1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Thực trạng suy dinh dưỡng thể thấp còi ở trẻ em dưới 5 tuổi người dân tộc mông tại 2 xã huyện quản bạ tỉnh hà giang

87 8 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Thực Trạng Suy Dinh Dưỡng Thể Thấp Còi Ở Trẻ Em Dưới 5 Tuổi Người Dân Tộc Mông Tại 2 Xã Huyện Quản Bạ Tỉnh Hà Giang
Tác giả Phạm Thị Bích Hồng
Người hướng dẫn TS. Hà Xuân Sơn
Trường học Đại học Thái Nguyên
Chuyên ngành Y học dự phòng
Thể loại luận văn thạc sĩ y học
Năm xuất bản 2019
Thành phố Thái Nguyên
Định dạng
Số trang 87
Dung lượng 1,39 MB

Cấu trúc

  • Chương 1. TỔNG QUAN (10)
    • 1.1. Thông tin chung về suy dinh dưỡng (10)
      • 1.1.1. Khái niệm về suy dinh dưỡng (10)
      • 1.1.2. Suy dinh dưỡng thấp còi ở trẻ dưới 5 tuổi (10)
      • 1.1.3. Hậu quả suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi (10)
      • 1.1.4. Các phương pháp đánh giá SDD trẻ em trong cộng đồng (12)
      • 1.1.5. Cách đánh giá và phân loại tình trạng dinh dưỡng của trẻ em (14)
    • 1.2. Thực trạng SDD thấp còi trẻ em trên Thế giới và Việt Nam (16)
      • 1.2.1. Thực trạng suy dinh dưỡng thấp còi trẻ em dưới 5 tuổi trên Thế giới (16)
      • 1.2.2. Thực trạng suy dinh dưỡng thấp còi ở trẻ em dưới 5 tuổi tại Việt Nam (19)
    • 1.3. Yếu tố liên quan đến SDD thấp còi ở trẻ em dưới 5 tuổi (23)
  • Chương 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU (33)
    • 2.1. Đối tượng nghiên cứu (33)
    • 2.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu (33)
      • 2.2.1. Địa điểm nghiên cứu (33)
      • 2.2.2. Thời gian nghiên cứu: Tháng 7/2018 đến tháng 5/2019 (33)
    • 2.3. Phương pháp nghiên cứu (33)
      • 2.3.1. Thiết kế nghiên cứu (33)
      • 2.3.2. Cỡ mẫu và phương pháp chọn mẫu (33)
    • 2.4. Chỉ số nghiên cứu (34)
      • 2.4.1. Chỉ số nghiên cứu cho mục tiêu 1: Thực trạng SDD thấp còi (34)
      • 2.4.2. Chỉ số nghiên cứu cho mục tiêu 2: Yếu tố liên quan với SDD thấp còi28 2.5. Tiêu chuẩn đánh giá một số biến số nghiên cứu (35)
      • 2.5.1. Xác định tuổi (35)
      • 2.5.2. Đánh giá tình trạng dinh dưỡng trẻ (36)
    • 2.6. Phương pháp thu thập số liệu (37)
      • 2.6.1. Đo chỉ số nhân trắc (37)
      • 2.6.2. Phỏng vấn (38)
    • 2.7. Phương pháp phân tích và xử lý số liệu (38)
    • 2.8. Đạo đức trong nghiên cứu (38)
  • Chương 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU (40)
    • 3.1. Thực trạng suy dinh dưỡng thấp còi ở trẻ em dưới 5 tuổi người dân tộc Mông tại 2 xã huyện Quản Bạ tỉnh Hà Giang năm 2018 (40)
    • 3.2. Một số yếu tố liên quan với suy dinh dưỡng thấp còi ở trẻ em dưới 5 tuổi người dân tộc Mông (46)
  • Chương 4. BÀN LUẬN (54)
    • 4.1. Thực trạng suy dinh dưỡng thấp còi ở trẻ em dưới 5 tuổi người dân tộc Mông tại 2 xã huyện Quản Bạ tỉnh Hà Giang năm 2018 (54)
    • 4.2. Một số yếu tố liên quan với suy dinh dưỡng thấp còi ở trẻ em dưới 5 tuổi người dân tộc Mông (61)
  • KẾT LUẬN (71)
    • 1. Thực trạng suy dinh dưỡng thấp còi ở trẻ em dưới 5 tuổi người dân tộc Mông tại 2 xã huyện Quản Bạ tỉnh Hà Giang năm 2018 (71)
    • 2. Một số yếu tố liên quan với suy dinh dưỡng thấp còi ở trẻ em dưới 5 tuổi người dân tộc Mông (71)

Nội dung

TỔNG QUAN

Thông tin chung về suy dinh dưỡng

1.1.1 Khái niệm về suy dinh dưỡng

Suy dinh dưỡng (SDD) là tình trạng chậm lớn và phát triển ở trẻ em do thiếu protein, năng lượng và vi chất dinh dưỡng, thường xảy ra do chế độ ăn uống không đầy đủ Bệnh thường gặp ở trẻ dưới 5 tuổi, với nhiều mức độ khác nhau, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển thể chất, tinh thần và vận động Trẻ em dưới 5 tuổi có nguy cơ cao nhất đối với SDD protein - năng lượng do nhu cầu năng lượng lớn và tính nhạy cảm cao với bệnh nhiễm khuẩn.

1.1.2 Suy dinh dưỡng thấp còi ở trẻ dưới 5 tuổi

SDD thấp còi ở trẻ em dưới 5 tuổi là tình trạng chiều cao của trẻ thấp hơn mức chuẩn cho lứa tuổi, được xác định qua chỉ số "chiều cao theo tuổi" (Height/Age) dưới -2 Z-Score (hoặc dưới -2 SD so với chuẩn tăng trưởng của WHO 2006).

Tỉ lệ thấp còi cao nhất thường gặp ở trẻ từ 2 đến 3 tuổi Tình trạng suy dinh dưỡng thấp còi phổ biến hơn so với suy dinh dưỡng thiếu cân trên toàn thế giới, vì những trẻ bị thấp còi trong giai đoạn đầu đời có thể đạt cân nặng bình thường sau này nhưng vẫn duy trì chiều cao thấp.

1.1.3 Hậu quả suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi

Thấp còi ảnh hưởng nghiêm trọng đến tăng trưởng xương và chiều cao, với sự thay đổi chiều cao ở người trưởng thành bắt nguồn từ 2 năm đầu đời, chủ yếu qua tăng chiều dài chân Thời kỳ này là giai đoạn tăng trưởng mạnh mẽ nhất sau sinh và rất nhạy cảm với các yếu tố bất lợi, khiến trẻ thấp còi có ít cơ hội đạt chiều cao bình thường khi trưởng thành Nhiều nghiên cứu cho thấy suy dinh dưỡng (SDD) trong giai đoạn phát triển quan trọng - trước và trong thai kỳ cũng như hai năm đầu đời - có thể "lập trình" khả năng điều tiết tăng trưởng và ảnh hưởng đến sự phát triển não bộ SDD đầu đời có thể dẫn đến tổn thương không phục hồi cho sự phát triển não, hệ miễn dịch và thể lực, làm tăng nguy cơ mắc bệnh thần kinh, kết quả học tập kém, bỏ học sớm, và kỹ năng làm việc yếu kém Trẻ em có thể bị SDD ngay từ trong bào thai do chế độ dinh dưỡng kém của mẹ hoặc trong những năm đầu đời do bệnh tật, thiếu sữa mẹ hoặc thực phẩm bổ sung dinh dưỡng SDD làm suy yếu hệ miễn dịch, tăng nguy cơ tử vong do các bệnh thường gặp như viêm phổi, tiêu chảy và sốt rét.

Tăng trưởng chiều cao là chỉ số quan trọng phản ánh điều kiện sống và tình trạng dinh dưỡng của trẻ em Tăng trưởng kém thường liên quan đến nghèo đói và thiếu dinh dưỡng, với nhiều yếu tố kinh tế xã hội như tầng lớp xã hội, khu vực đô thị hay nông thôn, và điều kiện y tế ảnh hưởng đến sự phát triển này Suy dinh dưỡng dẫn đến tình trạng thấp còi, cho thấy sự thiếu hụt dinh dưỡng kéo dài, trong khi chiều cao theo tuổi thấp phản ánh sự chậm phát triển do chế độ dinh dưỡng và sức khỏe không hợp lý Do đó, chiều cao theo tuổi là chỉ tiêu hữu ích để đánh giá sự cải thiện điều kiện kinh tế xã hội và tác động lâu dài của nó.

Suy dinh dưỡng (SDD) làm trẻ em dễ bị nhiễm trùng, đặc biệt là các bệnh về hô hấp và tiêu hóa, dẫn đến tình trạng diễn biến xấu và tăng tỷ lệ tử vong SDD không chỉ gây khó khăn trong việc ăn uống mà còn làm tăng nhu cầu năng lượng, khiến tình trạng trở nên nghiêm trọng hơn Giai đoạn từ trong bụng mẹ đến 2 tuổi là thời điểm nhạy cảm, nếu trẻ mắc SDD sẽ để lại hậu quả lâu dài về thể chất và tinh thần Khi SDD kéo dài đến tuổi dậy thì, chiều cao và sự phát triển tâm thần của trẻ sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng Tác hại của SDD còn ảnh hưởng đến khả năng lao động và tầm vóc của dân tộc, gây lãng phí nguồn lực cho các quốc gia đang phát triển Việc điều trị SDD phức tạp và tốn kém, trong khi phát hiện sớm và phòng ngừa có thể thực hiện hiệu quả qua các biện pháp chăm sóc sức khỏe ban đầu.

1.1.4 Các phương pháp đánh giá SDD trẻ em trong cộng đồng Để đánh giá, phân loại SDD trong cộng đồng, theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO) nên sử dụng các chỉ số nhân trắc học, đó là cân nặng theo tuổi (W/A), chiều cao theo tuổi (H/A), và cân nặng theo chiều cao (W/H)

Các chỉ số về cân nặng, chiều cao, tuổi và giới tính của trẻ được thể hiện qua giá trị bách phân vị và độ lệch chuẩn Để đánh giá các kết quả này, cần so sánh với một quần thể tham chiếu Nhiều nghiên cứu cho thấy trẻ em dưới 5 tuổi được nuôi dưỡng tốt có thể đạt kích thước tương đương, không phụ thuộc vào giống nòi WHO khuyến nghị sử dụng quần thể NCHS của Hoa Kỳ để đánh giá tình trạng suy dinh dưỡng (SDD) ở trẻ em, không phải là tiêu chuẩn mà là công cụ đối chiếu để so sánh quốc tế Tình trạng SDD trong cộng đồng được đánh giá cụ thể như sau:

Cân nặng theo tuổi (W/A) là chỉ số đánh giá tình trạng nhẹ cân và dinh dưỡng (SDD) phổ biến từ năm 1950, dùng để đánh giá SDD của cá nhân hoặc cộng đồng Mặc dù nhẹ cân chỉ phản ánh một đặc điểm chung của SDD, chỉ số này không cung cấp thông tin cụ thể về loại SDD, có thể là mới xảy ra hoặc đã tích lũy lâu dài Chỉ số này nhạy cảm và có thể theo dõi trong thời gian ngắn, nhưng không phù hợp với trẻ còi thấp, vì chúng có thể có cân nặng thấp nhưng vẫn nằm trong đường phát triển bình thường Việc thu thập dữ liệu để tính toán chỉ số này gặp khó khăn ở những nơi có trình độ dân trí thấp và cách ghi nhớ ngày sinh khác nhau Tuy nhiên, việc theo dõi cân nặng là dễ thực hiện trong cộng đồng, do đó tỷ lệ thiếu cân theo tuổi thường được sử dụng để tính tỷ lệ SDD chung.

Chiều cao theo tuổi thấp, hay còn gọi là suy dinh dưỡng thấp còi (stunting), là dấu hiệu của suy dinh dưỡng trong quá khứ và thường xuất phát từ tình trạng thiếu dinh dưỡng kéo dài, bệnh nhiễm khuẩn tái diễn, và vệ sinh môi trường kém Chỉ số này dùng để đánh giá tình trạng suy dinh dưỡng nhưng không nhạy, vì sự phát triển chiều cao diễn ra từ từ, do đó khi phát hiện trẻ thấp còi thường đã quá muộn Tỉ lệ trẻ em thấp còi cũng phản ánh tình trạng đói nghèo và là chỉ tiêu quan trọng để đánh giá sự cải thiện điều kiện kinh tế, xã hội Ở các nước đang phát triển, tỉ lệ thấp còi tăng nhanh sau 3 tháng tuổi và ổn định ở tuổi 3, sau đó chiều cao trung bình của trẻ sẽ tương ứng với các quần thể tham khảo.

Cân nặng/chiều cao (W/H) là chỉ số quan trọng phản ánh tình trạng dinh dưỡng của trẻ, với cân nặng thấp theo chiều cao thường chỉ ra tình trạng suy dinh dưỡng cấp tính (SDD) Chỉ số này cho thấy sự thiếu hụt khối lượng cơ thể, bao gồm khối nạc, mỡ và xương, so với trẻ cùng chiều cao Thiếu ăn và nhiễm khuẩn là hai nguyên nhân chính gây ra tình trạng này, đặc biệt phổ biến ở trẻ từ 12-24 tháng tuổi do dễ mắc bệnh và thiếu chăm sóc SDD cấp tính có thể tiến triển nhanh chóng ở trẻ không tăng cân hoặc sụt cân Lợi ích của chỉ số W/H là không cần biết tuổi của trẻ, giúp tránh khó khăn trong việc thu thập dữ liệu tuổi tác, đồng thời không bị ảnh hưởng bởi yếu tố dân tộc, vì sự phát triển của trẻ dưới 5 tuổi là tương đồng trên toàn cầu.

1.1.5 Cách đánh giá và phân loại tình trạng dinh dưỡng của trẻ em

Năm 1983, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã đề xuất sử dụng số liệu của NCHS Hoa Kỳ làm quần thể tham chiếu, và đề xuất này đã được áp dụng rộng rãi, mặc dù một số quốc gia vẫn sử dụng quần thể tham chiếu địa phương Theo phân bố thống kê, giới hạn ngưỡng thường được xác định là âm 2 độ lệch chuẩn (-2SD) so với số trung bình Chẳng hạn, khi đánh giá cân nặng của một trẻ A, ta có thể so sánh với số liệu tham chiếu NCHS cho trẻ cùng giới và tuổi Nếu cân nặng của trẻ A thấp hơn ngưỡng -2SD trong bảng, điều đó cho thấy trẻ A bị suy dinh dưỡng thể thiếu cân Từ đó, người ta có thể tính tỉ lệ trẻ em có cân nặng dưới ngưỡng -2SD trong khu vực điều tra.

Cách thứ hai là tính Z-score theo công thức [84]:

Z-score được tính bằng công thức: (Kích thước đo được - Số trung bình của quần thể tham chiếu X) / Độ lệch chuẩn của quần thể tham chiếu SD Dưới đây là cách phân loại và đánh giá các chỉ tiêu nhân trắc liên quan đến tình trạng dinh dưỡng của trẻ em theo Z-score của WHO 2006.

Bảng 1.2 Đánh giá tình trạng suy dinh dưỡng trẻ em theo WHO

Thể suy dinh dưỡng Đánh giá Nhẹ cân (W/A) Thấp còi (H/A) Gầy còm (W/H)

-2SD đến + 2SD -2SD đến +2SD -2SD đến +2SD Bình thường

Từ < -2SD đến -3SD Từ < -2SD đến

Từ < -3SD Từ < -3SD Từ < -3SD

WHO đã cung cấp bảng phân loại để đánh giá ý nghĩa sức khỏe cộng đồng của tình trạng thiếu dinh dưỡng, đặc biệt là ở mức độ nặng của SDD.

Bảng 1.3 Phân loại mức độ thiếu dinh dưỡng ở cộng đồng [84]

Chỉ tiêu Mức độ thiếu dinh dưỡng (%)

Thấp Trung bình Cao Rất cao

SDD thể nhẹ cân (W/A) < 10 10 - 19 20 - 29 ≥ 30 SDD thể thấp còi (H/A) < 20 20 - 29 30 - 39 ≥ 40 SDD thể gầy còm (W/H) < 5 5 - 9 10 - 14 ≥ 15

Thực trạng SDD thấp còi trẻ em trên Thế giới và Việt Nam

1.2.1 Thực trạng suy dinh dưỡng thấp còi trẻ em dưới 5 tuổi trên Thế giới

Mặc dù tình trạng suy dinh dưỡng (SDD) ở trẻ em dưới 5 tuổi đã có nhiều cải thiện trong những năm qua, tỷ lệ SDD vẫn còn cao, đặc biệt tại các nước đang phát triển Theo ước tính của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF) và Ngân hàng Thế giới (WB), từ năm 2000 đến năm 2016, vấn đề này vẫn cần được chú trọng và giải quyết.

Từ năm 2016, tình trạng suy dinh dưỡng (SDD) ở trẻ em dưới 5 tuổi đã có sự cải thiện đáng kể, với tỷ lệ trẻ thấp còi giảm từ 32,7% xuống còn 22,9%, tương đương với 154,8 triệu trẻ Theo báo cáo năm 2012 của UNICEF, WHO và Ngân hàng Thế giới, tỷ lệ SDD thấp còi đã giảm từ 35,5% trong năm trước đó.

Từ năm 1990 đến 2011, tỷ lệ suy dinh dưỡng (SDD) thể nhẹ cân đã giảm từ 36% xuống còn 16%, tương đương với việc giảm số trẻ bị SDD từ 253 triệu xuống 165 triệu Tương tự, tỷ lệ SDD gầy còm cũng giảm từ 11% xuống 8%, với số trẻ giảm từ 58 triệu xuống 52 triệu Theo báo cáo của UNICEF năm 2013, khoảng 165 triệu trẻ em dưới 5 tuổi, chiếm hơn 26%, vẫn bị thấp còi vào năm 2011 Mặc dù số trẻ dưới 5 tuổi tử vong hàng năm đã giảm so với những năm 1990, vẫn có khoảng 7 triệu trẻ em chết mỗi năm, trong đó 2,3 triệu trẻ em tử vong do các nguyên nhân liên quan đến SDD.

Báo cáo của WHO chỉ ra rằng, tính đến năm 2015, có 156 triệu trẻ em toàn cầu bị suy dinh dưỡng thấp còi, chiếm khoảng 23% tổng số trẻ dưới 5 tuổi Mặc dù tỷ lệ trẻ em bị thấp còi vẫn cao, nhưng phân bố không đồng đều giữa các khu vực trên thế giới Phân tích dữ liệu cho thấy thấp còi vẫn là một vấn đề y tế công cộng nghiêm trọng, cản trở sự phát triển thể chất và tinh thần của trẻ, đồng thời ảnh hưởng đến sự sống còn của các em Các báo cáo từ UNICEF và WHO nhấn mạnh rằng gánh nặng suy dinh dưỡng thấp còi tập trung chủ yếu ở châu Phi và châu Á, với khu vực Sub-Saharan châu Phi và Nam Á chiếm khoảng 3/4 tổng số trẻ em thấp còi toàn cầu.

Báo cáo của UNICEF (2017) chỉ ra rằng tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi ở trẻ em dưới 5 tuổi trên toàn cầu đã giảm từ 32,7% (tương đương 198,4 triệu trẻ) vào năm 2000 xuống còn 22,9% (tương đương 154,8 triệu trẻ) vào năm 2016 Sự phân bố tỷ lệ thấp còi cho thấy khu vực Đông Phi có tỷ lệ cao nhất là 26,7%, tiếp theo là Trung Phi 32,5% và Tây Phi 31,5% Khu vực Nam Á ghi nhận tỷ lệ 34% và Đông Nam Á là 25,8%, trong khi tỷ lệ ở Bắc Mỹ chỉ là 2,3%.

Tỉ lệ suy dinh dưỡng thấp còi ở trẻ em dưới 5 tuổi tại Mỹ là 9,5% Tình trạng này dao động khác nhau giữa các vùng, nhưng chủ yếu tập trung tại châu Phi và châu Á Theo báo cáo của UNICEF năm 2016, có hơn một nửa (56,0%) trẻ em dưới 5 tuổi ở châu Á và hơn một phần ba (38,0%) trẻ em dưới 5 tuổi ở châu Phi bị suy dinh dưỡng thấp còi.

Hình 1.1 Tỉ lệ suy dinh dưỡng thấp còi ở một số khu vực trên thế giới [79]

Tỉ lệ suy dinh dưỡng thấp còi ở trẻ em dưới 5 tuổi đã có xu hướng giảm dần ở hầu hết các khu vực trong những năm qua Theo nghiên cứu của Stevens đăng trên tạp chí Lancet năm 2012, tại các nước đang phát triển, tỉ lệ này đã giảm từ 47% vào năm 1985 xuống còn 29,9% vào năm 2011 Dự đoán đến năm 2020, tỉ lệ suy dinh dưỡng thấp còi toàn cầu sẽ tiếp tục giảm, với các nước đang phát triển dự kiến sẽ chỉ còn khoảng 16,3% so với 29,8% năm 2000 Tuy nhiên, khu vực biển Caribbean (không bao gồm Australia và New Zealand) và châu Phi vẫn ghi nhận tỉ lệ giảm chậm hoặc không giảm.

Tại châu Á, nhiều nghiên cứu đã chỉ ra tỉ lệ trẻ em dưới 5 tuổi thấp còi vẫn ở mức cao, đặc biệt là ở Lào và Ấn Độ Nghiên cứu của Phengxay M và cộng sự năm 2007 cho thấy tỉ lệ trẻ em thấp còi đạt 54,6%, nhẹ cân 35% và gầy còm 6% Đặc biệt, nhóm trẻ 12 – 23 tháng tuổi thuộc dân tộc Khmu có tỉ lệ thấp còi cao tới 65% - 66% và tỉ lệ nhẹ cân từ 40% - 45% Tương tự, một nghiên cứu tại vùng nông thôn Ấn Độ trên 673 trẻ em cũng cho thấy tỉ lệ suy dinh dưỡng thấp còi lên tới 39,2%.

Nghiên cứu tại thung lũng Milot, Haiti cho thấy tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi là 14,8%, trong khi tỷ lệ suy dinh dưỡng thể nhẹ cân là 16,1% và tỷ lệ suy dinh dưỡng thể gầy còm chưa được công bố.

Nghiên cứu của Amare Desalegne và cộng sự (2015) cho thấy tỷ lệ suy dinh dưỡng (SDD) chung ở Bure Town, Bắc Ethiopia là 35,5%, trong đó SDD thấp còi chiếm 24,9%, SDD thể nhẹ cân 14,3% và SDD thể gầy còm 11,1% Tương tự, một nghiên cứu tại Tanzania (2017) cho thấy tỷ lệ SDD thấp còi là 41,9%, SDD thể nhẹ cân 46,0% và SDD thể gầy còm 24,7% Đáng chú ý, có 33,0% trẻ em mắc cả SDD thấp còi và nhẹ cân, và 12,0% mắc cả ba thể loại suy dinh dưỡng.

Nghiên cứu tại vùng Sindh, Pakistan năm 2016 cho thấy tỉ lệ suy dinh dưỡng thấp còi là 48,2%, thể nhẹ cân 39,5% và thể gầy còm 16,2% Tại Iran, báo cáo năm 2018 ghi nhận tỉ lệ suy dinh dưỡng thấp còi là 12,4%, thể nhẹ cân 10,5% và thể gầy còm 7,8% Ở Bắc Sudan, nghiên cứu trên 1447 trẻ em dưới 5 tuổi cho thấy tỉ lệ suy dinh dưỡng thấp còi là 42,5%, thể nhẹ cân 32,7% và thể gầy còm 21,0% Cuối cùng, báo cáo tổng quan tại Ethiopia năm 2017 cho biết tỉ lệ suy dinh dưỡng thấp còi là 42,0%, thể nhẹ cân 33,0% và thể gầy còm 15,0%.

1.2.2 Thực trạng suy dinh dưỡng thấp còi ở trẻ em dưới 5 tuổi tại Việt Nam

SDD thấp còi ở trẻ em Việt Nam là một thách thức lớn cho sức khỏe cộng đồng và sự phát triển kinh tế xã hội Trong những năm qua, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu trong việc giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng, nhưng vẫn cần nỗ lực hơn nữa để cải thiện tình hình này.

Tình trạng suy dinh dưỡng (SDD) ở trẻ em, đặc biệt là SDD thấp còi, đã có những cải thiện đáng kể tại Việt Nam Tỷ lệ SDD thấp còi ở trẻ dưới 5 tuổi đã giảm từ 56,5% vào năm 1990 xuống 36,5% vào năm 2000, và tiếp tục giảm xuống 31,9% vào năm 2009 Đến năm 2010, tỷ lệ này là 29,3%, giảm xuống còn 24,9% vào năm 2014 và 24,2% vào năm 2015 Mặc dù có sự tiến bộ, tình trạng SDD thấp còi vẫn là một vấn đề cần được chú ý.

Mỗi năm, tỷ lệ suy dinh dưỡng (SDD) thấp còi ở trẻ 5 tuổi tại nước ta giảm dần với mức giảm từ 1,0% đến 2,0% Tuy nhiên, nhìn chung, tỷ lệ này vẫn ở mức trung bình theo tiêu chuẩn của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO).

Trong thời gian qua, tình trạng suy dinh dưỡng thấp còi ở Việt Nam đã có xu hướng giảm ở cả 8 vùng sinh thái, nhưng không đồng đều, đặc biệt là ở các vùng khó khăn như Tây Nguyên, miền trung phía bắc và vùng núi phía Bắc, tạo ra sự mất cân bằng giữa người nghèo và người không nghèo Tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi cao nhất ghi nhận ở Tây Nguyên, giảm từ gần 50% vào năm 2002 xuống khoảng 35% vào năm 2011 Các vùng Tây Bắc, Đông Bắc và Bắc Trung Bộ cũng có tỷ lệ cao, giảm chậm từ khoảng 40% năm 2002 xuống 30-35% năm 2011 Trong khi đó, các vùng Duyên hải Nam Trung Bộ, Đồng Bằng Sông Cửu Long, Đồng Bằng Sông Hồng và Đông Nam Bộ mặc dù có tỷ lệ khác biệt vào năm 2002 (26-34%), nhưng đến năm 2011 đã xấp xỉ bằng nhau ở mức trên dưới 25% Đặc biệt, tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi tại Đông Nam Bộ có sự biến động lớn, giảm đột ngột xuống 21,6% vào năm 2005 và 19,2% vào năm 2010.

Biểu đồ 1.1 Diễn biến tình trạng suy dinh dưỡng thấp còi trẻ em dưới 5 tuổi tại Việt Nam, giai đoạn 2000 - 2017 [10], [46]

Yếu tố liên quan đến SDD thấp còi ở trẻ em dưới 5 tuổi

- Liên quan giữa giới tính của trẻ với SDD thấp còi:

Hiện nay, vẫn còn nhiều tranh cãi về giới tính của trẻ liên quan đến suy dinh dưỡng (SDD) Một số tác giả cho rằng trẻ trai thường hoạt động nhiều hơn và tiêu thụ năng lượng cao hơn, dẫn đến việc ăn nhiều hơn so với trẻ gái Tuy nhiên, các nghiên cứu lại cho thấy sự khác biệt Chẳng hạn, nghiên cứu của Biswas S và cộng sự (2010) tại vùng nông thôn Ấn Độ chỉ ra rằng trẻ gái có nguy cơ SDD cao hơn trẻ trai.

Nghiên cứu của M và cs (2007) chỉ ra rằng bé trai có xu hướng thấp còi và nhẹ cân hơn bé gái Tương tự, nghiên cứu của Abera Lamirot trên 398 trẻ từ 6 đến 59 tháng tuổi cho thấy có mối liên quan giữa giới tính và tình trạng suy dinh dưỡng (SDD) thể thấp còi, với bé trai có nguy cơ SDD thể thấp còi cao gấp 1,9 lần so với bé gái (95% CI: 1,10 - 3,32).

Đói nghèo có mối liên hệ chặt chẽ với tình trạng suy dinh dưỡng (SDD) do ảnh hưởng của nguồn lương thực thực phẩm mà gia đình có thể cung cấp Những hộ gia đình có trình độ học vấn thấp thường gặp khó khăn trong việc tiếp cận thông tin, kỹ năng và dịch vụ chăm sóc sức khỏe, từ đó tăng nguy cơ SDD ở trẻ em Nhiều nghiên cứu đã khẳng định rằng tình trạng kinh tế gia đình có ảnh hưởng lớn đến sức khỏe dinh dưỡng của trẻ, với những hộ có kinh tế trung bình và giàu có nguy cơ mắc SDD thấp hơn 0,66 lần so với hộ nghèo (95%CI: 0,45 - 0,95, p).

Nghiên cứu cho thấy trẻ em từ hộ nghèo có nguy cơ mắc suy dinh dưỡng thấp còi cao hơn so với trẻ em từ hộ không nghèo, với tỷ lệ gấp 2,892 lần (p < 0,001) ở Bangladesh Một nghiên cứu khác trên 389 trẻ em của Tariku E.Z và cộng sự (2018) chỉ ra rằng trẻ sống trong hộ nghèo có nguy cơ mắc suy dinh dưỡng thấp còi cao hơn 2,15 lần (95%CI: 1,00 - 4,60), trong khi trẻ từ hộ trung bình có nguy cơ cao hơn 2,90 lần (95%CI: 1,39 - 6,04) so với trẻ từ hộ giàu.

Nghề nghiệp của bố mẹ là yếu tố quyết định thu nhập gia đình, ảnh hưởng đến đói nghèo và suy dinh dưỡng Nghiên cứu của Mazengia Amare Lisanu và cộng sự (2018) cho thấy trẻ em có bố làm nông dân có nguy cơ suy dinh dưỡng thấp còi cao gấp 5,23 lần so với trẻ em khác Tương tự, nghiên cứu của Lê Thị Hương và cộng sự (2014) cho thấy tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em có mẹ làm cán bộ viên chức chỉ chiếm 3,8%, thấp hơn so với 13,6% ở trẻ có mẹ làm nghề khác, với mối liên quan có ý nghĩa thống kê (p < 0,05) Các yếu tố văn hóa xã hội và sinh thái cũng có tác động đến đói nghèo và suy dinh dưỡng trẻ em Nhiều yếu tố kinh tế xã hội ảnh hưởng đến sự phát triển chiều cao, làm tăng nguy cơ suy dinh dưỡng thấp còi Nghiên cứu của Lê Cảnh Dũng và cộng sự (2011) chỉ ra rằng tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em cao ở đồng bằng sông Cửu Long chủ yếu do nghèo đói và phát triển nông thôn kém.

- Liên quan giữa gia đình đông con, mồ côi cha mẹ với SDD:

Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra mối liên hệ chặt chẽ giữa tình trạng đông con trong gia đình và tình trạng suy dinh dưỡng (SDD) ở trẻ em Đặc biệt, các hộ gia đình nghèo, nhất là ở vùng nông thôn và miền núi, thường có xu hướng sinh nhiều con, dẫn đến chế độ dinh dưỡng và khẩu phần ăn của trẻ không đảm bảo Gia đình đông con, hoặc có sinh đôi, sinh ba, tạo ra gánh nặng trong việc chăm sóc và nuôi dưỡng trẻ, đặc biệt tại các nước đang phát triển Thiếu sự chăm sóc tốt về dinh dưỡng và thời gian chăm sóc khiến trẻ dễ bị SDD Nghiên cứu của John Jomon và cộng sự (2018) đã chứng minh mối liên quan giữa số lượng con và thứ tự sinh với nguy cơ mắc SDD ở trẻ em Nghiên cứu trên 610 trẻ của Wasihun A.G và cộng sự (2018) cho thấy gia đình có ≤ 4 người có nguy cơ mắc SDD thể gầy còm thấp hơn 0,56 lần (95%CI: 0,368 - 0.959) so với các gia đình đông con.

- Liên quan giữa bà mẹ có trình độ học vấn thấp và kiến thức chăm sóc trẻ kém với SDD:

Chăm sóc phụ nữ và trẻ em có vai trò quan trọng trong việc giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng (SDD) ở Việt Nam Trẻ em được nuôi dưỡng bởi những bà mẹ có trình độ học vấn cao thường nhận được sự chăm sóc dinh dưỡng tốt hơn Trình độ học vấn của mẹ ảnh hưởng lớn đến tình trạng dinh dưỡng của trẻ; những bà mẹ mù chữ hoặc có trình độ văn hóa thấp gặp khó khăn trong việc nâng cao chất lượng cuộc sống và thực hiện các hành vi chăm sóc sức khỏe cho gia đình Thiếu kiến thức và kỹ năng nuôi con do trình độ học vấn thấp làm tăng nguy cơ SDD ở trẻ em Hơn nữa, các bà mẹ không nhận thức được các kiến thức quan trọng về sức khỏe như thai nghén, kế hoạch hóa gia đình và dinh dưỡng, dẫn đến tăng nguy cơ mắc bệnh dinh dưỡng và SDD cho trẻ Nghiên cứu cho thấy, nếu bà mẹ được hướng dẫn nuôi con, tỷ lệ SDD ở trẻ sẽ thấp hơn so với những bà mẹ không được hướng dẫn (p < 0,05).

Nghiên cứu chỉ ra rằng trình độ học vấn của cha mẹ, chỉ số giàu có, chỉ số khối cơ thể (BMI) của mẹ và chăm sóc trước sinh đều có mối liên hệ đáng kể với tình trạng suy dinh dưỡng ở trẻ em.

Nghiên cứu của Biswas S và cộng sự (2010) chỉ ra rằng trình độ học vấn của cả mẹ và cha có mối liên quan thống kê đáng kể đến tỉ lệ suy dinh dưỡng (SDD) ở trẻ gái Tương tự, nghiên cứu của Kang Y và cộng sự (2018) trên 1506 trẻ cho thấy nguy cơ mắc SDD thấp còi ở trẻ giảm khi trình độ học vấn của mẹ tăng lên Đặc biệt, nghiên cứu của Mazengia Amare Lisanu và cộng sự (2018) với 802 trẻ cho thấy trẻ có mẹ mù chữ có nguy cơ mắc SDD thấp còi cao gấp 1,81 lần so với trẻ có mẹ có trình độ học vấn cao hơn.

- Liên quan giữa tập quán, thói quen chăm sóc trẻ với SDD:

Chăm sóc của mẹ đối với con có mối liên hệ chặt chẽ với tình trạng dinh dưỡng (SDD) của trẻ, bao gồm việc cho trẻ ăn quá sớm hoặc quá muộn và việc sử dụng các loại thức ăn truyền thống có giá trị dinh dưỡng hạn chế Các yếu tố văn hóa và tập quán chăm sóc tại mỗi vùng miền, dân tộc cũng ảnh hưởng đến sự phát triển của trẻ Những phong tục như cho trẻ sơ sinh bú sớm và bú kéo dài có thể mang lại lợi ích cho sức khỏe, trong khi nhiều địa phương lại có thói quen cho trẻ ăn dặm sớm và cai sữa trước thời hạn Thiếu sữa mẹ, bú sữa mẹ lần đầu sau 6 giờ, và thời gian cai sữa trước 18 tháng đều là những yếu tố góp phần vào tình trạng SDD ở trẻ em.

+ Nuôi con bằng sữa mẹ

Sữa mẹ là nguồn dinh dưỡng tối ưu cho trẻ sơ sinh, đặc biệt trong 6 tháng đầu đời, giúp trẻ hấp thu và chuyển hóa tốt nhất Nghiên cứu tại Nepal (2017) chỉ ra rằng trẻ không được bú mẹ hoàn toàn có nguy cơ mắc suy dinh dưỡng cấp tính cao gấp 2,19 lần Tại Việt Nam, nghiên cứu cho thấy trẻ không bú sữa mẹ có tỷ lệ suy dinh dưỡng cao gấp 1,9 lần so với trẻ bú sữa mẹ Mặc dù 80,8% bà mẹ có kiến thức đúng về nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng, chỉ 12,2% thực hành đúng Điều này cho thấy sự cần thiết phải nâng cao nhận thức và thực hành nuôi con bằng sữa mẹ để cải thiện sức khỏe trẻ em.

+ Nuôi con ăn bổ sung

Theo khuyến cáo, thời điểm bắt đầu cho trẻ ăn bổ sung là khi trẻ được 6 tháng tuổi Một bữa ăn bổ sung hợp lý cho trẻ cần đảm bảo sự cân đối giữa 4 nhóm thực phẩm với tỷ lệ Protein/Lipit/Gluxit là 1/1/4.

Việc giới thiệu 5 nhóm rau, củ, quả và tập cho trẻ thích nghi dần với các loại thức ăn mới theo nguyên tắc từ ít đến nhiều, từ lỏng đến đặc là rất quan trọng Chất lượng bữa ăn ảnh hưởng lớn đến sự phát triển thể chất của trẻ em Nghiên cứu của WHO chỉ ra rằng trẻ bắt đầu ăn bổ sung sữa hộp trong tuần đầu có nguy cơ tiêu chảy cao gấp 3 lần và nguy cơ nhập viện cao gấp 5 lần so với trẻ chỉ bú sữa mẹ Trẻ cai sữa trong tuần đầu sau sinh có nguy cơ tiêu chảy cao gấp 5 lần và nguy cơ nhập viện do tiêu chảy cao gấp 12 lần Nghiên cứu của Nguyễn Thị Hải Anh cho thấy trẻ ăn bổ sung không hợp lý có nguy cơ suy dinh dưỡng (SDD) tăng 2,7 - 4,0 lần Theo nghiên cứu của Lê Phán, 68,8% trẻ ăn bổ sung trước 4 tháng tuổi bị SDD, trong khi 59,8% trẻ SDD do không đủ 4 nhóm thực phẩm hàng ngày Nhiều nghiên cứu đã khẳng định hậu quả của việc ăn bổ sung sớm đối với tình trạng SDD và bệnh tật ở trẻ em Thực tế, tình trạng cho trẻ ăn bổ sung sớm đang phổ biến ở Việt Nam, với tỷ lệ từ 30,0% đến 70,0% theo báo cáo của Lê Danh Tuyên Nghiên cứu của Hoàng Khải Lập tại Thái Nguyên cho thấy 62,6% bữa ăn bổ sung của trẻ không đủ 4 nhóm dinh dưỡng, làm tăng nguy cơ SDD gấp 2,3 lần.

Việc cung cấp chất dinh dưỡng là yếu tố quan trọng cho sự phát triển thể chất của trẻ em, trong khi cách chăm sóc trẻ lại ảnh hưởng đến sự phát triển tinh thần và đảm bảo sự phát triển toàn diện Trẻ em cần được chăm sóc chu đáo về vệ sinh, tiêm chủng mở rộng, theo dõi tăng trưởng, nhận được tình thương yêu, được học hành và được chăm sóc dinh dưỡng đúng cách khi ốm, đặc biệt trong các trường hợp như tiêu chảy và nhiễm khuẩn hô hấp.

- Liên quan giữa trẻ mắc các bệnh nhiễm khuẩn với SDD:

Trẻ nhỏ thường gặp khó khăn trong việc ăn đủ lượng và cân đối dinh dưỡng, đồng thời dễ bị nhiễm khuẩn do tiếp xúc với môi trường Khi trẻ bị nhiễm khuẩn, nguy cơ suy dinh dưỡng (SDD) tăng cao Nghiên cứu cho thấy, trẻ bị ốm trong thời gian khảo sát có nguy cơ bị SDD thể nhẹ cân cao gấp 4,2 lần so với trẻ khỏe mạnh (95%CI: 2,3 - 7,6, p < 0,05) [60] Nghiên cứu cắt ngang của Sulaiman A.A và cộng sự (2018) đã chỉ ra mối liên hệ này.

ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Đối tượng nghiên cứu

- Trẻ em người dân tộc Mông từ 0 đến

Ngày đăng: 29/06/2021, 18:54

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Nguyễn Thị Hải Anh, Lê Thị Hợp (2006), "Tình trạng dinh dưỡng và một số yếu tố liên quan đến suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi tỉnh Lào Cai năm 2005", Tạp chí Dinh dưỡng và thực phẩm, 2 (3+4), tr. 29-35 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tình trạng dinh dưỡng và một số yếu tố liên quan đến suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi tỉnh Lào Cai năm 2005
Tác giả: Nguyễn Thị Hải Anh, Lê Thị Hợp
Năm: 2006
2. Nguyễn Văn Bằng (2018), Thực trạng chương trình phòng chống suy dinh dưỡng ở trẻ em dưới 5 tuổi tại huyện Bắc Mê tỉnh Hà Giang, Chuyên đề tốt nghiệp Bác sĩ chuyên khoa I, Trường Đại học Y Dược, Đại học Thái Nguyên Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thực trạng chương trình phòng chống suy dinh dưỡng ở trẻ em dưới 5 tuổi tại huyện Bắc Mê tỉnh Hà Giang
Tác giả: Nguyễn Văn Bằng
Năm: 2018
3. Bộ môn Nhi - Trường Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh (2009), Bệnh suy dinh dưỡng, Nhi khoa chương trình đại học, Nhà xuất bản Y học, Thành phố Hồ Chí Minh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bệnh suy dinh dưỡng
Tác giả: Bộ môn Nhi - Trường Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh
Nhà XB: Nhà xuất bản Y học
Năm: 2009
5. Bộ Y tế (2009), Hướng dẫn quốc gia về các dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản, Bộ Y tế, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hướng dẫn quốc gia về các dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản
Tác giả: Bộ Y tế
Năm: 2009
6. Bộ Y tế (2015), Bệnh suy dinh dưỡng do thiếu Protein - năng lượng, Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị một số bệnh thường gặp ở trẻ em (Ban hành kèm theo Quyết định số 3312/QĐ-BYT ngày 07/08/2015 của Bộ trưởng Bộ Y tế), Bộ Y tế, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bệnh suy dinh dưỡng do thiếu Protein - năng lượng
Tác giả: Bộ Y tế
Năm: 2015
7. Bộ Y tế (2015), Nuôi dưỡng trẻ nhỏ, Tài liệu dùng cho nhân viên y tế thôn bản và công tác viên dinh dưỡng, Bộ Y tế, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nuôi dưỡng trẻ nhỏ
Tác giả: Bộ Y tế
Năm: 2015
9. Bộ Y tế (2018), Quyết định số 718/QĐ-BYT: Quyết định Phê duyệt Kế hoạch hành động Quốc gia về dinh dưỡng đến năm 2020, Bộ Y tế, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Quyết định số 718/QĐ-BYT: Quyết định Phê duyệt Kế hoạch hành động Quốc gia về dinh dưỡng đến năm 2020
Tác giả: Bộ Y tế
Năm: 2018
10. Bộ Y tế, Nhóm đối tác y tế (2015), Báo cáo chung tổng quan ngành y tế năm 2014: Tăng cường dự phòng và kiểm soát bệnh không lây nhiễm, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Báo cáo chung tổng quan ngành y tế năm 2014: Tăng cường dự phòng và kiểm soát bệnh không lây nhiễm
Tác giả: Bộ Y tế, Nhóm đối tác y tế
Nhà XB: Nhà xuất bản Y học
Năm: 2015
11. Ngọc Xuân Chấn (2011), Thực trạng suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi và một số yếu tố liên quan tại xã Yên Hà, huyện Quang Bình, tỉnh Hà Giang năm 2011, Chuyên đề tốt nghiệp bác sỹ chuyên khoa I, Trường Đại học Y Dược, Đại học Thái Nguyên Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thực trạng suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi và một số yếu tố liên quan tại xã Yên Hà, huyện Quang Bình, tỉnh Hà Giang năm 2011
Tác giả: Ngọc Xuân Chấn
Năm: 2011
12. Cục thống kê tỉnh Hà Giang (2018), Niên giám thống kê tỉnh Hà Giang năm 2017, Cục thống kê tỉnh Hà Giang, Hà Giang Sách, tạp chí
Tiêu đề: Niên giám thống kê tỉnh Hà Giang năm 2017
Tác giả: Cục thống kê tỉnh Hà Giang
Năm: 2018
13. Đinh Đạo (2014), Nghiên cứu thực trạng và kết quả can thiệp phòng chống suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi người dân tộc thiểu số tại huyện Bắc Trà My tỉnh Quảng Nam, Luận án Tiến sĩ Y học, Trường Đại học Y Dược, Đại học Huế Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghiên cứu thực trạng và kết quả can thiệp phòng chống suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi người dân tộc thiểu số tại huyện Bắc Trà My tỉnh Quảng Nam
Tác giả: Đinh Đạo
Năm: 2014
14. Trần Văn Điển (2008), Thực trạng và một số yếu tố nguy cơ của suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi ở Núi Đồi - Kiến Thụy- Hải Phòng năm 2008, Đề tài tốt nghiệp Bác sĩ chuyên khoa I, Trường Đại học Y Dược Hải Phòng Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thực trạng và một số yếu tố nguy cơ của suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi ở Núi Đồi - Kiến Thụy- Hải Phòng năm 2008
Tác giả: Trần Văn Điển
Năm: 2008
15. Lê Cảnh Dũng, Võ Văn Tuấn, Nguyễn Văn Sánh, et al. (2011), "Các yếu tố ảnh hưởng đến suy dinh dưỡng trẻ em ở vùng sản xuất nông nghiệp ở Đồng bằng sông Cửu Long", Tạp chí Khoa học, 20a, tr. 28-38 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Các yếu tố ảnh hưởng đến suy dinh dưỡng trẻ em ở vùng sản xuất nông nghiệp ở Đồng bằng sông Cửu Long
Tác giả: Lê Cảnh Dũng, Võ Văn Tuấn, Nguyễn Văn Sánh, et al
Năm: 2011
16. Lương Thị Thu Hà (2008), Nghiên cứu thực trạng suy dinh dưỡng, thiếu Protein, năng lượng ở trẻ em dươi 5 tuổi tại hai xã của huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên, Luận văn Thạc sĩ Y học dự phòng, Trường Đại học Y Dược, Đại học Thái Nguyên Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghiên cứu thực trạng suy dinh dưỡng, thiếu Protein, năng lượng ở trẻ em dươi 5 tuổi tại hai xã của huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên
Tác giả: Lương Thị Thu Hà
Năm: 2008
17. Nguyễn Thanh Hà (2011), Hiệu quả bổ sung kẽm và Sprinkles đa vi chất trên trẻ em 6 - 36 tháng tuổi suy dinh dưỡng thấp còi tại huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh, Luận án Tiến sĩ Dinh dưỡng cộng đồng, Viện Dinh dưỡng Quốc gia, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hiệu quả bổ sung kẽm và Sprinkles đa vi chất trên trẻ em 6 - 36 tháng tuổi suy dinh dưỡng thấp còi tại huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh
Tác giả: Nguyễn Thanh Hà
Năm: 2011
18. Đỗ Hàm (2011), Phương pháp nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực y học, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Phương pháp nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực y học
Tác giả: Đỗ Hàm
Nhà XB: Nhà xuất bản Y học
Năm: 2011
19. Lê Văn Hợi, Nguyễn Công Khẩn, Nguyễn Văn Hùng (2005), Báo cáo nghiên cứu dinh dưỡng và sức khỏe của trẻ thơ Việt Nam, Ủy ban dân số gia đình và trẻ em Việt Nam, Ngân hàng phát triển Châu Á, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Báo cáo nghiên cứu dinh dưỡng và sức khỏe của trẻ thơ Việt Nam
Tác giả: Lê Văn Hợi, Nguyễn Công Khẩn, Nguyễn Văn Hùng
Năm: 2005
20. Hoàng Thị Huế (2010), Đánh giá chương trình phòng chống suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi tại xã Dương Quang, Gia Lâm, Hà Nội giai đoạn 2008 - 2010, Luận văn Thạc sĩ Y tế công cộng, Trường Đại học Y tế công cộng, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đánh giá chương trình phòng chống suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi tại xã Dương Quang, Gia Lâm, Hà Nội giai đoạn 2008 - 2010
Tác giả: Hoàng Thị Huế
Năm: 2010
22. Trần Thị Lan (2013), Hiệu quả của bổ sung đa vi chất và tẩy giun ở trẻ 12 - 36 tháng tuổi suy dinh dưỡng thấp còi, dân tộc Vân Kiều và Pakoh huyện Dakrông, tỉnh Quảng Trị, Luận án Tiến sĩ Dinh dưỡng, Viện Dinh dưỡng Quốc gia, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hiệu quả của bổ sung đa vi chất và tẩy giun ở trẻ 12 - 36 tháng tuổi suy dinh dưỡng thấp còi, dân tộc Vân Kiều và Pakoh huyện Dakrông, tỉnh Quảng Trị
Tác giả: Trần Thị Lan
Năm: 2013
23. Hoàng Khải Lập, Hà Xuân Sơn, Nguyễn Minh Tuấn (2006), "Hiệu quả cải thiện tình trạng dinh dưỡng trẻ em bằng giáo dục dinh dưỡng cộng đồng cho các bà mẹ tại xã Nga My, huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên", Tạp chí Dinh dưỡng và thực phẩm, 2 (3+4), tr. 36-42 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hiệu quả cải thiện tình trạng dinh dưỡng trẻ em bằng giáo dục dinh dưỡng cộng đồng cho các bà mẹ tại xã Nga My, huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên
Tác giả: Hoàng Khải Lập, Hà Xuân Sơn, Nguyễn Minh Tuấn
Năm: 2006

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w