TỔNG QUAN
Đại cương về sữa mẹ
1.1.1 Một số khái niệm về nuôi con bằng sữa mẹ
- NCBSM: là đứa trẻ được nuôi dưỡng trực tiếp bằng bú mẹ hoặc gián tiếp do sữa mẹ vắt ra
Sữa non là loại sữa mẹ được tiết ra trong vài ngày đầu sau khi sinh, có màu vàng và độ sánh đặc hơn sữa trưởng thành Loại sữa này chứa nhiều chất đạm, Vitamin A và kháng thể, giúp trẻ sơ sinh tăng cường sức đề kháng chống lại vi khuẩn và virus Mặc dù chỉ được tiết ra với một lượng nhỏ, sữa non đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ sức khỏe cho trẻ.
- Bú sớm : là trẻ được bú mẹ trong vòng 1 giờ đầu sau khi sinh
Bú mẹ hoàn toàn (BMHT) là phương pháp nuôi dưỡng trẻ chỉ sử dụng sữa từ vú mẹ, vú nuôi hoặc sữa mẹ đã được vắt ra, mà không bổ sung bất kỳ loại thức ăn lỏng hay rắn nào khác, ngoại trừ các dạng giọt, siro chứa vitamin, khoáng chất bổ sung hoặc thuốc.
Bú mẹ là phương pháp nuôi dưỡng chủ yếu, trong đó sữa mẹ là nguồn dinh dưỡng chính cho trẻ Ngoài ra, trẻ có thể bổ sung thêm nước uống đơn thuần hoặc một số loại thức ăn và đồ uống dạng lỏng như nước hoa quả, ORS, nước đường, và các món ăn lỏng truyền thống nhưng chỉ với một lượng nhỏ.
- Ăn bổ sung: đứa trẻ vừa được bú sữa mẹ vừa được ăn thức ăn ở dạng đặc hoặc nửa đặc [40]
Cai sữa là quá trình ngừng cho trẻ bú sữa mẹ, đánh dấu sự chuyển giao từ nguồn cung cấp dinh dưỡng chính là sữa mẹ sang các thực phẩm trong bữa ăn gia đình, đồng thời kết thúc giai đoạn bú mẹ.
- Cân nặng sơ sinh thấp: Trẻ sơ sinh nhẹ cân khi có cân nặng tại lúc sinh dưới 2500 gram [40]
1.1.2 Thành phần cơ bản của sữa mẹ
Sữa mẹ là nguồn dinh dưỡng hoàn hảo nhất cho trẻ nhỏ, cung cấp đầy đủ năng lượng và các chất dinh dưỡng cần thiết như đạm, đường, mỡ, vitamin và muối khoáng với tỷ lệ hợp lý Điều này giúp trẻ hấp thu tốt và phát triển khỏe mạnh, đồng thời ngăn ngừa tình trạng suy dinh dưỡng hoặc béo phì.
Sữa mẹ chứa hàm lượng protein thấp hơn sữa công thức, nhưng vẫn cung cấp đầy đủ các acid amin cần thiết và dễ tiêu hóa cho trẻ nhỏ Thành phần protein trong sữa mẹ bao gồm casein, albumin, lactabumin, β-Lactoglobulin, globulin miễn dịch và các glycoprotein khác Đặc biệt, casein là một chất đạm quan trọng giúp ngăn ngừa các bệnh như tiêu chảy, nhiễm trùng hô hấp, viêm tai và dị ứng.
Sữa mẹ chứa các acid béo thiết yếu như acid linoleic, rất quan trọng cho sự phát triển hệ thần kinh, mắt và độ bền vững của mạch máu ở trẻ nhỏ Ngoài ra, lipid trong sữa mẹ cũng dễ tiêu hóa hơn nhờ vào sự có mặt của men lipase.
Sữa mẹ chứa nhiều lactose hơn sữa công thức, cung cấp nguồn năng lượng bổ sung cho trẻ Một phần lactose trong sữa mẹ được chuyển hóa thành acid lactic trong ruột, giúp cải thiện khả năng hấp thu canxi và các khoáng chất.
Sữa mẹ chứa nhiều Vitamin A hơn sữa công thức, giúp trẻ bú sữa mẹ phòng ngừa bệnh khô mắt do thiếu Vitamin A Ngoài ra, các Vitamin khác trong sữa mẹ cũng đủ cung cấp cho trẻ trong 6 tháng đầu nếu bà mẹ duy trì chế độ ăn uống và nghỉ ngơi hợp lý.
Muối khoáng trong sữa mẹ cung cấp calci và sắt với tỷ lệ hấp thu cao hơn so với sữa công thức, mặc dù lượng calci và sắt trong sữa mẹ ít hơn Điều này giúp trẻ bú mẹ đáp ứng tốt nhu cầu dinh dưỡng, giảm nguy cơ còi xương và thiếu máu do thiếu sắt.
Bú sữa mẹ giúp trẻ phát triển nhanh chóng, ngăn ngừa suy dinh dưỡng, tăng cường trí tuệ và đảm bảo trẻ không bị thiếu vitamin, thiếu máu do thiếu sắt, cũng như thiếu calci và phosphor.
Tầm quan trọng của sữa mẹ
1.2.1 Sữa mẹ giúp trẻ phát triển trí não hoàn hảo
Sữa mẹ không chỉ hỗ trợ sự phát triển thể chất của trẻ mà còn đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển trí não Trẻ bú mẹ được cung cấp Taurine, một thành phần thiết yếu cho tế bào não Các acid béo omega 3 và omega 6, là tiền tố của DHA và AA, cũng giúp hình thành màng tế bào não và võng mạc, góp phần làm tăng cường trí thông minh và cải thiện thị lực cho trẻ Hơn nữa, trẻ còn hấp thu tốt sắt và vitamin C từ sữa mẹ.
[40] Sữa mẹ rất có ích với trẻ nhẹ cân, thiếu tháng và có thể làm giảm nguy cơ nhiễm trùng khởi phát muộn [46]
1.2.2 Sữa mẹ có tác dụng chống dị ứng
Trẻ bú sữa mẹ ít có nguy cơ mắc dị ứng eczema hơn so với trẻ ăn sữa công thức, nhờ vào IgA và các đại thực bào có tác dụng chống dị ứng Nhiều nghiên cứu tại Châu Âu đã chỉ ra rằng một số trẻ em bị dị ứng sữa công thức có thể gặp nguy hiểm đến tính mạng, trong khi chưa có trường hợp tương tự xảy ra ở trẻ bú sữa mẹ, do sữa mẹ chứa các chất chống dị ứng.
1.2.3 NCBSM là điều kiện để gắn bó tình cảm mẹ con
Sữa mẹ không chỉ tạo sự gắn kết giữa mẹ và con mà còn đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển tâm lý hài hòa của trẻ Hơn nữa, chỉ có mẹ với khả năng quan sát tinh tế mới có thể phát hiện sớm và chính xác những thay đổi bình thường hay bệnh lý ở trẻ.
1.2.4 Bảo vệ sức khỏe bà mẹ
Cho con bú sớm sau khi sinh giúp tử cung co hồi nhanh chóng, ngăn ngừa tình trạng thiếu máu và giảm sản dịch Việc cho con bú đúng cách và đủ lượng không chỉ làm chậm quay trở lại của kinh nguyệt mà còn giảm khả năng thụ thai.
Cho con bú mẹ sẽ giảm được nguy cơ bị ung thư vú, ung thư tử cung
[2], [40] Nhờ cho con bú vóc dáng người mẹ sẽ nhanh hồi phục
1.2.5 Cho bú sữa mẹ thuận lợi và kinh tế
Việc cho trẻ ăn trở nên thuận lợi hơn bao giờ hết, vì không cần dụng cụ hay phải đun nấu, pha chế Điều này giúp tiết kiệm thời gian chuẩn bị và không bị ràng buộc về giờ giấc, cho phép bạn có thể cho trẻ ăn bất kỳ lúc nào.
- Kinh tế vì không phải mua
- Khi người mẹ ăn uống đầy đủ, tinh thần thoải mái sẽ đủ sữa cho con bú [2], [5].
Lợi ích của việc nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu
1.3.1 Nhu cầu dinh dưỡng của trẻ dưới 6 tháng tuổi
Nhu cầu năng lượng của trẻ đủ tháng và có cân nặng bình thường lúc sinh thường được đáp ứng đầy đủ bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu nếu mẹ có chế độ dinh dưỡng hợp lý.
Sản xuất sữa của mẹ được điều chỉnh theo nhu cầu của trẻ, đảm bảo đủ sữa cho cả mẹ sinh đôi hay sinh ba Khi nhu cầu của trẻ tăng lên, sản lượng sữa cũng sẽ tăng trong vài ngày hoặc thậm chí vài giờ Mức tiêu thụ sữa mẹ của trẻ bú hoàn toàn sẽ tăng từ tháng thứ 3 đến tháng thứ 6, nhưng nếu trẻ bắt đầu ăn bổ sung sớm, lượng sữa mẹ sẽ giảm Việc tiết sữa rất linh hoạt, cho phép mẹ tăng sản xuất bằng cách vắt sữa thường xuyên và có khả năng cho bú lại sau khi đã dừng.
1.3.2 Tầm quan trọng của nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu
Trong những năm gần đây, sức khỏe và dinh dưỡng của trẻ em đã được cải thiện đáng kể, với chương trình nuôi con bằng sữa mẹ (NCBSM) được coi là ưu tiên hàng đầu Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc xác định NCBSM là một trong bốn biện pháp quan trọng nhất để bảo vệ sức khỏe trẻ em, đáp ứng đủ nhu cầu dinh dưỡng trong 6 tháng đầu đời Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) nhấn mạnh rằng nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu không chỉ cải thiện sự phát triển và học tập của trẻ mà còn có thể giảm hơn một triệu ca tử vong trẻ em mỗi năm WHO khuyến cáo các bà mẹ nên cho con bú thường xuyên, bất kể thời gian, và trong 6 tháng đầu, trẻ chỉ cần bú sữa mẹ mà không cần bổ sung thức ăn hay nước khác.
1.3.3 Lợi ích của bú sớm sau sinh
Khuyến nghị của TCYTTG về nuôi dưỡng trẻ nhỏ:
- Bắt đầu cho trẻ bú trong vòng 1 giờ đầu sau đẻ
+ Thời gian bắt đầu cho trẻ bú
Mẹ nên cho con bú trong vòng một giờ đầu sau khi sinh, càng sớm càng tốt, và không nên cho trẻ mới đẻ ăn bất kỳ thức ăn nào trước khi bú mẹ lần đầu Trẻ đói sẽ bú nhiều hơn, trong khi việc cho trẻ ăn thức ăn khác trước khi bú có thể cản trở sự tiết sữa, dẫn đến thiếu sữa nuôi con Bú sớm giúp trẻ nhận được sữa non, loại sữa giàu dinh dưỡng và phù hợp với cơ thể non nớt của trẻ Hơn nữa, động tác bú của trẻ kích thích tiết sữa mẹ sớm hơn và nhiều hơn nhờ phản xạ Prolactin, đồng thời giúp co hồi tử cung và hạn chế mất máu sau khi sinh.
Trẻ bú nhiều sẽ kích thích cơ thể mẹ sản xuất nhiều sữa hơn Số lần cho trẻ bú nên dựa vào nhu cầu của trẻ, vì vậy hãy cho trẻ bú bất cứ khi nào trẻ cảm thấy đói, kể cả vào ban đêm khi trẻ khóc đòi ăn.
Trẻ nên được bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu và kéo dài đến 18-23 tháng, không nên cai sữa trước 12 tháng Khi trẻ bị bệnh, đặc biệt là tiêu chảy, cần tăng cường cho trẻ bú để tránh tình trạng suy dinh dưỡng.
Một số nghiên cứu trong và ngoài nước về thực trang nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu
Từ lâu NCBSM đã được sự quan tâm ở nhiều nước trên thế giới
Năm 1979, nghiên cứu của Annie Cherian tại Zaria, Nigeria chỉ ra rằng hầu hết trẻ em được bú ngay sau khi sinh Mặc dù 31% bà mẹ tin tưởng vào sữa của mình, vẫn có một tỷ lệ nhỏ các bà mẹ cho rằng sữa non không tốt cho sức khỏe sơ sinh, dẫn đến việc cho con bú muộn hơn.
Theo báo cáo của WHO năm 1993, tỷ lệ trẻ được bú mẹ hoàn toàn trong 4 tháng đầu ở Sri Lanka chỉ đạt 13%, với tỷ lệ này thấp hơn ở khu vực thành thị (7%) so với nông thôn (14%) Tại Châu Âu, xu hướng nuôi con bằng sữa mẹ (NCBSM) đang gia tăng, đặc biệt ở các nước như Bulgaria, Đức, Hungary và Thụy Sỹ, nơi tỷ lệ mẹ cho con bú đạt khoảng 90% Tuy nhiên, tỷ lệ NCBSM ở các nước Tây Âu thấp hơn, với 67% ở Anh, 50% ở Pháp và 35% ở Ireland.
Gần đây, nhiều quốc gia đã chú trọng nghiên cứu về nuôi con bằng sữa mẹ (NCBSM) Một nghiên cứu năm 2006 tại Australia cho thấy tỷ lệ trẻ sơ sinh được nuôi bằng sữa mẹ đạt 93%, nhưng đến 6 tháng tuổi, chỉ còn 45,9% trẻ tiếp tục được nuôi bằng sữa mẹ, trong khi chỉ 12% bú mẹ chủ yếu Tại một bệnh viện ở Mỹ, các nghiên cứu kéo dài ba năm từ 1999 đến 2001 cho thấy tỷ lệ cho con bú sữa mẹ sớm vẫn duy trì ở mức cao, cụ thể là 87% (1999), 82% (2000), và 87% (2001), nhưng tỷ lệ bú mẹ hoàn toàn lại có sự giảm sút, với 34% (1999), 26% (2000), và 25% (2001).
Trong một nghiên cứu dọc tại Anh cũng chỉ rõ NCBSM giảm dần trong
Trong ba tháng đầu, tỷ lệ nuôi con bằng sữa mẹ (NCBSM) giảm đột ngột vào tháng thứ tư và thứ năm, với tỷ lệ 54,8% ở tháng đầu, 43,7% ở tháng thứ hai, 31% ở tháng thứ ba, 9,6% ở tháng thứ tư và 1,6% ở tháng thứ năm Tại Trung Quốc, tỷ lệ NCBSM đã giảm xuống trong những năm 70, đạt mức thấp nhất vào những năm 80, và sau đó bắt đầu tăng trở lại vào những năm 90 Các chỉ số NCBSM ở khu vực thành thị luôn thấp hơn so với khu vực nông thôn Một nghiên cứu tại tỉnh Thượng Hải cho thấy tỷ lệ bú mẹ hoàn toàn khác nhau giữa các vùng thành phố, ngoại ô và nông thôn, với tỷ lệ trẻ được bú mẹ hoàn toàn ở vùng ngoại ô và nông thôn cao gần gấp đôi so với thành phố (63,4% và 61% so với 38%) Tỷ lệ NCBSM ở ba vùng này lần lượt là 96,5%, 96,8% và 97,4% Một nghiên cứu khác đã so sánh NCBSM giữa các năm 1994-1996 và 2003-2004 tại một vùng thuộc Tây Bắc Trung Quốc.
Trong tháng đầu của tỷ lệ NCBSM năm 2003-2004, Trung Quốc ghi nhận sự giảm sút so với năm 1994-1995 Mặc dù tỷ lệ NCBSM ban đầu khá cao, nhưng sau 3 tháng, con số này đã giảm đáng kể Mục tiêu quốc gia của Trung Quốc về NCBSM không đạt được trong cả hai giai đoạn nghiên cứu.
Một trong những chỉ số quan trọng đánh giá chất lượng nuôi dưỡng trẻ nhỏ bằng sữa mẹ là thực hành cho trẻ bú sữa mẹ sớm trong vòng 1 giờ đầu sau khi sinh Theo báo cáo của WHO (2016), tỷ lệ trẻ được bú mẹ ngay trong 1 giờ đầu là 17,7% ở Peru và 60,9% ở Nhật Bản Trong khi đó, tỷ lệ các bà mẹ cho trẻ bú sữa mẹ sớm trong 1 giờ đầu ở Nepal, Sri Lanka và Cuba đạt khoảng 90%.
Nghiên cứu năm 2006 tại Australia cho thấy tỉ lệ bắt đầu nuôi con bằng sữa mẹ (NCBSM) đạt 97,7%, nhưng đến 6 tháng tuổi, chỉ có 35,6% trẻ được nuôi bằng sữa mẹ, trong khi 57% trẻ bú mẹ chủ yếu Tại Việt Nam, từ đầu những năm 1980, nhiều nghiên cứu về tập quán và thực hành nuôi con của các bà mẹ đã được thực hiện Đào Ngọc Diễn và Nguyễn Trọng An cùng cộng sự vào năm 1983 đã khảo sát 500 trẻ dưới 5 tuổi tại Hà Nội, cho thấy hầu hết trẻ được bú mẹ sau 2-3 ngày, nhưng tỷ lệ trẻ bú mẹ lần đầu trong vòng 24 giờ chỉ đạt 15,8% ở nội thành và 35,5% ở nông thôn, với 68-97% trẻ được ăn thêm trong vòng thời gian này.
4 tháng đầu Thời gian cai sữa trung bình là 12 tháng, trong đó 13,4% trẻ được cai sữa trước 12 tháng [9]
Nghiên cứu của Nguyễn Đình Quang (1996) cho thấy chỉ 30% trẻ em ở Hà Nội được bú mẹ trong 30 phút đầu sau sinh, trong khi 20,1% bú muộn sau 24 giờ Tỷ lệ trẻ được bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu chỉ đạt 20%, với thời gian bú trung bình là 14 tháng và 60% trẻ 12 tháng vẫn tiếp tục bú mẹ Các nghiên cứu tương tự tại các vùng sâu, vùng xa như của Phạm Văn Phú và Nguyễn Xuân Ninh ở Quảng Nam cho thấy chỉ 2/816 trẻ được nuôi bằng sữa mẹ hoàn toàn trong 4-6 tháng đầu, và tỷ lệ mẹ cho ăn, uống trước khi bú lần đầu cao tới 42,8%.
Nguyễn Việt Dũng đã tiến hành nghiên cứu trên 359 trẻ dưới 2 tuổi tại Hà Nội, cho thấy rằng 2/3 số bà mẹ đã cho con bú trong vòng 1 giờ đầu sau sinh, trong khi tỷ lệ cho bú từ 1 đến 24 giờ là 28,7% và chỉ có 4,5% bà mẹ cho con bú sau 24 giờ.
Nghiên cứu của Mai Thị Tâm chỉ ra rằng tỷ lệ trẻ được bú mẹ sớm trong vòng 30 phút đầu sau sinh đạt 87,2%, trong khi tỷ lệ trẻ bú trong vòng 6 giờ là 72,6% Đặc biệt, tỷ lệ trẻ được bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu chỉ đạt 32% Thời gian cho con bú trung bình cũng được ghi nhận trong nghiên cứu này.
Tại huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên, nghiên cứu của Nguyễn Lân và Trịnh Bảo Ngọc cho thấy chỉ 44,4% trẻ em được bú mẹ ngay trong vòng 1 giờ đầu sau sinh, trong khi 15,2% bà mẹ cho con bú sau 24 giờ Hơn 50% trẻ em đã tiếp xúc với các loại thức ăn hoặc đồ uống khác trước khi được bú lần đầu Tỷ lệ trẻ 12 tháng tuổi tiếp tục được bú mẹ đạt 60%.
Nghiên cứu cho thấy rằng việc nuôi con bằng sữa mẹ (NCBSM) đã nhận được sự quan tâm, với tỷ lệ trẻ được bú sớm và bú mẹ hoàn toàn tăng dần theo thời gian Tuy nhiên, tỷ lệ này vẫn còn thấp so với khuyến cáo của Tổ chức Y tế Thế giới, đặc biệt là ở các vùng sâu, vùng xa và khó khăn.
Những yếu tố liên quan đến nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu
Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng sự thành công của nuôi con bằng sữa mẹ (NCBSM) phụ thuộc vào nhiều yếu tố, bao gồm độ tuổi và trình độ học vấn của mẹ, cũng như môi trường xung quanh Quá trình NCBSM được cải thiện khi mẹ gần gũi với trẻ trong 24 giờ đầu và cho trẻ bú sớm Tuy nhiên, các yếu tố tiêu cực như việc sử dụng sản phẩm sữa bột và mẹ trở lại làm việc sớm có thể ảnh hưởng xấu đến việc nuôi con bằng sữa mẹ.
1.5.1 Yếu tố về dân tộc, nghề nghiệp, trình độ học vấn của bà mẹ
Nhiều nghiên cứu trên thế giới đã chỉ ra rằng thực hành nuôi con bằng sữa mẹ (NCBSM) trong 6 tháng đầu có sự liên quan đến chủng tộc và thời gian bú sớm sau sinh Tại Tây Ban Nha, tỷ lệ trẻ bú mẹ trong những giờ đầu tiên khá cao, với phụ nữ mới nhập cư thường cho trẻ bú ngay sau sinh và kéo dài thời gian bú hơn so với những phụ nữ đã ở lâu Một số nghiên cứu cho thấy phụ nữ Mỹ da đen và gốc Tây Ban Nha cho con bú sớm cao gấp 3,2 lần so với phụ nữ Mỹ da trắng Nghiên cứu của McLachlan, H L trên 300 bà mẹ từ Thổ Nhĩ Kỳ, Úc và Việt Nam sinh con tại Úc cho thấy sự khác biệt rõ rệt trong thực hành NCBSM giữa các quốc gia, với 98% bà mẹ Thổ Nhĩ Kỳ cho con bú sớm, trong khi tỷ lệ này ở Úc là 84% và Việt Nam là 75% Đặc biệt, có đến 40% các bà mẹ Việt Nam cho con sử dụng sữa công thức trong bệnh viện sau khi sinh, trong khi tỷ lệ này ở các bà mẹ Úc chỉ là 19%.
Khu vực sống và trình độ học vấn của mẹ là những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến việc thực hành bú sớm sau sinh và nuôi con bằng sữa mẹ (NCBSM) Nghiên cứu đã chỉ ra rằng những yếu tố này có thể tác động đến quyết định và khả năng của mẹ trong việc cho con bú.
Nghiên cứu của Lê Thị Hương và cộng sự tại Hà Nội trên 2.690 trẻ em cho thấy phụ nữ nông thôn có xu hướng cho con bú nhiều hơn so với phụ nữ thành thị Cụ thể, 40% trẻ trai ở thành thị được bú sớm sau sinh, trong khi tỷ lệ này ở nông thôn chỉ là 35% Đối với trẻ gái, tỷ lệ bú sớm sau sinh lần lượt là 49% ở thành thị và 40% ở nông thôn Tuy nhiên, việc nuôi con bằng sữa mẹ trong tháng đầu tiên và ba tháng tiếp theo lại phổ biến hơn ở nông thôn Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng phụ nữ đã hoàn thành ít nhất trung học cơ sở có xu hướng cho con bú ít hơn so với những bà mẹ có trình độ văn hóa thấp hơn Cụ thể, thời gian cho bú hoàn toàn của các bà mẹ có trình độ học vấn cao là ngắn hơn, với trung bình 108 ngày cho bà mẹ học hết cấp 2, 88 ngày cho cấp 3 và 82 ngày cho đại học hoặc cao hơn.
Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng việc cho con bú sớm phụ thuộc vào sức khỏe của mẹ và trẻ sơ sinh, độ tuổi của mẹ, thời gian chuyển dạ và sự tư vấn của nhân viên y tế Ngoài ra, tình trạng mẹ ít tiết sữa hoặc cảm giác đau đớn và khó chịu cũng là nguyên nhân khiến việc cho trẻ bú sớm bị trì hoãn.
Các yếu tố nhân khẩu học và văn hóa có ảnh hưởng đến việc thực hành bú sớm và nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu của các bà mẹ, như đã chỉ ra trong một số nghiên cứu tại Việt Nam Kết quả từ nghiên cứu dọc tại Quảng Xương, Thanh Hóa cho thấy tỷ lệ các bà mẹ cho con bú sớm sau sinh đạt 98,3% và tỷ lệ bú mẹ hoàn toàn trong tuần đầu tiên là 83,6% Tuy nhiên, việc cho con ăn bổ sung sớm vẫn còn phổ biến.
1.5.2 Tình trạng kinh tế, văn hóa, xã hội
Nghiên cứu cho thấy tỷ lệ nuôi con bằng sữa mẹ (NCBSM) ở Mỹ cao hơn ở các bà mẹ mù chữ và có mức kinh tế xã hội thấp Trẻ em từ các gia đình nghèo bắt đầu bú mẹ sớm hơn so với trẻ em từ gia đình giàu (89% so với 7%), tuy nhiên, tỷ lệ NCBSM từ 3-6 tháng ở gia đình nghèo lại thấp hơn, trong khi tỷ lệ trẻ được bú mẹ 12 tháng cao nhất lại thuộc về trẻ em trong gia đình nghèo Các bà mẹ có địa vị kinh tế xã hội cao và trình độ học vấn tốt thường cho rằng trẻ cần được ăn dặm sớm trước 4 tháng và coi việc NCBSM là cần thiết cho trẻ dưới 2 tuổi Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng tình trạng kinh tế xã hội của gia đình có ảnh hưởng đến thời gian NCBSM, với những bà mẹ có trình độ học vấn cao thường tiếp tục cho con bú hoàn toàn sau 3 tháng tuổi.
1.5.3 Độ tuổi của bà mẹ
Nghiên cứu tại Australia cho thấy trẻ sơ sinh có mẹ dưới 30 tuổi có xu hướng ít được nuôi bằng sữa mẹ Tương tự, một nghiên cứu ở Chile cũng chỉ ra rằng các bà mẹ chưa cho con bú hoàn toàn chủ yếu là những bà mẹ còn thanh thiếu niên.
1.5.4 Phương pháp đẻ và các chính sách về thai sản
Phương pháp đẻ, nơi đẻ và các yếu tố sức khỏe có ảnh hưởng đến thực hành nuôi con bằng sữa mẹ (NCBSM) của các bà mẹ Nghiên cứu năm 2009 tại Bình Dương cho thấy rằng phương pháp đẻ, niềm tin về lượng sữa mẹ, quyết định chọn loại sữa nuôi con trước khi sinh, tác động của mẹ chồng, và kiến thức về dinh dưỡng cho trẻ dưới 6 tháng tuổi đều có tác động đáng kể đến việc thực hành cho trẻ bú sớm và NCBSM sau này.
Nghiên cứu của A&T cho thấy cắt tầng sinh môn và sinh mổ ảnh hưởng đến việc cho trẻ bú sớm, với 67,6% sản phụ sinh thường cho trẻ bú trong vòng 1 giờ, trong khi tỷ lệ này ở sản phụ cắt tầng sinh môn và sinh mổ chỉ đạt 54% và 11,3% Các bà mẹ sinh mổ có xu hướng cho trẻ ăn sữa bột nhiều hơn trong 3 ngày đầu sau sinh Hơn nữa, chỉ 45,3% sản phụ sinh tại bệnh viện bắt đầu cho con bú trong 1 giờ đầu, so với 72% ở các bà mẹ sinh tại trạm y tế xã Ngoài ra, hành vi nuôi con bằng sữa mẹ còn bị ảnh hưởng bởi các yếu tố văn hóa xã hội, như sự tham gia của người cha và ông bà, cũng như thói quen cho trẻ ăn bổ sung sớm Tổ chức dinh dưỡng Nhi khoa Châu Âu khuyến cáo không nên cho trẻ ăn bổ sung trước 17 tuần, nhưng thực tế việc này thường diễn ra sớm hơn, dẫn đến nguy cơ thừa cân, béo phì ở trẻ sau này.
Sự ảnh hưởng của chính sách thai sản:
Điều kiện làm việc và chế độ nghỉ thai sản của bà mẹ ảnh hưởng lớn đến việc nuôi con bằng sữa mẹ (NCBSM) Việc phải trở lại làm việc sớm, thường trước tháng thứ 4 sau sinh, được xem là rào cản chính đối với NCBSMHT Một nghiên cứu định tính quốc gia cho thấy nhiều nhà lãnh đạo và hoạch định chính sách nhận định rằng việc duy trì NCBSMHT trong 6 tháng đầu là rất khó khăn.
Nghiên cứu của Skafida V tiến hành tại Scotland từ năm 2004 -
Nghiên cứu năm 2005 chỉ ra rằng có mối liên hệ giữa nghề nghiệp và thời gian nghỉ đẻ của bà mẹ với việc nuôi con bằng sữa mẹ (NCBSM) trong 6 tháng đầu Cụ thể, những bà mẹ làm việc toàn thời gian có nguy cơ ngừng bú cao gấp 1,6 lần so với những bà mẹ không làm việc Ngoài ra, những người mẹ có thời gian nghỉ đẻ dài thường duy trì NCBSM lâu hơn.
Nghiên cứu cho thấy mối liên quan giữa thời gian nghỉ thai sản và tỷ lệ nuôi con bằng sữa mẹ (NCBSM), phân tích ảnh hưởng của thời gian nghỉ thai sản, độ dài nghỉ có lương và thời điểm trở lại làm việc đến việc cho con bú sớm và thời gian cho bú Phụ nữ trở lại làm việc trong 3 đến 6 tháng sau sinh có nguy cơ ngừng cho con bú trước 6 tháng cao gấp 3 lần so với những bà mẹ không đi làm sớm Chế độ nghỉ thai sản ảnh hưởng lớn đến thực hành nuôi con bằng sữa mẹ, với nhiều bằng chứng từ các quốc gia cho thấy chính sách nghỉ thai sản dài và có lương thúc đẩy việc nuôi con bằng sữa mẹ Một nghiên cứu ở Đài Loan cũng chỉ ra rằng việc mẹ đi làm lại sớm, đặc biệt trước 6 tháng tuổi của trẻ, là rào cản cho việc cho bú sớm và tiếp tục cho bú.
Tình hình ăn bổ sung trên thế giới và ở Việt Nam
Thời gian bắt đầu cho trẻ ăn bổ sung thường rất sớm, với 87% phụ nữ ở Lagos (Nigeria) cho con ăn bổ sung vào cuối tháng thứ nhất Tại nhiều vùng nông thôn Thái Lan, trẻ được cho ăn bột quấy, cháo hoặc chuối chỉ vài ngày sau khi sinh Tuy nhiên, các thực phẩm giàu dinh dưỡng như thịt, cá, và dầu mỡ thường được cho ăn muộn, và khi trẻ bị ốm, chúng thường chỉ được ăn cơm với muối do quan niệm rằng thịt và trứng làm tăng nhiệt độ cơ thể.
Nghiên cứu của Nguyễn Lân tại Việt Nam chỉ ra rằng lý do chính khiến các bà mẹ cho trẻ ăn bổ sung là do bận đi làm xa (54,9%) và không đủ sữa cho con bú (16,9%) Tỷ lệ trẻ được cho ăn bổ sung sớm rất cao, với 88,9% trẻ đã ăn bổ sung trong 4 tháng đầu đời Mặc dù 73,3% bà mẹ cho rằng thời điểm cho ăn bổ sung là sớm, nhưng thực tế, trẻ bắt đầu ăn bổ sung trung bình khi được 3,75 tháng tuổi Các bà mẹ thường quyết định cho trẻ ăn bổ sung sớm do phải đi làm (63,1%) hoặc vì trẻ khóc/đói (63,8%) Đặc biệt, ở nông thôn, việc trở lại công việc đồng áng sớm sau sinh là một trở ngại lớn, dẫn đến việc trẻ không được bú mẹ hoàn toàn trong 4 tháng đầu Tất cả những yếu tố này khiến các bà mẹ phải cho trẻ ăn bổ sung, mặc dù họ nhận thức được rằng đó chưa phải là thời điểm thích hợp.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Bà mẹ có con dưới 24 tháng tuổi hiện đang sinh sống ở 20 xã thuộc 4 huyện nghiên cứu
- Tiêu chuẩn lựa chọn đối tượng tham gia nghiên cứu
+ Bà mẹ có con dưới 24 tháng tuổi
+ Đồng ý tham gia nghiên cứu, sống trên địa bàn liên tục từ 6 tháng trở lên
+Tham gia chính trong việc chăm sóc trẻ ở 6 tháng đầu tiên
- Tiêu chuẩn loại trừ: Những bà mẹ không có khả năng hoặc hạn chế trong giao tiếp, bà mẹ tự nguyện không tham gia trong quá trình nghiên cứu.
Thời gian nghiên cứu
Từ tháng 6 năm 2016 đến tháng 12 năm 2016
Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu mô tả, thiết kế nghiên cứu cắt dọc
Nghiên cứu tại 2 thời điểm lúc trẻ được 3 tháng tuổi, lúc trẻ được 6 tháng tuổi của những trẻ dưới 24 tháng tuổi tại địa bàn nghiên cứu
2.3.2 Cỡ mẫu, địa điểm nghiên cứu và cách chọn mẫu
Cỡ mẫu được tính toán dựa trên công thức tính cỡ mẫu mô tả cho một tỷ lệ Theo công thức:
Theo nghiên cứu của Mai Thị Tâm, tỷ lệ trẻ được bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu chỉ đạt 32% Để cải thiện độ chính xác của nghiên cứu, ta sử dụng độ chính xác tương đối ε = 0,1 Áp dụng công thức tính cỡ mẫu, kết quả cho thấy cỡ mẫu cần thiết cho quần thể điều tra sàng lọc là 816.
- Địa điểm nghiên cứu và cách chọn mẫu
Thái Nguyên, tỉnh nằm ở phía Đông Bắc cách Hà Nội khoảng 80km, có dân cư hơn một triệu người, trong đó 70% sống ở khu vực nông thôn Tại đây, có 8 dân tộc sinh sống, với dân tộc Kinh chiếm 81% và các dân tộc thiểu số như Tày, Nùng, Sán Dìu, Hmong, Sán Cháy, Hoa và Dao chiếm 19% Dựa vào đặc điểm dân số và tỷ lệ sinh con, nghiên cứu đã lựa chọn phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ từ 20 xã thuộc 4 huyện của tỉnh Thái Nguyên, đảm bảo tính ngẫu nhiên và tính đặc trưng về địa lý và dân cư.
Dựa vào đặc điểm địa lý, dân số lựa chọn những phụ nữ thích hợp cho nghiên cứu sinh sống tại 20 xã thuộc 4 huyện của tỉnh Thái Nguyên
- Huyện Phú Lương ( Động Đạt, Phấn Mễ, Vô Tranh, Yên Lạc, Yên Đổ)
- Huyện Định Hóa (Lam Vỹ, Trung Lương, Bình Thành, Sơn Phú, Phú Đình)
- Huyện Võ Nhai (Dân Tiến, La Hiên, Bình Long, Lâu Thượng, Tràng Xá)
- Huyện Đại Từ (An Khánh, Hùng Sơn, Bản Ngoại, Hoàng Nông, Khôi Kỳ)
Với cỡ mẫu 816 cặp mẹ con, việc thu thập số liệu này yêu cầu điều tra và sàng lọc từ một quần thể lớn Ước tính cỡ mẫu cho quần thể sàng lọc là rất quan trọng để đảm bảo tính chính xác và độ tin cậy của kết quả nghiên cứu.
- Dân số trung bình của một xã là 7000 người
- Số phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ (18-40 tuổi) khoảng 15%, như vậy 1 xã có khoảng 1050 phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ
- Ước tính khoảng 35% số phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ có con nhỏ dưới 24 tháng tuổi
Trong nghiên cứu theo dõi 1600 ca đẻ, sau khi loại bỏ những đối tượng không phù hợp, còn lại 1382 cặp mẹ con, đảm bảo cỡ mẫu đủ lớn và chính xác cho nghiên cứu.
2.3.3 Biến số và chỉ số nghiên cứu
- Đặc điểm đối tượng nghiên cứu: tuổi, dân tộc, nghề nghiệp, học vấn số con,
- Thực hành nuôi con bằng sữa mẹ:
+ Bú sớm trong vòng 1 giờ đầu sau đẻ
+ Bú hoàn toàn trong 6 tháng đầu
+ Ăn/ uống các thức ăn khác ngày sau khi sinh
- Thực trạng nuôi con bằng sữa mẹ
+ Tỷ lệ trẻ được bú mẹ trong một giờ đầu sau đẻ theo đặc điểm của bà mẹ: độ tuổi, học vấn, dân tộc, kinh tế hộ gia đình
+ Tỷ lệ trẻ được bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu theo đặc điểm của bà mẹ: độ tuổi, học vấn, dân tộc, số con
+ Tỷ lệ trẻ trẻ ăn bổ sung sớm theo đặc điểm của bà mẹ: độ tuổi, học vấn, dân tộc
- Một số yếu tố liên quan đến thực hành nuôi con bằng sữa mẹ:
+ Các yếu tố về nhân khẩu học của bà mẹ: tuổi, tuổi kết hôn, nghề nghiệp, dân tộc, trình độ học vấn, số con
+ Các yếu tố kinh tế hộ gia đình
+ Thông tin của cuộc đẻ: cách sinh, nơi sinh
+ Các yếu tố của trẻ: Giới tính, đẻ non, cân nặng trẻ khi sinh,
Xác định một số tỷ lệ đánh giá thực trạng nuôi con bằng sữa mẹ trong
Tỷ lệ trẻ bú mẹ trong vòng 1 giờ đầu sau sinh được tính bằng cách lấy số trẻ từ 0 đến 23 tháng tuổi được bú mẹ trong khoảng thời gian này chia cho tổng số trẻ trong cùng độ tuổi được điều tra, sau đó nhân với 100%.
Tỷ lệ trẻ bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu Số trẻ < 6 tháng được bú mẹ hoàn toàn x 100%
Tổng số trẻ dưới 6 tháng điều tra
Thực hành cho trẻ bú sớm sau sinh được xác định qua số trẻ được cho bú trong vòng một giờ đầu sau khi sinh Đối với thực hành nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn (NCBSMHT) trong 6 tháng đầu, điều này được xem là đạt khi mẹ chỉ cho trẻ bú sữa mẹ mà không bổ sung bất kỳ thức ăn hay đồ uống nào khác trong 179 ngày đầu Tỷ lệ NCBSMHT được tính toán dựa trên việc khảo sát thực hành ăn uống của trẻ dưới 6 tháng tuổi trong 24 giờ qua.
Xác định tuổi (theo tháng) của trẻ theo Tổ chức Y tế Thế giới [50]
- 0 tháng tuổi: kể từ khi mới sinh đến trước ngày tròn tháng (từ 1 đến
- 1 tháng tuổi: Kể từ ngày tròn một tháng đến trước ngày tròn 2 tháng (từ 30 ngày đến 59 ngày)
2.3.5 Công cụ và phương pháp thu thập số liệu
- Phương pháp thu thập số liệu
Dữ liệu trong bài viết được thu thập từ dự án “Bổ sung vi chất dinh dưỡng từ trước khi mang thai” của văn phòng dự án Emory - Đại học Y Dược Thái Nguyên, với sự tham gia của học viên ngay từ những ngày đầu của nghiên cứu.
Bộ câu hỏi được thiết kế nhằm phục vụ cho mục tiêu nghiên cứu, bao gồm các thông tin nhân khẩu học, cân nặng sơ sinh của trẻ, tình trạng sinh nở của mẹ, thực hành nuôi con bằng sữa mẹ (NCBSM) của mẹ, cùng với các yếu tố liên quan đến thực hành này.
+ Cân trẻ: Sử dụng cân lòng máng SECA để cân nặng trẻ sơ sinh
- Các bước thu thập số liệu
Lập danh sách các bà mẹ có con đủ tuổi để thu thập số liệu, sau đó thông báo cho y tế thôn bản mời các bà mẹ đến trạm y tế tham gia phỏng vấn.
Sử dụng bộ câu hỏi phỏng vấn được thiết kế sẵn để trực tiếp hỏi các bà mẹ có con dưới 24 tháng tuổi nhằm thu thập thông tin về việc cho trẻ bú sữa mẹ.
Xử lý và phân tích số liệu
Sau khi hoàn tất phỏng vấn, các bộ câu hỏi sẽ được đánh giá về tính phù hợp và sự hoàn chỉnh Những phiếu không đầy đủ hoặc không phù hợp sẽ được xem xét lại, và các câu hỏi không đúng đối tượng mẫu sẽ bị loại bỏ hoặc phỏng vấn lại.
Dữ liệu được mã hóa và nhập vào máy tính thông qua phần mềm EPIDATA 3.1 Để đảm bảo độ chính xác, số liệu được nhập hai lần, đồng thời các biến số được kiểm tra các giá trị tối đa, tối thiểu và các trường hợp số liệu trống, nhằm xác thực thông tin từ bộ phiếu điều tra gốc.
- Phân tích số liệu được thực hiện trên phần mềm STATA 10
Sai số và cách khắc phục
Sai số nhớ lại: Khắc phục bằng cách gợi lại một số mốc liên quan đến quá trình chăm sóc trẻ.
Khía cạnh đạo đức trong nghiên cứu
Được sự cho phép của Hội đồng đạo đức Viện nghiên cứu Y-Xã hội học và sự nhất trí của chính quyền địa phương, nghiên cứu này tập trung vào đối tượng con người, vì vậy đạo đức nghiên cứu luôn được ưu tiên hàng đầu Mục tiêu là giảm thiểu rủi ro và tối đa hóa lợi ích cho đối tượng tham gia, đồng thời tôn trọng và bảo mật thông tin cá nhân của họ.
Những thông tin về danh tính đối tượng được giữ bí mật
Trước khi tiến hành phỏng vấn, người tham gia sẽ được thông báo rõ ràng về mục đích của cuộc điều tra nhằm đảm bảo sự đồng ý tự nguyện Họ có quyền từ chối tham gia mà không ảnh hưởng đến chất lượng dịch vụ chăm sóc y tế mà họ nhận được tại địa phương.
Kết quả nghiên cứu đóng vai trò quan trọng cho các cơ quan y tế trong việc theo dõi tình trạng chăm sóc sức khỏe trẻ nhỏ, từ đó nâng cao hiệu quả các can thiệp truyền thông dinh dưỡng trong tương lai.
Cuộc điều tra này nhằm bảo vệ và nâng cao sức khỏe cho cộng đồng, không có mục đích nào khác Chúng tôi mong muốn giải thích rõ ràng với các bà mẹ về ý nghĩa và mục tiêu của cuộc điều tra để nhận được sự ủng hộ và hợp tác từ họ.
Sẵn sàng trả lời mọi thông tin liên quan đến cách chăm sóc sức khỏe và dinh dưỡng cho trẻ khi bà mẹ cần biết sau cuộc phỏng vấn.
KẾT QUẢ
Thực trạng nuôi con bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu của các bà mẹ có con dưới 24 tháng tuổi tại một số xã thuộc tỉnh Thái Nguyên
có con dưới 24 tháng tuổi tại một số xã thuộc tỉnh Thái Nguyên
Cho bú sớm trong vòng 1 giờ đầu sau đẻ
Thức ăn khác ngoài sữa mẹ ngay sau khi sinh
Cho bú hoàn toàn trong 6 tháng đầu
Biểu đồ 3.1 Tỷ lệ các thực hành nuôi con bằng sữa mẹ
Trong nghiên cứu, tỷ lệ trẻ được bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu đạt 60,27%, cho thấy sự quan tâm đến dinh dưỡng sơ sinh Bên cạnh đó, tỷ lệ trẻ được bú sớm trong vòng 1 giờ sau sinh là 51,99%, và 45,58% trẻ được cho ăn các thức ăn ngoài sữa mẹ ngay sau khi sinh.
Bảng 3.1 Các thực hành nuôi con bằng sữa mẹ theo huyện nghiên cứu Đại Từ Định Hóa Phú
Cho bú sớm trong vòng 1 giờ đầu sau đẻ
(170) Cho ăn/ uống các thức ăn khác ngoài sữa mẹ ngay sau sinh
Cho bú hoàn toàn trong 6 tháng đầu 58,65
Nhận xét: Không có sự khác biệt trong việc thực hành nuôi con bằng sữa mẹ tại 4 huyện của địa bàn nghiên cứu
Bảng 3.2 Tình hình cho trẻ ăn/ uống thức ăn khác ngoài sữa mẹ ngay sau sinh
Thức ăn đầu tiên của bé SL (%)
Nước đường/mật ong/ nước hoa quả 94 6,80
Tỷ lệ các bà mẹ cho trẻ sử dụng sữa công thức hoặc sữa bò ngay sau khi sinh đạt 40,09%, cho thấy sự phổ biến của các loại sữa này Trong khi đó, rất ít bà mẹ lựa chọn cho trẻ uống nước trắng hay các loại thức uống khác.
Bảng 3.3 Đặc điểm chung của bà mẹ Đặc điểm SL Mean ± SD/ %
Trình độ văn hóa mẹ
Sơ cấp/ trung cấp/ cao đẳng/ đại học 159 11,51
Số con trong gia đình
Thời gian quay lại làm việc
Trong nghiên cứu với 1382 bà mẹ tham gia, tuổi trung bình là 26, với bà mẹ lớn tuổi nhất là 41 và bà mẹ trẻ nhất là 17 Khoảng 50% bà mẹ dưới 25 tuổi, trong khi phần lớn nằm trong độ tuổi từ 26-35 Nghề nghiệp chủ yếu của các bà mẹ là nông dân, chiếm hơn 80%, còn lại là cán bộ viên chức, dịch vụ buôn bán và nghề khác Về trình độ học vấn, 89% bà mẹ có trình độ dưới THPT, trong khi chỉ 11% có trình độ trung cấp, cao đẳng, đại học và sau đại học.
- Số con trong gia đình của các bà mẹ trong nghiên cứu có tới 79,67% là con đầu tiên
- Đa số các bà mẹ trong nghiên cứu đi làm trước 6 tháng (62,44%)
Bảng 3.4 Thông tin cuộc đẻ
Phương pháp sinh Đẻ thường 981 70,98
Mổ đẻ/ đẻ forceps/ đẻ giác hút 401 29,02
Trong nghiên cứu, có 1.090 bà mẹ sinh con tại bệnh viện huyện, chiếm 78,87% tổng số bà mẹ tham gia Kết quả cho thấy 70,98% trong số đó đã chọn phương pháp sinh đẻ thường.
Bảng 3.5 Các đặc điểm chung của trẻ
Thông tin SL %/ Mean ± SD
Cân nặng sơ sinh trẻ 1382 3076,25 ± 438,08
Tình trạng đẻ non Đẻ non 144 10,42 Đẻ đủ tháng 1238 89,58
Theo bảng 3.5, nghiên cứu cho thấy không có sự khác biệt về giới tính của trẻ, với 50,94% là nam Về cân nặng sơ sinh, khoảng 95% trẻ có cân nặng từ 2500g trở lên, và 90% trẻ sinh ra đủ tháng.
Một số yếu tố liên quan đến việc nuôi con bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu của các bà mẹ có con dưới 24 tháng tuổi
3.2.1 Các yếu tố liên quan tới việc nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu
Bảng 3.6 Tuổi của mẹ và thực hành nuôi con hoàn toàn bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu Chỉ số
Bú mẹ hoàn toàn 6 tháng đầu
Không bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu
Nhận xét: Không có mối liên quan giữa độ tuổi của bà mẹ với thực hành cho trẻ bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu
Bảng 3.7 Dân tộc mẹ và thực hành nuôi con hoàn toàn bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu Chỉ số
Bú mẹ hoàn toàn 6 tháng đầu
Không bú mẹ hoàn toàn trong
Nghiên cứu cho thấy mối liên hệ giữa dân tộc mẹ và việc nuôi con hoàn toàn bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu Tỷ lệ cho con bú mẹ hoàn toàn ở các dân tộc thiểu số cao hơn nhiều so với người Kinh Nguyên nhân có thể do điều kiện kinh tế hạn hẹp, khiến các bà mẹ chỉ có khả năng nuôi con bằng sữa mẹ mà không bổ sung sữa ngoài hay thực phẩm khác.
Bảng 3.8 Nghề nghiệp của mẹ và thực hành nuôi con hoàn toàn bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu Chỉ số
Bú mẹ hoàn toàn 6 tháng đầu
Không bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu
Nghiên cứu cho thấy có mối liên hệ giữa nghề nghiệp của mẹ và việc thực hành nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn Cụ thể, các bà mẹ làm nghề nông có xu hướng cho con bú mẹ hoàn toàn nhiều hơn so với những mẹ thuộc các ngành nghề khác.
Bảng 3.9 Trình độ học vấn của mẹ và thực hành nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu Chỉ số
Bú mẹ hoàn toàn 6 tháng đầu
Không bú mẹ hoàn toàn trong
Cao đẳng/ đại học/ sau đại học 78 49,06 81 50,94 159
Nghiên cứu cho thấy trình độ học vấn của mẹ ảnh hưởng đến việc thực hành nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu Cụ thể, những mẹ có trình độ học vấn cao như cao đẳng, đại học và sau đại học có tỷ lệ nuôi con bằng sữa mẹ chỉ đạt 49,06%, thấp hơn so với các mẹ có trình độ học vấn cấp 1, 2, 3.
Bảng 3.10 Số con của bà mẹ và thực hành nuôi con hoàn toàn bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu Chỉ số
Không bú mẹ hoàn toàn trong
Số lượng con của bà mẹ ảnh hưởng đến việc thực hành cho trẻ bú mẹ hoàn toàn Các bà mẹ có từ hai con trở lên có tỷ lệ cho con bú mẹ cao hơn đáng kể so với những bà mẹ sinh con lần đầu Điều này cho thấy rằng những bà mẹ đã có kinh nghiệm nuôi con thường nhận thức rõ hơn về tầm quan trọng của việc nuôi con bằng sữa mẹ.
Bảng 3.11 Bà mẹ quay lại làm việc trước 6 tháng và thực hành nuôi con hoàn toàn bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu Chỉ số
Thời gian quay lại làm việc
Không bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu
Chưa quay lại làm việc 571 66,16 292 33,86 863 Đã quay lại làm việc 297 57,23 222 42,77 519
Những phụ nữ chưa trở lại làm việc có tỷ lệ cho con bú sữa mẹ hoàn toàn cao hơn (66,16%) so với những phụ nữ đã quay lại làm việc (57,23%) Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê.
Bảng 3.12 Nơi sinh trẻ và thực hành nuôi con hoàn toàn bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu Chỉ số
Bú mẹ hoàn toàn 6 tháng đầu
Không bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu
SL % SL % Đẻ ở nhà 14 60,86 9 39,14 23 Đẻ ở trạm y tế 28 66,66 14 33,34 42 Đẻ ở bệnh viện huyện 654 60,00 436 40,00 1090 Đẻ ở bệnh viện tỉnh 70 59,32 48 40,68 118 Đẻ ở bệnh viện trung ương 59 54,12 50 45,88 109
Nhận xét: Không có mối liên quan giữa nơi sinh trẻ và việc thực hành nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu
Bảng 3.13 Tình trạng đẻ của mẹ và thực hành nuôi con hoàn toàn bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu Chỉ số
Không bú mẹ hoàn toàn trong
SL % SL % Đẻ mổ/ Đẻ khó 231 57,6 170 42,4 401 Đẻ thường 599 61,06 382 38,94 981
Những bà mẹ sinh thường có tỷ lệ cho con bú mẹ hoàn toàn cao hơn (61,06%) so với những bà mẹ sinh mổ hoặc sinh khó (57,6%), mặc dù sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê.
Bảng 3.14 Tình trạng đẻ non và thực hành nuôi con hoàn toàn bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu Chỉ số
Không bú mẹ hoàn toàn trong
SL % SL % Đẻ non 81 56,25 63 43,75 144 Đẻ đủ tháng 750 60,58 488 39,42 1238
Nhận xét: Không có mối liên quan giữa tình trạng đẻ với việc thực hành cho trẻ bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu
Bảng 3.15 Cân nặng trẻ khi đẻ và thực hành nuôi con hoàn toàn bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu Chỉ số
Cân nặng trẻ khi đẻ
Không bú mẹ hoàn toàn trong
Nghiên cứu cho thấy, các bà mẹ có trẻ sơ sinh nặng dưới 2500 gram thực hành nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn thấp hơn so với các bà mẹ có trẻ sơ sinh nặng trên 2500 gram, và sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê rõ ràng.
3.2.2 Các yếu tố liên quan tới việc trẻ được bú mẹ sớm trong vòng 1 giờ đầu ngay sau khi sinh
Bảng 3.16 Tuổi của mẹ và thực hành cho trẻ bú sớm trong vòng 1 giờ đầu sau sinh Chỉ số
Cho trẻ bú sớm Không cho trẻ bú sớm Tổng
Không có mối liên hệ thống kê đáng kể giữa độ tuổi của bà mẹ và việc thực hành cho trẻ bú mẹ trong vòng 1 giờ đầu sau sinh.
Bảng 3.17 Dân tộc mẹ và thực hành cho trẻ bú sớm trong vòng 1 giờ đầu sau sinh Chỉ số
Cho trẻ bú sớm Không cho trẻ bú sớm Tổng
Những bà mẹ dân tộc thiểu số và bà mẹ dân tộc Kinh có tỷ lệ cho con bú sớm trong vòng 1 giờ đầu sau khi sinh gần như tương đương.
Bảng 3.18 Nghề nghiệp của mẹ và thực hành cho trẻ bú sớm trong vòng
1 giờ đầu sau sinh Chỉ số
Cho trẻ bú sớm Không cho trẻ bú sớm Tổng
Kết quả từ bảng 3.18 cho thấy rằng không có sự khác biệt đáng kể giữa các bà mẹ nông dân và những bà mẹ làm nghề khác trong việc thực hành cho con bú sớm.
Bảng 3.19 Trình độ học vấn của mẹ và thực hành cho trẻ bú sớm trong vòng 1 giờ đầu sau sinh Chỉ số
Cho trẻ bú sớm Không cho trẻ bú sớm Tổng
Cao đẳng/ đại học/ sau đại học 73 45,91 86 54,09 159
Nhận xét: Bảng 3.19 cho thấy không có sự khác biệt giữa trình độ học vấn với việc thực hành cho trẻ bú sớm trong vòng 1 giờ đầu
Bảng 3.20 Số con của bà mẹ và thực hành cho trẻ bú sớm trong vòng 1 giờ đầu sau sinh Chỉ số
Cho trẻ bú sớm Không cho trẻ bú sớm Tổng
Các bà mẹ sinh từ lần thứ hai trở lên có tỷ lệ cho con bú sớm trong 1 giờ đầu sau sinh cao gấp 1,5 lần so với các bà mẹ sinh con lần đầu Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với trị số p < 0,05.
Bảng 3.21 Nơi sinh trẻ và thực hành cho trẻ bú sớm trong vòng 1 giờ đầu sau sinh Chỉ số
Cho trẻ bú sớm Không cho trẻ bú sớm Tổng
SL % SL % Đẻ ở nhà 14 60,86 9 40,14 23 Đẻ ở trạm y tế 27 64,28 15 35,72 42 Đẻ ở bệnh viện huyện 594 54,49 496 45,51 1090 Đẻ ở bệnh viện tỉnh 56 47,45 62 52,55 118 Đẻ ở bệnh viện trung ương 30 27,52 79 72,48 109
Kết quả từ bảng trên cho thấy tỷ lệ các bà mẹ sinh con tại các tuyến địa phương (tỉnh, huyện, trạm y tế) cho trẻ bú sớm trong 1 giờ đầu sau sinh cao hơn rõ rệt so với các bà mẹ sinh con tại tuyến trung ương Điều này có thể được giải thích bởi việc các bà mẹ ở tuyến trung ương thường gặp phải các vấn đề trong quá trình sinh nở, như đẻ khó hoặc gặp sự cố khi sinh.
Bảng 3.22 Tình trạng đẻ của mẹ và thực hành cho trẻ bú sớm trong vòng
1 giờ đầu sau sinh Chỉ số
Cho trẻ bú sớm Không cho trẻ bú sớm Tổng
SL % SL % Đẻ mổ/ Đẻ khó 108 26,93 293 73,07 401 Đẻ thường 611 62,26 370 37,74 981
Những bà mẹ sinh thường có tỷ lệ cho con bú mẹ sớm sau sinh cao gấp gần 3 lần so với các bà mẹ sinh mổ hoặc sinh khó Có một mối liên quan thống kê đáng kể giữa phương pháp sinh và việc thực hành cho con bú trong 1 giờ đầu sau khi sinh.
Bảng 3.23 Tình trạng đẻ non và thực hành cho trẻ bú sớm trong vòng
1 giờ đầu sau sinh Chỉ số
Cân nặng trẻ khi đẻ
Cho trẻ bú sớm Không cho trẻ bú sớm Tổng n % n % Đẻ non 63 44,75 81 55,25 144 Đẻ đủ tháng 655 52,90 583 47,10 1238
Bảng 3.23 cho thấy không có mối liên quan giữa tình trạng đẻ non và việc thực hành cho trẻ bú sớm trong vòng 1 giờ đầu sau khi sinh.
Bảng 3.24 Cân nặng trẻ khi đẻ và thực hành cho trẻ bú sớm trong vòng
1 giờ đầu sau sinh Chỉ số
Cân nặng trẻ khi đẻ
Cho trẻ bú sớm Không cho trẻ bú sớm Tổng
Nghiên cứu cho thấy rằng các bà mẹ có trẻ sơ sinh nặng dưới 2500gr có tỷ lệ cho trẻ bú sớm ngay sau sinh thấp hơn so với những bà mẹ có trẻ sơ sinh nặng trên 2500gr.
BÀN LUẬN
Thực trạng nuôi con bằng sữa mẹ
4.1.1 Thực trạng nuôi con hoàn toàn bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu
Bú mẹ hoàn toàn là quá trình trẻ chỉ nhận sữa từ vú mẹ, vú nuôi hoặc sữa mẹ đã vắt ra, mà không tiêu thụ bất kỳ loại thực phẩm lỏng hay rắn nào khác, ngoại trừ các giọt, siro chứa vitamin, khoáng chất bổ sung hoặc thuốc.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, biểu đồ 3.1 cho thấy 60,27% trẻ được bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu Tỷ lệ này có sự khác biệt giữa các huyện, với huyện Định Hóa, dù là huyện nghèo nhất trong 4 huyện nghiên cứu, lại có tỷ lệ bú mẹ hoàn toàn cao nhất là 74,6% Các huyện Phú Lương và Đại Từ theo sau với tỷ lệ thấp hơn.
Theo kết quả nghiên cứu trước đây của một số tác giả ở một số vùng ở
Theo nghiên cứu của Nguyễn Đình Quang, tỉ lệ trẻ được bú mẹ hoàn toàn trong 4 tháng đầu năm 1996 tại Hà Nội là 45,5%, trong khi Lê Thị Kim Chung ghi nhận tỉ lệ này tăng lên 62,7% vào năm 2000 Tuy nhiên, tỉ lệ trẻ dưới 6 tháng được bú mẹ hoàn toàn lại khác nhau giữa các địa phương Cụ thể, ở Phú Thọ, tỉ lệ chỉ đạt 4,6%, và tại Quảng Nam, chỉ có 2/816 trẻ được bú mẹ hoàn toàn trong giai đoạn 4-6 tháng Theo báo cáo của Viện Dinh Dưỡng năm 2006, tỉ lệ trẻ được bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu trên toàn quốc là 12,2%, cho thấy chỉ số trong nghiên cứu của chúng tôi cao hơn nhiều so với các địa phương khác.
Trên thế giới, Trung Quốc là một trong những quốc gia rất tích cực trong việc đẩy mạnh vấn đề NCBSM Trong một nghiên cứu gần đây tại
Trung Quốc cho thấy có 25,8% trẻ được bú mẹ hoàn toàn trong 4 tháng đầu, tăng gấp đôi sovới năm 1990 [53] Tại Australia trong một nghiên cứu năm
Năm 2006, chỉ có 45,9% trẻ em được nuôi bằng sữa mẹ ở các mức độ khác nhau khi được 6 tháng tuổi, và chỉ 12% trẻ được nuôi hoàn toàn bằng sữa mẹ Một nghiên cứu tại Singapore cho thấy chỉ có 21% bà mẹ thực hành nuôi con bằng sữa mẹ trong 6 tháng, với chưa đến 5% bà mẹ nuôi hoàn toàn bằng sữa mẹ.
4.1.2 Thực hành cho trẻ bú sớm sau sinh
Theo khuyến cáo của WHO/UNICEF, mẹ nên cho con bú trong vòng 1 giờ đầu sau khi sinh, càng sớm càng tốt Những giọt sữa đầu tiên chứa nhiều chất dinh dưỡng và kháng thể, rất có lợi cho trẻ Hành động mút vú của trẻ kích thích tuyến yên tiết ra Prolactin, giúp tăng cường sản xuất sữa Đồng thời, việc bú cũng kích thích sản xuất Oxytoxin, hormone gây co cơ quanh tuyến sữa, tạo phản xạ tiết sữa Oxytoxin còn hỗ trợ co bóp tử cung, giúp cầm máu nhanh chóng cho mẹ sau sinh.
Kết quả nghiên cứu cho thấy 51,9% bà mẹ cho trẻ bú lần đầu trong vòng một giờ sau khi sinh, cho thấy vẫn còn khoảng một nửa số trẻ không được hưởng lợi từ bữa bú đầu tiên quan trọng này Tỷ lệ thực hành cho trẻ bú sớm sau sinh trong nghiên cứu của chúng tôi tương đương với dự án A&T được thực hiện tại 11 tỉnh, bao gồm Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Nam, Đà Nẵng, Khánh Hòa, Đắk Lắk, Đắk Nông, Tiền Giang và Cà Mau.
Năm 2011, tỷ lệ bú mẹ trong vòng 1 giờ đầu sau sinh đạt 51,9%, cao hơn so với 50,5% ở một số nghiên cứu khác trong nước Cụ thể, nghiên cứu của Huỳnh Văn Tú và Nguyễn Vũ Linh tại bệnh viện phụ sản bán công Bình Dương ghi nhận tỷ lệ 29,7% Tương tự, nghiên cứu của Đinh Thị Phương Hòa tại 4 bệnh viện ở Hà Nội năm 2006 cho thấy tỷ lệ 44,1%, trong khi nghiên cứu của Trần Thị Phúc Nguyệt tại xã Khánh Hà, Thường Tín, Hà Nội đạt 42,3% Nghiên cứu của Bùi Thu Hương tại hai phường Quỳnh Mai và Bạch Đằng, Hà Nội cũng góp phần vào sự hiểu biết về vấn đề này.
Nghiên cứu của Từ Mai năm 2009 cho thấy tỷ lệ bà mẹ cho trẻ bú sớm sau sinh đạt 30% trong số 300 bà mẹ có con dưới 24 tháng tuổi Tương tự, nghiên cứu của Huỳnh Văn Dũng và cộng sự năm 2012 tại Phú Thọ ghi nhận tỷ lệ này là 46,7% Mặc dù tỷ lệ thực hành bú sớm trong các nghiên cứu này cao hơn so với nhiều nghiên cứu khác tại các vùng nông thôn và thành phố, nhưng khi so sánh với nghiên cứu ở vùng miền núi với bà mẹ dân tộc Dao của Hà Thị Thu Trang và Trần Thị Phúc Nguyệt năm 2011, tỷ lệ cho trẻ bú sớm cũng đạt 51,9%, không có sự khác biệt đáng kể so với 47,5% trong nghiên cứu trước đó.
So sánh với nghiên cứu tại 6 tỉnh trong dự án IFEN II của Hội Chữ thập đỏ Việt Nam năm 2005 và xã Dân Hòa Hà Tây năm 2006 của tác giả Phạm Văn Hoan, tỷ lệ bà mẹ thực hành cho trẻ bú sớm sau sinh trong nghiên cứu này đạt 51,9%, cao hơn tỷ lệ chung 45,8% của 6 tỉnh dự án Tuy nhiên, kết quả này vẫn thấp hơn một số nghiên cứu khác trong cùng lĩnh vực, như nghiên cứu mô tả cắt ngang của tác giả Lê Thị Hương thực hiện năm 2008 tại huyện.
Tỷ lệ bà mẹ cho con bú sớm trong vòng nửa giờ đầu sau sinh tại Văn Yên, Yên Bái và Hải Lăng, Quảng Trị lần lượt đạt 90% và 88% Một nghiên cứu tại huyện Quảng Xương, Thanh Hóa cho thấy tỷ lệ này lên tới 98,3% Theo tổng điều tra dinh dưỡng năm 2010 của Viện Dinh dưỡng, tỷ lệ bà mẹ cho trẻ bú sớm sau sinh là 76,2% Tuy nhiên, tỷ lệ bà mẹ cho trẻ bú sớm trong nghiên cứu này chỉ đạt 51,9%, thấp hơn so với mức trung bình toàn quốc và các nghiên cứu trước đó.
So sánh với các nghiên cứu trước đây, tình hình cho trẻ bú sớm sau sinh đã có sự cải thiện rõ rệt Nghiên cứu của Cao Thị Hậu và Phạm Thúy Hòa (1991) cho thấy tỉ lệ bà mẹ cho con bú trong vòng 30 phút đầu sau sinh chỉ đạt 5,5% ở nông thôn và 8% ở thành phố Nghiên cứu của Đào Ngọc Diễn và Nguyễn Trọng An cho thấy tỉ lệ trẻ được bú mẹ trong vòng 24 giờ chỉ đạt 15,8% ở nội thành và 35,5% ở nông thôn Gần đây, Ngô Văn Toàn (2005) ghi nhận tỉ lệ cho bú sớm trong 1 giờ đầu sau đẻ tại Quảng Trị là 63,7%, trong khi Trần Chí Liêm và cộng sự (2007) tại Ba Bể - Bắc Kạn là 65,7% Nghiên cứu của Phạm Văn Hoan và cộng sự (2005-2006) ở một số tỉnh cho thấy tỉ lệ này dao động từ 45,8% đến 69,4% Đặc biệt, nghiên cứu về thực hành nuôi con bằng sữa mẹ của các bà mẹ người Mỹ gốc Việt cho thấy 75% bà mẹ cho con bú sớm, và tỉ lệ này cũng tương tự ở các bà mẹ người Úc gốc Việt.
Một số yếu tố liên quan đến thực trạng nuôi con bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu
4.2.1 Trình độ học vấn của bà mẹ
Trình độ học vấn của người mẹ ảnh hưởng đáng kể đến khả năng nuôi dưỡng trẻ, đặc biệt trong việc cho trẻ bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu Nghiên cứu cho thấy, các bà mẹ có trình độ học vấn thấp thực hiện việc cho trẻ bú mẹ hoàn toàn cao hơn so với những bà mẹ có trình độ học vấn cao, với 64,22% các bà mẹ có trình độ cấp 1 thực hiện hành vi này, so với chỉ 49% ở các bà mẹ có trình độ trung cấp trở lên Tại Việt Nam, trình độ học vấn của mẹ nông thôn thấp hơn thành thị, dẫn đến thời gian bú kéo dài hơn Các nghiên cứu khác cũng cho thấy mối liên hệ giữa trình độ học vấn và thời gian cai sữa, với những bà mẹ có trình độ học vấn cao thường cai sữa muộn hơn Tuy nhiên, không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa trình độ học vấn và thời gian cho trẻ bú lần đầu sau sinh Ở các nước phát triển, trình độ học vấn cao lại liên quan đến tỉ lệ nuôi con bằng sữa mẹ cao hơn, trong khi ở các nước đang phát triển, điều ngược lại xảy ra Các nghiên cứu từ Chile và California cũng chỉ ra rằng trình độ học vấn thấp có liên quan mạnh mẽ đến việc không cho con bú sữa mẹ Tại Úc, ảnh hưởng của trình độ học vấn của mẹ còn vượt trội hơn cả tình trạng kinh tế xã hội, cho thấy rằng các bà mẹ có trình độ học vấn tốt hơn có xu hướng nuôi con theo hướng dẫn tốt hơn.
4.2.2 Nghề nghiệp của bà mẹ
Nghề nghiệp của mẹ có ảnh hưởng lớn đến dinh dưỡng của con, đặc biệt là thời gian chăm sóc và điều kiện kinh tế Trong nghiên cứu, 80,9% bà mẹ làm ruộng có tỷ lệ cho trẻ bú mẹ hoàn toàn cao hơn so với nhóm công nhân viên chức Mặc dù tỉ lệ cho trẻ bú sớm ở nhóm làm ruộng cao hơn, nhưng chưa có ý nghĩa thống kê Điều này có thể do các bà mẹ nông thôn thường sinh con tại trạm y tế xã, dễ dàng tiếp xúc với con ngay sau sinh Ngược lại, các bà mẹ ở đô thị thường sinh tại bệnh viện, gặp khó khăn trong việc cho con bú sớm do nhiều yếu tố như mổ đẻ và đau đớn sau sinh Hơn nữa, quảng cáo sữa bột phổ biến cũng khiến các bà mẹ thành phố có xu hướng cho trẻ ăn sữa ngoài nhiều hơn, góp phần làm giảm tỷ lệ trẻ bú sớm trong nghiên cứu.
4.2.3 Chế độ thai sản và thời gian quay trở lại làm việc của bà mẹ Đã có nhiều nghiên cứu tìm ra mối liên quan giữa việc quay trở lại làm việc của bà mẹ và việc nuôi con bằng sữa mẹ [54] Ở các nước Bắc Âu, tỉ lệ NCBSM cao chính là nhờ chính sách về thời gian nghỉ việc của bà mẹ sau đẻ
Ở Na Uy, phụ nữ sau sinh được nghỉ 116 tuần, trong đó 42 tuần được hưởng 100% lương, với tỷ lệ nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn đạt 85% trong 4 tháng đầu và 80% trong 6 tháng đầu Tại Việt Nam, từ năm 1984, chế độ nghỉ đẻ của bà mẹ đã được kéo dài đến 6 tháng, nhưng hiện tại chỉ còn 4 tháng, khiến các bà mẹ phải quay lại công việc sớm Những bà mẹ làm nông nghiệp thường có nhiều thời gian chăm sóc con hơn so với các bà mẹ làm việc trong khu vực công Mặc dù các bà mẹ nông thôn phải đi làm từ sớm, nhưng họ làm gần nhà nên có thể về cho con bú giữa giờ, điều này giải thích tại sao trẻ em ở nhóm bà mẹ làm ruộng có tỷ lệ bú kéo dài hơn so với các nhóm nghề nghiệp khác, với sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê.
4.2.4 Các yếu tố liên quan khác
Nghiên cứu cho thấy có mối liên quan thống kê giữa phương pháp sinh của mẹ và thực hành cho trẻ bú sớm sau sinh, với tỷ lệ mẹ sinh thường cho trẻ bú sớm cao gấp gần 3 lần so với mẹ sinh mổ (p < 0,05) Nguyên nhân có thể do mẹ sinh thường phục hồi nhanh hơn và được tiếp xúc với con sớm hơn, không bị cách ly như khi sinh mổ Nhiều nghiên cứu, như của Nguyễn Việt Dũng, đã chỉ ra rằng phương pháp đẻ, nơi đẻ và sức khỏe của mẹ ảnh hưởng đến thực hành cho con bú sớm Tương tự, nghiên cứu của Nguyễn Vũ Linh và Huỳnh Văn Tú tại Bình Dương cũng khẳng định phương pháp đẻ ảnh hưởng đến thực hành bú sớm và nuôi con bằng sữa mẹ sau này Theo tổ chức A&T, chỉ 11,3% mẹ sinh mổ cho trẻ bú trong vòng 1 giờ đầu sau sinh, trong khi tỷ lệ này ở mẹ sinh thường là 67,6%.
Nghiên cứu cho thấy rằng các yếu tố như số con của bà mẹ, nơi sinh và cân nặng khi đẻ có liên quan đến việc thực hành nuôi con bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu Bà mẹ có từ hai con trở lên có tỷ lệ nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn và cho trẻ bú sớm trong vòng 1 giờ sau sinh cao hơn so với bà mẹ sinh con lần đầu Ngược lại, bà mẹ có trẻ sơ sinh nặng dưới 2500 gram có tỷ lệ nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn và bú sớm thấp hơn so với những bà mẹ có trẻ nặng trên 2500 gram Điều này có thể giải thích bởi vì bà mẹ có nhiều kinh nghiệm hơn trong việc nuôi con, trong khi trẻ nhẹ cân thường gặp vấn đề sức khỏe như sinh non, dẫn đến cơ hội bú sớm thấp hơn.