Tổng quan sinh non
Theo Tổ Chức Y Tế Thế Giới 2014, sinh non là trẻ được sinh ra từ hết
- Sinh cực non: khi trẻ sinh ra trước 28 tuần tuổi thai.
- Sinh rất non: trẻ sinh ra từ 28 tuần đến 31 tuần 6 ngày tuổi thai.
- Sinh non trung bình: trẻ sinh ra từ 32 tuần đến 33 tuần 6 ngày tuổi thai.
- Sinh non muộn: trẻ sinh ra từ 34 tuần đến 36 tuần 6 ngày.
Theo Hướng dẫn quốc gia về thực hành chăm sóc sức khỏe sinh sản, sẩy thai được định nghĩa là tình trạng thai và nhau bị tống ra khỏi buồng tử cung trước 22 tuần, tính từ ngày đầu của kỳ kinh cuối Do đó, chẩn đoán sinh non chỉ áp dụng cho những trường hợp thai nhi từ 22 tuần trở lên.
Sinh non là một vấn đề sản khoa quan trọng, ảnh hưởng đến tử suất và bệnh suất ở trẻ nhũ nhi, đồng thời để lại hậu quả lâu dài trong giai đoạn thiếu niên và trưởng thành Đây là nguyên nhân gây tử vong thứ hai ở trẻ dưới 5 tuổi và là nguyên nhân hàng đầu trong tháng đầu đời Trẻ sinh non có nguy cơ cao mắc bại não, các bệnh lý đường hô hấp và chậm phát triển tâm thần vận động so với trẻ sinh đủ tháng.
Theo thống kê của Tổ Chức Y Tế Thế Giới năm 2014, tỷ lệ sinh non tại khu vực Đông Nam Á dao động từ 9,3 đến 13% Tại Việt Nam, tỷ lệ sinh non đang gia tăng nhanh chóng trong những năm gần đây, đặc biệt là với sự phát triển của các phương pháp hỗ trợ sinh sản Báo cáo của Bộ Y Tế năm 2011 cho thấy, tỷ lệ trẻ sinh non chiếm tới 59% số trẻ tử vong dưới 5 tuổi và 70,4% số tử vong dưới 1 tuổi.
1.1.2 Yếu tố nguy cơ sinh non [31]
Khoảng 50% các cuộc chuyển dạ sinh non không tìm ra được nguyên nhân Các yếu tố nguy cơ sinh non thường gặp bao gồm:
1.1.2.1 Yếu tố nguy cơ từ mẹ
Mẹ lớn tuổi hoặc mẹ vị thành niên.
Khoảng cách 2 lần sinh ngắn.
Nhiễm trùng trong thai kỳ (nhiễm trùng tiểu, viêm âm đạo, sốt rét, giang mai ).
Dinh dưỡng người mẹ kém hoặc mẹ béo phì.
Thói quen hút thuốc lá, uống rượu, dùng chất gây nghiện, làm việc quá sức. Yếu tố di truyền, chủng tộc.
Cổ tử cung bất toàn.
Dị dạng đường sinh dục, u xơ tử cung.
Bệnh lý mạn tính: cao huyết áp, đái tháo đường, suy tim, suy thận
1.1.2.2 Yếu tố nguy cơ từ thai Đa thai. Đa ối.
Nhau tiền đạo, nhau bong non.
Nhiễm trùng ối, ối vỡ non.
Thai chậm tăng trưởng, thai dị tật.
1.1.3 Chẩn đoán chuyển dạ sinh non [31]
1.1.3.1 Lâm sàng chẩn đoán sinh non
Chẩn đoán chuyển dạ sinh non khi có một trong các dấu hiệu sau:
Có 4 cơn gò tử cung đều đặn trong 20 phút.
Cổ tử cung mở trên 2cm.
Ngoài các triệu chứng đặc hiệu, có một số dấu hiệu không điển hình cũng có thể giúp nhận diện chuyển dạ sinh non, bao gồm ra dịch nhờn hồng từ cổ tử cung, cảm giác đau thắt lưng và nặng bụng.
1.1.3.2 Cận lâm sàng chẩn đoán sinh non
Khoảng 90% sản phụ có triệu chứng nghi ngờ nhưng không tiến triển đến sinh non Để hạn chế chẩn đoán và can thiệp quá mức, các nhà nghiên cứu đã phát triển một số phương pháp tiên lượng khả năng sinh non Ba cận lâm sàng được ứng dụng rộng rãi hiện nay bao gồm siêu âm đo chiều dài cổ tử cung, xét nghiệm Fetal fibronectin và placental alpha microglobulin-1 (PAMG-1).
Tổng quan hở eo cổ tử cung
1.2.1 Giải phẫu học tử cung
Tử cung gồm 3 phần: thân tử cung, eo tử cung và cổ tử cung.
Thân tử cung, phần trên của cơ quan sinh sản nữ, được cấu tạo từ cơ trơn và có thể tăng trọng lượng lên đến 20 lần khi mang thai Sự gia tăng kích thước này xảy ra do sự căng dãn và phì đại của các tế bào cơ trong tử cung.
Eo tử cung, dài khoảng 5 mm, là khu vực nối giữa thân và cổ tử cung, nơi chuyển tiếp từ biểu mô nội mạc tử cung sang biểu mô cổ trong Khi mang thai, đặc biệt trong những tháng cuối, eo tử cung giãn dài và trở thành đoạn dưới tử cung Đoạn dưới tử cung gồm hai lớp cơ: lớp cơ dọc bên ngoài và lớp cơ vòng bên trong, được bao phủ bởi phúc mạc lỏng lẻo dễ bóc tách Sự co giãn thụ động của đoạn này dưới tác động của cơn gò tử cung giúp điều chỉnh vị trí thai nhi và hỗ trợ quá trình sinh nở.
Cổ tử cung bình thường dài khoảng 3-4 cm, với lỗ trong và lỗ ngoài làm giới hạn hai đầu Thân tử cung thường gập ra trước một góc 100 - 120 độ so với trục cổ tử cung, và trong hầu hết các trường hợp, tử cung ngả ra trước, tạo thành góc 90 độ với trục âm đạo Khi mang thai, cổ tử cung trở thành tuyến cổ tử cung, trong đó các tuyến cổ sản xuất chất nhầy để tạo thành nút nhầy, giúp đóng kín kênh cổ tử cung trong suốt thai kỳ.
1.2.2 Chức năng cổ tử cung trong thai kỳ
Cổ tử cung đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ thai nhi, giữ cho khối thai không bị tống xuất ra ngoài Nút nhầy của cổ tử cung cũng có chức năng ngăn chặn sự xâm nhập của vi sinh vật và vi khuẩn vào buồng tử cung.
Chín muồi cổ tử cung là quá trình mở rộng và thu ngắn cổ tử cung, thường đánh dấu sự khởi đầu của chuyển dạ tự nhiên Trái với quan niệm trước đây cho rằng hiện tượng này chỉ xảy ra dưới tác động của cơn gò chuyển dạ, thực tế cho thấy nó có thể bắt đầu nhiều tuần trước khi chuyển dạ thực sự diễn ra Nghiên cứu cho thấy các biến đổi của cổ tử cung có thể xảy ra độc lập, ngay cả khi bị tách rời khỏi thân tử cung, cho thấy hai phần của tử cung có thể hoạt động riêng biệt trong việc chuẩn bị cho chuyển dạ.
1.2.3 Sinh lý sự chín muồi cổ tử cung
Cổ tử cung chủ yếu được cấu tạo từ mô liên kết, với cơ trơn chỉ chiếm dưới 8% cấu trúc Nghiên cứu cho thấy rằng sự thay đổi của cổ tử cung trong thai kỳ ít bị ảnh hưởng bởi co cơ trơn, mà chủ yếu phụ thuộc vào sự thay đổi của mô liên kết ngoại bào, trong đó collagen chiếm tới 85% Quá trình tái cấu trúc cổ tử cung trong thai kỳ diễn ra qua bốn giai đoạn: thu ngắn, xóa mỏng, giãn rộng và phục hồi, và các giai đoạn này xảy ra song song mà không tách biệt.
Sức căng dãn của cổ tử cung được duy trì nhờ vào sự tổng hợp collagen Khi hiện tượng xóa mở xảy ra, cổ tử cung trở nên mỏng và mềm do sự gia tăng các protein glycosaminoglycan ưa nước, dẫn đến giảm tổng hợp collagen, tăng tính thấm và sự phân tán của các sợi collagen Đồng thời, sự giảm của phân tử decorin và tăng của phân tử hyaluronan làm yếu đi liên kết giữa collagen và fibronectin.
Các phân tử hyaluronan kích thích đại thực bào sản xuất các hóa chất trung gian, thu hút tế bào viêm và khởi động chuỗi phản ứng viêm tại mô cổ tử cung.
1.2.4 Định nghĩa hở eo cổ tử cung
Hở eo cổ tử cung, theo Hiệp hội Sản phụ khoa Hoa Kỳ năm 2014, là tình trạng suy yếu cấu trúc cổ tử cung, dẫn đến khả năng mất duy trì thai kỳ mà không có cơn gò tử cung Tình trạng này có thể gây ra sẩy thai muộn hoặc sinh non tái phát trong ba tháng giữa thai kỳ.
Hở eo cổ tử cung gặp trong khoảng 1% phụ nữ mang thai (McDonald
1980) và chiếm đến 8% trong nhóm có tiền căn sẩy thai tái phát (Drakeley
1.2.5 Yếu tố nguy cơ hở eo cổ tử cung [51]
- Tiền căn can thiệp thủ thuật gây chấn thương cổ tử cung (khoét chóp, nong nạo, rách cổ tử cung trong chuyển dạ…).
- Bất thường bẩm sinh đường sinh dục (thiểu sản cổ tử cung do phơi nhiễm diethylstilbestrol trong bào thai…).
- Bệnh lý di truyền mô liên kết (hội chứng Ehlers-Danlos).
- Chủng tộc: Nam Á, da đen.
1.2.6 Chẩn đoán hở eo cổ tử cung
Tiền căn sản khoa đóng vai trò quan trọng trong việc chẩn đoán hở eo cổ tử cung, thông qua việc xem xét tiền sử sản khoa và kết hợp với kết quả siêu âm.
- Tiền sử sản khoa đơn thuần: sẩy thai to hoặc sinh non (trước 28 tuần)
≥2 lần liên tiếp với đặc điểm chuyển dạ nhanh, không đau.
Phụ nữ có tiền sử sẩy thai hoặc sinh non trong khoảng từ 14 đến 36 tuần, đặc biệt với các đặc điểm như chuyển dạ nhanh không đau, cần lưu ý đến những yếu tố nguy cơ như hở eo cổ tử cung, bệnh lý collagen, và các bất thường ở tử cung hoặc cổ tử cung.
Chiều dài cổ tử cung đo qua siêu âm đường âm đạo dưới 25mm, hoặc có sự thay đổi cổ tử cung khi thăm khám ở tuổi thai dưới 24 tuần, có thể đi kèm với yếu tố nguy cơ hở eo cổ tử cung.
Triệu chứng điển hình giúp chẩn đoán tình trạng cổ tử cung xóa mở mà không có cơn gò kèm theo, không ra huyết âm đạo, và khám thấy đầu ối đã thành lập, có thể sa xuống âm đạo hoặc vỡ ối, thường xảy ra ở tuổi thai dưới 24 tuần Trước khi có siêu âm, khám âm đạo bằng tay là phương pháp duy nhất để đánh giá tình trạng cổ tử cung, tuy nhiên, phương pháp này mang tính chủ quan cao, với chênh lệch kết quả khám có thể lên đến 26% Để có đánh giá chính xác hơn, cần đưa ngón tay lên cao để tiếp xúc với màng ối, nhưng động tác này có nguy cơ gây vỡ ối hoặc tách màng ối khỏi màng rụng.
Có nhiều phương pháp được đề xuất để xác định nhóm đối tượng có nguy cơ hở eo cổ tử cung, trong đó có việc sử dụng nong Hegar 6-8 mm qua lỗ trong cổ tử cung Tuy nhiên, hiện tại vẫn chưa có bằng chứng khoa học nào chứng minh giá trị của những thử nghiệm này trong việc dự đoán kết cục thai kỳ.
Cổ tử cung ngắn dần từ khi bắt đầu mang thai cho đến khi chuyển dạ Nghiên cứu cho thấy, chiều dài kênh cổ tử cung ở ba tháng giữa thai kỳ càng ngắn thì nguy cơ sinh non càng tăng cao.
Tổng quan vòng nâng cổ tử cung
1.3.1 Lịch sử các loại vòng nâng cổ tử cung trong dự phòng sinh non [8]
Từ giữa thế kỷ 19, nhiều nhà lâm sàng toàn cầu đã áp dụng vòng nâng để điều trị sa tạng chậu nhằm ngăn ngừa sinh non Đặc biệt, vào năm 1959, Cross đã lần đầu tiên mô tả kinh nghiệm sử dụng vòng nâng cổ tử cung trong điều trị này.
Trong một nghiên cứu, 13 bệnh nhân có tiền căn rách cổ tử cung, cổ tử cung bất toàn và tử cung đôi đã được xem xét Dựa trên lý thuyết giảm áp lực lên lỗ trong cổ tử cung và ngăn ngừa sa màng ối, Vitsky đã áp dụng vòng nâng Hodge cho 25 bệnh nhân có tiền sử sinh non, cho rằng vòng nâng có thể thay đổi hướng nghiêng của kênh cổ tử cung và làm tăng co siết cổ tử cung, tuy nhiên giả thuyết này vẫn chưa được chứng minh Cùng lúc, Oster và Javert cũng đã sử dụng vòng nâng cho 29 bệnh nhân chẩn đoán hở eo cổ tử cung, cho rằng việc đặt vòng nâng có lợi thế hơn so với khâu cổ tử cung vì giảm nguy cơ chảy máu và nhiễm trùng.
Vòng nâng dạng bánh (Donut) được sử dụng để dự phòng sinh non, nhưng hiệu quả không cao do lỗ trong vòng quá nhỏ không bao quanh cổ tử cung và không thay đổi nhiều hướng của cổ tử cung.
Cuối thập kỷ 70, Hans Arabin từ Tây Đức đã phát minh ra vòng nâng tròn dạng ống bằng silicone, nhằm thay thế cho Hodge trong việc dự phòng sinh non Hiện nay, vòng nâng Arabin đã trở nên phổ biến và được các nhà nghiên cứu lâm sàng đánh giá cao.
1.3.2 Chỉ định và chống chỉ định đặt vòng nâng
- Khi có chỉ định khâu vòng cổ tử cung nhưng không thỏa điều kiện khâu (nhau tiền đạo không chảy máu, thai phụ từ chối thủ thuật, thai > 20 tuần).
- Sản phụ đơn thai sống có tiền căn sinh non tự nhiên hoặc chiều dài cổ tử cung ngắn dưới 25mm.
Sản phụ có tiền sử sinh non cần thực hiện siêu âm đo chiều dài cổ tử cung sớm, vì nghiên cứu cho thấy những phụ nữ mang thai dưới 20 tuần với cổ tử cung ngắn có nguy cơ sinh non cao Hiện tại, chưa có nghiên cứu nào đủ mạnh để so sánh hiệu quả của các phương pháp điều trị cho cổ tử cung ngắn trong thai kỳ như khâu vòng cổ tử cung, vòng nâng cổ tử cung, và liệu pháp progesterone Do đó, vòng nâng cổ tử cung thường được chỉ định khi khâu vòng cổ tử cung đã quá chỉ định hoặc khi phương pháp này thất bại.
Năm 2013, Liem và cộng sự đã tiến hành một nghiên cứu ngẫu nhiên có đối chứng tại Hà Lan với 403 sản phụ đa thai được đặt vòng nâng Arabin, so với 410 sản phụ trong nhóm chứng Kết quả cho thấy tỷ lệ chuyển dạ trước 32 tuần, tỷ lệ tử vong chu sinh và kết cục sơ sinh xấu giảm có ý nghĩa thống kê ở nhóm sản phụ có chiều dài kênh cổ tử cung dưới bách phân vị 25 được đặt vòng nâng trước 20 tuần Đến năm 2015, Kypros và cộng sự công bố một nghiên cứu tương tự tại 23 trung tâm sản khoa ở 12 quốc gia, trong đó 214 sản phụ song thai từ 20-24 tuần có chiều dài cổ tử cung dưới 25 mm được chia thành hai nhóm: 106 sản phụ đặt vòng nâng Arabin và 108 sản phụ chỉ được theo dõi Phân tích cho thấy không có sự khác biệt đáng kể về tỷ lệ chuyển dạ sinh non trước 34 tuần giữa hai nhóm.
Nghiên cứu cho thấy rằng việc đặt vòng nâng cho các sản phụ mang thai đôi có cổ tử cung ngắn không mang lại hiệu quả đáng kể, với khoảng tin cậy 95% là 0,667-1,432 Từ kết quả này, nhóm nghiên cứu kết luận rằng phương pháp này không có tác dụng tích cực.
Vào tháng 2 năm 2016, Goya và các cộng sự đã thực hiện một nghiên cứu đa trung tâm tại Tây Ban Nha từ năm 2011 đến 2014, với 134 sản phụ song thai có cổ tử cung ngắn dưới 25 mm Nghiên cứu chia thành hai nhóm: 68 sản phụ được đặt vòng nâng Arabin và 66 sản phụ chỉ được theo dõi Kết quả cho thấy việc sử dụng vòng nâng Arabin làm giảm nguy cơ sinh non trước 34 tuần so với nhóm không can thiệp, với tỷ lệ rủi ro (RR) là 0,41 và khoảng tin cậy 95% (CI: 0,22-0,76).
Vào năm 2017, Berghella và các cộng sự đã tiến hành một thử nghiệm ngẫu nhiên có kiểm soát đa trung tâm, trong đó họ đã sàng lọc 421 phụ nữ mang thai đôi.
Nghiên cứu có sự tham gia của 80 phụ nữ, trong đó 46 người đồng ý tham gia và được chia thành hai nhóm: 23 sản phụ sử dụng vòng nâng cổ tử cung và 23 sản phụ được theo dõi Kết luận từ thử nghiệm ngẫu nhiên có kiểm soát này cho thấy việc điều trị bằng vòng nâng cổ tử cung không có tác động đến việc ngăn ngừa sinh non ở phụ nữ mang thai đôi với chiều dài cổ tử cung 3 tháng giữa ≤ 30 mm.
Việc chỉ định vòng nâng cổ tử cung cho sản phụ mang thai đôi với cổ tử cung ngắn hiện vẫn chưa có sự thống nhất và hiệu quả của phương pháp này vẫn còn gây tranh cãi.
- Sản phụ có tiền căn khoét chóp cổ tử cung [8].
Tỷ lệ khối cơ trơn ở cổ tử cung bình thường phân bố 30% ở lỗ trong và khoảng 6% ở lỗ ngoài, do đó, thủ thuật khoét chóp lấy đi vùng giàu collagen, làm giảm sự vững chắc của cổ tử cung Phụ nữ có tiền sử khoét chóp khi mang thai có nguy cơ sinh non cao, và việc khâu vòng cổ tử cung dự phòng chưa cho thấy hiệu quả rõ ràng Một giải pháp khả thi là sử dụng vòng nâng cổ tử cung kết hợp với liệu pháp progesterone Nghiên cứu trên 12 sản phụ có tiền sử khoét chóp cho thấy thai kỳ kéo dài thêm trung bình 181 ngày sau khi đặt vòng nâng Theo Acharya và cộng sự (2006), vòng nâng cổ tử cung có thể hữu ích trong quản lý cổ tử cung bất toàn và có thể thay thế phương pháp khâu vòng cổ tử cung, do đó cần nhiều nghiên cứu hơn nữa.
- Thai bị dị tật bẩm sinh nặng.
- Nghi ngờ tình trạng nhiễm trùng (viêm màng ối, viêm âm đạo…).
- Đầu ối phồng ra ngoài cổ tử cung, nằm trong âm đạo.
- Bệnh nhân đã có những cơn gò đều đặn.
- Dị tật bẩm sinh cơ quan sinh dục (tử cung đôi…).
1.3.3 Các loại vòng nâng cổ tử cung dự phòng sinh non
Có nhiều loại vòng nâng dự phòng sinh non với hình dáng và kích cỡ khác nhau Trong số đó, vòng nâng Arabin và vòng nâng dạng đòn bẩy (Lever pessary) là hai loại phổ biến nhất được sử dụng.
Nguồn hình: http://www.incoshop.co.uk/dr-arabin-cerclage-pessary-type-asq-
Vòng nâng Arabin có cấu trúc mái vòm, giúp tiếp cận gần hơn với cổ tử cung Đầu nhỏ của vòng hướng về cổ tử cung, trong khi đầu rộng nằm trong âm đạo Thiết kế của vòng không chỉ nâng đỡ và co siết cổ tử cung mà còn điều chỉnh hướng nghiêng của cổ tử cung về phía xương cùng Ngoài ra, vòng Arabin còn có các lỗ khoan nhỏ để thoát dịch tiết âm đạo, ngăn ngừa tình trạng dịch bị tích tụ giữa vòng và cùng đồ.
Vòng nâng có thể bảo vệ nút nhầy cổ tử cung bằng cách duy trì sự tiếp xúc giữa các mô cổ tử cung Nút nhầy này đóng vai trò quan trọng trong việc ngăn chặn các yếu tố gây nhiễm trùng xâm nhập vào buồng tử cung và ức chế các yếu tố khởi phát chuyển dạ.
Tổng quan các nghiên cứu
Mặc dù vòng nâng cổ tử cung đã được giới thiệu như một phương pháp điều trị cho cổ tử cung bất toàn từ năm 1959, nhưng nghiên cứu về hiệu quả của nó trong việc giảm tỷ lệ sinh non vẫn còn hạn chế Dù được sử dụng từ sớm, số lượng nghiên cứu về vòng nâng dạng đòn bẩy không nhiều Năm 1963, Vitsky đã áp dụng vòng Smith để phòng ngừa sinh non cho 21 bệnh nhân có cổ tử cung bất toàn hoặc tiền căn sẩy thai muộn.
Trong một nghiên cứu, 14 trong số 21 bệnh nhân đã kéo dài thai kỳ đến sau 37 tuần Năm 1966, Oster và Javert đã công bố một bài báo về việc điều trị vòng Hodge như một phương pháp thay thế cho những bệnh nhân cần khâu vòng cổ tử cung, với kết quả cho thấy 66% bệnh nhân (23/29) không gặp phải tình trạng sinh non.
Sophie M và cộng sự (2013) đã tổng hợp 6 nghiên cứu đoàn hệ và 4 thử nghiệm ngẫu nhiên có nhóm chứng, cho thấy trong khi các nghiên cứu đoàn hệ chỉ ra hiệu quả hứa hẹn của vòng nâng trong việc phòng ngừa sinh non, thì các nghiên cứu ngẫu nhiên lại cho kết quả trái ngược.
Năm 2012, Goya và cộng sự thực hiện một nghiên cứu ngẫu nhiên có nhóm chứng tại Tây Ban Nha để đánh giá hiệu quả của vòng nâng cổ tử cung trong việc ngăn ngừa sinh non ở các sản phụ có chiều dài kênh cổ tử cung ngắn Nghiên cứu bao gồm 190 sản phụ mang thai từ 18 đến 22 tuần với chiều dài kênh cổ tử cung dưới 25mm, được chia thành hai nhóm: một nhóm sử dụng vòng nâng Arabin và một nhóm không can thiệp Kết quả cho thấy tỷ lệ sinh non dưới 37 tuần ở nhóm được điều trị giảm 5 lần so với nhóm không can thiệp (OR=0,19, 95%CI 0,12-0,30, p=0,0001), trong khi tỷ lệ sinh non dưới 34 tuần ở nhóm không điều trị cao gấp 5 lần so với nhóm có điều trị.
Nghiên cứu cho thấy tỷ lệ trẻ nhập viện tại đơn vị chăm sóc sơ sinh tích cực và tỷ lệ tử vong chu sinh ở nhóm sản phụ có can thiệp đặt vòng giảm đáng kể so với nhóm chứng, với p=0,0001, cho thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê.
Nghiên cứu ngẫu nhiên có nhóm chứng của S.Y Annie Hui và cộng sự, thực hiện tại Hongkong, đã khảo sát 108 thai phụ đơn thai 20-24 tuần với chiều dài cổ tử cung 150 ml, vòng sẽ không được đặt lại.
Viêm âm đạo: điều trị bằng thuốc tùy vào tác nhân viêm nhiễm Biến chứng sau 1 thời gian đặt vòng:
Gây vỡ ối nếu cổ tử cung mở ≥ 3cm, đầu ối thòng trong âm đạo
Có thể ra huyết âm đạo nếu viêm nhiễm âm đạo không được điều trị sau 1 thời gian dài gây xói mòn âm đạo.
Sau khi thực hiện thủ thuật bệnh nhân mang vòng nâng cổ tử cung nhưng không có cảm giác mang vòng.
Sơ đồ 2.1: Sơ đồ quy trình thực hiện
Tất cả các sản phụ có CTC ≤ 25cm được đặt vòng nâng cổ tử cung được mời tham gia nghiên cứu
Ký vào bảng đồng thuận
Tiến hành phỏng vấn dựa trên bảng câu hỏi
Ghi nhận các lần tái khám
Lấy vòng nâng cổ tử cung khi có chỉ định
Kết cục thai kỳ: hồ sơ và qua điện thoại
Xử lý số liệu, phân tích, diễn giải số liệu
Vai trò của người nghiên cứu
Nhiệm vụ của chúng tôi là thu thập thông tin và tư vấn cho đối tượng về mục tiêu cũng như lợi ích của nghiên cứu Chúng tôi tham gia vào tất cả các trường hợp cùng với người thực hiện thủ thuật chính.
Sau khi thực hiện thủ thuật, tiến hành phỏng vấn trực tiếp đối tượng để thu thập thông tin Đồng thời, theo dõi và đánh giá tình trạng sức khỏe của đối tượng trong suốt quá trình thăm khám tại bệnh viện và các lần tái khám sau đó Việc tổng hợp các thông tin từ hồ sơ bệnh án là cần thiết để có cái nhìn tổng quát về kết quả điều trị.
- Ghi nhận đầy đủ thông tin trong bảng thu thập số liệu.
- Người nghiên cứu hướng dẫn bệnh nhân tái khám vào các ngày nhất định trong tuần Bệnh nhân có thể tái khám ngay nếu không thể trì hoãn được.
- Bệnh nhân được nhóm nghiên cứu gọi điện nhắc nếu chưa thực hiện đủ các lần tái khám.
- Xử lý số liệu sau khi kết thúc thời gian nghiên cứu.
- Đánh giá kết quả nghiên cứu.
Phương pháp thống kê
- Quản lý và phân tích số liệu bằng stata 14.0
- Mô tả các biến số định lượng liên tục bằng phép kiểm trung bình, trung vị, độ lệch chuẩn, tỷ lệ phần trăm.
- Các biến liên tục được thể hiện dưới dạng số trung bình và độ lệch chuẩn.
- So sánh tỷ lệ thành công ở các nhóm bằng phép kiểm chi bình phương.
- Kiểm tra mối tương quan giữa các biến số và số tuần được kéo dài thêm bằng mô hình hồi quy Logistic.
- Ý nghĩa thống kê được xác định khi p < 0,05.