Nghiên cứu được thực hiện với mục tiêu xây dựng và kiểm định mô hình nghiên cứu ảnh hưởng của việc sử dụng thông tin kế toán quản trị đến năng lực thuận hai tay và KQHĐKD, ảnh hưởng của năng lực thuận hai tay đến KQHĐKD trong các doanh nghiệp Việt Nam. Bên cạnh đó, nghiên cứu cũng kiểm định ảnh hưởng gián tiếp của việc sử dụng thông tin kế toán quản trị đến KQHĐKD thông qua năng lực thuận hai tay trong các doanh nghiệp Việt Nam.
Sự cần thiết của đề tài
Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đang tạo ra cơ hội phát triển kinh tế - xã hội cho Việt Nam, với quá trình chuyển đổi số diễn ra trên mọi lĩnh vực (Bộ Thông tin và Truyền thông, 2018b) Việt Nam không chỉ đầu tư vào công nghệ thông tin mà còn thực hiện các cải cách để tối ưu hóa tiềm năng của thời đại và những tiến bộ khoa học công nghệ, nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh và tạo lợi thế cạnh tranh bền vững cho doanh nghiệp (Vũ Minh Khương, 2019) Theo Diễn đàn kinh tế thế giới 2019, chỉ số năng lực cạnh tranh 4.0 (GCI 4.0) của Việt Nam đã có sự cải thiện đáng kể.
Việt Nam đã cải thiện 10 bậc trong bảng xếp hạng, từ vị trí 77 lên vị trí 67 Tuy nhiên, vẫn còn 8/12 trụ cột năng lực cạnh tranh của quốc gia này có thứ hạng thấp hoặc rất thấp so với mức trung bình chung.
Mức độ năng động trong kinh doanh của Việt Nam xếp hạng 89, trong khi năng lực đổi mới sáng tạo đạt thứ hạng 76, theo báo cáo của Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương.
Năng lực cạnh tranh yếu là thách thức lớn đối với kết quả hoạt động kinh doanh (KQHĐKD) của doanh nghiệp Việt Nam, theo khảo sát VNR500 của Vietnam Report (2018) Để thích ứng với môi trường kinh doanh cạnh tranh hiện nay, các doanh nghiệp cần nỗ lực đổi mới sáng tạo, phát triển sản phẩm và dịch vụ mới, đồng thời khai thác hiệu quả các năng lực hiện tại Sự thành công bền vững đòi hỏi doanh nghiệp phải đáp ứng nhu cầu hiện tại và chuẩn bị cho tương lai, phát triển đồng thời cả hoạt động đổi mới theo hướng khai thác và khám phá Hệ thống kế toán quản trị (KTQT) đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp thông tin cho nhà quản trị, giúp họ lập kế hoạch, kiểm soát và ra quyết định hiệu quả Bên cạnh đó, KTQT cũng được xem là nguồn lực quan trọng cho lợi thế cạnh tranh, góp phần nâng cao KQHĐKD cho doanh nghiệp.
Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng việc kết hợp hai hoạt động đổi mới, bao gồm khai thác và khám phá, mang lại lợi ích đáng kể cho tổ chức (He & Wong, 2004; Cao).
Các doanh nghiệp cần phát triển và duy trì năng lực thuận hai tay, điều này đã được nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng phụ thuộc vào các yếu tố như cấu trúc tổ chức, bối cảnh và lãnh đạo (Jansen & cộng sự, 2006; Raisch & Birkinshaw, 2008; Simsek & cộng sự, 2009) Mặc dù vai trò của các nhà quản trị được công nhận, vẫn còn thiếu bằng chứng thực nghiệm về ảnh hưởng của TTKTQT trong việc thúc đẩy năng lực này Việc theo đuổi đồng thời các hoạt động mâu thuẫn là một thách thức lớn (Benner & Tushman, 2003), do đó, các nhà quản trị cần sự hỗ trợ từ TTKTQT để đạt được mục tiêu.
Các nghiên cứu của 2008 và Dekker & cộng sự (2013) cho thấy rằng các công ty áp dụng chiến lược hỗn hợp thường có hệ thống đo lường KQHĐKD phức tạp hơn, kết hợp thông tin tài chính và phi tài chính để quản lý mục tiêu cạnh tranh một cách cân bằng Bedford (2015) đã kiểm tra vai trò của các đòn bẩy kiểm soát trong việc thúc đẩy KQHĐKD trong bối cảnh doanh nghiệp thuận hai tay Đồng thời, Severgnini & cộng sự (2018) đã phân tích ảnh hưởng của ba khía cạnh hệ thống đo lường KQHĐKD (sự tập trung chú ý, hợp pháp hóa và ra quyết định chiến lược) đến năng lực thuận hai tay và KQHĐKD.
Tác giả chỉ ra rằng các nghiên cứu hiện tại chủ yếu tập trung vào hệ thống đo lường kết quả hoạt động kinh doanh (KQHĐKD) và chủ yếu được thực hiện ở các nước phát triển, như đã đề cập trong các công trình của Lillis & van Veen-Dirks (2008), Dekker và cộng sự (2013), Bedford (2015) và Severgnini cùng các tác giả khác.
Nghiên cứu về việc sử dụng thông tin trong TTKTQT vẫn còn hạn chế, đặc biệt là trong việc kết hợp giữa đặc điểm thông tin và phương pháp sử dụng thông tin, ngoại trừ một số nghiên cứu trước đó Chưa có nghiên cứu nào kiểm định mối quan hệ giữa các khía cạnh của TTKTQT, năng lực thuận hai tay và KQHĐKD trong bối cảnh doanh nghiệp tại thị trường mới nổi như Việt Nam Do đó, cần tiếp tục nghiên cứu để làm rõ mối quan hệ này, giúp doanh nghiệp Việt Nam định hướng đầu tư vào hệ thống KTQT phù hợp, từ đó phát triển năng lực thuận hai tay và đạt được KQHĐKD vượt trội.
Việc sử dụng TTKTQT, năng lực thuận hai tay và KQHĐKD trong các doanh nghiệp Việt Nam để làm luận án tiến sĩ.
Mục tiêu nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu
Câu hỏi nghiên cứu
(3) Nghiên cứu ảnh hưởng trực tiếp của năng lực thuận hai tay đến KQHĐKD trong các doanh nghiệp Việt Nam
Nghiên cứu này tập trung vào việc phân tích ảnh hưởng gián tiếp của việc sử dụng TTKTQT thông qua hai khía cạnh chính: đặc điểm thông tin và phương pháp sử dụng thông tin Mục tiêu là làm rõ mối quan hệ giữa những yếu tố này với kết quả hoạt động kinh doanh (KQHĐKD), đặc biệt là thông qua năng lực thuận hai tay.
Việc sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông quốc tế (TTKTQT) có ảnh hưởng đáng kể đến năng lực thuận hai tay trong các doanh nghiệp Việt Nam Sự tích hợp của TTKTQT không chỉ cải thiện hiệu quả công việc mà còn nâng cao khả năng tương tác và phối hợp giữa các nhân viên Mức độ ảnh hưởng thể hiện rõ qua việc tăng cường kỹ năng làm việc nhóm và khả năng thích ứng với công nghệ mới, từ đó góp phần nâng cao năng suất lao động và sự cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường quốc tế.
Việc sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông quốc tế (TTKTQT) có ảnh hưởng đáng kể đến kết quả hoạt động kinh doanh (KQHĐKD) trong các doanh nghiệp Việt Nam Các khía cạnh như tối ưu hóa quy trình làm việc, nâng cao khả năng tiếp cận thị trường và cải thiện dịch vụ khách hàng đều góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh Mức độ ảnh hưởng của TTKTQT còn phụ thuộc vào khả năng áp dụng và tích hợp công nghệ trong từng doanh nghiệp, từ đó tạo ra sự cạnh tranh và phát triển bền vững.
Câu hỏi 3: Năng lực thuận hai tay có ảnh hưởng đến KQHĐKD trong các doanh nghiệp Việt Nam hay không? Mức độ ảnh hưởng như thế nào?
Việc sử dụng TTKTQT có ảnh hưởng gián tiếp đến KQHĐKD trong các doanh nghiệp Việt Nam thông qua việc nâng cao năng lực thuận hai tay Năng lực này không chỉ cải thiện hiệu suất làm việc mà còn góp phần vào việc ra quyết định nhanh chóng và chính xác hơn Mức độ ảnh hưởng của TTKTQT đến KQHĐKD phụ thuộc vào khả năng áp dụng và tích hợp các công nghệ mới vào quy trình làm việc, từ đó tạo ra lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp.
Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng kết hợp PPNC định tính và PPNC định lượng Quy trình nghiên cứu được thực hiện qua hai giai đoạn như sau:
Trong giai đoạn đầu tiên, mô hình nghiên cứu và thang đo cho các khái niệm được xác định dựa trên lý thuyết và tổng quan nghiên cứu trước Tác giả xây dựng dàn bài thảo luận với các chuyên gia để điều chỉnh thang đo cho phù hợp với doanh nghiệp Việt Nam Để đảm bảo tính rõ ràng, tác giả gửi phiếu khảo sát đến 8 nhà quản trị cấp trung và cao để nhận phản hồi Sau khi hoàn thiện, tác giả phác thảo phiếu khảo sát nháp và tiến hành thu thập dữ liệu sơ bộ Khi có 100 phản hồi đầu tiên, tác giả sẽ thực hiện phân tích Cronbach’s alpha và phân tích nhân tố khám phá (EFA) bằng phần mềm SPSS.
Để đánh giá độ tin cậy và giá trị của các thang đo, cần thực hiện 20 bước quan trọng Kết quả từ quá trình này sẽ hỗ trợ tác giả hoàn thiện phiếu khảo sát, chuẩn bị cho việc thu thập dữ liệu chính thức.
Trong giai đoạn thứ hai, tác giả sẽ tiến hành gửi phiếu khảo sát chính thức đến các nhà quản trị cấp cao và cấp trung tại các doanh nghiệp vừa và lớn ở Việt Nam Hai phương thức thu thập dữ liệu sẽ được áp dụng, bao gồm phiếu khảo sát giấy và gửi đường link khảo sát qua email, nhằm đảm bảo thu thập đủ dữ liệu cần thiết cho nghiên cứu Sau khi thu thập dữ liệu, tác giả sẽ sử dụng phần mềm SmartPLS 3 để phân tích, bao gồm đánh giá mô hình đo lường, kiểm tra sự phù hợp của mô hình cấu trúc, kiểm định các giả thuyết nghiên cứu và thực hiện một số kiểm định bổ sung khác.
Đóng góp của luận án
Nghiên cứu này dự kiến sẽ cung cấp những đóng góp quan trọng về lý thuyết và thực tiễn quản lý cho các nhà quản trị doanh nghiệp Việt Nam, các nhà nghiên cứu trong lĩnh vực kinh tế quốc tế, cũng như cho học viên và sinh viên chuyên ngành kế toán.
Thứ nhất, luận án sẽ góp phần bổ sung vào dòng nghiên cứu về việc sử dụng
TTKTQT một số nội dung như sau:
Luận án này là một trong số ít nghiên cứu kết hợp cả hai khía cạnh của việc sử dụng TTKTQT, bao gồm đặc điểm thông tin và phương pháp sử dụng thông tin, nhằm cung cấp cái nhìn toàn diện hơn về vấn đề này.
Luận án này sẽ đóng góp vào nghiên cứu kinh tế quốc tế bằng cách áp dụng lý thuyết bất định qua phương pháp tiếp cận trung gian, nhằm làm rõ ảnh hưởng của các yếu tố trong việc sử dụng thương mại kinh tế quốc tế đến kết quả hoạt động kinh doanh, được giải thích thông qua năng lực thuận hai tay.
Thứ hai, luận án cũng sẽ góp phần bổ sung vào dòng nghiên cứu mới nổi về năng lực thuận hai tay một số điểm như sau:
Mặc dù lợi ích của năng lực thuận hai tay đã được công nhận, nhưng vẫn còn thiếu nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng đến năng lực này Một số yếu tố như cơ cấu tổ chức, bối cảnh tổ chức và sự lãnh đạo đã được xác định là quan trọng Nghiên cứu này chỉ ra rằng TTKTQT đóng vai trò như một nguồn lực quan trọng, thúc đẩy năng lực thuận hai tay và nâng cao kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Nghiên cứu này tập trung vào năng lực thuận hai tay từ góc độ năng lực động, nhấn mạnh rằng đây là một yếu tố thiết yếu cho các doanh nghiệp hoạt động trong môi trường cạnh tranh và năng động như Việt Nam Năng lực thuận hai tay không chỉ là một khả năng đặc biệt mà các doanh nghiệp có thể đạt được, mà còn là một thách thức không nhỏ Do đó, các doanh nghiệp sở hữu năng lực này sẽ có lợi thế cạnh tranh rõ rệt, dẫn đến kết quả hoạt động kinh doanh vượt trội.
Bên cạnh đóng góp về mặt lý thuyết, kết quả nghiên cứu của luận án dự kiến cũng sẽ có những đóng góp thực tiễn như sau:
Nghiên cứu chỉ ra rằng TTKTQT là nguồn lực quan trọng thúc đẩy năng lực thuận hai tay, từ đó nâng cao kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp Kết quả này sẽ giúp nâng cao nhận thức của các nhà quản trị về vai trò của TTKTQT, khuyến khích họ chủ động lên kế hoạch tìm hiểu và triển khai ứng dụng KTQT trong doanh nghiệp.
Nghiên cứu này nhấn mạnh rằng việc đầu tư vào một hệ thống KTQT tinh vi chỉ là một phần, quan trọng hơn là cách mà nhà quản trị sử dụng hệ thống này để đạt hiệu quả Để nâng cao kết quả hoạt động kinh doanh, các nhà quản trị cần sử dụng thông tin từ hệ thống KTQT không chỉ cho mục đích giám sát và đánh giá, mà còn như một công cụ hữu ích để trao đổi, thảo luận, hoạch định chiến lược, chia sẻ và học tập.
Nghiên cứu chỉ ra rằng năng lực thuận hai tay là yếu tố quan trọng đối với sự phát triển của các doanh nghiệp Việt Nam Do đó, các doanh nghiệp cần nỗ lực không ngừng trong việc tìm kiếm và thử nghiệm sản phẩm/dịch vụ mới để đáp ứng nhu cầu của thị trường và khách hàng Bên cạnh đó, việc khai thác và cải tiến các sản phẩm/dịch vụ hiện tại cũng rất cần thiết để phục vụ tốt hơn cho nhu cầu hiện tại của khách hàng.
Luận án này hy vọng sẽ trở thành tài liệu tham khảo quý giá cho các học viên và nhà nghiên cứu quan tâm đến các vấn đề liên quan.
Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, những phần còn lại của luận án được bố cục như sau:
Chương 1: Tổng quan nghiên cứu Trong chương này, tác giả trình bày tổng quát tình hình nghiên cứu cả trong nước và quốc tế, đồng thời đánh giá và chỉ ra những khoảng trống trong nghiên cứu hiện tại, từ đó khẳng định sự cần thiết và tính cấp bách của nghiên cứu này.
Chương 2: Cơ sở lý thuyết sẽ giới thiệu các khái niệm nghiên cứu và lý thuyết nền tảng được áp dụng trong luận án Từ những nội dung này, chương sẽ phát triển mô hình nghiên cứu và đề xuất các giả thuyết nghiên cứu liên quan.
Chương 3: Phương pháp nghiên cứu Chương này mô tả chi tiết các phương pháp nghiên cứu cần thiết cho đề tài, bao gồm cách chọn mẫu, thu thập dữ liệu, thang đo cho các biến và các phương pháp xử lý dữ liệu nghiên cứu.
Chương 4: Kết quả nghiên cứu trình bày các kết quả và thảo luận về nghiên cứu, bao gồm đánh giá mô hình đo lường và sự phù hợp của mô hình cấu trúc Tác giả cũng kiểm định các giả thuyết nghiên cứu liên quan đến ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp, cùng với kết quả từ một số kiểm định bổ sung.
Chương 5: Kết luận và hàm ý trình bày những đóng góp lý thuyết và thực tiễn của luận án, đồng thời đưa ra các hàm ý quản lý cho doanh nghiệp Việt Nam Cuối cùng, chương này cũng nêu rõ những hạn chế của đề tài và đề xuất các hướng nghiên cứu tiếp theo.
TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
Các nghiên cứu trên thế giới về việc sử dụng thông tin kế toán quản trị, năng lực thuận hai tay và kết quả hoạt động kinh doanh
1.1.1 Các nghiên cứu về việc sử dụng thông tin kế toán quản trị và các nhân tố ảnh hưởng đến việc sử dụng thông tin kế toán quản trị
1.1.1.1 Khái quát chung các nghiên cứu về việc sử dụng thông tin kế toán quản trị
Nghiên cứu về việc áp dụng lý thuyết bất định trong TTKTQT được phân thành hai nhóm chính: (1) Nghiên cứu đặc điểm của TTKTQT; (2) Nghiên cứu phương pháp sử dụng TTKTQT.
Về đặc điểm của TTKTQT
Trước khi Chenhall và Morris (1986) công bố bài báo mang tính bước ngoặt, việc áp dụng lý thuyết bất định trong nghiên cứu kế toán đã được nhận thức nhưng thiếu các nghiên cứu thực nghiệm Chỉ có nghiên cứu của Gordon và Narayanan (1984) xem xét mối quan hệ giữa sự không chắc chắn trong môi trường, thông tin kế toán quản trị (TTKTQT) và cơ cấu tổ chức Kết quả cho thấy khi các nhà quản trị nhận thức môi trường kinh doanh là không chắc chắn, họ có xu hướng tăng cường sử dụng TTKTQT để hỗ trợ quyết định.
Năm 1986, Chenhall và Morris đã phát triển và thử nghiệm thang đo nhận thức hữu ích về TTKTQT với bốn khía cạnh: phạm vi rộng, kịp thời, tổng hợp và đồng bộ Kết quả từ 68 nhà quản trị cho thấy phân quyền liên quan đến TTKTQT tổng hợp và đồng bộ, trong khi sự không chắc chắn môi trường ảnh hưởng đến TTKTQT phạm vi rộng và kịp thời Hơn nữa, sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các phòng ban cũng có mối quan hệ với TTKTQT phạm vi rộng, tổng hợp và đồng bộ Nghiên cứu này đóng góp quan trọng cho lý thuyết bất định trong TTKTQT, và nhiều nghiên cứu sau đó đã kế thừa thang đo của Chenhall và Morris, với một số điều chỉnh nhỏ cho phù hợp với bối cảnh cụ thể.
Bảng 1.1: Tổng hợp các nghiên cứu về đặc điểm TTKTQT
Tác giả (năm) Các khía cạnh đặc điểm TTKTQT
Ghi chú: (S) Phạm vi rộng; (A) Tổng hợp; (I) Đồng bộ; (T) Kịp thời
(Nguồn: Tổng hợp của tác giả)
Bảng 1.1 cho thấy ngoại trừ nghiên cứu ban đầu của Chenhall và Morris
Từ năm 1986, một số nghiên cứu đã xem xét bốn khía cạnh đặc điểm của thông tin kế toán quản trị quốc tế (TTKTQT), bao gồm các công trình của Bouwens và Abernethy (2000), Agbejule (2005), Soobaroyen và Poorundersing (2008), Ghasemi và cộng sự (2016), cũng như Ismail và cộng sự (2018) Một số nghiên cứu khác chỉ tập trung vào hai trong bốn khía cạnh, kết hợp giữa phạm vi rộng và một khía cạnh khác, như phạm vi rộng với tổng hợp (Gul & Chia, 1994) hay phạm vi rộng với kịp thời (Fisher, 1996; Tsui, 2001) Đặc biệt, nhiều nghiên cứu chủ yếu tập trung vào khía cạnh phạm vi rộng do vai trò quan trọng của nó trong việc hỗ trợ nhà quản trị thực hiện các chức năng quản trị (Mia & Chenhall, 1994; Chong & Chong, 1997; Mia & Clarke, 1999; Naranjo-Gil & Hartmann, 2007; Mia & Winata, 2008; Cheng, 2012; Bangchokdee).
TTKTQT phạm vi rộng là một khía cạnh quan trọng và được nghiên cứu nhiều, vì nó tập trung vào các yếu tố bên ngoài, phi tài chính và định hướng tương lai Vai trò của TTKTQT phạm vi rộng trong việc hỗ trợ các nhà quản trị thực hiện các chức năng quản trị như hoạch định, kiểm soát và ra quyết định là rất đáng kể (Bouwens & Abernethy, 2000).
Về phương pháp sử dụng TTKTQT
Phương pháp sử dụng TTKTQT (Thông tin tài chính kế toán quốc tế) được xây dựng dựa trên mô hình đòn bẩy kiểm soát (Levers of Control - LOC) của Simons, nhằm tối ưu hóa cách thức áp dụng và quản lý thông tin tài chính trong tổ chức.
Nghiên cứu về các khía cạnh của niềm tin, ranh giới, chẩn đoán và tương tác trong quản trị kinh tế (KTQT) đã được thực hiện từ năm 1995 Trong khi các nghiên cứu liên quan đến đặc điểm của hệ thống thông tin KTQT đã xuất hiện trước những năm 1980, thì nghiên cứu về phương pháp sử dụng hệ thống này chỉ mới bắt đầu gần đây Nghiên cứu lý thuyết của Simons đã mở đường cho nghiên cứu thực nghiệm đầu tiên về phương pháp sử dụng dự toán, được thực hiện bởi Abernethy và Brownell vào năm 1999.
Mặc dù ban đầu có bốn khía cạnh được giới thiệu, chỉ có nghiên cứu của Widener (2007) và Bedford (2015) tập trung vào cả bốn khía cạnh, trong khi hầu hết các nghiên cứu về KTQT chỉ chú trọng vào hai khía cạnh niềm tin và ranh giới (Otley, 2016) Phần lớn các nghiên cứu đã được thực hiện chủ yếu tập trung vào hai phương pháp chẩn đoán và tương tác (Henri, 2006; Naranjo-Gil & Hartmann, 2006; Chong & Mahama, 2014; Marginson & cộng sự, 2014; Bedford & Malmi, 2015; Su & cộng sự, 2015; Guenther & Heinicke, 2019; Müller-Stewens & cộng sự, 2020), và có một số nghiên cứu chỉ tập trung vào phương pháp tương tác (Abernethy).
& Brownell, 1999; Bisbe & Otley, 2004; Abernethy & cộng sự, 2010; Lopez- Valeiras & cộng sự, 2016) Bảng 1.2 trình bày tổng hợp những nghiên cứu về các phương pháp sử dụng TTKTQT
Bảng 1.2: Tổng hợp các nghiên cứu về phương pháp sử dụng TTKTQT
Phương pháp sử dụng TTKTQT
(Nguồn: Tổng hợp của tác giả)
Từ kết quả đánh giá, có thể thấy rằng trong giai đoạn đầu, các nghiên cứu về việc sử dụng TTKTQT chủ yếu tập trung vào đặc điểm của nó, với TTKTQT phạm vi rộng được nghiên cứu nhiều nhất Sự ra đời của cuốn sách của Simons (1995) và nghiên cứu của Abernethy và Brownell (1999) đã thúc đẩy nhiều nghiên cứu về phương pháp sử dụng TTKTQT tương tác và chẩn đoán Tuy nhiên, vẫn còn ít nghiên cứu kết hợp cả hai khía cạnh đặc điểm thông tin và phương pháp sử dụng thông tin, ngoại trừ các nghiên cứu của Naranjo-Gil và Hartmann (2006, 2007) Do đó, đề tài luận án sẽ tiếp tục nghiên cứu để bổ sung vào những nội dung còn thiếu hụt này.
1.1.1.2 Nghiên cứu về các nhân tố ảnh hưởng đến việc sử dụng thông tin kế toán quản trị
Nghiên cứu kinh tế quản trị áp dụng lý thuyết bất định đã có hơn bốn thập kỷ phát triển, mang đến một danh sách dài các yếu tố tác động đến việc sử dụng thông tin kinh tế quản trị quốc tế (TTKTQT) (Chenhall, 2003; Chenhall & Chapman, 2006; Otley, 2016).
Nhân tố sự không chắc chắn môi trường nhận thức
Môi trường bên ngoài đóng vai trò quan trọng trong nghiên cứu kinh tế quốc tế, với sự không chắc chắn môi trường nhận thức là khía cạnh được quan tâm nhiều nhất Nghiên cứu cho thấy sự không chắc chắn này có mối quan hệ tích cực với việc sử dụng hệ thống thông tin kế toán quản trị (TTKTQT) một cách rộng rãi và kịp thời Các tác giả như Chenhall, Otley, Gordon, Narayanan, và Mia đã chỉ ra rằng sự không chắc chắn có thể thúc đẩy việc áp dụng các phương pháp TTKTQT hiệu quả hơn trong bối cảnh kinh doanh hiện nay.
Nghiên cứu năm 2005 chỉ ra rằng việc tăng cường sử dụng các công cụ tài chính quốc tế sẽ cải thiện hiệu quả quản lý, đặc biệt trong bối cảnh môi trường có sự không chắc chắn cao.
Nhân tố mức độ cạnh tranh
Mức độ cạnh tranh là một yếu tố quan trọng trong môi trường bên ngoài, ảnh hưởng đến việc sử dụng TTKTQT Nghiên cứu của Mia và Clarke (1999) chỉ ra rằng mức độ cạnh tranh tác động tích cực đến việc áp dụng TTKTQT rộng rãi, từ đó nâng cao KQHĐKD trong các doanh nghiệp sản xuất tại Úc Tương tự, Bangchokdee và cộng sự (2016) cũng xác nhận rằng mức độ cạnh tranh có ảnh hưởng trực tiếp đến bốn khía cạnh của đặc điểm TTKTQT trong các tổ chức tài chính ở Iran.
Phân quyền là một yếu tố quan trọng trong cơ cấu tổ chức, có ảnh hưởng đến việc sử dụng thông tin kế toán quản trị (TTKTQT) Nghiên cứu của Chenhall và Morris (1986) cho thấy phân quyền không tác động đến nhận thức hữu ích về TTKTQT rộng rãi, nhưng lại có ảnh hưởng tích cực đến nhận thức về TTKTQT tổng hợp và đồng bộ Hơn nữa, nghiên cứu của Chia (1995) chỉ ra rằng phân quyền có vai trò điều tiết trong mối quan hệ giữa việc sử dụng TTKTQT và hiệu quả quản lý.
Nhân tố chiến lược kinh doanh
Các nghiên cứu trong nước về việc sử dụng thông tin kế toán quản trị, năng lực thuận hai tay và kết quả hoạt động kinh doanh
1.2.1 Các nghiên cứu về việc sử dụng thông tin kế toán quản trị và các nhân tố ảnh hưởng đến việc sử dụng thông tin kế toán quản trị
Trong những năm gần đây, nghiên cứu về kế toán quản trị (KTQT) với phương pháp phân tích định lượng tại Việt Nam đã phát triển, chủ yếu tập trung vào các yếu tố ảnh hưởng đến việc áp dụng KTQT và KTQT chiến lược trong doanh nghiệp Nhiều nghiên cứu, như của Đoàn Ngọc Phi Anh (2012) và Vương Thị Nga (2015), đã chỉ ra rằng các yếu tố như áp lực cạnh tranh, mức độ phân quyền, văn hóa tổ chức, chiến lược kinh doanh, quy mô doanh nghiệp, trình độ nhân viên kế toán, và nhận thức của nhà quản trị về KTQT có tác động đáng kể đến việc áp dụng KTQT Hầu hết các nghiên cứu này đã sử dụng lý thuyết bất định để xây dựng mô hình hồi quy đa biến, góp phần làm rõ mối quan hệ giữa các yếu tố này và việc thực hiện KTQT trong các tổ chức.
Năm 2020, một số nghiên cứu đã tiếp cận lý thuyết bất định theo hình thức phù hợp trung gian để chứng minh vai trò trung gian của việc vận dụng KTQT chiến lược Đặc biệt, Đoàn Ngọc Phi Anh (2012) và Doan (2016) đã chỉ ra rằng việc áp dụng KTQT chiến lược có vai trò trung gian trong mối quan hệ giữa cạnh tranh, phân quyền và kết quả hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp vừa và lớn tại Việt Nam Nghiên cứu của Do và Le (2017) cũng nhấn mạnh rằng các đặc điểm bên trong tổ chức và lãnh đạo có ảnh hưởng đến việc áp dụng KTQT hiện đại, góp phần vào thành công trong việc này Gần đây, luận án của Trinh (2019) đã xác nhận vai trò trung gian của KTQT chiến lược trong mối quan hệ giữa vốn trí tuệ và kết quả hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp niêm yết tại Việt Nam.
Luận án này tập trung vào việc sử dụng TTKTQT, đặc biệt dựa trên hai nghiên cứu của Nguyễn Phong Nguyên và Đoàn Ngọc Quế (2016) cùng Nguyen (2018) Hai tác giả đã chứng minh rằng TTKTQT, với các đặc tính VRIN (giá trị, hiếm, khó bắt chước và không thể thay thế), có ảnh hưởng tích cực đến KQHĐKD tài chính Cả hai nghiên cứu cũng chỉ ra rằng TTKTQT đóng vai trò trung gian trong mối quan hệ giữa định hướng thị trường và KQHĐKD Nghiên cứu của Nguyễn Phong Nguyên và Đoàn Ngọc Quế (2016) cho thấy áp lực cạnh tranh điều tiết mối quan hệ này, trong khi nghiên cứu của Nguyen (2018) nhấn mạnh vai trò của KTQT trong quy trình ra quyết định chiến lược Nghiên cứu của Nguyễn Phong Nguyên và Trần Thị Trinh (2018) cũng khẳng định rằng sự tham gia của KTQT vào quyết định chiến lược làm tăng mức độ sử dụng TTKTQT, từ đó cải thiện KQHĐKD của doanh nghiệp.
Nghiên cứu của Nguyen & cộng sự (2017) và Lê Mộng Huyền & cộng sự (2020) nhấn mạnh vai trò quan trọng của TTKTQT phạm vi rộng Kết quả từ Nguyen & cộng sự (2017) cho thấy phong cách lãnh đạo chuyển đổi có ảnh hưởng tích cực đến việc sử dụng TTKTQT phạm vi rộng, hệ thống đo lường KQHĐKD toàn diện và hiệu quả quản lý, nhưng không tác động đến hệ thống khen thưởng Đồng thời, phong cách lãnh đạo chuyển đổi cũng ảnh hưởng gián tiếp đến hiệu quả quản lý thông qua ba yếu tố trung gian Nghiên cứu của Lê Mộng Huyền & cộng sự (2020) dựa trên dữ liệu từ 236 doanh nghiệp nhỏ và vừa cho thấy mức độ cạnh tranh và sự thay đổi chiến lược có tác động tích cực đến việc sử dụng TTKTQT phạm vi rộng, từ đó nâng cao KQHĐKD Hơn nữa, TTKTQT phạm vi rộng đóng vai trò trung gian toàn phần trong mối quan hệ giữa cạnh tranh và KQHĐKD tài chính, cũng như trung gian một phần trong mối quan hệ giữa cạnh tranh và KQHĐKD phi tài chính, cùng với sự thay đổi chiến lược và KQHĐKD tài chính, phi tài chính.
Nghiên cứu của Trần Thị Yến và Nguyễn Phong Nguyên tập trung vào vai trò của Thương mại quốc tế (TTKTQT) trong việc nâng cao năng lực tổ chức Bài viết phân tích các xu hướng nghiên cứu mới nổi và nhấn mạnh tầm quan trọng của TTKTQT trong việc thúc đẩy sự phát triển bền vững của các tổ chức.
Nghiên cứu năm 2019 cho thấy việc sử dụng TTKTQT theo bốn khía cạnh (phạm vi rộng, tổng hợp, đồng bộ và kịp thời) ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa học tập tổ chức và năng lực đổi mới Cả năng lực đổi mới và việc sử dụng TTKTQT đều tác động tích cực đến kết quả hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp lớn tại Việt Nam Nghiên cứu của Lê Mộng Huyền và Nguyễn Phong Nguyên (2019) nhấn mạnh vai trò của TTKTQT phạm vi rộng trong việc thúc đẩy năng lực động, từ đó nâng cao lợi thế cạnh tranh cho các doanh nghiệp công nghệ thông tin Việt Nam Mối quan hệ giữa việc sử dụng TTKTQT phạm vi rộng và lợi thế cạnh tranh, bao gồm lợi thế chi phí và lợi thế khác biệt, được trung gian bởi năng lực động.
Gần đây, tác giả Nguyễn Phong Nguyên cùng các cộng sự đã giới thiệu một số mô hình nghiên cứu mới, điển hình là những đóng góp của Trần Mai Đông và Nguyễn Phong Nguyên.
Năm 2020, một mô hình nghiên cứu tích hợp lãnh đạo chuyển đổi và hệ thống thông tin kế toán quản trị (TTKTQT) đã được đề xuất nhằm nâng cao năng lực đổi mới trong các doanh nghiệp Việt Nam Đồng thời, Nguyễn Phong Nguyên và Trần Thị Trinh cũng giới thiệu mô hình nghiên cứu về sự phân quyền và năng lực đổi mới Hơn nữa, Trần Thị Trinh và Nguyễn Phong Nguyên đã nghiên cứu ảnh hưởng của sự hài lòng về TTKTQT đến việc sử dụng hệ thống này, từ đó cải thiện kết quả hoạt động kinh doanh (KQHĐKD) Bài báo cũng đưa ra giả thuyết rằng sự hiểu biết về kế hoạch chiến lược của lãnh đạo các cấp có thể điều tiết mối quan hệ giữa sự hài lòng về TTKTQT và mức độ sử dụng của nó Những hướng nghiên cứu này cho thấy sự hấp dẫn của chủ đề trong bối cảnh các doanh nghiệp Việt Nam đang nỗ lực hoàn thiện hệ thống kế toán quản trị.
1.2.2 Các nghiên cứu về năng lực thuận hai tay và các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực thuận hai tay
Trong những năm gần đây, năng lực thuận hai tay tại Việt Nam đã được nghiên cứu bởi tác giả Lưu Trọng Tuấn cùng các cộng sự của ông Nghiên cứu này đánh dấu bước tiến quan trọng trong việc hiểu rõ hơn về khả năng sử dụng cả hai tay của con người.
2017b, 2017a; Luu & cộng sự, 2019a; Luu & cộng sự, 2019b) và tác giả Ngo & cộng sự (2019)
Nghiên cứu của Lưu Trọng Tuấn và cộng sự tập trung vào phong cách lãnh đạo của nhà quản trị, với việc phân tích dữ liệu từ nhiều nguồn khác nhau để rút ra những kết luận quan trọng.
Nghiên cứu của Luu (2017a) trên 427 nhà quản trị trong các doanh nghiệp phần mềm Việt Nam cho thấy phong cách lãnh đạo thuận hai tay có ảnh hưởng tích cực đến định hướng tinh thần doanh nghiệp, với vốn xã hội của tổ chức đóng vai trò điều tiết Luu (2017b) cũng chỉ ra rằng sự tự tin vào năng lực bản thân và động lực cung cấp dịch vụ công điều tiết mối quan hệ giữa phong cách lãnh đạo thuận hai tay và sự cải cách tổ chức Nghiên cứu tiếp theo của Luu & cộng sự (2019a) xác nhận vai trò trung gian của định hướng tinh thần doanh nghiệp trong mối quan hệ này, đồng thời nhấn mạnh sự trao đổi xã hội tổ chức cũng có tác động tích cực Trong một nghiên cứu gần đây về trách nhiệm xã hội doanh nghiệp, Luu & cộng sự (2019b) đã áp dụng quan điểm về sự thay thế của lãnh đạo để làm rõ vai trò của phong cách lãnh đạo thuận hai tay như một nguồn lực thay thế cho trách nhiệm xã hội doanh nghiệp, cho thấy phong cách này có ảnh hưởng tiêu cực đến ba mối quan hệ: trách nhiệm xã hội doanh nghiệp với sự điều chỉnh công việc, hành vi công dân của tổ chức, và hiệu quả phục hồi dịch vụ.
Nghiên cứu của Ngo và cộng sự (2019) tích hợp quan điểm năng lực động vào lĩnh vực năng lực thuận hai tay, đề xuất khung cảm nhận – phản hồi – kết quả Phân tích dữ liệu từ 150 doanh nghiệp Việt Nam cho thấy khả năng cảm nhận thị trường và công nghệ thúc đẩy hoạt động đổi mới theo hướng khai thác và khám phá, từ đó nâng cao KQHĐKD Điều này cho thấy hoạt động đổi mới là trung gian trong mối quan hệ giữa khả năng cảm nhận và KQHĐKD Tuy nhiên, không có bằng chứng cho thấy sự kết hợp giữa hai loại hoạt động đổi mới ảnh hưởng đến KQHĐKD của doanh nghiệp Việt Nam Những phát hiện này chỉ ra rằng khả năng cạnh tranh của công ty trong thị trường phức tạp phụ thuộc vào khả năng thích ứng của họ.
Mặc dù số lượng nghiên cứu còn hạn chế, nhưng các công trình của tác giả Lưu Trọng Tuấn và Ngô Viết Liêm cùng cộng sự là nguồn tài liệu quý giá cho các nhà nghiên cứu quan tâm đến các chủ đề liên quan tại Việt Nam.
1.2.3 Các nghiên cứu về kết quả hoạt động kinh doanh và các nhân tố ảnh hưởng đến kết quả hoạt động kinh doanh
KQHĐKD là một biến phụ thuộc quan trọng trong nhiều nghiên cứu tại Việt Nam, tương tự như các nghiên cứu quốc tế, thuộc các lĩnh vực như KTQT và quản trị KQHĐKD có thể được đo lường qua thang đo khách quan, dựa trên dữ liệu kế toán hoặc thị trường tài chính, hoặc thang đo chủ quan, dựa trên dữ liệu khảo sát Một số nghiên cứu chỉ tập trung vào việc đo lường KQHĐKD tài chính, thể hiện sự đa dạng trong cách tiếp cận nghiên cứu.
2018), trong khi những nghiên cứu khác bao gồm cả KQHĐKD tài chính và phi tài chính (Doan, 2016; Trần Thị Yến & Nguyễn Phong Nguyên, 2019; Lê Mộng Huyền
Khoảng trống nghiên cứu
Nghiên cứu kinh tế quản trị (KTQT) đã áp dụng lý thuyết bất định trong hơn bốn thập kỷ, nhưng vẫn còn nhiều khía cạnh cần được khám phá Cần có những nghiên cứu sâu hơn về việc sử dụng thông tin kế toán quản trị (TTKTQT) và kết hợp các khía cạnh này trong một nghiên cứu duy nhất để có cái nhìn tổng quát hơn Các nghiên cứu hiện tại chủ yếu tập trung vào đặc điểm thông tin hoặc phương pháp sử dụng thông tin, do đó, luận án này sẽ xem xét cả hai khía cạnh: đặc điểm thông tin và phương pháp sử dụng thông tin Việc kết hợp này không chỉ giúp khắc phục những hạn chế của dòng nghiên cứu mà còn cung cấp cho doanh nghiệp cái nhìn toàn diện về ảnh hưởng của thông tin kế toán quản trị đến kết quả hoạt động kinh doanh Doanh nghiệp sẽ nhận thức được rằng một hệ thống KTQT rộng rãi là cần thiết, nhưng cách thức sử dụng thông tin cũng đóng vai trò quan trọng không kém.
Nghiên cứu cho thấy rằng các doanh nghiệp cần phát triển và duy trì các năng lực tổ chức để chuyển hóa thông tin kinh tế toàn cầu (TTKTQT) thành kết quả tổ chức, như kết quả hoạt động kinh doanh (KQHĐKD) Các năng lực tổ chức quan trọng bao gồm định hướng thị trường, năng lực đổi mới, học tập tổ chức, và năng lực liên kết chiến lược với sản xuất Đặc biệt, năng lực thuận hai tay ngày càng được công nhận là yếu tố quan trọng trong quản trị, góp phần vào KQHĐKD và lợi thế cạnh tranh bền vững của doanh nghiệp.
Mặc dù một số nghiên cứu đã được thực hiện, nhưng chủ đề ảnh hưởng của thông tin kinh tế quốc tế (TTKTQT) đến năng lực thuận hai tay và kết quả hoạt động kinh doanh (KQHĐKD) của doanh nghiệp vẫn chưa được khai thác đầy đủ Do đó, luận án này sẽ tập trung nghiên cứu hai khía cạnh của việc sử dụng TTKTQT, bao gồm đặc điểm thông tin và phương pháp sử dụng thông tin, cũng như tác động của năng lực thuận hai tay đến KQHĐKD.
Nghiên cứu về ảnh hưởng của việc sử dụng TTKTQT đến năng lực thuận hai tay và KQHĐKD vẫn còn hạn chế, chủ yếu tập trung ở các nước phát triển như Úc, Brazil và Ireland (Bedford, 2015; Severgnini & cộng sự, 2018; Bedford & cộng sự, 2019) Tuy nhiên, vai trò của TTKTQT trong việc nâng cao năng lực thuận hai tay và KQHĐKD tại các doanh nghiệp ở nền kinh tế mới nổi như Việt Nam vẫn chưa được khám phá Với nền kinh tế Việt Nam đang phát triển mạnh mẽ và chịu ảnh hưởng từ cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 cũng như xu hướng chuyển đổi số (Nguyen & cộng sự, 2017; Vietnam Report, 2019), nghiên cứu này sẽ cung cấp những hiểu biết quý giá cho lĩnh vực KTQT Việc cung cấp bằng chứng thực nghiệm về vai trò của TTKTQT sẽ giúp các doanh nghiệp Việt Nam nhận thức rõ hơn về lợi ích của việc đầu tư vào hệ thống KTQT, từ đó chủ động triển khai và hoàn thiện hệ thống này.
Luận án sẽ xây dựng một mô hình nghiên cứu nhằm khám phá ảnh hưởng của việc sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông quốc tế (TTKTQT) đến năng lực thuận hai tay, cũng như tác động của năng lực này đến kết quả hoạt động kinh doanh (KQHĐKD) Đồng thời, luận án sẽ kiểm định ảnh hưởng gián tiếp của TTKTQT đến KQHĐKD thông qua năng lực thuận hai tay Các giả thuyết nghiên cứu sẽ được kiểm tra trong bối cảnh các doanh nghiệp tại Việt Nam, một nền kinh tế mới nổi.
Trong chương này, tác giả tổng hợp các nghiên cứu đã công bố trên toàn cầu và tại Việt Nam, nhằm xác định khoảng trống nghiên cứu cho luận án Tác giả tập trung vào ba dòng nghiên cứu chính: (1) Việc sử dụng TTKTQT và các yếu tố ảnh hưởng đến việc sử dụng này; (2) Năng lực thuận hai tay và các nhân tố tác động đến năng lực này; và (3) KQHĐKD cùng những yếu tố ảnh hưởng đến KQHĐKD.
Sau khi tổng quan và đánh giá các nghiên cứu trước, tác giả đã chỉ ra ba khoảng trống nghiên cứu chính: (1) Thiếu các nghiên cứu kết hợp giữa đặc điểm thông tin và phương pháp sử dụng thông tin trong TTKTQT; (2) Thiếu nghiên cứu về vai trò của TTKTQT trong việc phát triển năng lực thuận hai tay; và (3) Chưa có nghiên cứu nào trong bối cảnh doanh nghiệp tại nền kinh tế mới nổi như Việt Nam Vì vậy, luận án này được thực hiện nhằm khắc phục những hạn chế còn tồn tại trong các nghiên cứu hiện tại.