1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

Luận văn giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế theo pháp luật việt nam từ thực tiễn tỉnh hưng yên

92 18 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Giao Kết Hợp Đồng Mua Bán Hàng Hóa Quốc Tế Theo Pháp Luật Việt Nam Từ Thực Tiễn Tỉnh Hưng Yên
Tác giả Phạm Ngọc Thắng
Người hướng dẫn PGS.TS. Lê Mai Thanh
Trường học Học Viện Khoa Học Xã Hội
Chuyên ngành Luật Kinh Tế
Thể loại Luận Văn Thạc Sĩ
Năm xuất bản 2021
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 92
Dung lượng 1,15 MB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG 1. LÝ LUẬN VỀ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ VÀ LÝ LUẬN PHÁP LUẬT VỀ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ (13)
    • 1.1 Lý luận về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế (13)
    • 1.2 Lý luận về giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế (20)
    • 1.3 Lý luận về pháp luật giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế (28)
  • CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN GIAO KẾT HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ TẠI TỈNH HƯNG YÊN (40)
    • 2.1. Thực trạng quy định pháp luật giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế (40)
    • 2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế tại tỉnh Hưng Yên (52)
  • CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ TẠI TỈNH HƯNG YÊN (65)
    • 3.1 Giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật về giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế (65)
    • 3.2 Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả trong hoạt động giao kết hợp đồng (69)
  • KẾT LUẬN (39)

Nội dung

LÝ LUẬN VỀ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ VÀ LÝ LUẬN PHÁP LUẬT VỀ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ

Lý luận về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế

1.1.1 Khái niệm hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế

Hiện tại, chưa có từ điển chuyên ngành Luật nào định nghĩa rõ ràng về "hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế", mà chỉ cung cấp giải thích cho các thuật ngữ liên quan như "hợp đồng", "mua bán hàng hóa", "quốc tế" và "yếu tố nước ngoài".

Theo tác giả Trần Việt Dũng trong cuốn "Luật thương mại quốc tế" của NXB Đại học quốc gia, đã có nhiều tác giả đưa ra khái niệm về hợp đồng MBHHQT.

Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế (MBHHQT) được định nghĩa là một hợp đồng thương mại giữa các thương nhân đến từ các quốc gia khác nhau nhằm mục đích trao đổi và mua bán hàng hóa xuyên biên giới Tuy nhiên, khái niệm này vẫn chưa phản ánh đầy đủ tính chất lãnh thổ trong hoạt động MBHHQT.

Khi hàng hóa di chuyển từ một địa điểm kinh doanh đến khu vực hải quan riêng trong lãnh thổ một quốc gia, hoạt động này vẫn được xem là xuất khẩu và nhập khẩu hàng hóa Do đó, hợp đồng giữa các thương nhân trong và ngoài khu vực hải quan riêng thường được coi là hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế (MBHHQT).

Theo Lê Thị Nam Giang trong tác phẩm "Tư pháp quốc tế", hợp đồng MBHHQT là thỏa thuận giữa các bên có trụ sở thương mại ở các quốc gia khác nhau, trong đó bên bán chuyển giao quyền sở hữu tài sản cho bên mua và nhận tiền, còn bên mua có nghĩa vụ nhận tài sản và thanh toán Tuy nhiên, định nghĩa này chưa chính xác vì tài sản là khái niệm rộng, bao gồm hàng hóa Theo Điều 3, Khoản 3 của Luật Thương mại 2005, hàng hóa được xác định là tất cả các loại động sản, kể cả động sản hình thành trong tương lai, và những vật gắn liền với đất đai, không bao gồm tiền và giấy tờ có giá.

Theo Điều 105 Bộ luật Dân sự 2015, tài sản bao gồm bất động sản, động sản, vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản Do đó, hàng hóa được coi là một loại tài sản cụ thể, nhưng không phải tất cả tài sản đều là hàng hóa.

Xét theo khía cạnh pháp luật thực định, các quốc gia trên thế giới và các văn bản pháp lý quốc tế đã đưa ra những quy định khác nhau về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế.

- Theo quy định tại Điều 56 Luật mua bán hàng hóa năm 1979 của Anh có nêu:

Hợp đồng MBHHQT là hợp đồng mua bán hàng hóa giữa các bên có trụ sở thương mại hoặc nơi cư trú tại các quốc gia khác nhau, với các điều kiện như sau: (a) Hàng hóa được vận chuyển từ lãnh thổ của một quốc gia sang lãnh thổ của quốc gia khác tại thời điểm ký hợp đồng; (b) Chào hàng hoặc chấp nhận chào hàng được thực hiện trên lãnh thổ của các quốc gia khác nhau; (c) Việc giao hàng diễn ra tại lãnh thổ quốc gia khác với nơi chào hàng hoặc chấp nhận chào hàng.

Bộ luật thương mại thống nhất Hoa Kỳ năm 1952 không định nghĩa trực tiếp về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế (MBHHQT), nhưng tại Điều 1-301, nó đưa ra khái niệm về giao dịch quốc tế, tức là giao dịch có mối quan hệ hợp lý với quốc gia khác ngoài Hoa Kỳ Mua bán hàng hóa được hiểu là việc chuyển giao quyền sở hữu từ người bán sang người mua để nhận tiền Mặc dù không cung cấp tiêu chí cụ thể cho hợp đồng MBHHQT, định nghĩa về giao dịch quốc tế đã phản ánh tiêu chí “trụ sở thương mại” ở các quốc gia khác nhau.

Hợp đồng mua bán hàng hóa theo pháp luật Anh và Hoa Kỳ là thỏa thuận chuyển giao quyền sở hữu hàng hóa từ người bán sang người mua với giá trị tương ứng Đồng thời, hợp đồng này được coi là hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế khi các bên tham gia có trụ sở thương mại ở các quốc gia khác nhau.

Theo Điều 1 của Công ước La Haye 1964, hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế được định nghĩa là hợp đồng giữa các bên có trụ sở thương mại ở các quốc gia khác nhau, trong đó hàng hóa được chuyển từ quốc gia này sang quốc gia khác, hoặc việc ký kết hợp đồng được thực hiện giữa các bên ở các quốc gia khác nhau.

Công ước Viên 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế (CISG) không định nghĩa rõ ràng về hợp đồng MBHHQT, nhưng tại Điều 1, Công ước xác định rằng nó áp dụng cho các hợp đồng giữa các bên có địa điểm kinh doanh ở các quốc gia khác nhau Điều này có nghĩa là để xác định một hợp đồng là hợp đồng MBHHQT, địa điểm kinh doanh của các bên phải ở các nước khác nhau, không phụ thuộc vào nơi ký kết hợp đồng hay việc hàng hóa có được chuyển qua biên giới hay không Tại Việt Nam, hợp đồng MBHHQT còn được gọi là hợp đồng ngoại thương, xuất khẩu, nhập khẩu, và trước đây được giải thích theo Điều 80 Luật Thương mại 1997 là hợp đồng giữa thương nhân Việt Nam và thương nhân nước ngoài, với tiêu chí xác định tính quốc tế của hợp đồng dựa trên quốc tịch của các bên tham gia.

Việc xác định hợp đồng MBHHQT dựa vào quốc tịch của chủ thể gặp nhiều khó khăn do sự khác biệt trong quy định pháp luật về quốc tịch giữa các quốc gia Điều này dẫn đến những thách thức trong việc lựa chọn nguồn luật điều chỉnh phù hợp.

Hiện tại, Luật Thương mại 2005, không định nghĩa về hợp đồng MBHHQT Luật thương mại 2005 chỉ liệt kê các loại hợp đồng MBHHQT tại điều 27 đó là “Mua bán

Theo quy định, 10 hàng hóa quốc tế được thực hiện thông qua các hình thức xuất khẩu, nhập khẩu, tạm nhập, tái xuất, tạm xuất, tái nhập và chuyển khẩu Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế cần được lập bằng văn bản hoặc hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương, điều này cho thấy sự quan trọng của việc tuân thủ quy định pháp luật trong giao dịch thương mại quốc tế.

Thương mại 2005 không xác định hợp đồng MBHHQT dựa trên trụ sở thương mại hay quốc tịch của các bên, mà dựa vào sự di chuyển của hàng hóa Hợp đồng MBHHQT được coi là hợp đồng mua bán hàng hóa có yếu tố nước ngoài khi hàng hóa di chuyển qua biên giới quốc gia hoặc qua khu vực hải quan riêng.

Lý luận về giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế

1.2.1 Khái niệm giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế

Giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là quá trình thương thảo và ghi nhận ý chí giữa các thương nhân đến từ các quốc gia hoặc có quốc tịch khác nhau Kết quả của quá trình này là việc thể hiện các nội dung giao dịch dưới một hình thức cụ thể.

Giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế có những đặc trưng sau đây:

Giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là quá trình thể hiện ý chí của các bên tham gia, khác với hợp đồng trong nước, thường kéo dài hơn Sự phức tạp này xuất phát từ yếu tố nước ngoài, sự giao thoa giữa nhiều hệ thống pháp luật và sự khác biệt trong tư duy kinh doanh, khiến cho việc thiết lập hợp đồng quốc tế trở nên tốn thời gian hơn so với giao dịch nội địa.

Chủ thể trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế thường là thương nhân từ các quốc gia khác nhau, điều này tạo nên sự khác biệt rõ rệt so với giao dịch trong nước Sự tham gia của thương nhân nước ngoài không chỉ làm tăng tính phức tạp của giao dịch mà còn hình thành mối quan tâm về việc lựa chọn luật áp dụng cho hợp đồng.

Hợp đồng là một phần quan trọng trong giao dịch thương mại, và sự điều chỉnh pháp luật đối với hợp đồng đóng vai trò thiết yếu trong việc bảo vệ quyền lợi của các bên tham gia Các quy định pháp luật của từng quốc gia ảnh hưởng trực tiếp đến các thương nhân liên quan đến hợp đồng, đảm bảo sự công bằng và minh bạch trong các giao dịch Thẩm quyền của cơ quan tài phán trong việc giải quyết tranh chấp hợp đồng cũng là yếu tố then chốt, giúp các bên có thể tìm kiếm giải pháp hợp lý khi phát sinh xung đột.

Vào thứ ba, việc ký kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế yêu cầu sự thống nhất ý chí giữa các bên về các nội dung giao dịch, bao gồm loại hàng hóa, giá cả, điều kiện giao hàng, điều kiện thanh toán, bảo hành và chất lượng.

Hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế phải được lập theo hình thức nhất định, tương tự như hợp đồng trong nước Tuy nhiên, hợp đồng quốc tế có thể được xác lập bằng văn bản, lời nói hoặc hành vi cụ thể Đặc biệt, yêu cầu về hình thức của hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế thường nghiêm ngặt hơn so với hợp đồng trong nước.

* Chủ thể giao kết hợp đồng

Người kết ước, hay chủ thể giao kết hợp đồng MBHHQT, có thể là cá nhân hoặc pháp nhân, bao gồm cả đại diện theo pháp luật hoặc theo ủy quyền Đối với thương nhân cá nhân, mặc dù có các quy định khác nhau, nhưng hầu hết các quốc gia đều dựa vào hai tiêu chuẩn pháp lý chính để xác định tư cách thương nhân trong quan hệ hợp đồng MBHHQT.

Để trở thành thương nhân, một người cần phải xem xét năng lực pháp luật và năng lực hành vi của bản thân Việc đánh giá này là cần thiết để xác định khả năng tham gia vào các hoạt động thương mại một cách hợp pháp và hiệu quả.

Tại Điều 18 Luật Thương mại Việt Nam 2005 quy định ba trường hợp không được công nhận trở thành thương nhân, cụ thể như sau:

- Người không có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, người mất năng lực hành vi dân sự, người hạn chế nặng lực hành vi dân sự

- Người bị truy cứu trách nhiệm hình sự, người đang phải chấp hành hình phạt tù

- Người bị Toà án hạn chế những ngành nghề về kinh doanh

Theo quy định của nhiều quốc gia, đặc biệt là các nước Châu Âu, một số ngành nghề nhất định không cho phép người lao động trở thành thương nhân Chẳng hạn, tại Pháp, công chức chuyên trách không được tham gia hoạt động thương mại với tư cách là thương nhân, theo Luật đạo đức và quyền của công chức Pháp ban hành ngày 20 tháng 4 năm 2016.

Tại Việt Nam, không có quy định cụ thể về những nghề không được phép làm thương nhân Tuy nhiên, theo Điều 20 của Luật cán bộ công chức 2008, công chức và cán bộ không được thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh Thương nhân có thể là tổ chức, bao gồm pháp nhân, tổ hợp tác và hộ gia đình, nhưng phải đáp ứng các điều kiện pháp lý theo quy định Pháp nhân có thể tồn tại dưới nhiều hình thức như công ty cổ phần và công ty trách nhiệm hữu hạn, với tiêu chuẩn pháp lý khác nhau tùy thuộc vào quy định của từng quốc gia.

Các quy định về tiêu chuẩn pháp lý xác định tư cách thương nhân của cá nhân và pháp nhân trong hợp đồng MBHHQT được áp dụng dựa trên pháp luật của quốc tịch hoặc trụ sở của thương nhân.

Thương nhân là tổ chức ký kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế thông qua cá nhân đại diện của tổ chức, và việc đại diện này phải tuân theo pháp luật của quốc gia liên quan.

* Hình thức giao kết hợp đồng MBHHQT:

Hình thức giao kết hợp đồng MBHHQT đóng vai trò quan trọng trong việc xác định hiệu lực của giao dịch mua bán Nó không chỉ là phương tiện pháp lý thể hiện ý chí của các bên mà còn chứng minh sự tồn tại của giao dịch Hiện nay, có hai quan điểm về hình thức giao kết hợp đồng MBHHQT: một là ký kết bằng văn bản và hai là thông qua lời nói hoặc hình thức khác.

Các hình thức giao dịch giữa người bán và người mua phải được thỏa thuận và ký kết bằng văn bản hoặc các hình thức tương đương.

Theo Công ước Viên 1980 về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế, các bên không bắt buộc phải ký kết hay xác nhận hợp đồng bằng văn bản, và có thể sử dụng bất kỳ hình thức nào, bao gồm cả lời khai nhân chứng, để chứng minh sự tồn tại của hợp đồng Tuy nhiên, Điều 96 của Công ước quy định rằng nếu pháp luật của nước thành viên yêu cầu hợp đồng phải được ký kết hoặc phê chuẩn bằng văn bản, thì quy định này phải được tôn trọng.

Lý luận về pháp luật giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế

1.3.1 Khái niệm đặc điểm pháp luật điều chỉnh giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế

Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế thể hiện sự thống nhất ý chí giữa các thương nhân có yếu tố nước ngoài trong quan hệ thương mại Qua hợp đồng này, các bên thiết lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ pháp lý của mình.

Quá trình thoả thuận giữa các bên cần được thể hiện rõ ràng thông qua việc giao kết hợp đồng, có thể là bằng lời nói, hành vi hoặc văn bản.

Để hiểu rõ quá trình giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế từ góc độ luật học, cần chú ý đến bốn vấn đề chính: (i) Quan hệ tiền hợp đồng; (ii) Xung đột pháp luật; (iii) Luật áp dụng cho hình thức giao kết; và (iv) Điều kiện hiệu lực của hợp đồng Việc làm rõ các yếu tố này giúp xác định các giai đoạn cơ bản trong giao kết hợp đồng và thể hiện những đặc thù riêng của nó Bên cạnh đó, các điều khoản cụ thể như giá cả, điều kiện giao hàng, thanh toán, bảo hiểm, chất lượng hàng hoá và ngôn ngữ ưu tiên cũng rất quan trọng để đảm bảo hiệu lực và tính khả thi của hợp đồng Để quá trình giao kết hợp đồng được hiệu lực, các nội dung trên cần được điều chỉnh bởi pháp luật, song song với việc tự do thỏa thuận giữa các bên.

Trong khoa học luật tư pháp quốc tế, chưa có khái niệm thống nhất về pháp luật áp dụng điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế

Khái niệm “pháp luật” được hiểu rộng rãi là các quy định do nhà nước xây dựng, ban hành hoặc công nhận, bao gồm pháp luật quốc gia, điều ước quốc tế và tập quán quốc tế Do đó, các thoả thuận tư như hợp đồng chưa được xem là “luật” của các bên Theo tác giả Bùi Thị Thu trong Luận án về “Luật áp dụng điều chỉnh hợp đồng thương mại quốc tế tại Việt Nam” (2016), quan điểm này nhấn mạnh tầm quan trọng của luật trong việc điều chỉnh giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế tại Việt Nam.

24 chủ yếu được hiểu theo nghĩa hẹp, chỉ bao gồm các văn bản do pháp luật nhà nước xây dựng, ban hành hoặc công nhận

Luật áp dụng điều chỉnh giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế bao gồm toàn bộ nguyên tắc và quy phạm pháp luật được xây dựng và ban hành nhằm điều chỉnh việc giao kết các hợp đồng mua bán hàng hóa trên phạm vi quốc tế.

1.3.2 Nội dung và nguồn pháp luật điều chỉnh giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế i) Nội dung pháp luật

Cơ sở pháp lý cho việc điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế bao gồm các quy phạm pháp luật tư pháp quốc tế liên quan đến tính hợp pháp của giao kết hợp đồng Điều kiện áp dụng luật trong giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là phải bảo đảm không ảnh hưởng đến trật tự công và không vi phạm nguyên tắc pháp luật của từng quốc gia.

Nội dung luật áp dụng trong giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế bao gồm các nguyên tắc pháp luật cơ bản và các quy định pháp lý cụ thể, điều chỉnh những vấn đề liên quan đến việc ký kết hợp đồng này.

Việc tuân thủ các quy định về nguyên tắc giao kết hợp đồng MBHHQT là rất quan trọng, nhằm bảo đảm quyền tự do thỏa thuận của các bên tham gia Điều này phản ánh đúng bản chất của quan hệ hợp đồng Tuy nhiên, không phải mọi thỏa thuận đều có thể dẫn đến việc hình thành hợp đồng MBHHQT, từ đó phát sinh quyền và nghĩa vụ cho các bên Để đảm bảo tính thượng tôn của pháp luật và hiệu quả trong việc thực hiện cũng như chấm dứt hợp đồng, việc giao kết hợp đồng cần tuân thủ các nguyên tắc cơ bản của quan hệ hợp đồng và nguyên tắc giao kết HĐMBHHQT.

Nguyên tắc tự do chọn luật áp dụng cho giao kết hợp đồng để điều chỉnh các quan hệ trong hợp đồng

Nguyên tắc tự do chọn luật áp dụng được công nhận rộng rãi tại Châu Âu, được ghi trong Điều 3 của Công ước Rome 1980 và Công ước Viên 1980 về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế, cùng nhiều điều ước quốc tế khác Tại Việt Nam, nguyên tắc này được thể hiện qua Điều 664 của Bộ luật Dân sự 2015, xác định pháp luật áp dụng cho quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, và Khoản 2 Điều 5 của Luật Thương mại 2005, cho phép các bên trong giao dịch thương mại có yếu tố nước ngoài thỏa thuận áp dụng pháp luật nước ngoài và tập quán thương mại quốc tế, miễn là không trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.

Trong trường hợp không có thỏa thuận về luật áp dụng cho hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, luật áp dụng sẽ là pháp luật của quốc gia có mối quan hệ mật thiết nhất với hợp đồng đó.

Nhóm quy phạm về chủ thể giao kết hợp đồng MBHHQT quy định rằng hợp đồng chỉ có hiệu lực khi các bên ký kết có năng lực pháp lý và năng lực hành vi Việc xác định tư cách chủ thể của các bên là vấn đề thuộc lĩnh vực quy chế pháp lý nhân thân, không phải điều kiện trực tiếp của hợp đồng nhưng ảnh hưởng lớn đến hiệu lực của nó Hợp đồng chỉ được công nhận hiệu lực nếu các bên có đủ năng lực pháp lý, và pháp luật điều chỉnh năng lực hành vi của cá nhân và năng lực dân sự của pháp nhân không thuộc về quy định của hợp đồng Điều kiện này khác biệt giữa các quốc gia; ví dụ, tại Việt Nam, người từ 18 tuổi trở lên được coi là có năng lực hành vi đầy đủ, tương tự như quy định tại Pháp, trong khi Nhật Bản yêu cầu độ tuổi từ 20 trở lên.

Hợp đồng cần được ký và thực hiện bởi những chủ thể có đầy đủ năng lực pháp luật và năng lực hành vi theo quy định của pháp luật.

Nhóm quy phạm về trình tự và phương thức giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế bao gồm hai bước chính: giai đoạn đề nghị giao kết và giai đoạn trả lời, trong đó bên nhận có thể chấp thuận hoặc không chấp thuận đề nghị Các quy định pháp luật xác định tính ràng buộc của các bên trong mối quan hệ tiền hợp đồng trong cả hai giai đoạn và phương thức giao kết, bao gồm cả hình thức trực tiếp và gián tiếp.

Thứ tư, nhóm quy phạm về hình thức giao kết hợp đồng là một quy định pháp lý quan trọng trong lĩnh vực hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế Hình thức của hợp đồng không chỉ giúp nhận biết xem hợp đồng đã được giao kết hay chưa, mà còn thể hiện sự thỏa thuận và ý chí của các bên tham gia Pháp luật yêu cầu hình thức hợp đồng nhằm chứng minh sự tồn tại của nó, và trong nhiều quy định pháp lý, hợp đồng chỉ có hiệu lực nếu đáp ứng các điều kiện về hình thức nhất định hoặc được chứng minh bằng các phương thức cụ thể.

Theo Khoản 2, Điều 27 của Luật thương mại 2005, hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế chỉ được công nhận khi có hình thức văn bản hoặc hình thức pháp lý tương đương Ngược lại, Công ước Viên 1980 (CISG) công nhận nguyên tắc tự do về hình thức hợp đồng, cho phép hợp đồng không cần phải được lập bằng văn bản và có thể được chứng minh bằng nhiều cách khác nhau, kể cả nhân chứng Điều 2.1.13 của PICC 2004 cũng nhấn mạnh rằng trong quá trình đàm phán, nếu một bên yêu cầu việc giao kết hợp đồng phụ thuộc vào thỏa thuận về nội dung hoặc hình thức, thì điều này có thể được chấp nhận.

THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN GIAO KẾT HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ TẠI TỈNH HƯNG YÊN

GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ TẠI TỈNH HƯNG YÊN

Ngày đăng: 29/06/2021, 21:02

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
4. Nguyễn Phú Vinh (2011), “Một số vấn đề pháp lý về giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế ở Việt Nam” Sách, tạp chí
Tiêu đề: Một số vấn đề pháp lý về giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế ở Việt Nam
Tác giả: Nguyễn Phú Vinh
Năm: 2011
5. Nguyễn Thị Tú Quyên (2011), “Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế - Những vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng tại Việt Nam” Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế - Những vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng tại Việt Nam
Tác giả: Nguyễn Thị Tú Quyên
Năm: 2011
9. Trần Quỳnh Anh, Vũ Quỳnh Như (2018), “Hoàn thiện pháp luật về giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế bài học kinh nghiệm từ Công ước Viên 1980”, Tạp chí Luật học số 09/2018 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hoàn thiện pháp luật về giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế bài học kinh nghiệm từ Công ước Viên 1980
Tác giả: Trần Quỳnh Anh, Vũ Quỳnh Như
Năm: 2018
10. Ủy ban Tư vấn về Chính sách Thương mại quốc tế thuộc Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (2010), Báo cáo nghiên cứu “Đề xuất Việt Nam gia nhập Công ước Viên năm 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế” Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đề xuất Việt Nam gia nhập Công ước Viên năm 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
Tác giả: Ủy ban Tư vấn về Chính sách Thương mại quốc tế thuộc Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam
Năm: 2010
13. Võ Sỹ Mạnh (2012) Luật áp dụng “non-state law” cho hợp đồng thương mại quốc tế, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 9(293)/2012, tr.55-59.III. Tài liệu nước ngoài Sách, tạp chí
Tiêu đề: non-state law
1. Clarkson-Miller-Jentz-Cross (2006): “West’s Business Law. Text and Cases” Sách, tạp chí
Tiêu đề: West’s Business Law. Text and Cases
Tác giả: Clarkson-Miller-Jentz-Cross
Năm: 2006
2. Comment and Notes to PECL Art. 8:103: Comment C, tham khảo tại http://www.cisg.law.pace.edu/cisg/text/peclcomp25.htmlComment and Notes toPECL Art. 8:103: Comment C, tham khảo tạihttp://www.cisg.law.pace.edu/cisg/text/peclcomp25.html Link
4. Franco Ferrar (2006), Fundamental Breach of Contract Under the UN Sales Convention-- 25 Years of Article 25 CISG, Journal of Law and Commerce, tham khảo tại http://www.cisg.law.pace.edu/cisg/biblio/ferrari14.html Link
3. Bộ nguyên tắc UNIDROIT năm 2004 về hợp đồng thương mại quốc tế Khác
4. Các quy tắc trong thương mại quốc tế - International Commercial Terms 2010 5. Công ước La Haye 1964 Khác
6. Công ước Viên 1980 của Liên Hợp Quốc về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế Khác
8. Luật mua bán hàng hóa năm 1979 của Anh 9. Luật quản lý ngoại thương 2017 Khác
11. Nghị định 90/2007/NĐ-CP ngày 31/05/2007 quy định về quyền xuất khẩu, quyền nhập khẩu của thương nhân nước ngoài không có hiện diện tại Việt Nam Khác
13. Nghị định số 187/2013/NĐ-CP ngày 20/11/2013 quy định chi tiết thi hành Luật Thương mại về hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế và các hoạt động đại lý mua, bán, gia công và quá cảnh hàng hóa với nước ngoài.II. Các tài liệu trong nước Khác
1. Đỗ Minh Ánh, Vấn đề sửa đổi khái niệm mua bán hàng hóa quốc tế trong Luật thương mại để gia nhập Công ước của Liên hợp quốc về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, Tạp chí Luật học số 9/2011 Khác
2. Lê Thị Nam Giang (2011), Tư pháp quốc tế, Nxb ĐHQG HCM Khác
3. Nguyễn Minh Hằng (2011) Nhà pháp luật Việt – Pháp, Các thuật ngữ hợp đồng thông dụng, Nxb Từ điển bách khoa Khác
6. Nguyễn Văn May (2016), “Pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế và thực tiễn thi hành tại tỉnh Sơn La Khác
7. Nxb Tư Pháp (2021), Giáo trình Thương mại tư pháp Đại học Luật Hà Nội Khác
8. Sở Công Thương tỉnh Hưng Yên, Báo cáo Tổng kết thực hiện năm 2019, năm 2020 Khác

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w