TỔNG QUAN VỀ NGHIÊN CỨU
Sự cần thiết của đề tài
Luật thuế thu nhập cá nhân đã có những tác động tích cực đến kinh tế - xã hội, đạt được mục tiêu khi ban hành Nguồn thu từ thuế thu nhập cá nhân chiếm tỷ trọng cao trong tổng thu ngân sách, góp phần đảm bảo nguồn thu ổn định cho ngân sách Nhà nước, hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội, xoá đói giảm nghèo, và củng cố an ninh quốc phòng.
Quản lý thuế thu nhập cá nhân đang gặp nhiều thách thức do các quy định của Nhà nước chưa rõ ràng, tạo cơ hội cho hành vi gian lận và lách luật Để đảm bảo công bằng xã hội và tăng nguồn thu ngân sách nhà nước, việc tăng cường quản lý thuế thu nhập cá nhân là rất cần thiết, phục vụ cho mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội.
Trong quá trình thực hiện, tình trạng gian lận thuế ngày càng gia tăng, tạo ra nhiều thách thức cho cơ quan thuế và ảnh hưởng nghiêm trọng đến ngân sách nhà nước Hành vi trốn thuế và lách thuế không chỉ phản ánh ý thức chấp hành chưa cao của người nộp thuế mà còn cho thấy sự chưa phù hợp của các chính sách và phương pháp tính thuế hiện hành.
Huyện Tân Hưng, được thành lập vào năm 1994 từ huyện Vĩnh Hưng, tỉnh Long An, đang đối mặt với thách thức lớn trong việc tăng cường nguồn thu ngân sách để phục vụ cho đầu tư cơ sở hạ tầng và phát triển kinh tế - xã hội Mặc dù nguồn thu ngân sách đã có sự tăng trưởng trong những năm qua, nhưng thuế thu nhập cá nhân vẫn còn thấp do tình trạng trốn thuế và gian lận thuế diễn ra phổ biến, gây ảnh hưởng tiêu cực đến ngân sách Nhà nước.
Chi cục thuế huyện Tân Hưng, thuộc Cục Thuế tỉnh Long An, đã đạt được những kết quả đáng khích lệ trong quản lý thuế thu nhập cá nhân từ chuyển nhượng quyền sử dụng đất trong giai đoạn 2015-2018 Cụ thể, tỷ lệ thu đạt 114.7% vào năm 2015, 129.6% vào năm 2016, 101.3% vào năm 2017 và 102.3% vào năm 2018, đảm bảo thu đúng và thu đủ.
Tăng cường quản lý thuế, đặc biệt là thuế thu nhập cá nhân, là rất cần thiết để nâng cao nguồn thu ngân sách nhà nước tại địa phương.
Để giải quyết các vấn đề khó khăn liên quan đến gian lận thuế và tìm kiếm giải pháp cải thiện hành vi này, tôi đã chọn nghiên cứu về "Yếu tố ảnh hưởng đến hành vi gian lận thuế thu nhập cá nhân tại huyện Tân Hưng, tỉnh Long An" cho luận văn thạc sĩ của mình.
Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi gian lận thuế thu nhập cá nhân trên địa bàn huyện Tân Hưng - Tỉnh Long An
Nghiên cứu này nhằm xác định các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi gian lận thuế thu nhập cá nhân tại huyện Tân Hưng, tỉnh Long An Đồng thời, bài viết cũng đo lường mức độ tác động của từng yếu tố đến hành vi gian lận thuế trong khu vực này.
Gợi ý một số hàm ý chính sách nhằm hạn chế hành vi gian lận thuế thu nhập cá nhân trên địa bàn huyện Tân Hưng - tỉnh Long An.
Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu này tập trung vào các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi gian lận thuế thu nhập cá nhân tại huyện Tân Hưng, tỉnh Long An Đối tượng khảo sát là người dân có giao dịch thuế thu nhập cá nhân trong khu vực này Đơn vị phân tích được xác định là những cá nhân tham gia giao dịch thuế thu nhập cá nhân tại huyện Tân Hưng, tỉnh Long An.
Phạm vi nghiên cứu
1.4.1 Phạm vi về thời gian:
+ Số liệu thứ cấp được thu thập phục vụ cho nghiên cứu thu thập trong thời gian từ năm 2015 - 2018
+ Số liệu sơ cấp được thu thập trong năm 2019
+ Thời gian thực hiện đề tài từ tháng 11/2019 - tháng 06/2020
1.4.2 Phạm vi về không gian
Nghiên cứu được thực hiện tại Chi cục Thuế huyện Tân Hưng, tỉnh Long An 1.4.3 Phạm vi nội dung
Nghiên cứu các yếu tố tác động đến hành vi gian lận thuế thu nhập cá nhân trên địa bàn huyện Tân Hưng, tỉnh Long An.
Câu hỏi nghiên cứu
Những yếu tố tác động đến hành vi gian lận thuế thu nhập cá nhân trên địa bàn huyện Tân Hưng, tỉnh Long An?
Mức độ ảnh hưởng của các yếu tố đến hành vi gian lận thuế thu nhập cá nhân tại huyện Tân Hưng, tỉnh Long An là một vấn đề đáng chú ý Các yếu tố này có thể bao gồm nhận thức của người dân về nghĩa vụ thuế, khả năng kiểm soát của cơ quan thuế, cũng như các yếu tố kinh tế và xã hội Việc hiểu rõ tác động của từng yếu tố sẽ giúp nâng cao hiệu quả quản lý thuế và giảm thiểu tình trạng gian lận thuế trong khu vực.
Những hàm ý chính sách nào được đề xuất nhằm hạn chế hành vi gian lận thuế thu nhập cá nhân trên địa bàn huyện Tân Hưng - tỉnh Long An?
Những đóng góp mới của luận văn
1.6.1 Đóng góp về phương diện khoa học
Bài viết này kế thừa và hệ thống hóa lý thuyết về hành vi gian lận thuế, tạo nền tảng cho các nghiên cứu tiếp theo của các Chi cục Thuế quận, huyện khác trong lĩnh vực này.
1.6.2 Đóng góp về phương diện thực tiễn
Nghiên cứu cung cấp thông tin quý giá cho các nhà quản lý thuế, đặc biệt là Chi cục Thuế huyện Tân Hưng, giúp họ hiểu rõ tâm lý người dân Điều này sẽ hỗ trợ trong việc cải thiện công tác quản lý thuế, giảm thiểu gian lận thuế thu nhập cá nhân và bảo vệ ngân sách Nhà nước.
Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp kết hợp giữa định tính và định lượng trong đó định tính là phụ, định lượng là chính:
Nghiên cứu định tính đã được thực hiện thông qua các cuộc phỏng vấn sâu với một số đối tượng, kết hợp với nghiên cứu tài liệu để xác định các khái niệm quan trọng.
Bài viết này đề cập đến bốn khái niệm quan trọng trong thang đo và đo lường các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi gian lận thuế thu nhập cá nhân liên quan đến việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất của người dân tại huyện Tân Hưng, tỉnh Long An Những khái niệm này giúp phân tích và đánh giá các yếu tố tác động đến hành vi gian lận thuế, từ đó cung cấp cái nhìn sâu sắc về tình hình thuế tại địa phương.
Nghiên cứu định lượng này sử dụng bảng câu hỏi để thu thập dữ liệu, với phương pháp chọn mẫu thuận tiện Để gạn lọc các quan sát, nghiên cứu áp dụng hệ số tin cậy Cronbach Alpha và phân tích yếu tố khám phá EFA Phần mềm thống kê SPSS 2.0 được sử dụng để xử lý dữ liệu Hồi quy tuyến tính được áp dụng nhằm xác định mối tác động của các yếu tố đến hành vi gian lận thuế thu nhập cá nhân từ chuyển nhượng quyền sử dụng đất của người dân tại huyện Tân Hưng, tỉnh Long An.
1.8 Kết cấu của luận văn
Luận văn nghiên cứu được kết cấu thành 5 chương như sau:
Chương 1 Tổng quan về nghiên cứu
Chương 2 Cơ sở lý thuyết và mô hình nghiên cứu
Chương 3 Phương pháp nghiên cứu
Chương 4 Phân tích kết quả nghiên cứu
Chương 5 Kết luận và hàm ý quản trị
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU
Lý thuyết về hành vi gian lận thuế
Hành vi gian lận thuế được hiểu là việc vi phạm hoặc lợi dụng các quy định pháp luật nhằm giảm nghĩa vụ thuế phải nộp Điều này có thể thực hiện qua nhiều thủ đoạn khác nhau để hưởng lợi không chính đáng từ việc miễn thuế, giảm thuế, hoàn thuế, hoặc làm tăng số thuế được hoàn và miễn giảm.
Hành vi gian lận thuế gây ra sự cạnh tranh không công bằng giữa các doanh nghiệp, dẫn đến việc mất niềm tin vào chính sách thuế Mục tiêu chính của gian lận thuế là tối đa hóa lợi nhuận và giảm thiểu chi phí thuế cho công ty, từ đó làm giảm số thuế phải nộp cho ngân sách nhà nước Hành vi này không chỉ làm giảm nguồn thu ngân sách mà còn ảnh hưởng tiêu cực đến phúc lợi xã hội.
Gian lận thuế là hành vi vi phạm pháp luật gắn liền với hoạt động thuế của Nhà nước, và sẽ tiếp tục tồn tại miễn là Nhà nước vẫn thực hiện thu thuế Động cơ chính của gian lận thuế là mong muốn giảm nghĩa vụ thuế của người nộp thuế Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là chúng ta chấp nhận gian lận thuế Sự giảm thiểu gian lận thuế có thể đạt được nếu hoạt động quản lý thuế được thực hiện một cách hiệu quả.
Theo Nghị định 100/2004/NĐ-CP ngày 25/2/2004 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuế: [6]
Hành vi trốn thuế là hành vi vi phạm pháp luật thuế của cá nhân hoặc tổ chức, dẫn đến việc giảm số thuế phải nộp hoặc gia tăng số thuế được hoàn, miễn, giảm.
Số tiền thuế trốn là khoản thuế bị phát hiện ngoài các thông tin đã kê khai trên tờ khai thuế, quyết toán thuế hoặc sổ kế toán Khoản thuế này sẽ được xem xét để áp dụng các hình thức xử phạt phù hợp.
Hành chính không xem xét chính sách ưu đãi thuế, không bù trừ vào số thuế được khấu trừ, hoàn lại hoặc số tiền lỗ của người nộp thuế.
Thời điểm xác định hành vi trốn thuế của cá nhân, tổ chức để xử phạt vi phạm hành chính là khi họ đã hoàn tất việc kê khai số thuế phải nộp theo quy định pháp luật hoặc khi cơ quan có thẩm quyền ra quyết định hoàn thuế, miễn thuế, giảm thuế dựa trên hồ sơ đề nghị của cá nhân, tổ chức đó.
Các hành vi gian lận thuế thu nhập cá nhân
Các hành vi gian lận thuế thu nhập cá nhân từ việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Gian lận thuế TNCN từ chuyển nhượng quyền sử dụng đất là hành vi làm giảm số thuế phải nộp, nhằm tối đa hóa lợi nhuận và tăng thu nhập cá nhân Mục tiêu của các hành vi này là giảm thiểu chi phí thuế bằng cách giảm số thuế nộp cho ngân sách nhà nước Hiện nay, gian lận thuế TNCN từ chuyển nhượng quyền sử dụng đất xuất hiện dưới nhiều hình thức khác nhau.
• Tự khai là tài sản duy nhất
Theo Khoản 2, Điều 4 Luật số 04/2007/QH12 về thuế TNCN, thu nhập từ chuyển nhượng nhà ở và quyền sử dụng đất ở của cá nhân chỉ được miễn thuế nếu cá nhân đó chỉ có một tài sản duy nhất Tuy nhiên, do hệ thống thông tin quản lý cá nhân của cơ quan nhà nước, đặc biệt là ngành thuế, chưa hoàn thiện, việc kiểm tra và đối chiếu thông tin gặp nhiều khó khăn Điều này tạo ra kẽ hở, khiến nhiều cá nhân có nhiều nhà ở, đất ở có thể khai báo sai lệch để tránh nộp thuế Thực trạng này diễn ra phổ biến, gây thất thu lớn cho Ngân sách Nhà nước, khi người sở hữu nhà ở có thể khai báo theo địa chỉ khác nhau mặc dù nằm trong cùng một khu vực.
Trên giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất gửi đến cơ quan thuế, thông tin quản lý tại các quận huyện và địa phương lại dựa trên địa chỉ cấp đổi mới Do đó, cơ quan thuế cần văn bản tự cam kết từ người kê khai vì chưa có thông tin chính xác để đối chiếu.
Khoản 1, Điều 17 Thông tư 92/2015/TT-BTC quy định rằng giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất không có công trình xây dựng là giá ghi trên hợp đồng tại thời điểm chuyển nhượng Đối với quyền sử dụng đất gắn với công trình xây dựng, bao gồm cả công trình hình thành trong tương lai, giá chuyển nhượng cũng được xác định theo giá ghi trên hợp đồng tại thời điểm chuyển nhượng.
Trong trường hợp hợp đồng chuyển nhượng không ghi rõ giá đất hoặc giá ghi trên hợp đồng thấp hơn mức giá do Ủy ban Nhân dân cấp tỉnh quy định, thì giá chuyển nhượng đất sẽ được xác định theo mức giá do Ủy ban Nhân dân cấp tỉnh quy định tại thời điểm chuyển nhượng, phù hợp với quy định của pháp luật về đất đai.
Giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo hệ thống văn bản pháp luật thuế TNCN được quy định là giá thực tế ghi trên hợp đồng tại thời điểm chuyển nhượng, tuy nhiên không được thấp hơn mức giá đất do ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố quy định.
Trên thị trường bất động sản, giá đất thực tế thường cao hơn mức giá do ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố quy định Để giảm thiểu thuế thu nhập cá nhân cho bên bán và lệ phí trước bạ cho bên mua, hai bên thường thỏa thuận ghi giá trên hợp đồng chuyển nhượng thấp hơn giá thực tế Họ chỉ ghi mức giá bằng hoặc nhỉnh hơn một chút so với giá quy định của cơ quan Nhà nước, từ đó giúp giảm thiểu số thuế phải nộp Kết quả là cả người mua và người bán đều có lợi, trong khi Nhà nước lại chịu thất thu thuế.
Bà Trương Thị Pha đã bán một lô đất với giá thực tế 3 tỷ đồng, trong khi giá chuyển nhượng ghi trên hợp đồng chỉ là 2,5 tỷ đồng, phù hợp với mức giá đất do Ủy ban nhân dân tỉnh quy định Điều này cũng liên quan đến thuế suất thu nhập cá nhân mà bà phải nộp cho nhà nước.
8 nước khi chuyển nhượng bất động sản hiện nay được xác định là 2% lúc này, số thuế thu nhập cá nhân sẽ bị thất thu là:
Việc tính thuế từ giao dịch bất động sản với giá trị 3 tỷ đồng và 2,5 tỷ đồng chỉ cho ra số thuế 10 triệu đồng, nhưng thực tế, hàng ngày có nhiều giao dịch lên đến hàng chục tỷ đồng, dẫn đến số thuế thất thu rất lớn, đặc biệt trong thời điểm thị trường bất động sản đang nóng như hiện nay.
• Nhận chuyển nhượng BĐS trong khoảng thời gian theo quy định
Thông tư 151/2014/TT-BTC ban hành ngày 10/10/2014 quy định về việc sửa đổi, bổ sung một số điều liên quan đến thuế Cụ thể, Điều 13 đã điều chỉnh khoản 5 của Điều 30 trong Thông tư số 111/2013/TT-BTC, nêu rõ các quy định mới áp dụng cho người sử dụng bất động sản được chuyển nhượng từ ngày 01 tháng.
7 năm 1994 đến trước ngày 01 tháng 01 năm 2009, nếu từ ngày 01 tháng 01 năm
Năm 2009, khi nộp hồ sơ đề nghị cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà và tài sản gắn liền với đất, người dân chỉ cần nộp một lần thuế thu nhập cá nhân nếu được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền chấp thuận Đặc biệt, những người sử dụng bất động sản do nhận chuyển nhượng trước ngày 01 tháng 7 năm 1994 sẽ không phải nộp thuế thu nhập cá nhân.
Bắt đầu từ ngày 01 tháng 01 năm 2009, theo Luật thuế thu nhập cá nhân, mọi cá nhân khi chuyển nhượng bất động sản, dù có hợp đồng công chứng hay chỉ có giấy tờ viết tay, đều phải thực hiện nghĩa vụ nộp thuế thu nhập cá nhân cho mỗi lần chuyển nhượng.
Bà Đinh Thị Yến đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất cho hai thửa đất tại xã Hưng Thạnh, Tân Hưng, Long An, với diện tích 400m2 cho đất ở nông thôn và 595,7m2 cho cây lâu năm Nguồn gốc của đất là từ bà Nguyễn Thị An, người đã khai hoang vào năm 1976 và sử dụng đến năm 1992, khi bà An bán lại cho bà Yến Kể từ đó, bà Yến đã xây dựng nhà ở và ổn định sản xuất trên phần đất này cho đến nay, cho thấy tính hợp pháp của việc chuyển nhượng bất động sản đất ở từ năm 1992.
9 ngày 1/7/1994 nên không thu thuế TNCN Đây là điểm mà người dân có thể trốn thuế, gây thất thu cho NSNN
Khoản 1 Điều 4 Luật số 04/2007/QH12 của Quốc hội ngày 21/11/2007 về thuế TNCN Thuế TNCN quy định [12]: “Thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản giữa vợ với chồng, cha đẻ, mẹ đẻ với con đẻ; cha nuôi, mẹ nuôi với con nuôi; cha chồng, mẹ chồng với con dâu; cha vợ, mẹ vợ với con rể; ông nội, bà nội với cháu nội; ông ngoại, bà ngoại với cháu ngoại; anh chị em ruột với nhau” thì được miễn thuế TNCN Lợi dụng quy định này, nhiều trường hợp đã sử dụng mối quan hệ bắc cầu để trốn thuế
Hai chị em dâu phải nộp thuế khi chuyển nhượng bất động sản cho nhau Tuy nhiên, để lách luật, người chị dâu đã chuyển nhượng tài sản cho bố mẹ chồng, sau đó bố mẹ chồng lại chuyển nhượng cho người em dâu Cả hai lần chuyển nhượng này đều được miễn thuế, giúp hai chị em dâu tránh được nghĩa vụ nộp thuế bằng cách thực hiện các giao dịch qua trung gian.
Lý thuyết về hành vi gian lận của Donald R.Cressey (1987)
Gian lận đã tồn tại từ khi xã hội loài người hình thành và ngày càng trở nên tinh vi với nhiều hình thức khác nhau Hành vi này xuất hiện trong mọi lĩnh vực nghề nghiệp, gây ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển xã hội Nhiều nghiên cứu đã được thực hiện trên toàn thế giới nhằm tìm ra biện pháp ngăn ngừa và phát hiện gian lận trong các ngành nghề liên quan Tuy nhiên, so với thiệt hại to lớn mà gian lận gây ra cho nền kinh tế, những đóng góp từ các công trình nghiên cứu này vẫn còn rất khiêm tốn.
Donald R Cressey là một nhà nghiên cứu tội phạm nổi tiếng tại Trường Đại học Indiana, Mỹ, vào những năm 1940 Ông đã chọn nghiên cứu về tham ô và biển thủ làm chủ đề cho luận án tiến sĩ của mình, góp phần quan trọng vào lĩnh vực nghiên cứu tội phạm.
Donald R Cressey (1987) đã nghiên cứu gian lận từ góc độ tham ô và biển thủ, dựa trên khảo sát khoảng 200 trường hợp tội phạm kinh tế để xác định nguyên nhân của các hành vi vi phạm pháp luật Ông đã phát triển mô hình Tam giác gian lận (Fraud Triangle), cho rằng hành vi gian lận chỉ xảy ra khi ba yếu tố sau đây hội đủ: áp lực, cơ hội và chính sách biện minh.
Cơ hội chính là yếu tố tạo điều kiện cho hành vi gian lận xảy ra, đặc biệt khi cá nhân đối mặt với áp lực hoặc động cơ thúc đẩy mà không có hệ thống kiểm soát phù hợp.
Khi kiểm soát không hiệu quả, hành vi gian lận có thể xảy ra dễ dàng hơn Nếu các biện pháp kiểm soát không đủ mạnh để phát hiện gian lận hoặc gây khó khăn cho việc thực thi, cơ hội cho gian lận sẽ gia tăng Theo Donald R Cressey (1987), hai yếu tố tạo ra cơ hội gian lận là khả năng nắm bắt thông tin và sở hữu kỹ thuật thực hiện.
Mô hình tam giác gian lận của Donald R Cressey (1987) nhấn mạnh rằng áp lực hay động cơ là yếu tố quan trọng thúc đẩy hành vi gian lận Áp lực này có thể đến từ nhiều nguồn như thu nhập, công việc, vị trí công tác và mối quan hệ giữa kế toán và doanh nghiệp Đối với một số người, họ có thể cảm thấy cần phải đạt được phần thưởng tài chính, quyền lực hay sự thăng tiến trong công việc, dẫn đến việc tìm mọi cách để thỏa mãn nhu cầu của mình, thậm chí thông qua hành vi gian lận.
Thái độ và cá tính của con người đóng vai trò quan trọng trong các vấn đề liên quan đến gian lận Hầu hết những người có hành vi gian lận thường có lý do và khả năng biện minh cho hành động của mình, điều này cho thấy sự hợp lý hóa trong hành vi của họ.
Hợp lý hóa hành vi
12 hợp lý hóa lý do cho hành vi gian lận với những lý do để được chấp nhận là hành động đúng đắn
Nghiên cứu của Donald R Cressey (1987) chỉ ra rằng hành vi gian lận phụ thuộc vào cá tính của mỗi người Những cá nhân không trung thực thường dễ dàng hợp lý hóa hành vi gian lận Các yếu tố dẫn đến hành vi gian lận này đã trở thành một trong những mô hình quan trọng trong nhiều lĩnh vực nghiên cứu gian lận hiện nay.
Theo Donald R Cressey (1987), gian lận chỉ xảy ra khi ba yếu tố chính kết hợp: áp lực, cơ hội và lý do chính đáng Áp lực thường xuất hiện khi nhân viên, quản lý hoặc tổ chức phải đối mặt với những khó khăn trong cuộc sống cá nhân, như vấn đề tài chính hoặc mâu thuẫn trong mối quan hệ lao động.
Cơ hội gian lận xuất hiện khi có áp lực, và nếu có điều kiện thuận lợi, cá nhân sẽ dễ dàng thực hiện hành vi này Hai yếu tố chính liên quan đến cơ hội bao gồm việc nắm bắt thông tin và sở hữu kỹ năng cần thiết để thực hiện hành vi gian lận.
Thái độ và cá tính của mỗi người đóng vai trò quan trọng trong việc quyết định liệu họ có gian lận khi đối mặt với khó khăn hay không Không phải ai cũng chọn con đường gian lận, ngay cả khi họ gặp áp lực và có cơ hội, vì sự lựa chọn này phụ thuộc vào đặc điểm cá nhân của từng người.
Khi lần đầu thực hiện gian lận, con người thường tự an ủi rằng họ sẽ không tái phạm Tuy nhiên, nếu tiếp tục hành vi này, người phạm tội sẽ dần mất đi sự lo lắng, khiến cho việc gian lận trở nên dễ dàng và chấp nhận hơn.
Hành vi gian lận xảy ra khi người thực hiện tin rằng họ có thể biện minh cho hành động của mình Khả năng che giấu gian lận phụ thuộc vào tư duy và nhân cách của mỗi cá nhân Mỗi người có cá tính riêng, ảnh hưởng đến cách họ hợp lý hóa hành vi, và nếu họ coi lừa gạt là điều bình thường, thì xu hướng này sẽ gia tăng.
Một người có bản tính trung thực và liêm chính sẽ không bao giờ thực hiện hành vi gian lận, ngay cả khi họ phải đối mặt với áp lực hoặc có cơ hội để làm như vậy.
Tam giác gian lận của Donald R Cressey (1987) là một công cụ hữu ích để giải thích nhiều vụ gian lận, nhưng không phải là một tiên đề tuyệt đối, vì vậy không thể khẳng định mô hình này áp dụng cho mọi trường hợp Dù vậy, theo Trần Thị Giang Tân (2009), tam giác gian lận vẫn được sử dụng để nghiên cứu và đánh giá rủi ro gian lận trong nhiều lĩnh vực nghề nghiệp khác nhau.
Cùng với nghiên cứu hành vi gian lận, D W Steve Albrecht và các cộng sự
Các nghiên cứu trước đây về hành vi gian lận thuế
2.4.1 Các nghiên cứu trên thế giới
Fedeli và Forte (1999) đã chỉ ra rằng việc cung cấp hỗ trợ lý thuyết cho hành vi trốn thuế, đặc biệt là trốn thuế thu nhập, là rất quan trọng Mô hình của họ bao gồm bốn đại lý: nhà sản xuất hoặc nhà nhập khẩu, bán buôn, bán lẻ và tiêu dùng cuối cùng Khi thuế GTGT được áp dụng cho người tiêu dùng, động cơ trốn thuế GTGT của người tiêu dùng cuối cùng tăng lên, vì điều này giúp họ tiết kiệm chi phí khi mua hàng hóa và dịch vụ Mặc dù ở giai đoạn đầu, không rõ lý do tại sao các công ty và cửa hàng lại tham gia vào việc tính thuế GTGT, nhưng tác động của thuế đến hành vi tiêu dùng là điều không thể phủ nhận.
Nhiều khách hàng đang tham gia vào việc trốn thuế GTGT, trong đó các chuỗi kinh doanh hàng đầu thường là những đối tượng chính Để tối đa hóa lợi nhuận, nhiều thương nhân sẵn sàng ghi số lượng hàng mua trên hóa đơn thấp hơn so với thực tế, nhằm chiếm đoạt tiền thuế.
Theo quan điểm của Tait (1988): [5]
Thuế GTGT cũng như các loại thuế khác cũng có những hành vi trốn thuế, các hành vi đó thể hiện như sau:
Các doanh nghiệp thường không đăng ký thuế GTGT để tránh nghĩa vụ nộp thuế khi doanh thu hàng năm vượt ngưỡng chịu thuế theo quy định của chính phủ Điều này dẫn đến việc họ không phải nộp thuế GTGT, gây thất thu cho ngân sách nhà nước.
Doanh nghiệp có thể hoàn thuế GTGT đã nộp trong các giai đoạn trước, đây là một phương pháp hiệu quả để giảm thiểu nghĩa vụ thuế GTGT.
Nhiều người nộp thuế thường sử dụng hai hệ thống sổ sách kế toán: một hệ thống nội bộ ghi nhận đầy đủ các giao dịch kinh tế và một hệ thống khác chỉ phản ánh một phần để khai thuế Hành vi này phổ biến ở các doanh nghiệp trong lĩnh vực bán lẻ, dẫn đến khó khăn trong việc xác định thất thu thuế do trốn thuế, vì nếu xác định được thì thất thu đã không xảy ra.
Mua tiền mặt mà không xuất hóa đơn và thực hiện giao dịch hàng đổi hàng là hành vi trốn thuế GTGT phổ biến, đặc biệt tại các nước đang phát triển.
Trong ngành công nghiệp xây dựng, việc thu thuế GTGT nhưng không nộp cho cơ quan thuế là một hình thức trốn thuế phổ biến Nhiều thương nhân nhỏ thu thuế GTGT từ khách hàng nhưng lại không chuyển số tiền này cho cơ quan thuế, dẫn đến những vi phạm pháp luật nghiêm trọng.
Vào thứ Sáu, đã xảy ra một giao dịch bán hàng giả mạo với mục tiêu chiếm đoạt tiền thuế thông qua việc hoàn thuế, cụ thể là thông qua xuất khẩu khống sau khi thực hiện các thủ tục cần thiết.
Việc xuất khẩu hàng hóa sang nước ngoài rồi đưa trở lại nội địa mà không qua cửa khẩu, sau đó thực hiện thủ tục xuất khẩu lại, đang diễn ra phổ biến Các đối tượng liên quan thường cấu kết với đối tác nước ngoài để hoàn tất thủ tục, nhằm đủ điều kiện yêu cầu hoàn thuế GTGT đầu vào và chi phí tính thuế thu nhập.
Vào thứ bảy, hàng hóa nhập khẩu bất hợp pháp và việc bán hàng không đầy đủ thuế GTGT đã diễn ra Các doanh nghiệp không chỉ thu lợi từ việc bán hàng trái phép mà còn hưởng lợi từ thuế GTGT mà họ thu được từ khách hàng, do không phải nộp thuế GTGT.
2.4.2 Các nghiên cứu ở trong nước
Theo thống kê, doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) hiện chiếm khoảng 97% tổng số doanh nghiệp tại Việt Nam, đóng góp 45-50% vào khối lượng hàng tiêu dùng, 30% kim ngạch xuất khẩu và tạo việc làm cho 51% lực lượng lao động Chính phủ đang chú trọng cải cách hành chính thuế để tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.
Số lượng doanh nghiệp mới thành lập đã tăng đáng kể, với 22.557 doanh nghiệp được cấp phép từ đầu năm 2015 đến tháng 9 năm 2015, tăng 30,6% so với cùng kỳ Điều này cho thấy doanh nghiệp đang được hỗ trợ tốt hơn trong thủ tục và điều kiện đăng ký kinh doanh.
Trong năm qua, có 9.084 doanh nghiệp (DN) đã đăng ký thành công và nhận giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh thông qua chương trình phục vụ đăng ký doanh nghiệp tại nhà Tuy nhiên, sự cởi mở trong công tác kê khai và đăng ký thuế đã tạo ra nhiều cơ hội cho DN thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật thuế, dẫn đến sự gia tăng mức độ gian lận thuế.
Cơ quan quản lý thuế đang nỗ lực hạn chế gian lận thuế thông qua việc tăng cường giám sát kê khai thuế, nhằm nâng cao tính tuân thủ thuế trong mô hình quản lý hiện đại Tuân thủ thuế là yếu tố cốt lõi trong cơ chế tự tính, tự khai và tự nộp thuế Do đó, việc xây dựng "chiến lược tuân thủ tự nguyện" trở thành một yêu cầu thiết yếu trong hoạt động của mô hình quản lý tuân thủ, thu hút sự quan tâm của các cơ quan thừa hành.
Doanh nghiệp (DN) tự kê khai và tính toán số thuế phải nộp, đồng thời chịu trách nhiệm về việc này Cơ quan quản lý thuế không can thiệp vào quá trình kê khai, nộp thuế của DN, trừ khi phát hiện sai sót, vi phạm hoặc gian lận thuế Một số nguyên nhân dẫn đến gian lận thuế bao gồm việc thiếu minh bạch trong báo cáo tài chính, hiểu sai quy định thuế, và áp lực cạnh tranh trong kinh doanh.
Mô hình nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu
2.5.1 Mô hình nghiên cứu đề xuất
Động cơ là các yếu tố thúc đẩy cá nhân hoạt động để đáp ứng nhu cầu sinh học và tâm lý Khi nhu cầu gia tăng đến mức đủ mạnh, nó trở thành động cơ, thôi thúc con người tìm cách thỏa mãn Việc thỏa mãn nhu cầu này giúp giảm bớt căng thẳng nội tâm mà cá nhân phải chịu đựng.
Theo Donald R Cressey (1987), nguyên nhân khởi nguồn của gian lận thường xuất phát từ động cơ và áp lực trong cuộc sống Những áp lực này có thể đến từ bế tắc cá nhân như tổn thất tài chính, nợ nần vượt quá khả năng kiểm soát, hoặc tình trạng gia đình có người ốm nặng, gây ra căng thẳng về tinh thần và tài chính Những áp lực này phản ánh nhu cầu cá nhân và lợi ích riêng của mỗi người Động cơ, khi đủ mạnh, sẽ thúc đẩy con người hành động, và với một số người, việc đạt được phần thưởng tài chính có thể dẫn đến hành vi gian lận.
Nhiều nhân viên, thay vì nỗ lực làm việc để đạt được thành công và thịnh vượng, lại tìm cách thỏa mãn nhu cầu cá nhân ngay lập tức, dẫn đến hành vi gian lận Áp lực từ môi trường bên ngoài, bao gồm thu nhập, vị trí công tác và mối quan hệ với chủ doanh nghiệp, là yếu tố chính thúc đẩy hành vi này Những áp lực tài chính và yêu cầu đạt chỉ tiêu khiến nhiều người trong bộ phận quản lý cảm thấy buộc phải gian lận để bảo vệ lợi ích cá nhân và duy trì vị trí công việc Mức độ nghiêm trọng của hành vi gian lận thường phụ thuộc vào vị trí của cá nhân trong tổ chức, với những người ở cấp cao có khả năng gây ra tổn thất lớn hơn.
Cơ hội là yếu tố quan trọng dẫn đến hành vi gian lận, đặc biệt khi có áp lực hoặc động cơ mà không có hệ thống kiểm soát hiệu quả Theo Donald R Cressey (1987), hai yếu tố chính tạo ra cơ hội là thông tin và kỹ thuật thực hiện Khi một cá nhân có động cơ và nhận thấy cơ hội, họ sẽ dễ dàng hành động, đặc biệt nếu không có biện pháp ngăn chặn hiệu quả Nghiên cứu của Cressey chỉ ra rằng hành vi gian lận phụ thuộc vào nhận thức của cá nhân về tình huống, cho thấy rằng sự kết hợp giữa động cơ và cơ hội có thể dẫn đến hành vi không trung thực trong thực tế.
Khi một cá nhân nhận thức rõ về các vấn đề như kẽ hở trong luật pháp, sự lỏng lẻo trong quản lý và có kỹ năng thực hiện gian lận, họ sẽ có xu hướng tiến hành hành vi gian lận.
Khả năng hợp lý hóa hành vi gian lận của con người
Khả năng hợp lý hóa hành vi gian lận là một yếu tố quan trọng, vì những người thực hiện hành vi gian lận thường có khả năng biện minh cho hành động của mình bằng những lý do nhằm được chấp nhận là đúng đắn.
Theo Donald R Cressey (1987), ngoài động cơ và cơ hội, yếu tố hợp lý hóa hành vi gian lận cũng đóng vai trò quan trọng trong việc một người thực hiện hành vi gian lận Hành vi gian lận chỉ xảy ra khi người thực hiện có khả năng biện minh cho hành động của mình, điều này phụ thuộc vào tư duy và nhân cách của họ Nếu một người xem việc lừa gạt là bình thường, họ có xu hướng thực hiện hành vi này Ngược lại, những người có tính cách trung thực và liêm chính sẽ không gian lận dù họ phải đối mặt với áp lực và có cơ hội.
Gian lận xuất hiện cùng với sự tồn tại của con người, nhưng nghiên cứu và phát hiện gian lận vẫn còn ở mức độ hạn chế Trên thế giới, một số công trình nghiên cứu nổi bật về gian lận bao gồm công trình của Donald R Cressey (1987) và Albrecht cùng các cộng sự (1980) Mỗi mô hình nghiên cứu dựa trên giả thuyết khác nhau, dẫn đến những kết luận khác nhau về hành vi gian lận Tác giả áp dụng mô hình lý thuyết tam giác gian lận của Cressey để phát triển lý thuyết về hành vi gian lận thuế TNCN của những người dân chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại huyện Tân Hưng, tỉnh Long An.
Hình 2.2 Mô hình lý thuyết hành vi gian lận thuế TNCN đề xuất
Mô hình lý thuyết về hành vi gian lận thuế thu nhập cá nhân (TNCN) bao gồm ba yếu tố chính: động cơ gian lận thuế TNCN, cơ hội gian lận thuế TNCN và khả năng hợp lý hóa hành vi gian lận thuế TNCN Những yếu tố này tương tác với nhau để hình thành hành vi gian lận thuế, từ đó ảnh hưởng đến sự tuân thủ thuế trong xã hội.
Gian lận thuế TNCN thường xuất phát từ động cơ cá nhân hoặc áp lực trong cuộc sống Khi không có hệ thống kiểm soát hiệu quả, cơ hội cho hành vi gian lận gia tăng Việc kiểm soát kém dẫn đến thiếu sót trong quy trình phát hiện gian lận, tạo điều kiện cho hành vi này xảy ra Tính cách của mỗi người cũng ảnh hưởng đến khả năng gian lận; những người thiếu trung thực dễ dàng hợp lý hóa hành vi của mình hơn so với những người có tiêu chuẩn đạo đức cao Để thực hiện gian lận, họ thường phải thuyết phục bản thân rằng hành vi này chỉ là tạm thời và sẽ không gây hậu quả lâu dài.
Hợp lý hóa hành vi Động cơ
Hành vi gian lận thuế thu nhập cá nhân từ chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Việc lặp lại hành vi trái với lương tâm và đạo đức sẽ dần trở nên bình thường Ban đầu, người thực hiện có thể cảm thấy ám ảnh, nhưng qua các lần tiếp theo, họ sẽ không còn băn khoăn và việc thực hiện sẽ trở nên dễ dàng hơn Điều này dẫn đến khả năng xảy ra gian lận cao hơn, đặc biệt khi có động cơ thúc đẩy và cơ hội thuận lợi để thực hiện hành vi đó.
Áp lực công việc, khó khăn tài chính và sự phức tạp trong hệ thống pháp luật thuế khiến nhiều cá nhân dễ rơi vào mưu đồ gian lận Khi có ý định gian lận, họ thường cân nhắc khả năng bị phát hiện; nếu xác suất bị phát hiện cao, họ sẽ từ bỏ hành vi này, ngược lại, nếu khả năng bị phát hiện thấp, họ sẽ tiến hành gian lận.
Nghiên cứu này nhằm kiểm tra các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi gian lận thuế TNCN từ chuyển nhượng quyền sử dụng đất Dựa trên các giả thuyết nghiên cứu và mục tiêu đã đề ra, tác giả xây dựng mô hình nghiên cứu để phân tích các yếu tố tác động đến hành vi gian lận thuế TNCN.
Mô hình hồi quy nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi gian lận thuế TNCN: Y=a +β1X1+ β2X2 + β3X3+ e
Biến phụ thuộc (Y): Hành vi gian lận thuế TNCN
Các biến độc lập gồm có:
X1 : Yếu tố cơ hội gian lận
X2 : Yếu tố động cơ gian lận
X3 : Yếu tố khả năng hợp lý hóa hành vi gian lận
Theo Donald R Cressey (1987), hành vi gian lận của con người bị ảnh hưởng bởi yếu tố cơ hội Khi có động cơ, con người dễ dàng hành động khi nhận thấy cơ hội Nếu việc gian lận trở nên dễ dàng do thiếu biện pháp ngăn chặn, khả năng xảy ra gian lận sẽ tăng cao.
Khi kiểm soát không hiệu quả, cơ hội gian lận trở nên dễ dàng hơn Người có động cơ và cơ hội thường hành động dựa trên nhận thức của họ về tình huống Nếu họ nhận thức được các kẽ hở trong pháp luật, chính sách thuế không rõ ràng, và sự lỏng lẻo trong quản lý, cùng với khả năng thực hiện gian lận, họ sẽ có xu hướng tiến hành hành vi gian lận.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Phương pháp nghiên cứu
Bảng 3.1 Tiến độ thực hiện nghiên cứu
(Nguồn: Tổng hợp của tác giả)
Nghiên cứu sơ bộ được thực hiện thông qua phương pháp nghiên cứu định tính, nhằm khám phá và thu thập dữ liệu dưới dạng định tính Phương pháp này sử dụng kỹ thuật phỏng vấn sâu để điều chỉnh mô hình và thang đo cho phù hợp với điều kiện tại huyện Tân Hưng, từ đó xác định các biến quan sát cần thiết để đo lường các khái niệm nghiên cứu.
Nghiên cứu chính thức được thực hiện thông qua phương pháp nghiên cứu định lượng, bao gồm phỏng vấn trực tiếp bằng bảng câu hỏi với người dân có giao dịch thuế tại huyện Tân Hưng Nghiên cứu này tập trung vào bốn nội dung chính.
(1) Phân tích thống kê mô tả
(2) Phân tích độ tin cậy Cronbach’s Alpha
(3) Phân tích nhân tố khám phá EFA
(4) Phân tích hồi quy và rà soát các giả định
Phương pháp Kỹ thuật sử dụng Thời gian Địa điểm
Sơ bộ Định tính Phỏng vấn chuyên sâu kết hợp với nghiên cứu tại địa bàn
Chính thức Định lượng Phỏng vấn trực tiếp bằng câu hỏi 05/2020
Quy trình nghiên cứu
Hình 3.1 Quy trình nghiên cứu
(Nguồn: Tổng hợp của tác giả)
Nghiên cứu định tính
Trong nghiên cứu này, tác giả đã kế thừa bộ thang đo từ các tác giả nghiên cứu trước đó Donald R Cressey (1987) đã phân tích gian lận từ góc độ tham ô và biển thủ.
Xác định vấn đề mục tiêu và nghiên cứu Cơ sở lý thuyết
Phân tích và thảo luận
Xây dựng mô hình và thang đo
Nghiên cứu định tính và định lượng
Kiểm định mô hình thang đo
Phân tích Cronbach Alpha Phân tích EFA Phân tích hồi qui
- Phỏng vấn chuyên sâu kết hợp với nghiên cứu tại địa bàn
- Điều chỉnh mô hình thang đo
- Loại các biến tương quan < 0.3
- Kiểm tra hệ số Alpha
- Loại các biến có hệ số EFA
- Kiểm tra các nhân tố trích được
- Kiểm định giả thuyết và mô hình nghiên cứu
Xác định vấn đề mục tiêu và nghiên cứu Cơ sở lý thuyết
Nghiên cứu khảo sát 200 trường hợp tội phạm kinh tế đã xác định nguyên nhân dẫn đến hành vi vi phạm pháp luật, trong đó Donald đã phát triển mô hình tam giác gian lận (Fraud Triangle) với ba yếu tố chính: cơ hội, động cơ và thái độ hợp lý hóa hành vi gian lận Đặc biệt, thang đo lường các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi gian lận thuế TNCN từ chuyển nhượng quyền sử dụng đất được xây dựng dựa trên nghiên cứu của Lefebvre et al (2011) tại Ireland, bao gồm ba thành phần với 15 câu hỏi và đánh giá ở 5 mức độ khác nhau.
Bảng 3.2 Các thang đo thành phần của mô hình đề xuất
STT NHÂN TỐ BIẾN QUAN SÁT
Người dân nghĩ rằng họ phải nộp nhiều các khoản thuế
Số tiền gian lận từ thuế được dùng để mua những đồ dùng cần thiết
Người ta tin rằng có những người khác kê khai thuế chính xác
Tiền thuế thu được, sử dụng kém hiệu quả Trốn thuế không phải là vấn đề ở Ireland
Cơ hội giảm thiểu thuế thu nhập cá nhân có thể được tận dụng bằng cách đẩy mạnh chi phí cao và không kê khai đầy đủ các khoản thu nhập, từ đó làm giảm số tiền thuế phải nộp (Lefebvre et al, 2011) Việc lợi dụng những kẽ hở trong pháp luật để giảm mức thuế phải nộp là một thực tế đáng chú ý.
Cơ quan thuế chưa quản lý tốt các khoản thu nhập chịu thuế Đã thành công trong việc trốn thuế Lefebvre et
3 Hợp lý hóa hành vi
Biện pháp chế tài hiện tại chưa đủ sức răn đe đối với hành vi gian lận thuế Mặc dù mọi người đều nhận thức rằng gian lận thuế là vi phạm pháp luật, nhưng nguy cơ bị phát hiện lại rất thấp Khi bị phát hiện, người trốn thuế sẽ phải nộp đủ số tiền thuế đã trốn.
4 Hành vi gian lận thuế
Sẵn sàng thực hiện trốn thuế khi có cơ hội
Sẵn sàng thực hiện việc trốn thuế khi hợp lý hóa được hành vi
Sẵn sàng thực hiện trốn thuế khi mang lại lợi ích
(Nguồn: Tổng hợp của tác giả)
3.3.2 Kết quả nghiên cứu định tính và điều chỉnh thang đo
Nghiên cứu định tính cho thấy các chuyên gia đã chia sẻ nhiều quan điểm dựa trên kinh nghiệm cá nhân Cuối cuộc thảo luận, tác giả đã tổng kết rằng 7/7 chuyên gia đều đồng ý bổ sung thêm 3 quan sát mới cho nhân tố này.
Trong nghiên cứu này, chúng tôi tập trung vào ba yếu tố chính: "Cơ hội", "Động cơ" và "Hợp lý hóa hành vi", nhằm phù hợp với bối cảnh và mục tiêu nghiên cứu Thang đo đã được hiệu chỉnh với 18 câu hỏi và sử dụng thang đo Likert 5 điểm, từ 1 (hoàn toàn không đồng ý) đến 5 (hoàn toàn đồng ý) Sau khi thực hiện nghiên cứu định tính sơ bộ, thang đo chính thức đã được đưa vào khảo sát và được mã hóa tương ứng.
Bảng 3.3 Danh sách các chuyên gia tham gia thảo luận nhóm
STT HỌ TÊN CƠ QUAN CÔNG TÁC
1 Lê Lâm Hồng Chi cục trưởng - Chi cục Thuế huyện Tân
2 Đặng Ngọc Phương P Chi cục trưởng - Chi cục Thuế huyện Tân
3 Uông Sĩ Ban P Chi cục trưởng - Chi cục Thuế huyện Tân
4 Hoàn Văn Hoàn Đội trưởng Đội Kê khai KTT - Chi cục Thuế huyện Tân Hưng
5 Trương Hoàng Hưng Công chức - Chi cục Thuế huyện Tân Hưng
6 Nguyễn Thị Kim Xuyến Công chức - Chi cục Thuế huyện Vĩnh Hưng
7 Nguyễn Văn Giàu Công chức - Chi cục Thuế huyện Tân Hưng
(Nguồn: Tổng hợp của tác giả)
Bảng 3.4 Thang đo chính thức
HÓA BIẾN QUAN SÁT Điều chỉnh
Nâng cao chi phí để tránh nộp thuế thu nhập cá nhân và không kê khai đầy đủ các khoản thu nhập nhằm giảm số tiền thuế phải trả.
CH2 Lợi dụng kẻ hở pháp luật để giảm số thuế phải nộp Kế thừa
CH3 Cơ quan thuế chưa quản lý tốt các khoản thu nhập chịu thuế Kế thừa
Cơ quan thuế chưa tiến hành kiểm tra và đối chiếu để xác định giá trị thực tế của việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất của người dân, đặc biệt khi có dấu hiệu gian lận.
DC1 Người dân nghĩ rằng họ phải nộp nhiều các khoản thuế Kế thừa
DC2 Số tiền gian lận từ thuế được dùng để mua những đồ dùng cần thiết Kế thừa
DC3 Người ta tin rằng có những người khác kê khai thuế chính xác Kế thừa
DC4 Tiền thuế thu được, sử dụng kém hiệu quả Kế thừa
DC5 Trốn thuế không phải là vấn đề ở địa phương Kế thừa
Người môi giới có khả năng gian lận thuế cao nhằm tăng thu nhập cho bản thân và khách hàng trong quá trình chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
Hợp lý hóa hành vi
HL1 Đã thành công trong việc trốn thuế Kế thừa HL2 Biện pháp chế tài chưa đủ sức răn đe Kế thừa
Mọi người nghĩ rằng gian lận thuế là phạm pháp nhưng nguy cơ bị phát hiện là rất thấp
HL4 Trốn thuế có thể bị phát hiện khi đó sẽ nộp đủ Kế thừa
HL5: Khi bị cơ quan thuế phát hiện có hành vi gian lận thuế thu nhập cá nhân, người dân thường cho rằng họ thiếu hiểu biết về chính sách thuế và sẽ rút kinh nghiệm cho những lần sau.
Hành vi gian lận thuế
HV1 Sẵn sàng thực hiện trốn thuế khi có cơ hội Kế thừa
HV2 Sẵn sàng thực hiện việc trốn thuế khi hợp lý hóa được hành vi Kế thừa
HV3 Sẵn sàng thực hiện trốn thuế khi mang lại lợi ích Kế thừa
(Nguồn: Tổng hợp của tác giả)
Nghiên cứu định lượng
Kích cỡ mẫu tối thiểu phải lớn hơn hoặc bằng n= số biến quan sát * 5 và hồi quy n= số biến độc lập*8 +50 Hoàng Trọng và Chung Nguyễn Mộng Ngọc (2005)
[16] (được chọn theo phương pháp lấy mẫu thuận tiện, lấy mẫu phi xác xuất)
Nghiên cứu chính thức được sử dụng để kiểm định lại mô hình đo lường cũng như mô hình lý thuyết và các giả thuyết trong mô hình
Nghiên cứu này áp dụng phần mềm SPSS 20 để thực hiện các công việc như nhập dữ liệu, làm sạch dữ liệu, tạo bảng biểu thống kê, kiểm định độ tin cậy bằng Cronbach’s Alpha và phân tích nhân tố khám phá (EFA).
Nghiên cứu định lượng được thực hiện bằng phương pháp phỏng vấn trực tiếp thông qua bảng câu hỏi chi tiết với kích cỡ mẫu được lựa chọn ở mức (n0
Nghiên cứu được thực hiện với mẫu 90 người dân có giao dịch tại huyện Tân Hưng, sử dụng phương pháp lấy mẫu thuận tiện Để xác định kích thước mẫu tối thiểu cho hồi quy, công thức n >= 50 + 8*p được áp dụng, trong đó p là số biến độc lập theo Green (1991) Đối với phân tích yếu tố khám phá (EFA), kích thước mẫu cần lớn và chưa có sự thống nhất về kích thước tối thiểu Hair và cộng sự (2006) chỉ ra rằng kích thước mẫu tối thiểu là 50, tốt nhất là 100, với tỷ lệ biến quan sát trên biến đo lượng là 5/1, lý tưởng nhất là 10/1.
3.4.2 Thiết kế bảng câu hỏi
Theo Hoàng Trọng và Chu Nguyễn Mộng Ngọc (2008), thang đo Likert, được giới thiệu bởi Rensis Likert vào năm 1932, là một phương pháp đo lường phổ biến trong nghiên cứu kinh tế xã hội Thang đo này thường sử dụng 5 mức độ để thu thập dữ liệu trong các nghiên cứu định lượng.
Bảng khảo sát chính thức được đề cập chi tiết tại phụ lục 2
3.5.3 Phương pháp thu thập dữ liệu
Thông tin mẫu nghiên cứu được thu thập thông qua phương pháp phỏng vấn, sử dụng bảng câu hỏi đã được chuẩn bị sẵn Tác giả đã gửi trực tiếp Phiếu khảo sát bằng giấy đến các đáp viên để thu thập dữ liệu.
Kết quả khảo sát, sau khi loại bỏ các Phiếu khảo sát không hợp lệ, tác giả đưa dữ liệu vào phần mềm SPSS 20.0 để xử lý
Phương pháp phân tích dữ liệu
Dữ liệu nghiên cứu sau khi thu thập sẽ được xử lí trên phần mềm SPSS 20.0 theo trình tự sau:
Bước 1: Chuẩn bị dữ liệu bằng cách thu thập và làm sạch Phiếu khảo sát đã được trả lời, đồng thời mã hóa các dữ liệu cần thiết trong bảng câu hỏi thông qua phần mềm SPSS Bước 2: Thực hiện thống kê mô tả để phân tích dữ liệu đã thu thập.
Bước 3: Phân tích độ tin cậy: Tiến hành đánh giá độ tin cậy thang đo bằng hệ số Cronbach’s Alpha
Bước 4: Phân tích nhân tố khám phá EFA
Bước 5: Phân tích hệ số Pearson để lượng hóa mức độ chặt chẽ của mối liên hệ tuyến tính giữa hai biến định lượng
Bước 6: Phân tích hồi quy: Xác định mối liên hệ nhân quả giữa biến phụ thuộc và các biến độc lập
Bước 7: Kiểm định mô hình và kiểm định giả thuyết
3.5.1 Phân tích thống kê mô tả
Tác giả đã áp dụng phép phân tích mô tả trong phần mềm SPSS 20.0 để nghiên cứu các thuộc tính của mẫu khảo sát, bao gồm thông tin về giới tính và độ tuổi của đối tượng được khảo sát.
3.5.2 Phân tích độ tin cậy (hệ số Cronbach’s Alpha) Đo lường độ tin cậy thang đo bằng hệ số Cronbach’s Alpha là phép kiểm định phản ánh mức độ tương quan chặt chẽ giữa các biến quan sát trong cùng một nhân tố Hệ số này cho biết trong các biến quan sát của một nhân tố, biến nào đã đóng góp tốt vào việc đo lường khái niệm của nhân tố, biến nào không
Theo Cronbach (1951, trích bởi Nguyễn Đình Thọ, 2013, trang 355), hệ số Cronbach’s Alpha chỉ có khả năng đo lường độ tin cậy của thang đo khi có từ ba biến quan sát trở lên, mà không thể đánh giá độ tin cậy cho từng biến quan sát riêng lẻ.
Để đảm bảo độ tin cậy của thang đo, chỉ số Cronbach’s Alpha nên nằm trong khoảng từ 0,75 đến 0,95 Nếu chỉ số này đạt từ 0,6 trở lên, thang đo được coi là chấp nhận được về độ tin cậy (Nunnally & Bernsteri 1994, trích dẫn bởi Nguyễn Đình Thọ 2013, trang 365).
Theo Nguyễn Đình Thọ (2013), hệ số Cronbach’s Alpha càng cao thì độ tin cậy của thang đo càng lớn Tuy nhiên, nếu hệ số này quá cao (α > 0,95) có thể cho thấy sự trùng lặp trong đo lường, tức là các biến không có sự khác biệt và cùng đo lường một nội dung Để đánh giá hiệu quả của từng biến đo lường, cần sử dụng hệ số tương quan biến tổng hiệu chỉnh (Corrected Item-Total Correlation), cho thấy mối liên hệ của biến đó với tổng các biến còn lại Một biến đo lường được coi là có giá trị nếu hệ số tương quan này đạt ≥ 0,3 (Nunnally & Bernstein, 1994).
Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng hệ số Cronbach’s Alpha từ 0,8 trở lên cho thấy thang đo lường tốt, trong khi từ 0,7 đến gần 0,8 là có thể sử dụng Một số ý kiến cho rằng Cronbach’s Alpha từ 0,6 trở lên vẫn có thể chấp nhận được, đặc biệt khi khái niệm đo lường là mới hoặc chưa quen thuộc với người trả lời trong bối cảnh nghiên cứu (Nunnally 1978; Peterson 1994; Slater 1995, trích bởi Hoàng Trọng và Chu Nguyễn Mộng Ngọc 2008, tập 2, trang 24).
Trong nghiên cứu này, tác giả sẽ loại bỏ các thang đo có hệ số Cronbach’s Alpha dưới 0,6 và loại trừ những biến quan sát có hệ số tương quan với biến tổng hiệu chỉnh không đạt yêu cầu.
Việc loại bỏ các biến không đạt yêu cầu khỏi mô hình là cần thiết, nhưng cần xem xét giá trị nội dung của khái niệm, không chỉ dựa vào số liệu thống kê (Nguyễn Đình Thọ 2013, trang 367).
3.5.3 Phân tích nhân tố khám phá EFA
Sau khi áp dụng phương pháp Cronbach’s Alpha để kiểm tra độ tin cậy của thang đo, việc tiếp theo là đánh giá hai giá trị quan trọng: giá trị hội tụ và giá trị phân biệt Để thực hiện điều này, phương pháp phân tích nhân tố khám phá EFA được sử dụng Giá trị hội tụ được xác định khi các biến quan sát có cùng tính chất hội tụ về một nhân tố và nằm chung một cột trong ma trận xoay Ngược lại, giá trị phân biệt đảm bảo rằng các biến khác nhau không có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, giúp xác định rõ ràng các nhân tố riêng biệt trong nghiên cứu.
Có 34 biến quan sát hội tụ về một nhân tố cụ thể, và cần phân biệt chúng với các biến quan sát thuộc nhân tố khác Khi được trình bày trong ma trận xoay, mỗi nhóm biến sẽ được phân tách thành các cột riêng biệt.
Phương pháp phân tích EFA (Phân tích nhân tố khám phá) dựa vào mối tương quan giữa các biến, nhằm rút gọn tập hợp k biến quan sát thành các nhân tố F có ý nghĩa hơn, với F nhỏ hơn k Sự rút gọn này dựa trên mối quan hệ tuyến tính giữa các nhân tố và các biến quan sát (Nguyễn Đình Thọ 2013, trang 378) Để đảm bảo tính phù hợp khi áp dụng EFA, cần tiến hành kiểm định các tiêu chí liên quan.
Kiểm định Bartlett’s (Bartlett's Test of Sphericity) được sử dụng để xác định xem ma trận tương quan có phải là ma trận đơn vị hay không Kiểm định này có ý nghĩa thống kê khi giá trị Sig nhỏ hơn 0,05, cho thấy các biến quan sát có mối tương quan với nhau trong tổng thể (Nguyễn Đình Thọ 2013, trang 413).
Kiểm định KMO (Kaiser-Meyer-Olkin Measure of Sampling Adequacy) là chỉ số quan trọng để đánh giá mức độ phù hợp của mẫu dữ liệu trong phân tích nhân tố Hệ số KMO càng cao cho thấy mối tương quan giữa các biến đo lường càng mạnh, với ngưỡng tối thiểu là 0,5 để thực hiện phân tích EFA Theo Kaiser (1974), các mức độ KMO được phân loại như sau: KMO ≥ 0,90 là rất tốt, KMO ≥ 0,80 là tốt, KMO ≥ 0,70 là đạt yêu cầu, KMO ≥ 0,60 là tạm được, KMO ≥ 0,50 là xấu, và KMO < 0,50 là không chấp nhận được Trong thực tế, khi sử dụng phần mềm SPSS, nếu kết quả trọng số nhân tố và phương sai trích đạt yêu cầu, kiểm định Bartlett’s và KMO có thể không còn ý nghĩa quan trọng.
Tiêu chí Eigenvalues là một phương pháp phổ biến trong việc xác định số lượng nhân tố trong phân tích EFA, với yêu cầu rằng số lượng nhân tố được xác định phải có Eigenvalues tối thiểu bằng 1 (≥ 1) (Nguyễn Đình Thọ 2013, trang 410).