian nghiên cứu

Địa điểm: Khoa Lão - CSGN, bệnh viện ĐHYD TPHCMThời gian: 01/12/2019 – 01/06/2020

Phương pháp nghiên cứu

Nghiên cứu cắt ngang, mô tả, tiến cứu.

Công thức tính cỡ mẫu cho nghiên cứu mô tả nhằm xác định tỷ lệ một biến nhị giá [42].

Z: giá trị Z tương ứng khoảng tin cậy 95% là 1,96 P: tỷ lệ, sử dụng tỷ lệ 0,92 vì hiện tại y văn Việt Nam, tác giả Lê Đại Dương ghi nhận 92% NB muốn mất tại nhà Chọn tỷ lệ nguyện vọng nhà là nơi mất vì đây là biến số nguyện vọng chính mà nghiên cứu sẽ khảo sát. d: độ chính xác tuyệt đối là 0,05

Từ các chỉ số trên tính ra cỡ mẫu là: tối thiểu 87 NB.

Dự trù mất mẫu, chúng tôi sẽ thu thập tối thiểu 100 NB.

Lấy mẫu liên tục từ toàn bộ những người tham gia nghiên cứu đã đồng ý và đáp ứng tiêu chuẩn trong suốt thời gian nghiên cứu, cho đến khi đạt được kích thước mẫu theo ước tính.

Phương pháp thu thập số liệu

Dữ liệu được thu thập từ bảng khảo sát đã chuẩn bị sẵn, với nghiên cứu viên thực hiện phỏng vấn trực tiếp Để đảm bảo người bệnh (NB) cảm thấy thoải mái và không bị phiền lòng khi chia sẻ nguyện vọng chăm sóc cuối đời, một chuyên viên tâm lý đã tham gia phỏng vấn Các cuộc phỏng vấn diễn ra trong phòng riêng tại khoa, nhằm bảo vệ thông tin cá nhân và tạo không gian riêng tư cho NB, giúp họ dễ dàng bày tỏ nguyện vọng của mình.

Thời gian phỏng vấn: Thời điểm NB được Bác sỹ điều trị chuẩn bị kế hoạch xuất viện, tình trạng bệnh cấp tính đã ổn định.

Công cụ thu thập số liệu

Bảng câu hỏi phỏng vấn (Phụ lục 1).

Bản ký thỏa thuận đồng ý tham gia nghiên cứu của NB.

Kiểm soát sai lệch thông tin

Thiết kế bộ câu hỏi phỏng vấn cần đảm bảo tính phù hợp, rõ ràng và dễ hiểu, đồng thời ghi nhận đầy đủ thông tin cần thiết từ tất cả các đối tượng trong mẫu khảo sát.

Mục đích của nghiên cứu sẽ được giải thích một cách trực tiếp và rõ ràng cho đối tượng phỏng vấn, đồng thời nhấn mạnh tính khuyết danh của thông tin cung cấp Chúng tôi kêu gọi sự ủng hộ từ các đối tượng nghiên cứu để đảm bảo tính chính xác và hiệu quả của nghiên cứu này.

Kiểm tra lại số lượng bộ câu hỏi trước thu thập.

Phương pháp xử lý và phân tích số liệu

Các số liệu thu thập được xử lý như sau :

Nhập liệu bằng phần mềm Epi Data 3.1.

Phân tích theo phần mềm Stata 14.0.

Mô tả các tỷ lệ về đặc điểm dân số học, bệnh lý học và nguyện vọng chăm sóc cuối đời của mẫu nghiên cứu.

Kết quả được trình bày bao gồm tần suất, tỷ lệ phần trăm, trung bình ± độ lệch chuẩn (đối với dữ liệu có phân phối chuẩn), trung vị và khoảng tứ vị từ 25% đến 75% (đối với dữ liệu không phân phối chuẩn).

Các phép kiểm định thống kê được dùng là :

Kiểm định chi bình phương với hiệu chỉnh Fisher được sử dụng để xác định mối liên hệ giữa nguyện vọng chăm sóc cuối đời, bao gồm mong muốn truyền dinh dưỡng tĩnh mạch, đặt ống thở, thở máy và hồi sức tim phổi, với các yếu tố độc lập như đặc điểm dân số, xã hội học và bệnh lý học Phương pháp này giúp phân tích sự tương quan giữa các biến và đưa ra những kết luận có giá trị trong nghiên cứu.

20% số vọng trị < 5, hoặc tần số trong ô < 5, thì dùng kiểm định chính xác Fisher thay cho kiểm định Chi bình phương.

Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê khi trị số p < 0,05 với độ tin cậy 95%.

Quy trình thực hiện

Hình 2.1: Sơ đồ nghiên cứu

Thỏa tiêu chuẩn chọn bệnh (≥ 60 tuổi, bệnh ung thư giai đoạn IV) Giải thích mục tiêu nghiên cứu Đồng ý tham gia nghiên cứu

→ Phỏng vấn mặt đối mặt

Dân số học, bệnh lý Mục tiêu 2 Mục tiêu 1:

Nơi tử vong mong muốn Nguyện vọng truyền dinh dưỡng nhân tạo

Nguyện vọng đặt nội khí quản, thở máy

Nguyện vọng hồi sức tim phổi

NB nhập khoa Lão – CSGN trong thời gian nghiên cứu (01/12/2019 – 01/06/2020)

Các bước tiến hành thu thập số liệu Bước 1:

Sàng lọc, chọn NB cao tuổi (≥ 60 tuổi) thỏa tiêu chuẩn chọn mẫu, không có tiêu chuẩn loại trừ tại khoa Lão – CSGN, BV ĐHYD TPHCM.

Tất cả NB đều được giải thích mục tiêu của nghiên cứu, đồng ý tham gia nghiên cứu có ký xác nhận vào bảng đồng thuận.

Tất cả đối tượng đồng ý tham gia nghiên cứu được phỏng vấn bộ câu hỏi vào thời điểm NB đã ổn định sức khỏe, chuẩn bị xuất viện.

Thu thập thông tin cá nhân, bệnh đi kèm qua hồ sơ bệnh án.

Mọi thông tin cá nhân đối tượng sẽ được mã hóa và giữ kín Bảng câu hỏi dự kiến sẽ tiến hành trong 30 – 40 phút.

27 Định nghĩa các biến số nghiên cứu

Bảng 2.1: Bảng liệt kê biến số được thu thập trong nghiên cứu

Tên biến Phân loại Định nghĩa

A Đặc điểm dân số, xã hội học

Liên tục Tuổi: tính toán bằng năm dương lịch hiện tại trừ năm sinh theo dương lịch

Ba giá trị với 3 nhóm:

Giới Nhị giá 0: Nam, 1: Nữ

Dân tộc Nhị giá 0: Kinh, 1: Hoa

Chỉ số BMI Danh định

0: Thiếu cân (< 18,5) 1: Bình thường (18,5 – 22,9) 2: Dư cân (23 – 24,9)

Nơi sinh sống Nhị giá 0: Thành thị, 1: Nông thôn

Trình độ học vấn Danh định

Mức độ học vấn cao nhất người tham gia có được

5 giá trị: cấp 1, cấp 2, cấp 3, cao đẳng/ đại học/ sau đại học.

Tôn giáo Danh định 5 giá trị: không, Thiên Chúa, Phật Giáo, Cao Đài, và tôn giáo khác.

Tình trạng hôn nhân hiện tại

Danh định Gồm 4 giá trị:

Góa, Có vợ/ chồng, Ly hôn, Độc thân.

Tình trạng gia đình Danh định Gồm 3 giá trị:

Sống một mình, Với gia đình, Với người khác

Số người trong gia đình

Danh định Số người sống cùng mái nhà với NB.

Người chăm sóc chính Danh định Người chăm sóc cho các hoạt động của NB đa phần thời gian trong ngày.

4 giá trị: vợ/ chồng, con, họ hàng, người chăm sóc trả phí.

Tự đánh giá tình trạng tài chính bản thân

Danh định 3 giá trị, do NB tự đánh giá:

Dư dả, trang trải được cho cuộc sống, còn chật vật

Tự đánh giá gánh nặng chi phí cho y tế

Danh định 6 giá trị do NB tự đánh giá: Không thành vấn đề;

Chấp nhận được; Tốn kém; Quá tốn kém; Không thể chi trả được; Không biết/ Không quan tâm.

Chẩn đoán bệnh đồng mắc

Số lượng bệnh mạn tính mà người tham gia biết mình mắc phải, bao gồm các chẩn đoán và phương pháp điều trị, được xác định dựa trên hồ sơ bệnh án, toa thuốc và sổ điều trị.

Chẩn đoán ung thư Danh định Chẩn đoán vị trí ung thư, diễn tiến từ hồ sơ bệnh án.

Chẩn đoán ung thư giai đoạn IV

Danh định Là chẩn đoán của BS chuyên khoa Ung bướu ghi nhận trên hồ sơ bệnh án/ giấy ra viện/ đơn thuốc.

Thời gian bệnh ung thư Danh định

Từ thời điểm có kết quả giải phẫu bệnh ghi nhận có tế bào ác tính, đến thời điểm phỏng vấn hiện tại:

Hiểu biết bản thân về chẩn đoán bệnh ung thư

Hiểu biết bản thân về diễn tiến bệnh ung thư

Hỏi NB về tiến triển của khối u (nếu NB trả lời có biết mình bệnh ung thư):

Hiểu biết bản thân về tiên lượng ung thư

Hỏi NB, nếu NB trả lời có biết mình bệnh ung thư, ghi nhận là “có” nếu NB trả lời biết tiên lượng sống chỉ tính bằng tháng.

Số thuốc uống mỗi ngày

Số lượng thuốc mà người tham gia cần uống trong một ngày, bao gồm cả thực phẩm chức năng và thuốc không kê toa, được thu thập từ toa thuốc, sổ khám bệnh và thông qua việc hỏi người bệnh Dữ liệu này bao gồm hai giá trị quan trọng.

< 5; và ≥ 5 Độc lập về ADL Danh định 7 giá trị theo đánh giá của người phỏng vấn: từ 0 đến 6 điểm theo thang Kartz.

Hoạt động chức năng ECOG

Danh định Phản ánh mức độ hoạt động của NB.

5 giá trị từ 0 đến 4, đánh giá bởi người phỏng vấn.

Than phiền khó chịu nhất hiện tại

Danh định nhiều giá trị

1: Đau, 2: mệt mỏi, 3: khó thở, 4: buồn nôn/ nôn ói, 5: ăn kém.

Mỗi biến có 2 giá trị: 0: không, 1: có

C Biến số về nguyện vọng CSCĐ

Người sẽ nghe các thông tin về sức khỏe, bệnh, tiên lượng của Ông/ Bà

Danh định nhiều giá trị

0: Chỉ bản thân Ông/ Bà 1: Chỉ Gia đình (người thân) 2: Cả NB và người thân

Lo lắng lớn nhất ở giai đoạn cuối đời

Danh định nhiều giá trị

1: đau đớn, 2: tàn phế, 3: khó khăn về tài chính, kinh tế, 4: không thể lên thiên đàn, an lạc, 5: cô đơn, 6: rời xa con cháu, 7: Khó thở.

Mỗi biến có 2 giá trị: 0: không, 1: có Ông/ Bà có từng nghĩ về việc mình lập kế hoạch chăm sóc y tế cuối đời

Nhị giá 0: Không, 1: Có Ông/ Bà có thoải mái bàn luận về cái chết không

Bà bệnh nặng, không thể ăn uống được Ông/ Bà có muốn truyền dịch dinh dưỡng

Danh định 0: Không, 1: Có, 2: Khác (ghi rõ)

Bà không thể tự thở Ông/

Bà muốn được đặt ống thở, máy giúp thở

Danh định 0: Không, 1: Có, 2: Khác (ghi rõ)

Bà hấp hối Ông/ Bà có muốn ép tim ngoài lồng ngực để hỗ trợ tim đập tiếp

Danh định 0: Không, 1: Có, 2: Khác (ghi rõ)

Khi Ông/ Bà hấp hối, điều gì là quan trọng nhất trong chăm sóc cuối đời của Ông/ Bà

1: Không đau đớn 2: Ở cạnh người thân, gia đình 3: Cảm thấy bình an, thanh thản 4: Cảm thấy mình không là gánh nặng của gia đình 5: Được lắng nghe và tôn trọng mong ước của bản thân

Mỗi biến có 2 giá trị: 0: không, 1: có

Nơi tử vong mong muốn Danh định

0: Bệnh viện, 1: Nhà, 2: nơi khác (ghi rõ)

Mô tả về một sự ra đi tốt đẹp theo quan niệm của Ông/ Bà

Mô tả ký tự tự do, sau đó được mã hóa theo các chủ đề

2 Nguyện vọng về tinh thần

7 Được chữa hết khả năng

11 Sợ chết, lo buồn Mỗi biến có 2 giá trị: 0: không, 1: có

Tổng thời gian phỏng vấn Danh định, gồm 4 giá trị

Các biến số ECOG và ADL sẽ được thu thập để phản ánh gián tiếp hoạt tính bệnh Mục tiêu là đánh giá mối liên hệ giữa hoạt tính bệnh và các biến phụ thuộc nguyện vọng.

Đạo đức trong nghiên cứu

Nghiên cứu đã được phê duyệt bởi Hội đồng Khoa học và Hội đồng Y đức của Đại học Y Dược TPHCM với mã số 505/ĐHYD-HĐĐĐ vào ngày 17/10/2019, cùng với sự chấp thuận của Hội đồng Nghiên cứu Khoa học Bệnh viện Đại học Y Dược TPHCM vào ngày 23/11/2019.

Tất cả các đối tượng tham gia nghiên cứu được giải thích cụ thể về mục đích nghiên cứu.

Việc thu thập số liệu chỉ được thực hiện khi có sự đồng ý tự nguyện và bằng văn bản của người tham gia nghiên cứu Đồng thời, cần đảm bảo tính bí mật cho thông tin nghiên cứu để bảo vệ quyền lợi của người tham gia.

Số liệu chỉ được phục vụ cho nghiên cứu khoa học.

Nghiên cứu nhằm bảo vệ và nâng cao công tác chăm sóc sức khỏe cho NCT, không nhằm mục đích nào khác.

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

Đặc điểm dân số, xã hội học và bệnh lý học

3.1.1 Đặc điểm dân số, xã hội của NCT tham gia nghiên cứu

Bảng 3.1: Đặc điểm dân số, xã hội của mẫu nghiên cứu (n = 109) Đặc điểm Tần số (n) Tỷ lệ %

Số người sống chung trong gia đình

Tự đánh giá tình trạng tài chính bản thân

Tự đánh giá về chi phí y tế của bản thân

Mẫu dân số của chúng tôi có tuổi trung bình 71, với độ tuổi từ 64 đến 76 Tỷ lệ nam nữ gần như tương đương, lần lượt là 56% và 44% Đối tượng nghiên cứu chủ yếu là dân tộc Kinh, chiếm hơn 95%, trong khi dân tộc Hoa là nhóm thiểu số Trình độ học vấn phân bố khá đồng đều ở các cấp học, nhưng tỷ lệ người có trình độ học vấn từ trung học cơ sở trở xuống cao, đạt 55,5% Chỉ có 11,8% đạt trình độ đại học và 1,8% có trình độ sau đại học Phần lớn người cao tuổi đến từ khu vực thành thị, chiếm 67,3%, trong khi tỷ lệ sống ở nông thôn là 32,7% Tỷ lệ người cao tuổi theo tôn giáo cũng đáng kể, với 64%, trong đó đạo Phật chiếm ưu thế nhất với 49%.

Trong nhóm nghiên cứu của chúng tôi, 70% (n = 77) người cao tuổi (NCT) hiện đang có vợ hoặc chồng Hơn 99% trong số họ vẫn sống cùng gia đình, với gần 30% sống trong gia đình lớn có hơn 5 thành viên Chỉ có một người sống một mình Trung bình, mỗi NCT có khoảng 4 người con, với số lượng con cái dao động từ 0 đến một con số nhất định.

10, có 4 người hoàn toàn không có con, có 2 người có đến 10 người con Con vẫn là lực lượng chính chăm sóc cho NCT chiếm 61% (n = 66), còn lại 30% (n

= 33) là được sự chăm sóc từ vợ/ chồng, rất ít trường hợp nhận được sự chăm sóc từ họ hàng (6,4%).

Tài chính là một vấn đề quan trọng trong chi phí điều trị của người cao tuổi (NCT) tại Việt Nam Hơn 85% NCT cảm thấy an tâm vì có con cái hỗ trợ tài chính, trong khi gần 14,7% bệnh nhân gặp khó khăn về mặt kinh tế Đặc biệt, 20% NCT tự đánh giá chi phí y tế là gánh nặng, trong đó có 2,8% cho rằng chi phí y tế là quá cao, đến mức không thể chi trả được.

3.1.2 Đặc điểm bệnh lý của mẫu nghiên cứu

Bảng 3.2: Đặc điểm bệnh lý của NCT tham gia nghiên cứu (n = 109) Đặc điểm Tần số (n) Tỷ lệ %

Chẩn đoán bệnh ung thư

Thời gian mắc bệnh ung thư

Chẩn đoán bệnh đồng mắc

Trầm cảm, rối loạn lo âu 1 0,9

Bệnh mạch vành, Nhồi máu cơ tim cũ 4 3,7

Bệnh tim thiếu máu cục bộ 17 15,6 Đái tháo đường 28 25,7

Số thuốc uống mỗi ngày trước nhập viện

< 5 28 25,7 Điểm độc lập về ADL trước nhập viện

6 50 45,9 Đánh giá hoạt động chức năng ECOG

Than phiền khó chịu nhất hiện tại Đau 60 55,0

Buồn nôn, nôn 26 23,9 Ăn kém 68 62,4

Mẫu nghiên cứu của chúng tôi bao gồm nhiều loại ung thư khác nhau, trong đó ung thư phổi chiếm tỷ lệ cao nhất với 20,2% (n = 22), tiếp theo là ung thư gan.

Trong nghiên cứu, 18,3% (n = 20) người tham gia mắc ung thư phổi, 14,7% (n = 16) mắc ung thư đại tràng, và tiếp theo là ung thư dạ dày và tụy Đáng chú ý, có đến 40,4% (n = 44) trường hợp được chẩn đoán ung thư đã ở giai đoạn tiến triển Hơn nữa, 62% người cao tuổi trong mẫu nghiên cứu có bệnh đồng mắc kèm theo.

Ba bệnh phổ biến nhất hiện nay là tăng huyết áp, đái tháo đường và bệnh tim thiếu máu cục bộ Trong đó, có 15,5% số người cao tuổi mắc hơn 3 bệnh đồng mắc Đặc biệt, 74,3% (n = 81) trong mẫu nghiên cứu cho thấy tình trạng đa thuốc, với việc họ uống hơn 5 loại thuốc mỗi ngày.

Trong mẫu nghiên cứu, tình trạng hoạt động chức năng của người cao tuổi (NCT) chủ yếu vẫn độc lập, với 45,9% (n = 50) có điểm số ADL đạt 6 điểm Tuy nhiên, có 11,9% (n = 13) hoàn toàn phụ thuộc vào người chăm sóc, và 17,4% (n) có điểm số ECOG = 4, cho thấy họ hoàn toàn sinh hoạt tại giường.

Trong mẫu nghiên cứu, gánh nặng triệu chứng mà người cao tuổi phải đối mặt rất lớn, với tình trạng ăn uống kém chiếm 62,4% Cảm giác mệt mỏi thể chất đứng ở vị trí thứ hai với tỷ lệ 59,6%, tiếp theo là triệu chứng đau đớn đạt 55% Ngoài ra, còn có sự khó chịu do buồn nôn, nôn ói và khó thở.

Biểu đồ 3.1: Đặc điểm bệnh ung thư của mẫu nghiên cứu

Biểu đồ 3.2: Đặc điểm bệnh kèm theo của mẫu nghiên cứu

Thực quản Thận Bàng quang Buồng trứng

Cổ tử cung Trực tràng Khác

Dạ dày Tụy Đại tràng Gan Phổi

Trầm cảm, rối loạn lo âu

Gout Rung nhĩ Cushing do thuốc Bệnh mạch vành, MI cũ

Thoái hóa khớp Nhồi máu não cũ

COPD Bệnh thận mạn Rối loạn lipid máu Viêm gan siêu vi B, C Bệnh tim thiếu máu cục bộ Đái tháo đường Tăng huyết áp

Nguyện vọng chăm sóc cuối đời

3.2.1 Đặc điểm hiểu biết về bệnh và lo lắng cuối đời của mẫu nghiên cứu

Bảng 3.3: Đặc điểm hiểu biết bệnh, lo lắng cuối đời của mẫu nghiên cứu Đặc điểm Tần số (n) Tỷ lệ %

Người sẽ nghe các thông tin về sức khỏe, bệnh và tiên lượng bệnh

Chỉ bản thân Ông/ Bà 1 0,9

Chỉ gia đình (người thân) 25 22,9

Cả NB và người thân 83 76,1

Biết chẩn đoán ung thư

Biết tiên lượng thời gian sống

Từng nghĩ về việc lập kế hoạch chăm sóc y tế cuối đời

Thoải mái bàn luận về sự ra đi

Lo lắng lớn nhất vào giai đoạn cuối đời Đau đớn 51 46,8

Khó khăn về tài chính 11 10,1

Không thể lên thiên đàng 2 1,8

Khi hấp hối thì điều gì là quan trọng nhất trong chăm sóc cuối đời

40 Ở cạnh người thân, gia đình 56 51,4

Cảm thấy bình an, thanh thản 28 25,7

Đa số người cao tuổi (NCT) cảm thấy không muốn là gánh nặng cho gia đình, với 31% có cảm giác này Họ mong muốn được lắng nghe và tôn trọng những ước muốn của bản thân, trong đó 76,1% (n = 83) muốn chia sẻ thông tin về sức khỏe, tình trạng và tiên lượng bệnh cùng người thân Chỉ có 22,9% từ chối việc nghe bác sĩ chia sẻ thông tin bệnh Đặc biệt, có một trường hợp NCT chỉ muốn bác sĩ chia sẻ tình trạng bệnh của mình mà không muốn người khác biết.

Theo nghiên cứu, 71,6% người cao tuổi (NCT) biết mình mắc bệnh ung thư, nhưng chỉ 55% trong số đó (n = 60) hiểu rõ tình trạng bệnh của mình đang diễn tiến và di căn xa Đặc biệt, chỉ 38,5% (n = 42) biết rằng tiên lượng sống của họ chỉ còn tính theo tháng Gần 90% (n = 98) NCT không có ý định lập kế hoạch chăm sóc y tế cuối đời, tuy nhiên, 79,8% (n = 87) cảm thấy thoải mái khi thảo luận về sự ra đi, trong khi chỉ 20,2% (n = 22) cảm thấy lo lắng và sợ hãi về điều này.

Biểu đồ 3.3: Lo lắng lớn nhất giai đoạn cuối đời

Biểu đồ nghiên cứu chỉ ra rằng nỗi lo lắng lớn nhất của đa số người cao tuổi vào giai đoạn cuối đời là sự đau đớn, với tỷ lệ 46,8% (n = 51) Tiếp theo, 33% (n = 36) lo sợ phải rời xa con cái và người thân yêu Ngoài ra, 13,8% (n = 15) lo ngại về tình trạng khó thở và 10,1% (n = 11) bày tỏ nỗi lo về khó khăn tài chính.

Biểu đồ 3.4: Điều quan trọng khi hấp hối

Khi hỏi về điều quan trọng đối với NCT khi đến giai đoạn hấp hối, đa số nguyện vọng được ở cạnh bên người thân và gia đình chiếm 51,4% (n = 56),

Tàn phế Không thể lên thiên đàng

Cô đơn Khó khăn về tài chính

Khó thở Rời xa các con Đau đớn

41,3 51,4 Được lắng nghe và tôn trọng mong ước của bản thân Cảm thấy bình an, thanh thản

Cảm thấy mình không là gánh nặng của gia đình

Không đau đớn Ở cạnh người thân, gia đình

42 tiếp đến có 41,3% (n = 45) cho rằng không đau đớn là điều rất quan trọng, có 28,4% (n = 31) mong muốn mình không là gánh nặng của gia đình vào giai đoạn cuối đời.

3.2.2 Đặc điểm nguyện vọng CSCĐ của mẫu nghiên cứu

Bảng 3.4: Đặc điểm nguyện vọng CSCĐ của mẫu nghiên cứu Đặc điểm Tần số (n) Tỷ lệ %

Khi không ăn uống được, có muốn truyền dịch dinh dưỡng vào mạch máu

Khi không thể thở, có muốn được đặt ống thở, máy giúp thở

Khi hấp hối, có muốn ép tim ngoài lồng ngực để hỗ trợ tim đập tiếp

Nơi tử vong mong muốn

Khi được hỏi vào giai đoạn cuối đời, 56% người cao tuổi (n = 61) không muốn tiếp tục nhận dịch dinh dưỡng, trong khi 32,1% (n = 35) lại mong muốn được truyền thêm dịch dinh dưỡng hỗ trợ.

Hơn 60% người tham gia khảo sát cho biết họ sẽ từ chối các biện pháp như đặt ống thở và ép tim ngoài lồng ngực khi ở giai đoạn cuối đời Trong khi đó, có 11,9% (n = 13) không bày tỏ quan điểm cá nhân và để người khác quyết định Đặc biệt, 76,1% (n = 83) người cao tuổi mong muốn được qua đời tại nhà, chỉ 5,5% (n = 6) muốn mất tại bệnh viện, và 18,3% (n = 20) có quan điểm khác mà không chia sẻ.

3.2.3 Đặc điểm quan niệm về sự ra đi tốt đẹp của mẫu nghiên cứu

Bảng 3.5: Đặc điểm quan niệm về sự ra đi tốt đẹp của mẫu nghiên cứu Đặc điểm Tần số (n) Tỷ lệ %

Thể chất nhẹ nhàng, không đau đớn

Tinh thần được thanh thản, bình an

Nơi mất rất quan trọng

Nơi chôn cất rất quan trọng

Niềm tin vào tôn giáo

Người thân rất quan trọng để an tâm ra đi

Mong muốn được chữa hết khả năng, đến phút cuối thì thôi

Giai đoạn cuối tùy con lo liệu

Lo buồn, sợ ra đi

Biểu đồ 3.5: Quan niệm về sự ra đi tốt đẹp

Kết quả khảo sát cho thấy, 63,3% người cao tuổi mong muốn có một quá trình ra đi nhẹ nhàng, không đau đớn Bên cạnh đó, 23,8% cho rằng sự an tâm cho người thân là rất quan trọng, họ hy vọng người thân sẽ được sống hạnh phúc và thu xếp chu toàn trước khi họ ra đi Cuối cùng, 15,6% người cao tuổi mong muốn được ra đi trong tinh thần thanh thản, bình an và thuận theo tự nhiên.

Biểu đồ 3.6: Thời gian phỏng vấn của bộ câu hỏi

Chúng tôi cũng ghi nhận thời gian phỏng vấn trung bình của bộ câu hỏi dao động trong 26-35 phút.

Thể chất nhẹ nhàng, không đau đớn Người thân rất quan trọng trước khi an tâm ra đi

Tinh thần được thanh thản, bình an

Mong muốn được chữa hết khả năng, đến phút cuối thì thôi

Nơi chôn cất rất quan trọng Giai đoạn cuối tùy con lo liệu

Lo buồn, sợ ra đi Niềm tin vào tôn giáo Nơi mất rất quan trọng Không muốn chia sẻ

Liên quan giữa đặc điểm dân số, xã hội, bệnh lý với nguyện vọng truyền

Bảng 3.6: Liên quan giữa đặc điểm dân số, xã hội với nguyện vọng truyền dinh dưỡng nhân tạo trong CSCĐ Đặc điểm

Khi không ăn uống được, có muốn truyền dịch dinh dưỡng p Có

Số người sống chung trong gia đình

Tự đánh giá tình trạng tài chính bản thân

Tự đánh giá về chi phí y tế của bản thân

47 ¢ Kiểm định chính xác Fisher

Phân tích cho thấy yếu tố tài chính ảnh hưởng đến mong muốn truyền thêm dịch dinh dưỡng trong chăm sóc sức khỏe cuối đời, với p = 0,014 Cụ thể, 56,3% những người có tình trạng tài chính dư dả mong muốn nhận dịch dinh dưỡng, trong khi chỉ có 23,4% ở nhóm tài chính trang trải được có cùng mong muốn Đối với nhóm người cao tuổi có tài chính khó khăn, 50% vẫn bày tỏ nguyện vọng truyền thêm dịch dinh dưỡng, trong khi 31,3% từ chối và 18,8% chưa suy nghĩ về vấn đề này trong giai đoạn cuối đời.

Gánh nặng chi phí y tế có mối liên hệ thống kê với nguyện vọng nhận thêm dịch dinh dưỡng trong CSCĐ (p = 0,007) Trong nhóm người cao tuổi, 58,8% cho rằng chi phí y tế không phải là vấn đề và mong muốn tiếp tục nhận hỗ trợ dinh dưỡng, trong khi chỉ 22,9% trong nhóm có chi phí y tế chấp nhận được có cùng mong muốn Đối với nhóm có gánh nặng chi phí y tế cao, 36,8% cũng bày tỏ nguyện vọng này Trong số những người cho rằng chi phí y tế quá tốn kém, có 2 trong 3 trường hợp vẫn muốn nhận thêm dịch dinh dưỡng, trong khi 1 trường hợp không chia sẻ quan điểm.

Các yếu tố như nhóm tuổi, giới tính, dân tộc, chỉ số BMI, trình độ học vấn, nơi sống, tôn giáo, tình trạng hôn nhân, tình trạng gia đình, số con cái và quy mô gia đình không có mối liên hệ với nguyện vọng nhận được sự hỗ trợ dinh dưỡng trong giai đoạn cuối đời.

Bảng 3.7: Liên quan giữa đặc điểm bệnh lý học với nguyện vọng truyền dinh dưỡng nhân tạo trong CSCĐ Đặc điểm

Khi không ăn uống được, có muốn truyền dịch dinh dưỡng p

Không chia sẻ (n, %) Chẩn đoán bệnh ung thư

Số thuốc uống mỗi ngày trước nhập viện

Thời gian mắc ung thư

Biết chẩn đoán ung thư

Biết tiên lượng thời gian sống

Không 22 (32,8) 40 (59,7) 5 (7,5) Điểm độc lập về ADL trước nhập viện

6 17 (34,0) 27 (54,0) 6 (12,0) Đánh giá hoạt động chức năng ECOG trước nhập viện

4 6 (31,6) 13 (68,4) 0 (0) ¢ Kiểm định chính xác Fisher

Hiểu biết về diễn tiến bệnh có ảnh hưởng đến nguyện vọng truyền thêm dịch dinh dưỡng, với p = 0,034 Trong nhóm người cao tuổi (NCT) biết diễn tiến bệnh, chỉ 25% mong muốn nhận thêm dinh dưỡng, thấp hơn so với 40,8% trong nhóm không biết diễn tiến bệnh.

Biến số đặc điểm tình trạng bệnh lý còn lại, không có liên quan với nguyện vọng truyền thêm dịch dinh dưỡng.

3.4 Liên quan giữa đặc điểm dân số, xã hội, bệnh lý với nguyện vọng đặt ống thở, thở máy trong CSCĐ

Bảng 3.8: Liên quan giữa đặc điểm dân số, xã hội với đặt ống thở, máy giúp thở trong CSCĐ Đặc điểm

Khi không thể thở, có muốn được đặt ống thở, thở máy p

Số người sống chung trong gia đình

Tự đánh giá tình trạng tài chính bản thân

Tự đánh giá về chi phí y tế của bản thân

Kết quả kiểm định chính xác Fisher cho thấy yếu tố tài chính cá nhân có ảnh hưởng đáng kể đến nguyện vọng đặt ống thở và sử dụng máy giúp thở trong giai đoạn cuối đời, với giá trị p lần lượt là 0,004 và 0,002.

Trong một nghiên cứu về quyết định sử dụng ống thở và thở máy trong cấp cứu, chúng tôi nhận thấy rằng 68,8% những người có điều kiện kinh tế dư dả từ chối can thiệp này, cao hơn đáng kể so với chỉ 25% ở nhóm có kinh tế khó khăn Ngược lại, trong nhóm có điều kiện kinh tế chật vật, 56,3% vẫn bày tỏ mong muốn sử dụng ống thở và thở máy.

Trong bối cảnh gánh nặng chi phí y tế, một nghiên cứu cho thấy rằng 70,6% đến 71,4% người tham gia từ chối việc đặt ống thở và thở máy trong giai đoạn cuối đời, cao hơn so với 31,6% ở nhóm có chi phí y tế tốn kém Ngược lại, trong nhóm gặp khó khăn về chi phí, tỷ lệ người cao tuổi mong muốn được đặt ống thở và thở máy dao động từ 47,4% đến 66,7%, cho thấy sự khác biệt rõ rệt trong quyết định chăm sóc sức khỏe giữa hai nhóm này.

Bảng 3.9: Liên quan giữa đặc điểm bệnh lý học với nguyện vọng đặt ống thở, thở máy trong CSCĐ Đặc điểm

Khi không thể thở, có muốn được đặt ống thở và máy giúp thở p

Không chia sẻ (n, %) Chẩn đoán bệnh ung thư

Số thuốc uống mỗi ngày trước nhập viện

Thời gian mắc ung thư

Biết chẩn đoán ung thư

Biết tiên lượng thời gian sống

Không 16 (23,9) 46 (68,7) 5 (7,5) Điểm độc lập về ADL trước nhập viện

6 17 (34,0) 27 (54,0) 6 (12,0) Đánh giá hoạt động chức năng ECOG trước nhập viện

4 2 (10,5) 17 (89,5) 0 (0) ¢ Kiểm định chính xác Fisher

Trong khảo sát về nguyện vọng sử dụng ống thở và máy thở trong giai đoạn cuối đời, chúng tôi không tìm thấy mối liên hệ có ý nghĩa thống kê nào giữa các biến số bệnh lý và quyết định này.

Liên quan giữa đặc điểm dân số, xã hội, bệnh lý với nguyện vọng hồi sức

Bảng 3.10: Liên quan giữa đặc điểm dân số, xã hội với nguyện vọng hồi sức tim phổi trong CSCĐ Đặc điểm

Khi hấp hối, có muốn ép tim ngoài lồng ngực để hỗ trợ tim đập tiếp p Có

Số người sống chung trong gia đình

Tự đánh giá tình trạng tài chính bản thân

Tự đánh giá về chi phí y tế của bản thân

Quá tốn kém 2 (66,7) 0 (0) 1 (33,3) ¢ Kiểm định chính xác Fisher

Phân tích cho thấy nguyện vọng hồi sức tim phổi và ép tim ngoài lồng ngực khi hấp hối có mối liên quan thống kê đáng kể với tình trạng kinh tế của người cao tuổi, cũng như gánh nặng chi phí y tế, với giá trị p lần lượt là 0,002 và 0,005.

Nhóm có điều kiện kinh tế tốt đa phần (75 – 70,1%) từ chối hồi sức tim phổi trong giai đoạn cuối đời, cao hơn so với nhóm có tài chính khó khăn (25%) Trong khi đó, 56,3% người thuộc nhóm tài chính chật vật lại bày tỏ mong muốn được hồi sức.

Về gánh nặng chi phí y tế, đa số (76,5% - 71,4%) trong nhóm không gặp vấn đề đã từ chối hồi sức tim phổi, trong khi chỉ có 36,8% trong nhóm có chi phí y tế tốn kém Đặc biệt, nhóm người cao tuổi (NCT) với gánh nặng chi phí y tế tốn kém và quá tốn kém thể hiện nguyện vọng hồi sức tim phổi cao hơn, với tỷ lệ lần lượt là 42,1% và 66,7%.

Các đặc điểm dân số, xã hội khác độc lập với nguyện vọng hồi sức tim phổi vào giai đoạn cuối đời.

Bảng 3.11: Liên quan giữa đặc điểm bệnh lý học với nguyện vọng hồi sức tim phổi trong CSCĐ Đặc điểm

Khi hấp hối, có muốn ép tim ngoài lồng ngực để hỗ trợ tim đập tiếp p Có

Không chia sẻ (n, %) Chẩn đoán bệnh ung thư

Số thuốc uống mỗi ngày trước nhập viện

Thời gian mắc ung thư

Biết chẩn đoán ung thư

Biết tiên lượng thời gian sống

Không 15 (22,4) 47 (70,1) 5 (7,5) Điểm độc lập về ADL trước nhập viện

6 15 (30,0) 29 (58,0) 6 (12,0) Đánh giá hoạt động chức năng ECOG trước nhập viện

4 2 (10,5) 17 (89,5) 0 (0) ¢ Kiểm định chính xác Fisher

Các biến số về bệnh lý học cũng ghi nhận độc lập với nguyện vọng hồi sức tim phổi, ép tim ngoài lồng ngực vào giai đoạn cuối đời.

Liên quan giữa đặc điểm dân số, xã hội, bệnh lý với nơi tử vong mong muốn

Bảng 3.12: Liên quan giữa đặc điểm dân số, xã hội với nơi tử vong mong muốn Đặc điểm

Nơi tử vong mong muốn Bệnh viện p

Số người sống chung trong gia đình

Tự đánh giá tình trạng tài chính bản thân

Tự đánh giá về chi phí y tế của bản thân

Không thành vấn đề 0 (0) 14 (82,4) 3 (17,6) 0,726 ¢ Chấp nhận được 6 (8,6) 51 (72,9) 13 (18,6)

Quá tốn kém 0 (0) 2 (66,7) 1 (33,3) ¢ Kiểm định chính xác Fisher

Nghiên cứu cho thấy nguyện vọng về nơi tử vong có liên quan đến chỉ số BMI, với p = 0,025 Đáng chú ý, đa số người tham gia mong muốn được chết tại nhà, trong đó 90,9% thuộc nhóm BMI thiếu cân, 71,7% ở nhóm BMI bình thường và 17,4% ở nhóm người cao tuổi thừa cân.

Bảng 3.13: Liên quan giữa đặc điểm bệnh lý học với nơi tử vong mong muốn Đặc điểm

Nơi tử vong mong muốn p Bệnh viện

Không chia sẻ (n, %) Chẩn đoán bệnh ung thư

Số thuốc uống mỗi ngày trước nhập viện

Thời gian mắc ung thư

Biết chẩn đoán ung thư

Biết tiên lượng thời gian sống

Không 4 (6,0) 54 (80,6) 9 (13,4) Điểm độc lập về ADL trước nhập viện

6 3 (6,0) 34 (68,0) 13 (26,0) Đánh giá hoạt động chức năng ECOG trước nhập viện

4 0 (0) 19 (100) 0 (0) ¢ Kiểm định chính xác Fisher

Khảo sát về nguyện vọng nơi tử vong cho thấy hầu hết các yếu tố bệnh lý không có mối liên hệ độc lập với nguyện vọng này Tuy nhiên, tình trạng hoạt động chức năng ADL có ý nghĩa thống kê với p = 0,018 Đặc biệt, nhóm người cao tuổi có điểm ADL giới hạn từ 0 đến 2 thường có nguyện vọng muốn tử vong tại nhà.

BÀN LUẬN

Đặc điểm dân số, xã hội học và bệnh lý học

4.1.1 Đặc điểm dân số, xã hội của NCT tham gia nghiên cứu

Mẫu nghiên cứu của chúng tôi, mặc dù không lớn, đã thu thập được một nhóm đa dạng về độ tuổi, với 19% (n = 21) người tham gia từ 80 tuổi trở lên Đặc biệt, tỷ lệ theo tôn giáo trong mẫu khá cao, đạt 64%, trong đó gần một nửa là người theo đạo Phật Điều này phản ánh đúng thực trạng dân số theo Tổng điều tra Dân số và Nhà ở tại Việt Nam năm 2019, cho thấy đạo Phật có tỷ lệ người theo khá lớn.

Trái ngược với xu hướng giảm kích thước gia đình hạt nhân, 70% người cao tuổi trong nhóm chúng tôi vẫn có vợ hoặc chồng Hơn 99% người cao tuổi vẫn sống cùng gia đình, đặc biệt là trong các gia đình lớn với hơn 5 thành viên.

Theo thống kê, 60,9% người cao tuổi (NCT) nhận được sự chăm sóc từ con cái, trong khi chỉ 30% được chăm sóc bởi vợ hoặc chồng Số lượng NCT còn lại chủ yếu được chăm sóc bởi họ hàng, cho thấy vai trò quan trọng của gia đình trong việc chăm sóc người cao tuổi.

Có thể do phần lớn sống chung với gia đình nên đa số NCT vẫn nhận được chu cấp tài chính từ con.

Chỉ có 14,5% người cao tuổi tự đánh giá gặp khó khăn về tài chính Việc khảo sát chi phí y tế cho nhóm này cũng gặp nhiều thách thức, bởi vì người cao tuổi thường không trực tiếp chi trả viện phí Do đó, gánh nặng chi phí y tế trong nghiên cứu này được đánh giá chủ quan Gần 20% người cao tuổi cho rằng chi phí y tế quá tốn kém.

So với nghiên cứu của Lê Đại Dương năm 2017, mẫu nghiên cứu hiện tại tương tự, bao gồm 47 người cao tuổi (NCT) điều trị nội trú tại khoa Lão - CSGN, với độ tuổi trung bình là 73 (dao động từ 60 đến 97 tuổi), trong đó có 15% là đại lão.

50% người cao tuổi (NCT) dưới 75 tuổi, chủ yếu đến từ nông thôn (64%) với tỷ lệ mù chữ rất thấp (4%) Tỷ lệ học vấn ở mức trung học cơ sở trở xuống chiếm 66% Đa số NCT có tôn giáo, chủ yếu là Phật giáo và Thiên Chúa giáo Hơn 50% NCT sống trong gia đình lớn với trên 5 thành viên, trong khi chỉ 19% tự đánh giá còn gặp khó khăn về tài chính Tuy nhiên, 40% NCT cho rằng chi phí y tế là một gánh nặng lớn.

4.1.2 Đặc điểm bệnh lý của mẫu nghiên cứu

Mẫu nghiên cứu của chúng tôi cho thấy bệnh ung thư phổi và gan chiếm tỷ lệ cao nhất Tiếp theo là ung thư đường tiêu hóa, bao gồm đại tràng, tụy và dạ dày Đặc biệt, 40,4% bệnh nhân khi được chẩn đoán đã ở giai đoạn tiến triển của bệnh.

Theo thống kê, 62% người cao tuổi (NCT) mắc các bệnh đồng mắc, trong đó tăng huyết áp, đái tháo đường và bệnh tim thiếu máu cục bộ là ba bệnh phổ biến nhất Đáng chú ý, 15,5% NCT gặp phải tình trạng mắc hơn 3 bệnh đồng thời Hơn nữa, 74,3% NCT phải sử dụng nhiều hơn 5 loại thuốc mỗi ngày, cho thấy tình trạng đa thuốc đang gia tăng trong nhóm đối tượng này.

Nghiên cứu của tác giả Shen (2018) tại miền Nam Châu Phi cho thấy dân số chủ yếu là người da đen hoặc đa chủng tộc, chiếm 95%, trong đó phụ nữ chiếm 62% Tỷ lệ mắc các loại ung thư bao gồm ung thư vú 37,1% (82 ca), ung thư phổi 23,5% (52 ca), ung thư dạ dày 22,2% (49 ca) và ung thư tuyến tụy hoặc đường mật 13,5% (30 ca) Đa thuốc thông thường được định nghĩa là tình trạng khi bệnh nhân sử dụng nhiều loại thuốc cùng lúc.

Đa thuốc đã được chứng minh liên quan đến việc tăng tỷ lệ té ngã ở người cao tuổi, gia tăng tác dụng phụ, tăng gánh nặng điều trị, giảm tuân thủ điều trị, dẫn đến kê đơn kiểu dòng thác và tăng tỷ lệ tử vong Trong một nghiên cứu, tình trạng hoạt động chức năng của người cao tuổi cho thấy 45,9% có điểm số ADL là 6, trong khi 11,9% hoàn toàn phụ thuộc vào người chăm sóc và 17,4% có điểm số ECOG = 4, tức là chỉ có thể sinh hoạt tại giường.

Nghiên cứu cho thấy người cao tuổi đang phải đối mặt với nhiều triệu chứng khó chịu, trong đó tình trạng ăn uống kém chiếm tỷ lệ cao nhất với 62,4% Điều này cho thấy sự cần thiết phải chú ý đến sức khỏe dinh dưỡng của NCT để cải thiện chất lượng cuộc sống.

66 mệt mỏi thể chất chiếm 59,6%, triệu chứng đau đớn chiếm tỷ lệ rất cao 55%, còn lại là sự khó chịu về buồn nôn, nôn ói, khó thở.

Như vậy, NB ung thư cần tiếp cận điều trị chăm sóc giảm nhẹ để kiểm soát triệu chứng và cải thiện chất lượng sống.

Mô tả nguyện vọng CSCĐ của NCT bệnh ung thư giai đoạn IV

4.2.1 Đặc điểm hiểu biết về bệnh và lo lắng cuối đời của mẫu nghiên cứu

Theo một khảo sát, 76,1% người cao tuổi mong muốn bác sĩ giải thích và chia sẻ thông tin về sức khỏe, tình trạng bệnh và tiên lượng sống còn với họ và người thân Chỉ có 22,9% trường hợp từ chối nhận thông tin từ bác sĩ Đặc biệt, có một trường hợp muốn bác sĩ chỉ chia sẻ tình trạng bệnh với bản thân mà không muốn người khác nghe cùng.

Cụ bà mã số nghiên cứu 084, góa chồng, có trình độ đại học và chỉ một người con, tự chăm sóc bản thân và nhận thức rõ tình trạng bệnh của mình Mặc dù biết rằng bệnh tình đang trở nên nghiêm trọng và thời gian sống còn ngắn, bà quyết định giấu diếm tình trạng này với con để không trở thành gánh nặng cho gia đình Bà đã lập di chúc cho con, nhưng lại không lập kế hoạch chăm sóc y tế cho những ngày cuối đời của mình.

Nghiên cứu của Lê Đại Dương cho thấy chỉ có 56% người cao tuổi (NCT) mong muốn cả bản thân và gia đình biết thông tin xấu về sức khỏe Đáng chú ý, 38% trong số đó chỉ muốn gia đình nắm rõ thông tin, trong khi bản thân họ không muốn biết.

Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ người bệnh ung thư ở Việt Nam thấp hơn so với các quốc gia có nền văn hóa tương tự Nghiên cứu trên đối tượng người bệnh ung thư ở châu Á chỉ ra rằng họ rất mong muốn bác sĩ trung thực trong việc trao đổi thông tin về bệnh tình của mình Tại Đài Loan, các nghiên cứu toàn quốc cũng cho thấy phần lớn người bệnh ung thư giai đoạn cuối có xu hướng muốn nhận thông tin rõ ràng về tình trạng sức khỏe của họ.

72,5% bệnh nhân ung thư tại Nhật Bản mong muốn nắm rõ thông tin về tình trạng bệnh của mình thay vì chỉ để người nhà biết Việc cung cấp thông tin trực tiếp cho bệnh nhân giúp họ tự chủ hơn trong việc hiểu và quản lý tình trạng sức khỏe của mình.

67% bệnh nhân muốn biết thông tin về tiên lượng sống còn của bản thân, trong khi 65,5% người cao tuổi trong nghiên cứu về bệnh nhân ung thư gốc châu Á mong muốn nhận được nhiều thông tin về bệnh Gần 90% trong số họ cũng muốn có người thân bên cạnh khi nhận thông tin xấu về tình trạng sức khỏe.

Nghiên cứu của Shen tại miền Nam Châu Phi cho thấy 97,7% bệnh nhân (216 NB) không có cuộc thảo luận về chăm sóc sức khỏe cuối đời với bác sĩ, tỷ lệ này cao hơn so với 37% bệnh nhân ung thư tiến triển tại Hoa Kỳ và 60% ở Trung Quốc Đặc biệt, 76,9% bệnh nhân cho biết họ không muốn biết thời gian sống còn lại, mặc dù bác sĩ của họ biết thông tin này.

NCT thường mong muốn hiểu rõ về bệnh tình của mình và cảm thấy thoải mái khi có thông tin chính xác Tuy nhiên, nhiều người thân lại không muốn chia sẻ trung thực tình trạng bệnh với bệnh nhân Do đó, trong thực hành lâm sàng, các bác sĩ cần tìm hiểu ý muốn của cả bệnh nhân và người nhà trước khi thông báo tin xấu, từ đó khuyến khích người thân tôn trọng mong muốn của bệnh nhân Việc này sẽ giúp bệnh nhân có cơ hội hiểu rõ tình trạng bệnh của mình và nhận được thông tin phù hợp.

Theo ghi nhận, 71,6% người cao tuổi (NCT) biết mình mắc bệnh ung thư, nhưng chỉ có 55% trong số họ hiểu rõ tình trạng diễn tiến của bệnh, bao gồm cả khả năng di căn đến nhiều cơ quan Đáng chú ý, chỉ 38,5% NCT nhận thức được tiên lượng sống ngắn hạn của mình, thường chỉ tính theo tháng.

So với các nghiên cứu trước, tỷ lệ bệnh nhân ung thư giai đoạn cuối mong muốn biết tiên lượng sống của mình ở Pakistan là 60%, Brazil 92%, Trung Quốc 79% và Ấn Độ 92% Ngược lại, trong nghiên cứu của Lê Đại Dương, 2/3 số người cao tuổi không hiểu biết về chẩn đoán và tiên lượng bệnh ung thư của họ, có thể do mẫu nghiên cứu bao gồm cả bệnh nhân ung thư và không ung thư.

Nghiên cứu của Shen cho thấy chỉ có 13 (5,9%) người tham gia thừa nhận mắc bệnh ung thư, trong khi chỉ 9 (4,1%) ước tính đúng rằng họ chỉ còn sống được vài tháng Đáng chú ý, 187 (84,6%) người bệnh không thể ước lượng tuổi thọ của mình, điều này ảnh hưởng đến khả năng lập kế hoạch chăm sóc y tế trong tương lai.

Chỉ có 6% người bệnh hiểu rõ tình trạng bệnh của họ ở giai đoạn cuối, một con số thấp hơn nhiều so với tỷ lệ 39% ở người da trắng, 27% ở người da đen và 11% ở người gốc Tây Ban Nha hoặc La tinh tại Hoa Kỳ.

Nghiên cứu của Yoo cho thấy rằng 53,3% bệnh nhân và 30,7% người chăm sóc chính không nhận thức rõ về tình trạng bệnh trầm trọng và không thể chữa khỏi, dẫn đến niềm tin rằng bệnh vẫn có thể được điều trị thành công.

Hầu hết những người bệnh ung thư giai đoạn cuối đều khao khát có được thông tin chi tiết về tình trạng bệnh và dự đoán khả năng sống sót của họ.

BS thường không tiết lộ tiên lượng cho bệnh nhân ung thư, khiến họ có niềm tin sai lầm rằng bệnh có thể chữa khỏi, mặc dù thực tế họ đang ở giai đoạn cuối của cuộc đời.

Liên quan giữa đặc điểm dân số, xã hội, bệnh lý với nguyện vọng truyền

Yếu tố tài chính ảnh hưởng đến mong muốn truyền thêm dịch dinh dưỡng trong chăm sóc sức khỏe cuối đời (CSCĐ) với p = 0,014 Nhóm có tình trạng tài chính dư dả có xu hướng cao hơn trong việc muốn nhận thêm dịch dinh dưỡng so với nhóm có khả năng kinh tế hạn chế Trong số những người cao tuổi (NCT) có tình trạng tài chính khó khăn, 50% vẫn bày tỏ mong muốn truyền thêm dịch dinh dưỡng, trong khi 31,3% từ chối và 18,8% chưa có ý kiến rõ ràng về vấn đề này.

Gánh nặng chi phí y tế có mối liên hệ thống kê với nguyện vọng truyền thêm dịch dinh dưỡng trong CSCĐ Nhóm NCT cho rằng chi phí y tế không phải là vấn đề lớn, nên họ có xu hướng muốn nhận thêm dịch dinh dưỡng nhiều hơn so với nhóm có tình trạng chi phí y tế chấp nhận được Trong số những người cảm thấy gánh nặng chi phí y tế là tốn kém, chỉ có 36,8% bày tỏ mong muốn này Đặc biệt, trong ba trường hợp cho rằng chi phí y tế quá cao, hai trường hợp vẫn muốn nhận thêm hỗ trợ dinh dưỡng, trong khi một trường hợp không có ý kiến rõ ràng.

Các yếu tố như nhóm tuổi, giới tính, dân tộc, chỉ số BMI, trình độ học vấn, nơi sống, tôn giáo, tình trạng hôn nhân, tình trạng gia đình, số con cái và quy mô gia đình không có mối liên hệ với nguyện vọng nhận hỗ trợ dinh dưỡng trong chương trình CSCĐ.

Nghiên cứu chỉ ra rằng nhóm người có điều kiện kinh tế khá thường có xu hướng tìm kiếm cơ hội kéo dài sự sống và sử dụng nhiều dịch vụ y tế hơn so với nhóm người cao tuổi có hoàn cảnh khó khăn Trong chăm sóc sức khỏe cộng đồng, bác sĩ và điều dưỡng cần nhận thức rõ tình trạng kinh tế của bệnh nhân, đặc biệt là những trường hợp khó khăn, để đảm bảo họ vẫn được tiếp cận và nhận hỗ trợ y tế cần thiết.

Riêng biến số về hiểu biết biến diễn tiến bệnh liên quan có ý nghĩa thống kê với nguyện vọng tiếp tục truyền thêm dịch dinh dưỡng p = 0,034 Nhóm

Bản quyền tài liệu này thuộc về Thư viện Đại học Y Dược TP.HCM

Chỉ có 25% bệnh nhân NCT biết diễn tiến bệnh ở giai đoạn đã di căn xa mong muốn nhận thêm dinh dưỡng, thấp hơn so với 40,8% ở nhóm không biết diễn tiến bệnh.

Không có mối liên hệ giữa nguyện vọng truyền thêm dịch dinh dưỡng và các yếu tố như loại bệnh ung thư, số lượng bệnh đồng mắc, tình trạng đa thuốc, thời gian mắc bệnh ung thư, kiến thức về chẩn đoán ung thư, hiểu biết về tiên lượng sống ngắn, cũng như tình trạng hoạt động chức năng ADL và chỉ số ECOG.

Nghiên cứu của tác giả Shin Hye Yoo và cộng sự (2019) tại Hàn Quốc đã đánh giá mối liên quan giữa sự hiểu biết về tình trạng bệnh và thảo luận về kế hoạch chăm sóc y tế trong tương lai (ACP), cũng như nguyện vọng chăm sóc sức khỏe cho bệnh nhân ung thư tiến triển và các thành viên gia đình của họ.

Người bệnh ung thư tiến triển có hiểu biết về tình trạng bệnh và tiên lượng sống tính bằng tháng thường ít mong muốn điều trị tích cực hơn (p = 0,016), đồng thời tăng khả năng thảo luận về kế hoạch chăm sóc trước khi cần thiết (ACP) với gia đình (p = 0,011) so với những người không hiểu rõ tình trạng bệnh Đối với các thành viên gia đình, sự hiểu biết về bệnh có mối liên hệ chặt chẽ với việc lập kế hoạch chăm sóc (AD) (p = 0,017) Khi nhận thức rằng tiên lượng sống chỉ tính bằng tháng, đa số bệnh nhân không thích điều trị tích cực (p = 0,014) và từ chối các phương pháp điều trị duy trì sự sống (p = 0,022).

Trong khảo sát về mong muốn hỗ trợ dinh dưỡng trong chăm sóc sức khỏe cộng đồng, nhóm người cao tuổi (NCT) có điều kiện kinh tế khá giả có xu hướng mong muốn nhận hỗ trợ dinh dưỡng tĩnh mạch hơn so với nhóm khác Tuy nhiên, khi hiểu rõ tình trạng và diễn tiến bệnh ở giai đoạn trầm trọng, nhóm NCT này lại có xu hướng từ chối hỗ trợ thêm dịch dinh dưỡng Do đó, để thảo luận và lập kế hoạch chăm sóc (ACP) hiệu quả, bệnh nhân cần hiểu rõ tình trạng bệnh, tiến triển và tiên lượng sống ngắn hạn tính theo tháng, nhằm tránh các điều trị vô ích và lãng phí.

Bản quyền tài liệu này thuộc về Thư viện Đại học Y Dược TP.HCM

Liên quan giữa đặc điểm dân số, xã hội, bệnh lý với nguyện vọng sử dụng

Trong nguyện vọng sử dụng ống thở và máy thở trong CSCĐ, yếu tố tài chính cá nhân và gánh nặng chi phí y tế có ý nghĩa thống kê với p = 0,004 và p = 0,002.

Trong một nghiên cứu, nhóm người có điều kiện kinh tế dư dả cho thấy 68,8% từ chối việc đặt ống thở và thở máy trong trường hợp cấp cứu, cao hơn nhiều so với chỉ 25% ở nhóm có kinh tế khó khăn Ngược lại, trong nhóm có điều kiện kinh tế chật vật, 56,3% lại bày tỏ mong muốn được can thiệp y tế này.

Trong nghiên cứu về gánh nặng chi phí y tế, có sự khác biệt rõ rệt giữa các nhóm Cụ thể, 70,6% đến 71,4% những người không gặp gánh nặng chi phí từ chối đặt ống thở và thở máy trong giai đoạn cuối đời, trong khi chỉ có 31,6% ở nhóm có chi phí y tế cao thực hiện điều này Ngược lại, trong nhóm có gánh nặng chi phí y tế tốn kém, tỷ lệ người cao tuổi mong muốn được đặt ống thở và thở máy lại cao hơn, dao động từ 47,4% đến 66,7%.

Các biến số về bệnh lý không có mối liên quan có ý nghĩa thống kê với nguyện vọng đặt ống thở - thở máy trong CSCĐ

Hồi sức tim phổi và ép tim ngoài lồng ngực trong tình trạng hấp hối có mối liên hệ thống kê đáng kể với tình trạng kinh tế và gánh nặng chi phí y tế, với p lần lượt là 0,002 và 0,005.

Nhóm có điều kiện kinh tế dư dả cho thấy 70,1% từ chối hồi sức tim phổi vào giai đoạn cuối đời, cao hơn so với 25% ở nhóm có tình trạng tài chính chật vật Trong khi đó, 56,3% những người trong nhóm tài chính khó khăn lại mong muốn được hồi sức.

Về gánh nặng chi phí y tế, nhóm không thành vấn đề cho thấy sự chấp nhận cao, với 76,5% - 71,4% từ chối hồi sức tim phổi, trong khi nhóm có chi phí y tế tốn kém chỉ là 36,8% Đặc biệt, nhóm người cao tuổi (NCT) với gánh nặng chi phí y tế tốn kém và quá tốn kém lại có nguyện vọng hồi sức tim phổi cao hơn, đạt 42,1% và 66,7%.

Bản quyền tài liệu này thuộc về Thư viện Đại học Y Dược TP.HCM

Nghiên cứu chỉ ra rằng, khi hỏi về quan niệm của người cao tuổi (NCT) trong giai đoạn cuối đời, cần chú ý đến việc không can thiệp vào hiểu biết về tình trạng bệnh và tiên lượng sống Nhóm NCT có điều kiện kinh tế khá thường từ chối các phương pháp điều trị y tế trong giai đoạn chăm sóc cuối đời, vì họ nhận thức rằng những liệu pháp này không còn lợi ích Ngược lại, nhóm có kinh tế khó khăn thường gặp khó khăn trong việc hiểu rõ chẩn đoán và tiên lượng, dẫn đến việc họ vẫn mong muốn có cơ hội sống, mặc dù bệnh đã ở giai đoạn cuối Do đó, bác sĩ cần đặc biệt chú ý đến hoàn cảnh kinh tế - xã hội của NCT để lắng nghe và giải thích rõ ràng hơn cho nhóm có điều kiện kinh tế thấp.

Nghiên cứu của Lê Đại Dương chỉ ra rằng hai yếu tố chính ảnh hưởng đến thái độ sống mãnh liệt là điểm số ECOG cao và việc sinh sống tại khu vực nông thôn.

Khi chỉ số ECOG cao, chức năng hoạt động của bệnh nhân giảm, dẫn đến cảm giác mệt mỏi và gánh nặng triệu chứng tăng lên, khiến họ cần nhiều hỗ trợ y tế hơn Sự nhận thức về tình trạng sức khỏe kém đi cũng khiến bệnh nhân có xu hướng muốn sống lâu hơn Đây là những vấn đề tâm lý thường gặp ở giai đoạn cuối của bệnh Bác sĩ và điều dưỡng cần nhận biết và trao đổi với bệnh nhân và gia đình về những vấn đề này, giải đáp thắc mắc và tư vấn các phương pháp điều trị cùng với lợi ích và nguy cơ liên quan Điều này giúp bệnh nhân tái lập mục tiêu chăm sóc và tránh các điều trị không cần thiết, đặc biệt là đối với những bệnh nhân sống ở khu vực nông thôn.

Bản quyền tài liệu này thuộc về Thư viện Đại học Y Dược TP.HCM

Nghiên cứu cho thấy, người dân nông thôn thường có thái độ đồng ý hơn với việc sống bằng mọi giá, điều này có thể do mức độ hiểu biết về y tế thấp hơn so với thành phố Họ thường gặp khó khăn trong việc hiểu chẩn đoán và tiên lượng bệnh, dẫn đến việc đặt ra mục tiêu chăm sóc không phù hợp, đặc biệt khi bệnh đã ở giai đoạn cuối Thêm vào đó, tâm lý giấu bệnh, đặc biệt là ung thư, vẫn tồn tại do lo ngại về sự lây lan hoặc do quan niệm về nghiệp xấu Sự thiếu hụt thông tin về bệnh tật và giai đoạn bệnh cũng là một vấn đề lớn Hệ thống y tế ở nông thôn thường kém phát triển và chất lượng dịch vụ không cao, khiến người dân khi vào bệnh viện lớn ở thành phố thường mong muốn được chữa khỏi Vì vậy, việc phát triển mạng lưới chăm sóc tại nhà dựa vào y tế phường xã là rất cần thiết để đảm bảo bệnh nhân được chăm sóc gần gũi với gia đình.

Nghiên cứu của Yoo cho thấy rằng bệnh nhân ung thư tiến triển có hiểu biết về tình trạng bệnh và tiên lượng sống tính bằng tháng thường ít có mong muốn điều trị tích cực hơn (p = 0,016) Họ cũng thảo luận về kế hoạch chăm sóc trước (ACP) với gia đình nhiều hơn so với nhóm không hiểu rõ tình trạng bệnh (p = 0,011) Đối với các thành viên gia đình và người chăm sóc chính, có mối liên quan thống kê chặt chẽ giữa việc hiểu biết về bệnh và việc lập kế hoạch chăm sóc (AD) (p = 0,017) Khi biết rằng tiên lượng sống chỉ tính bằng tháng, phần lớn bệnh nhân không thích điều trị tích cực.

Nghiên cứu cho thấy có sự khác biệt đáng kể trong việc từ chối các điều trị duy trì sự sống (p = 0,022), nhưng không có mối liên hệ rõ ràng giữa hiểu biết về bệnh tật và các lựa chọn ưu tiên với CSGN sớm Việc thảo luận với bệnh nhân và người chăm sóc về hậu quả, rủi ro và lợi ích của các lựa chọn điều trị trong tương lai khi bệnh tiến triển sẽ giúp giảm sự lựa chọn chăm sóc tích cực, cải thiện chất lượng sống và tâm trạng của bệnh nhân, đồng thời giảm tác động tâm lý tiêu cực của các chăm sóc tích cực lên người thân trong giai đoạn cuối đời.

Bản quyền tài liệu này thuộc về Thư viện Đại học Y Dược TP.HCM

Nghiên cứu cho thấy việc thảo luận chi tiết về tình trạng bệnh và tiên lượng sống có tác động tích cực đến quyết định của người bệnh (NB) và người chăm sóc Sự tham gia của người thân là rất quan trọng, vì hiểu biết của họ về tình trạng bệnh và tiên lượng sống liên quan chặt chẽ đến các cuộc thảo luận về kế hoạch chăm sóc Người chăm sóc chính đóng vai trò then chốt trong việc khuyến khích NB tham gia vào việc bày tỏ nguyện vọng trong quá trình chăm sóc.

Chúng tôi nhận thấy rằng chỉ một tỷ lệ nhỏ người bệnh (NB) thảo luận về Kế hoạch Chăm sóc Nâng cao (ACP) mà không ghi chép lại Khi NB và người chăm sóc hiểu rõ về tình trạng bệnh tiến triển và tiên lượng sống ngắn, họ có xu hướng thảo luận về ACP với nhau nhiều hơn so với việc trao đổi với bác sĩ.

Bác sĩ nên thảo luận về rủi ro và lợi ích của các phương pháp điều trị dược phẩm với người bệnh Sự hợp tác giữa người bệnh, bác sĩ và gia đình có thể giúp giảm thiểu việc điều trị không hiệu quả.

[72], dẫn đến tăng khả năng thảo luận ACP, phù hợp với giá trị cá nhân, mong muốn và niềm tin của chính NB

Liên quan giữa đặc điểm dân số, xã hội, bệnh lý với nơi tử vong mong muốn

Nghiên cứu về nguyện vọng nơi tử vong cho thấy có mối liên hệ thống kê với chỉ số BMI, với p = 0,025 Đặc biệt, phần lớn người tham gia mong muốn được chết tại nhà, trong đó 90,9% thuộc nhóm thiếu cân, 71,7% ở nhóm BMI bình thường và chỉ 17,4% ở nhóm người cao tuổi thừa cân.

Khảo sát về nguyện vọng nơi tử vong cho thấy hầu hết các yếu tố bệnh lý không có mối liên hệ độc lập với nguyện vọng này Tuy nhiên, tình trạng hoạt động chức năng ADL có ý nghĩa thống kê với p = 0,018 Đặc biệt, nhóm người cao tuổi có điểm ADL giới hạn 0, 1, 2 thường có nguyện vọng muốn tử vong tại nhà.

Một nghiên cứu của tác giả Gomes đã chỉ ra rằng các yếu tố làm tăng khả năng bệnh nhân (NB) muốn mất tại nhà bao gồm mức độ hoạt động chức năng thấp, thời gian bệnh kéo dài, sự hỗ trợ từ gia đình, mong muốn của bệnh nhân được mất tại nhà, sự đồng thuận từ gia đình về nguyện vọng này, và tình trạng kinh tế xã hội tốt Trong đó, yếu tố ảnh hưởng mạnh nhất là việc nhận dịch vụ chăm sóc tại nhà và cường độ chăm sóc tại nhà.

Bản quyền tài liệu này thuộc về Thư viện Đại học Y Dược TP.HCM

Nghiên cứu cho thấy rằng tỷ lệ mất tại nhà tăng lên theo độ tuổi, với OR cao hơn ở những người lớn tuổi Gomes cũng đã chứng minh hiệu quả điều trị và chi phí cho cả bệnh nhân và người nhà thông qua một tổng quan hệ thống của COCHRANE, cho thấy khả năng bệnh nhân có thể mất tại nhà cao hơn và giảm bớt gánh nặng triệu chứng cho họ.

Một trong những lý do chính khiến người bệnh (NB) chuyển từ nhà sang bệnh viện là nỗi sợ hãi và cảm giác bất lực của người chăm sóc.

Khi triệu chứng không thể kiểm soát, dịch vụ chăm sóc tại nhà với hỗ trợ 24/7 có thể giúp người bệnh và gia đình quản lý tình huống mà không cần nhập viện Việc phát triển hệ thống chăm sóc người già và lão khoa tại nhà, kết hợp với mạng lưới bác sĩ gia đình và y tế tại phường xã, không chỉ giảm bớt chi phí y tế mà còn mở rộng khả năng chăm sóc giảm nhẹ đến cả vùng nông thôn Đây là một chiến lược quan trọng trong việc cải thiện hệ thống y tế, tạo điều kiện cho người bệnh được chăm sóc tại nhà.

Hạn chế của đề tài

Đề tài này khám phá những vấn đề nhạy cảm và mới mẻ trong văn hóa Việt Nam như CSCĐ, các phương thức điều trị đặc biệt, sự ra đi tốt đẹp và nơi mong muốn tử vong Việc can thiệp giáo dục trước khi tiến hành khảo sát và đánh giá quan niệm về những vấn đề này là rất cần thiết Tuy nhiên, do hạn chế về thời gian và nguồn lực, nghiên cứu viên không thể can thiệp vào việc hiểu biết tình trạng bệnh, diễn tiến nghiêm trọng, tiên lượng sống ngắn chỉ tính bằng tháng, cũng như không giải thích thêm về tiến trình và tác động của các phương thức điều trị Nghiên cứu chỉ ghi nhận quan niệm và nguyện vọng của bệnh nhân tại thời điểm phỏng vấn, mà những quan niệm này có thể không phản ánh đúng tình trạng bệnh và diễn tiến của họ.

Nghiên cứu chỉ ghi nhận quan niệm của những người cao tuổi (NCT) có sức khỏe ổn định và có khả năng xuất viện, dẫn đến cỡ mẫu nhỏ và không đại diện cho toàn bộ dân số Các nghiên cứu tiếp theo cần chú trọng vào việc giải thích rõ tình trạng bệnh, diễn tiến bệnh, tiên lượng sống ngắn cho cả bệnh nhân và gia đình, cùng với việc cung cấp tư vấn cần thiết.

Bản quyền tài liệu này thuộc về Thư viện Đại học Y Dược TP.HCM

Các lợi ích và nguy cơ của các kế hoạch điều trị cần được hiểu rõ bởi cả người bệnh và gia đình Điều này khuyến khích sự thảo luận về nguyện vọng trong chăm sóc sức khỏe Qua đó, chúng ta có thể đánh giá chính xác hơn nguyện vọng chăm sóc sức khỏe phù hợp với từng cá nhân và giá trị của người bệnh.

Bản quyền tài liệu này thuộc về Thư viện Đại học Y Dược TP.HCM

Ngày đăng: 01/07/2021, 13:35

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Đàm Viết Cương, Trần Thị Mai Anh, cộng sự (2006). “Đánh giá tình hình chăm sóc sức khỏe cho người cao tuổi ở Việt Nam”. Viện chiến lược và chính sách Y tế Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đánh giá tình hình chăm "sóc sức khỏe cho người cao tuổi ở Việt Nam
Tác giả: Đàm Viết Cương, Trần Thị Mai Anh, cộng sự
Năm: 2006
2. Lê Đại Dương (2017). “Đánh giá thái độ và ý muốn của bệnh nhân cao tuổi về kế hoạch chăm sóc cuối đời và các phương tiện duy trì sự sống”. Luận văn tốt nghiệp nội trú. Đại Học Y Dược TPHCM Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đánh giá thái độ và ý muốn của bệnh nhân cao tuổi về kế hoạch chăm sóc cuối đời và các phương tiện duy trì sự sống”. "Luận văn tốt "nghiệp nội trú
Tác giả: Lê Đại Dương
Năm: 2017
3. Nguyễn Thị Lan Thanh (2015). “Khảo sát tình trạng hạn chế chức năng và mối liên quan với bệnh lý đi kèm ở người cao tuổi trong công đồng xã Vĩnh Thành, huyện Chợ Lách, tỉnh Bến Tre”. Luận văn thạc sĩ. Đại học Y dược Thành phố Hồ Chí Minh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Khảo sát tình trạng hạn chế chức năng và mối liên quan với bệnh lý đi kèm ở người cao tuổi trong công đồng xã Vĩnh Thành, huyện Chợ Lách, tỉnh Bến Tre”. "Luận văn thạc sĩ
Tác giả: Nguyễn Thị Lan Thanh
Năm: 2015
4. Tổng cục thống kê (2010). “Kết quả chủ yếu của Tổng điều tra dân số và nhà ở”. Nhà xuất bản Thống kê 2010 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Kết quả chủ yếu của Tổng điều tra dân số và nhà ở
Tác giả: Tổng cục thống kê
Nhà XB: Nhà xuất bản Thống kê 2010
Năm: 2010
5. Trần Văn Long (2015). “Tình hình sức khỏe người cao tuổi và thử nghiệm can thiệp nâng cao kiến thức thực hành phòng chống bệnh tăng huyết áp tại 2 xã huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định giai đoạn 2011-2012”. Luận văn tiến sĩ. Trường Đại học Y tế Công cộng Hà Nội.TIẾNG ANH Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tình hình sức khỏe người cao tuổi và thử nghiệm can thiệp nâng cao kiến thức thực hành phòng chống bệnh tăng huyết áp tại 2 xã huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định giai đoạn 2011-2012”. "Luận văn tiến sĩ
Tác giả: Trần Văn Long
Năm: 2015
6. Office of the Assistant Secretary for Planning and Evaluation, Advance Directives and Advance Care Planning: Report to Congress, 2008, U.S. Department of Health and Human Services: USA Sách, tạp chí
Tiêu đề: Office of the Assistant Secretary for Planning and Evaluation, Advance Directives "and Advance Care Planning: Report to Congress, 2008, U.S. Department of
7. Abegunde D.O., Mathers C.D., et al. (2007). “The burden and costs of chronic diseases in low-income and middle-income countries”. The Lancet, 370(9603), pp. 1929-1938 Sách, tạp chí
Tiêu đề: The burden and costs of chronic diseases in low-income and middle-income countries”. "The Lancet
Tác giả: Abegunde D.O., Mathers C.D., et al
Năm: 2007
8. Bai Q., Zhang Z., et al. (2010). “Attitudes towards palliative care among patients and health professionals in Henan, China”. Progress in Palliative Care, 18(6), pp. 341-345.Bản quyền tài liệu này thuộc về Thư viện Đại học Y Dược TP.HCM Sách, tạp chí
Tiêu đề: Attitudes towards palliative care among patients and health professionals in Henan, China”. "Progress in Palliative Care
Tác giả: Bai Q., Zhang Z., et al
Năm: 2010

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN