1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế theo pháp luật việt nam từ thực tiễn tỉnh hưng yên

92 9 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Giao Kết Hợp Đồng Mua Bán Hàng Hóa Quốc Tế Theo Pháp Luật Việt Nam Từ Thực Tiễn Tỉnh Hưng Yên
Tác giả Phạm Ngọc Thắng
Người hướng dẫn PGS.TS. Lê Mai Thanh
Trường học Học viện khoa học xã hội
Chuyên ngành Luật kinh tế
Thể loại luận văn thạc sĩ
Năm xuất bản 2021
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 92
Dung lượng 1,52 MB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG 1. LÝ LUẬN VỀ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ VÀ LÝ LUẬN PHÁP LUẬT VỀ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ (13)
    • 1.1 Lý luận về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế (13)
    • 1.2 Lý luận về giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế (20)
    • 1.3 Lý luận về pháp luật giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế (28)
  • CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN GIAO KẾT HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ TẠI TỈNH HƯNG YÊN (40)
    • 2.1. Thực trạng quy định pháp luật giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế (40)
    • 2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế tại tỉnh Hưng Yên (52)
  • CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ TẠI TỈNH HƯNG YÊN (65)
    • 3.1 Giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật về giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế (65)
    • 3.2 Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả trong hoạt động giao kết hợp đồng (69)
  • KẾT LUẬN (39)

Nội dung

LÝ LUẬN VỀ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ VÀ LÝ LUẬN PHÁP LUẬT VỀ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ

Lý luận về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế

1.1.1 Khái niệm hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế

Hiện tại, chưa có từ điển chuyên ngành Luật nào định nghĩa rõ ràng về "hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế" Thay vào đó, các từ điển chỉ giải thích các thuật ngữ liên quan như "hợp đồng", "mua bán hàng hóa", "quốc tế" và "yếu tố nước ngoài".

Về mặt học thuật, đã có một số tác giả đưa ra khái niệm về hợp đồngMBHHQT Theo tác giả Trần Việt Dũng,

Hợp đồng MBHHQT, theo định nghĩa năm 2005 tại TP.HCM, là một thỏa thuận thương mại giữa các doanh nghiệp đến từ các quốc gia khác nhau để thực hiện giao dịch hàng hóa xuyên biên giới Tuy nhiên, khái niệm này dường như chưa phản ánh đầy đủ các yếu tố lãnh thổ trong hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế.

Khi hàng hóa di chuyển từ một địa điểm kinh doanh đến khu vực hải quan riêng trong lãnh thổ quốc gia, hoạt động này vẫn được xem là xuất khẩu và nhập khẩu hàng hóa Do đó, hợp đồng giữa các thương nhân trong và ngoài khu vực hải quan riêng thường được coi là hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế.

Theo Lê Thị Nam Giang trong tác phẩm "Tư pháp quốc tế", hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế (MBHHQT) là thỏa thuận giữa các bên có trụ sở ở các quốc gia khác nhau, trong đó bên bán chuyển giao quyền sở hữu tài sản cho bên mua và nhận tiền, trong khi bên mua có nghĩa vụ nhận tài sản và thanh toán Tuy nhiên, khái niệm này chưa hoàn toàn chính xác vì tài sản là khái niệm rộng, bao gồm hàng hóa Theo Điều 3, Khoản 3 của Luật Thương mại 2005, hàng hóa được định nghĩa là tất cả các loại động sản, kể cả động sản hình thành trong tương lai, và những vật gắn liền với đất đai, ngoại trừ tiền và giấy tờ có giá.

Luật thương mại quốc tế quy định rằng hàng hóa, bao gồm bất động sản và động sản, là một loại tài sản cụ thể Theo Điều 105 Bộ luật Dân sự 2015, tài sản có thể là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản, nhưng không phải tất cả tài sản đều được coi là hàng hóa.

Pháp luật thực định của nhiều quốc gia và các văn bản pháp lý quốc tế có sự khác biệt trong quy định về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế (MBHHQT).

- Theo quy định tại Điều 56 Luật mua bán hàng hóa năm 1979 của Anh có nêu:

Hợp đồng MBHHQT là hợp đồng mua bán hàng hóa giữa các bên có trụ sở thương mại tại các quốc gia khác nhau, và phải đáp ứng các điều kiện sau: (a) Hàng hóa được vận chuyển từ lãnh thổ của một quốc gia sang lãnh thổ của quốc gia khác tại thời điểm ký kết hợp đồng; (b) Chào hàng hoặc chấp nhận chào hàng được thực hiện trên lãnh thổ của các quốc gia khác nhau; (c) Việc giao hàng diễn ra trên lãnh thổ quốc gia khác với nơi chào hàng hoặc nơi chấp nhận chào hàng.

Bộ luật thương mại thống nhất Hoa Kỳ năm 1952 không định nghĩa trực tiếp về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế (MBHHQT), nhưng đã đưa ra khái niệm giao dịch quốc tế tại Điều 1-301, xác định rằng giao dịch này có mối quan hệ hợp lý với một quốc gia khác ngoài Hoa Kỳ Mua bán hàng hóa được hiểu là việc chuyển giao quyền sở hữu từ người bán sang người mua để nhận tiền Mặc dù không có tiêu chí cụ thể để xác định hợp đồng MBHHQT, việc định nghĩa giao dịch quốc tế đã phản ánh tiêu chí “trụ sở thương mại” của các quốc gia khác nhau.

Hợp đồng mua bán hàng hóa theo pháp luật Anh và Hoa Kỳ là thỏa thuận chuyển giao quyền sở hữu hàng hóa từ người bán sang người mua với điều kiện thanh toán tương ứng Khi hợp đồng này được ký kết giữa các bên có trụ sở thương mại ở các quốc gia khác nhau, nó sẽ được coi là hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế.

Theo Điều 1 của Công ước La Haye 1964, hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế được định nghĩa là hợp đồng giữa các bên có trụ sở thương mại ở các quốc gia khác nhau, trong đó hàng hóa được chuyển giao từ nước này sang nước khác hoặc việc ký kết hợp đồng diễn ra giữa các bên ở các quốc gia khác nhau.

Công ước Viên 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế (CISG) không định nghĩa rõ khái niệm hợp đồng MBHHQT, nhưng Điều 1 đã xác định rằng công ước này áp dụng cho các hợp đồng giữa các bên có địa điểm kinh doanh tại các quốc gia khác nhau Do đó, để xác định một hợp đồng là hợp đồng MBHHQT, địa điểm kinh doanh của các bên phải thuộc các nước khác nhau, không phụ thuộc vào nơi ký kết hợp đồng hay việc hàng hóa có qua biên giới hay không Tại Việt Nam, hợp đồng MBHHQT còn được gọi là hợp đồng ngoại thương, hợp đồng xuất khẩu, nhập khẩu, và theo Điều 80 Luật Thương mại 1997, hợp đồng này là sự ký kết giữa một bên là thương nhân Việt Nam và một bên là thương nhân nước ngoài, với tiêu chí xác định dựa vào quốc tịch của các bên tham gia hợp đồng.

Việc xác định hợp đồng MBHHQT dựa trên quốc tịch của chủ thể gặp nhiều khó khăn do sự khác biệt trong quy định pháp luật về quốc tịch giữa các quốc gia Điều này dẫn đến những thách thức trong việc lựa chọn nguồn luật điều chỉnh phù hợp.

Luật Thương mại 2005 không định nghĩa cụ thể về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế (MBHHQT), nhưng tại Điều 27, luật này liệt kê các hình thức hợp đồng MBHHQT bao gồm xuất khẩu, nhập khẩu, tạm nhập, tái xuất, tạm xuất, tái nhập và chuyển khẩu Ngoài ra, luật cũng quy định rằng việc mua bán hàng hóa quốc tế phải được thực hiện dựa trên hợp đồng bằng văn bản hoặc hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương.

Thương mại 2005 không xác định hợp đồng MBHHQT dựa vào trụ sở thương mại hay quốc tịch của các bên, mà dựa vào sự di chuyển của hàng hóa Hợp đồng MBHHQT được coi là hợp đồng mua bán hàng hóa có yếu tố nước ngoài khi hàng hóa di chuyển qua biên giới quốc gia hoặc khu vực hải quan riêng.

Theo Bộ luật Dân sự 2015, quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài được xác định khi có ít nhất một bên tham gia là cá nhân hoặc pháp nhân nước ngoài, hoặc khi tất cả các bên đều là công dân và pháp nhân Việt Nam nhưng các hoạt động liên quan đến việc xác lập, thay đổi, thực hiện hoặc chấm dứt quan hệ diễn ra ở nước ngoài, hoặc khi đối tượng của quan hệ dân sự nằm ở nước ngoài.

Lý luận về giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế

1.2.1 Khái niệm giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế

Giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là quá trình thương thảo và ghi nhận ý chí giữa các thương nhân đến từ các quốc gia hoặc có quốc tịch khác nhau, nhằm thể hiện các nội dung giao dịch dưới hình thức cụ thể.

Giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế có những đặc trưng sau đây:

Giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế là quá trình thể hiện ý chí của các bên tham gia, khác với hợp đồng nội địa, thường kéo dài hơn do yếu tố nước ngoài và sự phức tạp của nhiều hệ thống pháp luật Sự khác biệt về tư duy và quan niệm kinh doanh giữa các thương nhân quốc tế cũng góp phần làm cho quá trình này trở nên phức tạp hơn.

Trong giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế, chủ thể thường là thương nhân từ các quốc gia khác nhau, điều này tạo ra sự khác biệt rõ rệt so với giao dịch trong nước Sự hiện diện của thương nhân nước ngoài không chỉ làm tăng tính phức tạp của giao dịch mà còn đặt ra những quan tâm về việc lựa chọn luật áp dụng, sự điều chỉnh pháp luật liên quan đến hợp đồng, cũng như quyền hạn của các cơ quan tài phán trong việc giải quyết tranh chấp giữa các bên.

Vào thứ ba, việc giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế yêu cầu sự thống nhất ý chí giữa các bên về các nội dung giao dịch quan trọng như loại hàng hóa, giá cả, điều kiện giao hàng, điều kiện thanh toán, bảo hành và chất lượng sản phẩm.

Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế phải được xác lập dưới hình thức nhất định, tương tự như hợp đồng trong nước, có thể là văn bản, lời nói hoặc hành vi cụ thể Tuy nhiên, yêu cầu về hình thức của hợp đồng quốc tế thường nghiêm ngặt hơn so với hợp đồng nội địa.

* Chủ thể giao kết hợp đồng

Người kết ước hay chủ thể giao kết hợp đồng MBHHQT bao gồm các bên chủ thể hoặc đại diện theo pháp luật của bên chủ thể, có thể là cá nhân hoặc pháp nhân Đối với thương nhân cá nhân, mặc dù có quy định khác nhau, nhưng hầu hết các quốc gia đều dựa trên hai tiêu chuẩn pháp lý chính để xác định tư cách thương nhân trong quan hệ hợp đồng MBHHQT.

Để trở thành thương nhân, một cá nhân cần phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi Việc đánh giá hai yếu tố này là rất quan trọng trong thực tiễn để xác định khả năng tham gia vào các hoạt động thương mại.

Tại Điều 18 Luật Thương mại Việt Nam 2005 quy định ba trường hợp không được công nhận trở thành thương nhân, cụ thể như sau:

- Người không có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, người mất năng lực hành vi dân sự, người hạn chế nặng lực hành vi dân sự.

- Người bị truy cứu trách nhiệm hình sự, người đang phải chấp hành hình phạt tù.

- Người bị Toà án hạn chế những ngành nghề về kinh doanh.

Theo quy định của nhiều quốc gia, đặc biệt là các nước Châu Âu, một số ngành nghề nhất định không cho phép cá nhân trở thành thương nhân Cụ thể, tại Pháp, công chức chuyên trách không được tham gia hoạt động thương mại với tư cách thương nhân, điều này được quy định trong Luật đạo đức và quyền của công chức Pháp ban hành ngày 20 tháng 4 năm 2016.

Tại Việt Nam, không có quy định cụ thể về những nghề không được làm thương nhân, nhưng công chức và cán bộ bị cấm thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh theo Điều 20 của Luật cán bộ công chức 2008 Thương nhân tổ chức có thể là pháp nhân, tổ hợp tác hoặc hộ gia đình, và phải đáp ứng các điều kiện pháp lý theo quy định Pháp nhân, như công ty cổ phần hay công ty trách nhiệm hữu hạn, là những hình thức thương nhân phổ biến, và việc phân loại này phụ thuộc vào quy định pháp luật của từng quốc gia, với các tiêu chuẩn khác nhau cho từng loại hình.

Các quy định pháp lý xác định tư cách thương nhân của cá nhân và pháp nhân trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế (MBHHQT) dựa trên luật pháp của quốc tịch hoặc trụ sở của thương nhân.

Thương nhân là tổ chức thực hiện việc ký kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế thông qua đại diện hợp pháp của mình, và sự hợp pháp của đại diện này dựa trên quy định của pháp luật của quốc gia liên quan.

* Hình thức giao kết hợp đồng MBHHQT:

Hình thức giao kết hợp đồng MBHHQT đóng vai trò quan trọng trong việc xác định hiệu lực của giao dịch mua bán Nó không chỉ là phương tiện pháp lý thể hiện ý chí của các bên mà còn chứng minh sự tồn tại của giao dịch Hiện nay, có hai quan điểm chính về hình thức giao kết hợp đồng: một là hợp đồng có thể được ký kết bằng văn bản, lời nói hoặc hình thức khác do bên mua và bên bán tự thỏa thuận; hai là hợp đồng phải được ký kết bằng văn bản hoặc các hình thức tương đương.

Theo Công ước Viên 1980 về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế, các bên không bắt buộc phải ký kết hay xác nhận hợp đồng bằng văn bản, và có thể sử dụng bất kỳ phương tiện nào, bao gồm cả lời khai nhân chứng, để chứng minh sự tồn tại của hợp đồng Tuy nhiên, Điều 96 quy định rằng nếu pháp luật của một nước thành viên yêu cầu hợp đồng phải được ký kết hoặc phê chuẩn bằng văn bản, thì quy định này phải được tôn trọng.

Bộ nguyên tắc hợp đồng thương mại quốc tế (PICC) của UNIDROIT không yêu cầu hợp đồng, tuyên bố hay hành vi nào phải được thực hiện theo một hình thức cụ thể, mà có thể được chứng minh bằng nhiều hình thức khác nhau, bao gồm cả nhân chứng Tuy nhiên, nguyên tắc tự do về hình thức hợp đồng này có thể bị hạn chế bởi các quy định pháp luật quốc gia hoặc quốc tế, nếu những quy định đó yêu cầu hợp đồng mua bán quốc tế phải được lập thành văn bản Do đó, các bên tham gia hợp đồng cần tuân thủ các quy định pháp lý liên quan, như quy định tại Điều 14 của PICC 2004.

Tại Việt Nam, hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế phải được lập bằng văn bản hoặc hình thức có giá trị pháp lý tương đương, bao gồm điện báo, telex, fax, và thông điệp dữ liệu Ngoài ra, trong một số trường hợp, hợp đồng còn phải được đăng ký và phê duyệt bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền để có hiệu lực, như đối với hợp đồng chuyển nhượng quyền sở hữu công nghiệp có yếu tố nước ngoài.

1.2.2 Trình tự giao kết hợp đồng – quan hệ tiền hợp đồng

Giao kết hợp đồng thông qua giai đoạn chủ yếu là đề nghị và chấp nhận đề nghị giữa hai bên chủ thể.

Quá trình các bên giao thiệp xác lập nên quan hệ “tiền hợp đồng” giữa các bên *Đề nghị giao kết hợp đồng

Chào hàng (Offer/order) là một đề nghị giao kết hợp đồng, thể hiện ý chí mong được ký kết hợp đồng với bên nhận chào hàng.

Lý luận về pháp luật giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế

1.3.1 Khái niệm đặc điểm pháp luật điều chỉnh giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế

Hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế là sự thể hiện sự đồng thuận giữa các thương nhân có yếu tố nước ngoài, qua đó thiết lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ pháp lý giữa các bên trong quan hệ mua bán hàng hoá.

Quá trình thoả thuận giữa các bên cần được thể hiện qua hình thức cụ thể, bao gồm giao kết hợp đồng bằng lời nói, hành vi hoặc văn bản.

Để hiểu rõ quá trình giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế, cần chú ý đến bốn vấn đề chính: quan hệ tiền hợp đồng, xung đột pháp luật, luật áp dụng cho hình thức giao kết và điều kiện hiệu lực của hợp đồng Việc làm rõ những yếu tố này giúp xác định các giai đoạn cơ bản trong giao kết hợp đồng và thể hiện đặc thù của nó Bên cạnh đó, các điều khoản cụ thể như giá cả, điều kiện giao hàng, thanh toán, bảo hiểm, chất lượng hàng hoá và ngôn ngữ ưu tiên cũng đóng vai trò quan trọng trong việc xác định hiệu lực và tính khả thi của hợp đồng Để đảm bảo hiệu lực của quá trình giao kết, các nội dung này cần được điều chỉnh bởi pháp luật, bên cạnh sự tự do thỏa thuận giữa các bên.

Trong khoa học luật tư pháp quốc tế, chưa có khái niệm thống nhất về pháp luật áp dụng điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế.

Khái niệm "pháp luật" được hiểu rộng rãi là các quy định do nhà nước xây dựng, ban hành hoặc công nhận, bao gồm pháp luật quốc gia và các điều ước quốc tế Các thoả thuận tư như hợp đồng chưa được xem là "luật" của các bên Theo tác giả Bùi Thị Thu trong luận án về "Luật áp dụng điều chỉnh hợp đồng thương mại quốc tế tại Việt Nam" (2016), quan điểm về luật áp dụng trong giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế tại Việt Nam chủ yếu được hiểu theo nghĩa hẹp, chỉ bao gồm các văn bản pháp lý do nhà nước ban hành hoặc công nhận.

Luật áp dụng điều chỉnh giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế bao gồm toàn bộ nguyên tắc và các quy phạm pháp luật được xây dựng, ban hành và lựa chọn để điều chỉnh quá trình giao kết hợp đồng trong lĩnh vực này.

1.3.2 Nội dung và nguồn pháp luật điều chỉnh giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế i) Nội dung pháp luật

Cơ sở pháp lý cho việc điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế dựa trên quy phạm pháp luật tư pháp quốc tế, nhằm đảm bảo tính hợp pháp của giao kết Điều kiện áp dụng luật trong giao kết hợp đồng này phải tôn trọng trật tự công và không vi phạm nguyên tắc pháp luật của từng quốc gia.

Nội dung luật áp dụng trong việc điều chỉnh giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế bao gồm các nguyên tắc pháp luật cơ bản và các quy phạm pháp luật cụ thể liên quan đến quá trình ký kết hợp đồng Những quy định này nhằm đảm bảo tính hợp pháp và hiệu lực của hợp đồng trong giao dịch thương mại quốc tế.

Các quy định về nguyên tắc giao kết hợp đồng MBHHQT rất quan trọng, vì chúng bảo đảm quyền tự do thỏa thuận của các bên, phản ánh bản chất của quan hệ hợp đồng Tuy nhiên, không phải mọi thỏa thuận đều có thể hình thành hợp đồng MBHHQT, do đó các quyền và nghĩa vụ của các bên chỉ phát sinh theo thỏa thuận hợp lệ Để bảo đảm tính thượng tôn của pháp luật và hiệu quả trong việc thực hiện, chấm dứt HĐMBHHQT, việc giao kết hợp đồng cần tuân thủ các nguyên tắc cơ bản của quan hệ hợp đồng và nguyên tắc giao kết HĐMBHHQT.

Nguyên tắc tự do chọn luật áp dụng cho giao kết hợp đồng để điều chỉnh các quan hệ trong hợp đồng.

Nguyên tắc tự do chọn luật áp dụng được các quốc gia Châu Âu công nhận, được ghi nhận trong Điều 3 Công ước Rome 1980 và Công ước Viên 1980 về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế, cùng nhiều điều ước quốc tế khác Tại Việt Nam, nguyên tắc này được quy định tại Điều 664 Bộ luật Dân sự 2015 về xác định pháp luật áp dụng đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, và Khoản 2 Điều 5 Luật Thương mại 2005, cho phép các bên trong giao dịch thương mại có yếu tố nước ngoài thỏa thuận áp dụng pháp luật nước ngoài và tập quán thương mại quốc tế, miễn là không trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.

Trong trường hợp không có thỏa thuận rõ ràng về luật áp dụng cho hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, pháp luật áp dụng sẽ là luật của quốc gia có mối quan hệ mật thiết nhất với hợp đồng đó.

Hợp đồng MBHHQT chỉ có hiệu lực khi các bên ký kết có đủ năng lực pháp luật và năng lực hành vi Việc xác định tư cách chủ thể là vấn đề thuộc quy chế pháp lý nhân thân, không phải là điều kiện trực tiếp liên quan đến hợp đồng nhưng ảnh hưởng đến hiệu lực của nó Hợp đồng chỉ được công nhận nếu các bên có năng lực pháp lý đầy đủ Năng lực hành vi của cá nhân và năng lực dân sự của pháp nhân trong quan hệ hợp đồng không được điều chỉnh bởi luật hợp đồng mà các bên đã chọn Điều kiện về năng lực pháp luật và năng lực hành vi khác nhau giữa các quốc gia, ví dụ, tại Việt Nam, người từ 18 tuổi trở lên được coi là có năng lực hành vi đầy đủ, trong khi Nhật Bản yêu cầu độ tuổi từ 20 Mặc dù có sự khác biệt, hợp đồng vẫn phải được ký và thực hiện bởi các chủ thể có đủ năng lực theo quy định pháp luật.

Nhóm quy phạm về trình tự và phương thức giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế (MBHHQT) bao gồm hai bước chính: giai đoạn đề nghị giao kết và giai đoạn trả lời, trong đó các bên có thể chấp thuận hoặc không chấp thuận đề nghị Quy trình này có thể thực hiện thông qua hình thức giao kết trực tiếp hoặc gián tiếp Các quy định pháp luật xác định tính ràng buộc giữa các bên trong mối quan hệ tiền hợp đồng trong suốt các giai đoạn và phương thức giao kết này.

Thứ tư, quy định về hình thức giao kết hợp đồng là yếu tố quan trọng trong pháp luật giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế Hình thức hợp đồng không chỉ giúp nhận biết liệu hợp đồng đã được giao kết hay chưa, mà còn thể hiện thỏa thuận và ý chí của các bên Yêu cầu về hình thức được đưa ra nhằm đảm bảo sự tồn tại và hiệu lực của hợp đồng, vì vậy, các quy phạm pháp luật thường quy định rằng hợp đồng chỉ có hiệu lực khi tuân thủ các điều kiện về hình thức nhất định hoặc được chứng minh bằng một cách nào đó.

Theo Khoản 2, Điều 27, Luật thương mại 2005, hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế (MBHHQT) chỉ được công nhận nếu được lập bằng văn bản hoặc hình thức có giá trị pháp lý tương đương Trong khi đó, Công ước CISG năm 1980 quy định tại Điều 11 rằng hợp đồng không nhất thiết phải được lập bằng văn bản và có thể được chứng minh bằng nhiều cách khác nhau, kể cả nhân chứng Bên cạnh đó, Điều 2.1.13 của PICC 2004 cho thấy rằng trong các cuộc đàm phán, nếu một bên yêu cầu việc giao kết hợp đồng phụ thuộc vào thỏa thuận về nội dung hoặc hình thức, hợp đồng chỉ được ký kết khi các bên đạt được thỏa thuận Những quy định này nhấn mạnh tầm quan trọng của sự thỏa thuận hợp pháp giữa các bên trong việc giao kết hợp đồng MBHHQT, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên, đặc biệt khi có tranh chấp xảy ra.

Nội dung của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế bao gồm nhiều vấn đề phức tạp như quyền và nghĩa vụ của các bên, các điều khoản chủ yếu và điều khoản giải quyết tranh chấp Mỗi quốc gia có quy định riêng, ví dụ, pháp luật Việt Nam bảo vệ quyền lợi của người mua, trong khi pháp luật Đức chú trọng đến quyền lợi của người bán Bốn khía cạnh quan trọng thường gây tranh chấp trong hợp đồng mua bán hàng hóa là điều khoản chọn luật áp dụng, thời điểm chuyển rủi ro và quyền sở hữu hàng hóa, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, và thẩm quyền giải quyết tranh chấp.

THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN GIAO KẾT HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ TẠI TỈNH HƯNG YÊN

GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ TẠI TỈNH HƯNG YÊN

Ngày đăng: 29/06/2021, 19:38

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
4. Nguyễn Phú Vinh (2011), “Một số vấn đề pháp lý về giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế ở Việt Nam” Sách, tạp chí
Tiêu đề: Một số vấn đề pháp lý về giao kết và thực hiện hợpđồng mua bán hàng hóa quốc tế ở Việt Nam
Tác giả: Nguyễn Phú Vinh
Năm: 2011
5. Nguyễn Thị Tú Quyên (2011), “Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế - Những vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng tại Việt Nam” Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế - Những vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng tại Việt Nam
Tác giả: Nguyễn Thị Tú Quyên
Năm: 2011
9. Trần Quỳnh Anh, Vũ Quỳnh Như (2018), “Hoàn thiện pháp luật về giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế bài học kinh nghiệm từ Công ước Viên 1980”, Tạp chí Luật học số 09/2018 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hoàn thiện pháp luật về giao kết hợpđồng mua bán hàng hoá quốc tế bài học kinh nghiệm từ Công ước Viên 1980
Tác giả: Trần Quỳnh Anh, Vũ Quỳnh Như
Năm: 2018
10. Ủy ban Tư vấn về Chính sách Thương mại quốc tế thuộc Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (2010), Báo cáo nghiên cứu “Đề xuất Việt Nam gia nhập Công ước Viên năm 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế” Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đề xuất Việt Nam gianhập Công ước Viên năm 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
Tác giả: Ủy ban Tư vấn về Chính sách Thương mại quốc tế thuộc Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam
Năm: 2010
13. Võ Sỹ Mạnh (2012) Luật áp dụng “non-state law” cho hợp đồng thương mại quốc tế, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 9(293)/2012, tr.55-59.III. Tài liệu nước ngoài Sách, tạp chí
Tiêu đề: non-state law
1. Clarkson-Miller-Jentz-Cross (2006): “West’s Business Law. Text and Cases” Sách, tạp chí
Tiêu đề: West’s Business Law. Text and Cases
Tác giả: Clarkson-Miller-Jentz-Cross
Năm: 2006
2. Comment and Notes to PECL Art. 8:103: Comment C, tham khảo tại http://www.cisg.law.pace.edu/cisg/text/peclcomp25.htmlComment and Notes to PECL Art. 8:103: Comment C, tham khảo tạihttp://www.cisg.law.pace.edu/cisg/text/peclcomp25.html Link
4. Franco Ferrar (2006), Fundamental Breach of Contract Under the UN Sales Convention-- 25 Years of Article 25 CISG, Journal of Law and Commerce, tham khảo tại http://www.cisg.law.pace.edu/cisg/biblio/ferrari14.html Link
3. Bộ nguyên tắc UNIDROIT năm 2004 về hợp đồng thương mại quốc tế Khác
4. Các quy tắc trong thương mại quốc tế - International Commercial Terms 2010 5. Công ước La Haye 1964 Khác
6. Công ước Viên 1980 của Liên Hợp Quốc về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế Khác
8. Luật mua bán hàng hóa năm 1979 của Anh 9. Luật quản lý ngoại thương 2017.10. Luật Thương mại 2005 Khác
11. Nghị định 90/2007/NĐ-CP ngày 31/05/2007 quy định về quyền xuất khẩu, quyền nhập khẩu của thương nhân nước ngoài không có hiện diện tại Việt Nam Khác
13. Nghị định số 187/2013/NĐ-CP ngày 20/11/2013 quy định chi tiết thi hành Luật Thương mại về hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế và các hoạt động đại lý mua, bán, gia công và quá cảnh hàng hóa với nước ngoài.II.Các tài liệu trong nước Khác
1. Đỗ Minh Ánh, Vấn đề sửa đổi khái niệm mua bán hàng hóa quốc tế trong Luật thương mại để gia nhập Công ước của Liên hợp quốc về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, Tạp chí Luật học số 9/2011 Khác
2. Lê Thị Nam Giang (2011), Tư pháp quốc tế, Nxb ĐHQG HCM Khác
3. Nguyễn Minh Hằng (2011) Nhà pháp luật Việt – Pháp, Các thuật ngữ hợp đồng thông dụng, Nxb Từ điển bách khoa Khác
6. Nguyễn Văn May (2016), “Pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế và thực tiễn thi hành tại tỉnh Sơn La Khác
7. Nxb Tư Pháp (2021), Giáo trình Thương mại tư pháp Đại học Luật Hà Nội Khác
8. Sở Công Thương tỉnh Hưng Yên, Báo cáo Tổng kết thực hiện năm 2019, năm 2020 Khác

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w