TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
Tình hình nghiên cứu sử dụng cây thuốc trên thế giới
Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), 80% dân số toàn cầu phụ thuộc vào y học cổ truyền, chủ yếu là thuốc từ cây cỏ Sự quan tâm đến hệ thống y học cổ truyền và thuốc dược thảo đã gia tăng trong hai thập kỷ qua, đặc biệt tại các nước phát triển và đang phát triển Thị trường dược thảo toàn cầu ước tính đạt 80 tỷ USD vào năm 2002, chủ yếu tập trung ở Mỹ, châu Âu và châu Á Các quốc gia đang tiến hành điều tra và tái điều tra nguồn tài nguyên dược liệu trong kế hoạch bảo tồn đa dạng sinh học Các nước có nền y học cổ truyền như Trung Quốc và Ấn Độ thường xuyên thực hiện các kế hoạch này Hiện có hơn 35.000 loài thực vật được dùng làm thuốc, với khoảng 2.500 loài được buôn bán Tuy nhiên, 90% thảo dược được thu hái từ tự nhiên và ước tính 50% đã bị thu hoạch cạn kiệt Chỉ một số ít loài được trồng, và phương pháp trồng truyền thống đang dần bị thay thế bởi các phương pháp công nghiệp, ảnh hưởng đến chất lượng nguyên liệu.
Ghi chép đầu tiên về cây thuốc có niên đại hơn 5.000 năm, được tìm thấy trên các bản khắc đất sét của người Sumeria ở Mesopotamia cổ đại (Iraq ngày nay) Những tài liệu này đề cập đến việc sử dụng cây Carum (Carum carvi) và cây Húng tây (Sweet basil) trong toa thuốc Ngoài ra, các nhà khảo cổ học cũng phát hiện rễ cây Thục quỳ (Althaea officinalis), cây Lan dạ hương (Hyacinthus sp.) và cây Cỏ thi (Achillea millefolium) xung quanh bộ xương người thuộc thời kỳ đồ đá tại Iraq.
Kiến thức về thảo mộc của người Hy Lạp và Roma phản ánh nền văn minh phát triển từ sớm của họ, chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ Babylon, Ai Cập, Ấn Độ và Trung Hoa Hippocrates (460-377 TCN), một thầy thuốc nổi tiếng người Hy Lạp, được xem là người sáng lập y học hiện đại và có nhiều đóng góp quan trọng trong việc nghiên cứu và ứng dụng thảo dược.
"Cha đẻ của nền y học hiện đại" từng là một nhà nghiên cứu về thảo mộc và luôn nhấn mạnh tầm quan trọng của chế độ ăn uống trong sức khỏe Ông đã nói: "Hãy để thức ăn của bạn là thuốc và chính thuốc là thức ăn của bạn."
Vào năm 2735 trước công nguyên, hoàng đế Thần Nông của Trung Hoa đã biên soạn cuốn “Mục lục thuốc thảo mộc”, ghi chép lại 365 vị thuốc đông y Ông đã chỉ ra công dụng của cây Ma hoàng (Ephedra sp.) trong việc điều trị suy hô hấp, cùng với nhiều loại cây thuốc khác vẫn được sử dụng hiện nay như cây Gai mèo (Cannabis sp.) để chống nôn, cây Đại phong tử (Hydnocarpus kurzii) trong điều trị bệnh phong, và cây Anh túc (Papaver somniferum) có mặt trong các loại thuốc giảm đau.
Thuật ngữ “Cây thuốc” đã trở nên quen thuộc và cần thiết cho con người trong việc chăm sóc sức khỏe từ xa xưa Lịch sử sử dụng cây thuốc bắt nguồn từ thời kỳ săn bắt và hái lượm, khi con người đã biết lựa chọn các loại cây cỏ an toàn và có tác dụng chữa bệnh Hầu hết các loài cây thuốc được sử dụng theo phương pháp truyền thống trong các cộng đồng, trong khi hàng trăm hoạt chất tự nhiên từ cây cỏ hiện nay đang được nghiên cứu để phát triển thuốc hiện đại có hiệu quả cao trong việc chữa bệnh Xu hướng này vẫn tiếp tục được thúc đẩy và nghiên cứu ở nhiều quốc gia.
Tình hình nghiên cứu sử dụng cây thuốc ở Việt Nam
Việt Nam là quê hương của 54 dân tộc anh em, mỗi dân tộc đều có kinh nghiệm quý báu trong việc sử dụng cây cỏ tự nhiên để chữa bệnh và bảo vệ sức khỏe Y học cổ truyền Việt Nam đã phát triển nhiều bài thuốc và cây thuốc hiệu quả từ lâu, được áp dụng rộng rãi trong dân gian Qua thời gian, những kinh nghiệm này đã được hệ thống hóa thành các cuốn sách giá trị, góp phần gìn giữ và phát huy di sản y học truyền thống của dân tộc.
Việt Nam sở hữu tiềm năng lớn về cây thuốc trong khu vực Đông Nam Á, với hơn 12.000 loài thực vật, trong đó gần 4.000 loài được sử dụng làm thuốc Sự đa dạng này không chỉ thể hiện ở số lượng loài mà còn ở sự phân bố rộng khắp cả nước, bao gồm nhiều loài quý hiếm Tuy nhiên, mặc dù có tiềm năng to lớn, việc phát triển và sử dụng dược liệu trong nước vẫn chưa được khai thác triệt để, mặc cho các hoạt động nghiên cứu và điều tra cây thuốc đã diễn ra trên toàn quốc qua nhiều giai đoạn.
Từ thời vua Hùng Vương (2900 năm TCN), qua các văn tự Hán Nôm còn sót lại và truyền thuyết, tổ tiên ta đã biết sử dụng cây cỏ để làm gia vị và chữa bệnh Theo dòng lịch sử, y học cổ truyền Việt Nam cùng với kinh nghiệm sử dụng cây thuốc của nhân dân đã phát triển, gắn liền với những danh y nổi tiếng Trong thời kỳ nhà Lý (1010-1224), nhà sư Nguyễn Minh Không đã chữa bệnh cho dân và vua, được phong là "Quốc sư" Thời nhà Trần (1225-1399), Phạm Ngũ Lão đã thu thập và trồng một vườn thuốc lớn để chữa bệnh cho quân sĩ.
"Dược Sơn", hiện vẫn còn di tích tại xã Hưng Đạo, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương [11].
Vào thế kỷ XIII và XIV, hai danh y nổi tiếng là Phạm Công Bân và nhà sư Nguyễn Bá Tĩnh (hiệu Tuệ Tĩnh) đã để lại dấu ấn sâu đậm trong y học cổ truyền Mặc dù nhiều tác phẩm quý giá của họ bị quân Minh thu giữ, bộ sách "Nam Dược Thần Hiệu" vẫn tồn tại, ghi chép 496 vị thuốc nam Ngoài ra, họ còn có các tác phẩm như "Tuệ Tĩnh y thư" và "Tam thập phương gia giảm", góp phần vào kho tàng tri thức y học Việt Nam.
"Thương hàn tam thập thất trùng pháp" là một tác phẩm nổi bật của Tuệ Tĩnh, một danh y vĩ đại trong lịch sử y học dân tộc Việt Nam Ông là người đầu tiên đề xuất phương châm "Nam dược trị nam nhân", nhấn mạnh tầm quan trọng của thuốc nam trong việc chữa bệnh cho người Việt.
Sau Tuệ Tĩnh, mãi đến thời Dụ Tông xuất hiện Hải Thượng Lãn Ông -
Lê Hữu Trác (1721-1792) là một bác sĩ nổi bật trong lĩnh vực y học và sinh lý học, ông đã nghiên cứu nhiều tài liệu y dược và viết bộ sách "Lãn Ông tâm lĩnh" với 66 quyển, đề cập đến nhiều khía cạnh của y học Ông không chỉ kế thừa "Nam dược thần hiệu" của Tuệ Tĩnh mà còn bổ sung thêm 329 vị thuốc mới Ngoài ra, Hải Thượng Lãn Ông còn thành lập trường đào tạo y sinh, nhằm truyền bá kiến thức và tư tưởng y học của mình.
Ông được coi là người sáng lập nghề thuốc Việt Nam Trong thời kỳ Tây Sơn và nhà Nguyễn (1788-1883), Nguyễn Quang Tuân đã biên soạn nhiều tác phẩm như "Nam dược", "Nam dược chỉ danh truyền" và "La Khê phương dược", trong đó ông đã giới thiệu 500 vị thuốc nam dân gian dùng để chữa bệnh Bên cạnh đó, thời kỳ này cũng ghi nhận sự đóng góp của Lê Đức Huệ.
"Nam thiên Đức Bảo toàn thư" liệt kê 511 vị thuốc nam và bệnh học Đến thế kỷ 21, công trình nổi bật đầu tiên là "Produits medicinaux" (1928) của Crevost, nhà thực vật người Pháp, trong đó mô tả 368 cây thuốc và vị thuốc thuộc các loài thực vật có hoa Năm 1952, công trình này tiếp tục phát triển và mở rộng kiến thức về dược liệu.
Petelot đã hoàn thiện bộ sách "Les plantes medicinales du Cambodge, du Laos et du Vietnam" với 4 tập, trong đó ghi nhận 1482 loại thảo dược từ ba nước Đông Dương.
Các công trình nghiên cứu như "Bắc Nam dược tính" của Vũ Như Lâm (1937) và "Dược liệu học và các vị thuốc Việt Nam" của GS Đỗ Tất Lợi (1957) đã mô tả và chỉ ra công dụng của hơn 100 loài cây thuốc nam, đóng góp quan trọng vào việc phát triển y học cổ truyền Việt Nam.
GS Đỗ Tất Lợi đã xuất bản cuốn "Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam", giới thiệu hơn 500 vị thuốc có nguồn gốc từ thảo dược Qua nhiều lần tái bản, đến năm 2005, số loài cây thuốc được đề cập trong cuốn sách đã tăng lên đáng kể.
Bộ "Từ điển cây thuốc Việt Nam" (2012) của Võ Văn Chi là một công trình quan trọng, mô tả chi tiết gần 4700 loài cây thuốc tại Việt Nam Công trình này không chỉ có giá trị khoa học mà còn mang lại ứng dụng thực tiễn lớn cho ngành Dược và các nhà thực vật học.
[10] Trong số đó trên 90% là cây hoang dại và có 144 loài đã được đưa vào
Cẩm nang Cây thuốc cần bảo vệ ở Việt Nam chỉ ra rằng tiềm năng cây thuốc trong tự nhiên còn rất phong phú và chưa được khai thác hết Trong hơn 20 năm qua, sự thay đổi về điều kiện kinh tế - xã hội đã dẫn đến việc thu hẹp diện tích rừng tự nhiên do khai thác gỗ bừa bãi và phát triển nông nghiệp Việc khai thác cây thuốc ồ ạt mà không có biện pháp bảo vệ tái sinh tự nhiên đã làm giảm đáng kể số lượng và thành phần các loài cây thuốc, nhiều loài quý hiếm đứng trước nguy cơ tuyệt chủng Sự phá hủy rừng không chỉ dẫn đến mất mát tài nguyên cây thuốc mà còn gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng khác cho hệ sinh thái.
Theo Chỉ thị 24-CT/TW của Ban bí thư TW Đảng, việc phát triển nền Đông y Việt Nam cần kết hợp chặt chẽ giữa Đông y và Tây y trong tổ chức, đào tạo, nghiên cứu và sản xuất thuốc Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 43/2007/QĐ-TTg, nhấn mạnh việc hiện đại hóa công nghệ chế biến thuốc từ dược liệu, quy hoạch vùng trồng dược liệu theo tiêu chuẩn GACP của WHO, và khai thác hợp lý nguồn dược liệu tự nhiên Quyết định 61/2007/QĐ-TTg cũng đề ra mục tiêu nghiên cứu và sử dụng hiệu quả các hoạt chất thiên nhiên từ dược liệu, phục vụ cho công nghiệp bào chế thuốc đặc thù của Việt Nam Ngày 30/10/2013, Quyết định 1976/QĐ-TTg đã quy hoạch phát triển dược liệu đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030, với mục tiêu phát triển bền vững nguồn tài nguyên dược liệu và sản xuất hàng hóa, bao gồm 8 vùng khai thác tự nhiên và 8 vùng trồng dược liệu tập trung, trong đó có vùng Tây Bắc.
Hệ sinh thái núi đá vôi ở Việt Nam rất độc đáo và đa dạng sinh học, chứa đựng nhiều nguồn dược liệu quý giá Tuy nhiên, sự phát triển của khoa học và công nghệ đã dẫn đến sự ra đời của nhiều loại thuốc tây y hiệu quả và tiện lợi, khiến cho việc sử dụng thuốc nam ngày càng giảm sút Đặc biệt, giới trẻ hiện nay dường như ít biết đến các loại cây thuốc nam truyền thống.
*Tình hình nghiên cứu cây thuốc tại KBTTN Phu Canh Huyện Đà Bắc, tình Hòa Bình
MỤC TIÊU, ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Mục tiêu nghiên cứu
2.1.1 Mục tiêu tổng quát Đánh giá được thực trạng về tài nguyên cây thuốc ở khu vực Xã Trung Thành huyện Đà Bắc làm cơ sở đề suất giải pháp bảo tồn và phát triển cây thuốc tạo thu nhập cho người dân địa phương.
2.1.2 Mục tiêu cụ thể Đánh giá được hiện trạng về thành phần loài, phân bố và tình hình khai thác sử dụng, phát triển cây thuốc tại khu vực nghiên cứu. Đề xuất được giải pháp để bảo tồn và phát triển cây thuốc tại khu vực nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu
Các loài cây thuốc tự nhiên và trồng trên địa bàn xã Trung Thành,huyện Đà Bắc, tỉnh Hòa Bình.
Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu này tập trung vào tài nguyên cây thuốc tại các quần thể rừng ở các xóm Bay, Búa, Hạ, Sổ, Trung Tằm và Trung Thượng, thuộc xã Trung Thành, huyện Đà Bắc, tỉnh Hòa Bình.
- Phạm vi thời gian: Từ tháng 6 đến tháng 10/2020.
Nội dung nghiên cứu
-.Đề xuất giải pháp bảo tồn và phát triển tài nguyên cây thuốc tại Xã Trung Thành, huyện Đà Bắc, tỉnh Hòa Bình.
Phương pháp nghiên cứu
- Kế thừa những tư liệu về điều kiện tự nhiên: địa hình, khí hậu, thuỷ văn, đất đai, tài nguyên rừng.
- Điều kiện kinh tế; điều kiện xã hội: dân số, lao động, thành phần dân tộc, tập quán.
- Kế thừa số liệu từ các công trình nghiên cứu khác.
2.5.2 Chuẩn bị và điều tra sơ thám
+ Chuẩn bị đầy đủ các mẫu biểu phỏng vấn, điều tra tuyến, OTC.
Để thực hiện nghiên cứu tại khu vực xã, bạn cần liên hệ trực tiếp với cán bộ cấp xã để xin phép vào thực địa và yêu cầu số liệu liên quan đến khu vực nghiên cứu.
Để chuẩn bị cho cuộc khảo sát, cần có các phương tiện như máy chụp ảnh, dao, thước 30cm, đồ đựng mẫu vật, cùng với bản đồ hiện trạng rừng của khu vực nghiên cứu Ngoài ra, cũng cần chuẩn bị câu hỏi phỏng vấn và biểu ghi chép điều tra tuyến để thu thập thông tin một cách hiệu quả.
+ Khảo sát, làm quen với người dân trong khu vực để tìm hiểu về khả năng và tình hình sử dụng cây thuốc của người dân tại xã.
Chúng tôi đã tiến hành phỏng vấn người dân và cán bộ xã nhằm tìm hiểu các khu vực có nhiều cây thuốc Qua đó, chúng tôi nhờ những người được phỏng vấn dẫn đi nhận diện cây, thu thập mẫu và chụp ảnh để phục vụ cho nghiên cứu.
+ Mục đích của việc điều tra sơ thám:
- Nắm được địa hình khu vực nghiên cứu và thông tin sơ bộ phân bố của các loài ngoài thực địa.
- Định ra các hướng đi của các tuyên điều tra, ước tính khối lượng công việc ngoại nghiệp để xây dựng kế hoạch điều tra.
2.5.3 Điều tra thành phần loài, việc khai thác, gây trồng cây thuốc tại Xã Trung Thành, huyện Đà Bắc, tỉnh Hòa Bình 2.5.3.1 Ngoại nghiệp
Qua khảo sát, chúng tôi đã chọn được 03 tuyến điều tra qua các xóm trong xã, đại diện cho các dân tộc khác nhau Kết quả điều tra đã được ghi chép vào các biểu mẫu.
Nghiên cứu và tìm hiểu đã xác định được 3 tuyến điều tra đại diện cho khu vực nghiên cứu:
Tuyến điều tra số 01: Từ xóm Trung Thượng đi đến xóm Trung Tằm;
Tuyến điều tra số 02: Từ xóm Trung Tằm đi đến xóm Hạ;
Tuyến điều tra số 03 bắt đầu từ xóm Hạ đến xóm Búa, trong đó tiến hành lập 1OTC tại khu rừng phòng hộ xóm Búa và sau đó quay trở lại xóm Trung.
Thượng Kết hợp với phỏng vấn các hộ dân.
Sau đó tiến hành lập một OTC tại khu vực này kết hợp phỏng vấn các hộ dân, kết thúc tuyến tại kết thúc UBND Xã Trung Thành.
Chúng tôi đã tiến hành phỏng vấn người dân và các hộ gia đình đại diện tại xã Trung Thượng để thu thập thông tin về các cây thuốc trong khu vực Mỗi cây thuốc được ghi chú đầy đủ theo mẫu biểu, bao gồm đặc điểm loài, dạng sống và bộ phận sử dụng làm thuốc Người dân cũng được nhờ dẫn đi đến khu vực có cây thuốc mà họ liệt kê, bao gồm vườn và khu vực xung quanh nhà Quá trình này giúp nhận diện cây và xác định tên loài; đối với những loài chưa xác định được tên, chúng tôi sẽ ghi tên địa phương Cuối cùng, mẫu cây được thu thập và chụp ảnh để giám định lại tên loài sau này.
Biểu điều tra phỏng vấn: khai thác, chế biến sử dụng cây thuốc Đối tượng phỏng vấn:
- Ông (bà) có biết ở địa phương mình đã sử dụng cây cỏ nào làm thuốc không?
- Nơi phân bố của từng cây thuốc.
- Những bộ phận nào của cây được sử dụng làm thuốc, chữa những bệnh gì.
- Đối tượng sử dụng cây thuốc là ai? Kết quả sau khi sử dụng cây thuốc ra làm sao?
- Một năm ông (bà) vào thu hái thuốc mấy lần?
- Tình hình gây trồng và chế biến thuốc như thế nào?
- Thu hái thuốc như vậy thì bác có đem ra thị trường để bán không hay chỉ phục vụ gia đình.
- Hiện nay ông (bà) có trồng loại thuốc nào trong vườn không?
- Việc sử dụng thuốc như vậy thì ông (bà) có lưu truyền lại cho thế hệ sau không? Và cách thức lưu truyền như thế nào?
Các bộ và người dân địa phương có mối gắn bó lâu dài với rừng, từ đó tích lũy được nhiều kinh nghiệm quý giá về phân bố các loài trong khu bảo tồn Tuy nhiên, việc thu thập thông tin cần phải được chắt lọc và kiểm tra tính xác thực, và nếu có thể, nên thu mẫu để giám định.
Vì vậy phỏng vấn người dân và cán bộ kiểm lâm là cách nhanh nhất có được thông tin về các loài trong khu vực nghiên cứu.
Trước khi phỏng vấn tiến hành ghi thông tin, địa chỉ người cần phỏng vấn.
Mẩu biểu: Phỏng vấn cá nhân
Xin ông bà cho biết những thông tin sau đây:
- Ông (bà) có biết thông tin gì về các loài cây thuốc quý hiếm có ở địa phương mình không?
- Loài cây đó thường mọc ở đâu? Ở khu rừng nào? Ở độ cao bao nhiêu? Mọc với những loài cây nào?
- Cây thuốc đấy ông (bà) dung để chữa bệnh gì?
- Cây thuốc đó thuộc dạng dây leo hay cây thân gỗ?
- Những loài quý hiếm như vậy thì khả năng bắt gặp của trước kia so với bây giờ thì thế nào?
- Có ai vào thu gom cây thuốc quý như vậy không?
- Những cây thuốc đó sau khi khai thác chúng có khả năng tái sinh lại không?
- Ở địa phương mình ông (bà) có biết ai đã từng trồng thử hoặc chuyên làm về ngành thuốc nam không?
- Có những khó khăn gì để bảo tồn và phát triển loài cây có giá trị này? Làm thế nào để khắc phục vấn đề này?
Mẫu Biểu Điều tra cây thuốc theo tuyến
Số hiệu tuyến: Địa danh: Ngày điều tra:
Toạ độ đầu tuyến: Toạ độ cuối tuyến:
Mẩu biểu: Tổng hợp các loài cây thuốc ở khu vực nghiên cứu
Phương pháp xây dựng danh lục cây thuốc:
Lập danh lục cây thuốc của khu vực dựa trên các kết quả giám định được và kết quả phỏng vấn người dân sau đó xây dựng danh lục.
Bảng: Danh lục cây thuốc tại khu vực Xã Trung Thành, huyện Đà Bắc, tỉnh Hòa Bình TT
Phương pháp đánh giá được sử dụng nhằm xác định mức độ đa dạng của các loài cây thuốc tại khu vực nghiên cứu, bao gồm thành phần loài, phân bố, khả năng sử dụng và việc gây trồng Đánh giá này dựa trên Danh lục cây thuốc đã được điều tra và các tài liệu liên quan.
2.5.3.3 Điều tra, đánh giá đặc trưng về phân bố của loài cây thuốc quý hiếm tại xã Trung Thành, huyện Đà Bắc, tỉnh Hòa Bình Đi theo các tuyến điều tra đã lập, tuyến nào bắt gặp những cây thuốc quý hiếm nằm trong: Sách Đỏ Việt Nam 2007, NĐ 06/2019, NĐ 160/2013, Danh lục đỏ cây thuốc 2019, IUCN Red list of Vietnam, tiến hành lập OTC và miêu tả các sinh cảnh các vật xung quanh Lập OTC với S0m2 (10x10). Xác định tên loài trong OTC, những loài nào là cây thuốc tiến hành thu mẫu và chụp ảnh và loài nào chưa xác định được tên loài cây trong OTC đều thu mẫu về giám định lại.
Một số tài liệu tra cứu cây thuốc
Mẫu biểu: Điều tra cây gỗ Ô tiêu chuẩn: Diện tích:
Trạng thái rừng: Độ cao tuyệt đối:
Vị trí: Độ dốc: Người điều tra:
TT Tên loài D1.3(cm) Hvn(m) Hdc(m) Phẩm chất Ghi chú
Điều tra tầng cây cao bao gồm việc xác định tên các loài cây, đo đường kính thân cây tại độ cao 1,3m bằng thước kẹp kính, và ước chừng chiều cao vút ngọn cùng chiều cao dưới cành.
Tốt: là cây sinh trưởng và phát triển không bị sâu bệnh.
Trung bình: là cây bị sâu bệnh không nghiêm trọng, so với cây tốt phát triển kém hơn.
Xấu: là cây cong queo, sâu bệnh, cụt ngọn.
Mẫu biểu: Điều tra cây tái sinh Độ cao tuyệt đối: Độ dốc:
Mẫu biểu: Điều tra cây bụi thảm tươi Ô tiêu chuẩn:……… Diện tích:………….Trạng thái:……… Độ cao tuyệt đối:………Vị trí:………….Ngày điều tra:………. Độ dốc:……… Người điều tra:………
Chúng tôi sẽ tiến hành phỏng vấn người dân để thu thập thông tin về loài thuốc quý hiếm, đồng thời tự điều tra để tìm hiểu thêm Các câu hỏi sẽ được thiết kế nhằm thu thập dữ liệu cần thiết.
Mẫu biểu: Phỏng vấn thông tin cây thuốc
Giới tính: Dân tộc: Địa chỉ:
Tình hình sử dụng cây thuốc tại xã Trung Thành, huyện Đà Bắc , tỉnh Hòa Bình
Để chuẩn bị cho cuộc phỏng vấn, cần thu thập đầy đủ phương tiện như giấy tờ ghi chép, máy ảnh và thước đo Ngoài ra, nên chuẩn bị sơ đồ hiện trạng rừng tại khu vực và các câu hỏi phỏng vấn cụ thể Việc sưu tầm các bài thuốc dân gian cũng rất quan trọng để có thể hỏi và đối chiếu thông tin một cách chính xác.
Chúng tôi đã tiến hành phỏng vấn 10 hộ gia đình trong làng có kinh nghiệm trong việc thu hái và sử dụng cây thuốc để điều trị bệnh Qua đó, chúng tôi tìm hiểu về các thành phần loài cây thuốc, phương pháp trồng trọt của người dân, các bệnh mà họ chủ yếu sử dụng cây thuốc để chữa trị, hình thức khai thác và sử dụng các loài cây này, cũng như thị trường tiêu thụ sản phẩm cây thuốc trong cộng đồng.
2.6.3 Nội nghiệp Đánh giá sự đa dạng của cây thuốc thông qua các kết quả phỏng vấn của các thầy lang và người dân trong bản.
Tra cứu và xây dựng danh mục cây thuốc là việc tổng hợp, phân tích và đánh giá sự đa dạng của các loại cây thuốc, thành phần sử dụng cũng như công dụng của chúng Đồng thời, việc này cũng giúp xác định các loài cây thuốc đang trong tình trạng nguy cấp, quý hiếm.
Tiến hành thống kê và đánh giá hiện trạng khai thác, chế biến cây thuốc tại khu vực nghiên cứu, bao gồm các hình thức khai thác và tình hình gây trồng Đặc biệt, cần thống kê và đánh giá các loài cây thuốc được người dân sử dụng đa mục đích Bên cạnh đó, đánh giá tình hình buôn bán và sử dụng thuốc nam tại xã Trung Thành, cũng như tính tỷ lệ sử dụng cây thuốc của người dân trong xã này.
2.6.4 Đề xuất giải pháp bảo tồn và phát triển tài nguyên cây thuốc tại xã Trung Thành, huyện Đà Bắc, tỉnh Hòa Bình Đề xuất các giải pháp bảo tồn cây thuốc tại khu vực nghiên cứu dựa trên các kết quả thu được từ nghiên cứu và tuân thủ theo quy định của pháp luật, các quy trình quy phạm của nhà nước của ngành và tham khảo các tài liệu về bảo tồn tài nguyên thực vật và cây thuốc.
Dựa vào những khó khăn và thuận lợi, cơ hội và thách thức tại khu vực nghiên cứu.
Dựa vào tình hình khai thác chế biến, phương thức gây trồng, sử dụng và buôn bán cây thuốc.
Dựa vào những tác động bất lợi, ảnh hưởng đến tài nguyên cây thuốc theo kết quả điều tra được theo các tuyến.
ĐẶC ĐIỂM ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN VÀ KINH TẾ - XÃ HỘI TẠI KHU VỰC NGHIÊN CỨU
Điều kiện tự nhiên
Trung Thành là một xã miền núi thuộc huyện Đà Bắc, tỉnh Hòa Bình, cách trung tâm huyện khoảng 53 km Khu vực này có giao thông đi lại khó khăn do địa hình đồi núi phức tạp.
- Phía Bắc giáp xã Đoàn Kết,
- Phía Đông Nam giáp xã Cao Sơn.
- Phía Đông giáp xã Tân Minh,
- Phía Tây giáp xã Yên Hòa,
Xã Trung Thành có tổng diện tích tự nhiên là 3.002,06 ha, bao gồm 155,29 ha đất nông nghiệp, 69,78 ha đất phi nông nghiệp và 38,75 ha đất chưa sử dụng Diện tích rừng và đất quy hoạch lâm nghiệp toàn xã là 2.738,24 ha, trong đó 761,34 ha do UBND xã quản lý và 1.723,39 ha do hộ gia đình quản lý.
* Diện tích do UBND xã quản lý: 761,34 ha trong đó:
+ Diện tích đất có rừng:
+ Diện tích đất chưa có rừng: 212,30 ha
Rừng tự nhiên chủ yếu bao gồm các khu rừng núi với lá rộng thường xanh phục hồi, rừng lá rộng thường xanh nghèo kiệt và rừng hỗn giao nứa gỗ Ngoài ra, còn có nhiều diện tích thảm thực bì với lau lách và cỏ ranh.
Rừng trồng chủ yếu trồng các loài cây bồ đề, xoan, luồng, keo và một số loại cây khác.
Diện tích đất chưa có rừng chủ yếu bao gồm các khu vực rừng mới trồng chưa phát triển thành rừng hoàn chỉnh, cùng với diện tích đất trống có thảm thực bì chủ yếu là lau lách, cây bụi và cỏ ranh.
Xã Trung Thành nằm trong khu vực núi thấp và núi cao, với ba dải núi chính và nhiều dải núi phụ Đỉnh núi Pu To có độ cao lớn nhất là 1.280 m, trong khi độ cao trung bình đạt 700 m và độ thấp nhất là 200 m so với mực nước biển Địa hình nơi đây có độ dốc bình quân trên 30 độ, với chiều dài sườn dốc từ 1.000 đến 2.000 m, tạo nên những đoạn đường hiểm trở, khó khăn cho việc di chuyển.
Xã Trung Thành nằm trong lưu vực của các con suối như Suối Dinh, Suối Sổ, Suối Tằm và Suối Bay, chảy ra hồ Sông Đà Hệ thống đường phân thủy này không chỉ cung cấp nước cho nhà máy thủy điện Hòa Bình mà còn hỗ trợ tưới tiêu cho sản xuất nông nghiệp tại các xóm trong xã.
Khí hậu tại xã Trung Thành, tỉnh Hòa Bình, thuộc vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, với hai mùa rõ rệt: mùa mưa từ tháng 4 đến tháng 10, lượng mưa trung bình đạt 1.824,4 mm (93,6% tổng lượng mưa năm) và mùa hanh khô từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau, với lượng mưa trung bình chỉ 125,2 mm (6,4% tổng lượng mưa năm) Số ngày mưa trong năm dao động từ 110 đến 130 ngày, độ ẩm không khí trung bình là 83%, với mức cao nhất 87% và thấp nhất 79% Nhiệt độ không khí trung bình là 21,7°C, với nhiệt độ cao nhất trung bình 29°C và thấp nhất trung bình 14,6°C, có thể xuống tới 5°C vào tháng 1 Gió chính mùa hè là gió Đông Nam, trong khi mùa đông là gió Đông Bắc.
* Thuỷ văn: Trong xã có các suối lớn như Suối Dinh, Suối Sổ, Suối
Tằm, Suối Bay chảy ra hồ Sông Đà, cung cấp nước cho nhà máy thuỷ điện
Hoà Bình cung cấp nguồn nước tưới cho sản xuất nông nghiệp của các xóm trong xã Mặc dù các suối lớn có nước chảy quanh năm, nhưng do độ dốc cao và nhiều đá nổi, việc vận chuyển bằng đường thuỷ không khả thi Vào mùa mưa, lũ đột xuất thường xảy ra, gây cản trở việc đi lại của người dân trong xã và vùng lân cận.
Xã Trung Thành có địa hình vùng núi cao, chủ yếu bao gồm núi đất và núi đá Khu vực này có ba loại đá mẹ chính: đá vôi, đá mác ma a xít và đá sa thạch Đá vôi chứa can xít màu đỏ nâu, với sản phẩm phong hoá tạo thành cơ giới thịt trung bình Đá a xít chủ yếu gồm Ka li, mua ga đen, bi ro xin và clo rít, với sản phẩm phong hoá nhẹ Đá sa thạch chứa thạch anh và li mô nít, sản phẩm phong hoá tạo ra cơ giới hạt thô, với nhiều sỏi cuội có kích thước khác nhau do phong hoá không triệt để.
* Đất: Trong xã có 2 nhóm đất chính:
Nhóm đất Feralitic mùn có màu sắc từ đỏ vàng đến vàng nhạt, thường xuất hiện trên các vùng núi có rừng ở độ cao từ 700 đến 1200 mét Đất này sở hữu nhiều đặc điểm và đặc tính nổi bật, phù hợp với điều kiện sinh thái của khu vực.
Đất Feralitic là loại đất có màu vàng nhạt, thường xuất hiện trên các vùng núi có rừng, phát triển chủ yếu trên đá sa thạch Đặc điểm nổi bật của loại đất này là tầng dày trên 120 cm, với thành phần cơ giới là thịt nhẹ, chứa nhiều hạt thô, sỏi và cuội Đất Feralitic có khả năng thấm nước nhanh nhưng lại giữ nước kém.
Đất feralit mùn có màu đỏ, thường xuất hiện trên núi có rừng phát triển, hình thành trên đá vôi với độ dày tầng đất trên 120 cm Loại đất này có thành phần cơ giới thịt trung bình, nổi bật với khả năng thấm nước và giữ nước hiệu quả.
Đất Feralitic mùn màu đỏ vàng, thường xuất hiện trên núi có rừng, phát triển trên đá mác ma a xít Loại đất này có tầng dày trên 120 cm, với thành phần giới thịt trung bình, nổi bật với khả năng thấm nước chậm và giữ nước hiệu quả.
Nhóm đất Feralitic màu vàng, vàng nhạt thường xuất hiện trên các khu vực đất trống như đồi trọc, cây bụi, nương rẫy, với độ cao dưới 700 m Những loại đất này phát triển chủ yếu trên đá mẹ sa thạch, đá vôi và đá mác ma a xít, có độ dày từ 50 đến 120 cm.
Tình hình dân sinh - kinh tế - xã tại khu vực nghiên cứu
Trong toàn xã có 3 dân tộc anh em cùng sinh sống: Tày, Mường, Kinh, trong đó: dân tộc Tày chiếm 98%; dân tộc Kinh chiếm 1,0%; dân tộc Mường 1,0%.
3.2.2 Dân số, lao động và giới
- Dân số: Trong toàn xã có 495 hộ, 1.859 nhân khẩu cư trú trong 05 xóm. (xóm Bay, xóm Trung Tằm, xóm Trung Thượng, xóm Búa, xóm Sổ)
Toàn vùng có 919 lao động, trong đó lao động nông nghiệp chiếm ưu thế với 872 người, tương đương 94,8% tổng số lao động, trong khi lao động phi nông nghiệp chỉ có 47 người, chiếm 5,2%.
Phụ nữ gặp nhiều khó khăn trong việc tham gia bảo vệ rừng do phải đảm nhận nhiều công việc gia đình và chăm sóc rừng trồng theo các chương trình dự án Điều này dẫn đến hạn chế trong vai trò của họ trong công tác bảo vệ môi trường.
3.2.3 Hiện trạng sản xuất a Sản xuất nông nghiệp: hoạt động trồng trọt trong xã chủ yếu là cây lương thực, cây màu các loại và một số ít diện tích cây ăn quả, cây công nghiệp dài ngày Diện tích trồng lúa nước trên địa bàn xã là 64 ha năng xuất đạt 60 tạ/ha; Diện tích ngô vụ xuân đã trồng được 100 ha; Sắn, dong giềng, đậu tương, rau các loại bà con nhân dân đã trồng được 100 ha; Diện tích đã gieo trồng, được chăm sóc và bảo vệ, thực hiện phòng trừ bệnh hại cây sinh trưởng và phát triển tốt Sản lượng lương thực cây có hạt: 1.250 tấn b Chăn nuôi: là hoạt động mang lại thu nhập quan trọng cho cộng đồng địa phương, đồng thời cung cấp hàng hóa tại chỗ, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng thị trường và cải thiện cuộc sống Cộng đồng chủ yếu nuôi trâu, bò, lợn, gà, ngan, vịt, ngỗng, dê, v.v Các năm qua số lượng đàn gia súc gia cầm trong xã tăng tương đối nhanh nhất là đàn bò, trâu do nhu cầu tiêu thụ thịt bò trên thị trường ngày càng nhiều Theo thống kê năm 2020 như sau, đàn trâu có 400 con, đàn bò 410 con, đàn lợn 650 con Đàn gia cầm 13.000 con Chủ yếu chăn thả trên đất trồng đồi trọc và rừng tự nhiên. c Hoạt động sản xuất và khai thác lâm sản: Bằng nguồn vốn dự án 661 và nguồn vốn khác trong các năm qua nhân dân trong xã đã tích cực phát triển sản xuất lâm nghiệp Đã nhận khoán khoanh nuôi bảo vệ rừng hiện có (rừng phòng hộ xung yếu và rất xung yếu) của xã là 1.723,39 ha Thực tế tại địa bàn vẫn xảy ra tình trạng khai thác rừng phòng hộ, đặc dụng và săn bắt động vật trái phép, đốt nương làm rẫy ở quy mô nhỏ Do phong tục tập quán, do đời sống của người dân còn khó khăn, đặc biệt là thiếu đất sản xuất nên một số hộ dân đã lén lút phát nương lấn vào rừng trồng và rừng đặc dụng Tình trạng khai thác cây dược liệu, củi, lâm sản phụ song, mây, măng tre và săn bắt động vật vẫn còn xảy ra Những lâm sản ngoài gỗ này được các hộ sử dụng cho nhu cầu gia đình và một số cũng được đem đi bán. d Thu nhập của nhân dân: Sinh kế chính của nhân dân trong xã là sản xuất nông lâm nghiệp Tuy nhiên, do đất nông nghiệp rất ít, năng suất không cao, bình quân lương thực chỉ đạt 67,2 kg/người/năm Rừng tự nhiên còn lại phần lớn là rừng gỗ được quy hoạch là rừng phòng hộ xung yếu và không được khai thác. Các ngành nghề khác phát triển chậm nên đời sống nhân dân ở đây còn rất khó khăn, thu nhập bình quân đạt khoảng 18,0 triệu đồng/người/ năm
Giao thông vận tải: Xã Trung Thành đã có đường ôtô đến trung tâm xã.
Dự án của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đang triển khai tuyến đường mới từ Tỉnh lộ 433 qua xã Cao Sơn đến xã Trung Thành Tất cả các xóm trong xã đều được cấp điện từ lưới điện quốc gia, nhưng do đường dây tải điện yếu, tình trạng mất điện thường xuyên xảy ra.
Dự án 472 và dự án WB đã đầu tư xây dựng hệ thống đường ống dẫn nước cùng với các bể chứa nước công cộng, nhằm đảm bảo 100% hộ dân trong xã được cung cấp đủ nước sinh hoạt.
Thuỷ lợi : Hiện tại, các xóm đều có kênh mương dẫn nước tưới cho sản xuất nông nghiệp.
Xã Trung Thành có đầy đủ các cấp học Mầm non, Tiểu học và Trung học cơ sở với cơ sở vật chất được đầu tư từ Chương trình 135 của Chính phủ và dự án giảm nghèo của Ngân hàng Thế giới Hiện tại, xã có 645 trẻ em trong độ tuổi đi học Đội ngũ giáo viên chủ yếu là những người từ tỉnh, huyện khác, nhưng họ gặp khó khăn về chỗ ở và thiếu các hoạt động văn hóa, dẫn đến tình trạng không yên tâm công tác và hạn chế khả năng phát triển chuyên môn.
Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân đã được nâng cao, đáp ứng kịp thời nhu cầu khám chữa bệnh ban đầu Mạng lưới y tế từ xã đến thôn bản hoạt động hiệu quả trong việc phòng chống dịch bệnh Tuy nhiên, cơ sở hạ tầng còn thiếu thốn, thuốc men và trang thiết bị khám chữa bệnh không đủ, cùng với việc thiếu đội ngũ cán bộ y tế có chuyên môn cao, dẫn đến hiệu quả khám chữa bệnh chưa đạt yêu cầu Hoạt động dân số - kế hoạch hóa gia đình được chú trọng, với sự đổi mới trong công tác tuyên truyền giúp tiếp cận tốt hơn đến các đối tượng Các chương trình mục tiêu quốc gia về y tế được triển khai đầy đủ và mang lại hiệu quả tích cực.
Văn hóa tại xã gặp nhiều khó khăn do các xóm bản cách xa nhau, giao thông không thuận tiện và điều kiện kinh tế hạn chế, với khoảng cách từ 30-50 km đến trung tâm huyện Mặc dù vậy, hầu hết các hộ gia đình đều sở hữu tivi, cho thấy một phần nào đó của sự kết nối văn hóa.
(Nguồn tài liệu điều kiện tự nhiên – kinh tế xã hội do Ủy ban nhân dân xãTrung Thành cung cấp)
BẢN ĐỒ HIỆN TRẠNG RỪNG XÃ TRUNG THÀNH, HUYỆN ĐÀ BẮC, TỈNH HÒA BÌNH
Nguồn bản đồ: Hạt Kiểm lâm huyện Đà Bắc
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
Hiện trạng tài nguyên cây thuốc tại khu vực nghiên cứu
4.1.1 Đa dạng về bậc ngành
Qua quá trình điều tra và kế thừa số liệu về cây thuốc tại xã Trung Thành, huyện Đà Bắc, tỉnh Hòa Bình, chúng tôi đã xác định được tổng cộng 476 loài cây thuốc.
Trong tổng số 336 chi thuộc 125 họ, có 5 ngành thực vật chính: Ngành Quyết trần (Psilotophyta), Ngành Thông đất (Lycopodiophyta), Ngành Dương xỉ (Polypodiophyta), Ngành Thông (Pinophyta) và Ngành Mộc lan (Magnoliophyta) Đáng chú ý, Ngành Mộc lan chiếm số lượng họ lớn nhất với 106 họ, 309 chi và 441 loài, được thể hiện cụ thể trong bảng 4.1.
Bảng 4.1 Thành phần các loài cây thuốc ở khu vực
Kết quả từ bảng 4.1 chỉ ra rằng các loài cây thuốc tại xã Trung Thành chủ yếu thuộc ngành Mộc lan (Magnoliophyta), với sự phân bố không đồng đều giữa các ngành Ngành Ngọc lan chiếm ưu thế với 106 họ (84,8%), 309 chi (91,96%) và 441 loài (92,65%) Ngành Dương xỉ có 14 họ (11,2%), 21 chi (6,25%) và 28 loài (5,88%) Ngành có số lượng họ, chi và loài ít nhất là ngành Quyết trần với chỉ 01 họ, 01 chi và 01 loài Sự đa dạng của các taxon thực vật làm thuốc cho thấy ngành Mộc lan chiếm ưu thế, với các loài được phân bố trong hai lớp: lớp Ngọc lan (Magnoliosida) và lớp Hành (Liliopsida) Kết quả phân bố này được thể hiện trong bảng 4.2.
Bảng 4.2 Số lượng họ, chi và loài cây thuốc trong ngành Ngọc lan
Kết quả bảng 4.2 cho thấy:
Các loài cây thuốc trong ngành Mộc lan được chia thành hai lớp là Ngọc lan và Hành, trong đó lớp Ngọc lan chiếm ưu thế với 87% số họ, 84,79% số chi và 86,62% số loài Các loài thuộc lớp Ngọc lan thường gặp và phân bố rộng rãi trong rừng, tạo thành nguồn tài nguyên phong phú cho các hộ gia đình địa phương Tuy nhiên, việc khai thác cây thuốc với tần suất cao có thể ảnh hưởng đến nguồn tài nguyên thực vật trong rừng.
Sự đa dạng về loài, chi và họ của cây thuốc trong khu vực, bao gồm cả rừng tự nhiên phòng hộ và rừng khoán cho các hộ gia đình quản lý, tạo ra tiềm năng lớn để phát triển nghề cây thuốc cho người dân địa phương Đồng thời, đây cũng là nơi lý tưởng để bảo tồn nguồn gen của các loài quý hiếm trong khu vực.
4.1.2 Đa dạng về số lượng loài trong các họ
Tại Trung Thành, số liệu thống kê cho thấy có nhiều loài thực vật bậc cao có mạch được sử dụng làm thuốc Sự phân bố số lượng các loài cây thuốc trong các họ thực vật được thể hiện rõ qua bảng 4.3.
Bảng 4.3 Sự phân bố số lượng loài cây thuốc trong các họ
Kết quả từ bảng 4.3 cho thấy ngành Quyết trần chỉ có 1 họ và 1 loài, trong khi ngành Thông đất cũng chỉ có 1 họ với 2 loài Ngành Dương xỉ không có họ nào có số loài lớn hơn 1, và ngành Thông không có họ nào lớn hơn 3 loài Ngược lại, ngành Mộc lan nổi bật với 10 họ có số loài lớn hơn 11, chiếm 21,01%, cùng với 17 họ có từ 5 đến 10 loài, chiếm 44,96%, và 7 họ có 4 loài.
Đa dạng thành phần loài của cây thuốc trong các khu vực nghiên cứu là một tiêu chí quan trọng để đánh giá tiềm năng nguồn tài nguyên cây thuốc Cụ thể, có 9.24% loài thuộc 11 họ, 6.93% loài thuộc 3 họ, 7.14% loài thuộc 17 họ, và 10.71% loài thuộc 51 họ.
Ngành Mộc lan có số lượng loài phong phú, với nhiều loài thuộc họ và chiếm tỷ lệ đáng kể trong tổng số loài của cả hai lớp Hành và Mộc lan Bảng 4.4 trình bày các họ có số loài lớn nhất trong ngành này.
Bảng 4.4 Các họ có số loài nhiều nhất
Kết quả từ bảng 4.4 cho thấy, trong tổng số 125 họ thực vật, chỉ có 10 họ chiếm 8% tổng số loài Đáng chú ý, họ thầu dầu là họ có số loài lớn nhất trong số này.
Trong tổng số loài, họ đậu chiếm 7.77% với 37 loài, trong khi họ cúc đứng thứ hai với 29 loài, tương đương 6.09% Các họ bạc hà, ô rô, ngũ gia bì và re có số lượng loài thấp nhất, mỗi họ chỉ có 11 loài, chiếm 2.31% tổng số loài.
Khu vực nghiên cứu thể hiện sự đa dạng phong phú về các loài cây thuốc, phân bố không đồng đều trong các trạng thái rừng khác nhau, chủ yếu tập trung vào các loài cây bụi và cây gỗ nhỏ.
4.1.3 Đa dạng về bậc chi
Tại Trung Thành sự đa dạng về các bậc chi Kết quả được thể hiện trong bảng 4.5 như sau:
Bảng 4.5 Các chi có loài cây thuốc nhiều nhất
Bảng 4.5 cho thấy rằng có 6 chi với số loài phong phú nhất, trong đó chi Ficus đứng đầu với 10 loài, chiếm 2.1% trong họ dâu tằm Điều này chứng tỏ sự đa dạng đáng kể của các chi tại khu vực điều tra.
4.1.4 Đa dạng về bộ phận sử dụng
Nghiên cứu về các bộ phận sử dụng của cây thuốc cho thấy mỗi loài cây đều có giá trị sử dụng riêng, và các bộ phận khác nhau của cùng một cây thuốc được áp dụng cho những mục đích chữa bệnh khác nhau Việc lựa chọn bộ phận nào của cây thuốc để sử dụng là rất quan trọng nhằm đạt hiệu quả cao và đảm bảo an toàn cho người dùng Khảo sát này không chỉ làm nổi bật tính đa dạng trong khả năng chữa bệnh của các bộ phận mà còn cung cấp tư liệu quý giá để đánh giá thực trạng khai thác và sử dụng tài nguyên cây thuốc trong cộng đồng dân tộc thiểu số Kết quả phân tích các bộ phận cây thuốc được trình bày trong bảng 4.6.
Bảng 4.6 Đa dạng về bộ phận sử dụng của cây thuốc
STT Bộ phận sử dụng
Ghi chú: Bảng này có số loài lớn hơn 476 loài do một số loài có thể có nhiều bộ phận được sử dụng.
Bảng kết quả 4.6 cho thấy người dân khu vực Trung Thành sử dụng đa dạng các bộ phận của cây làm thuốc, bao gồm lá, thân, rễ, củ, hoa, quả, mủ, nhựa và vỏ cây Điều này chứng tỏ tri thức về việc sử dụng cây cỏ làm thuốc của cộng đồng tại Trung Thành đã phát triển mạnh mẽ.
Nghiên cứu đặc điểm phân bố của cây thuốc tại khu xã Trung Thành 39 4.3 Thực trạng khai thác và sử dụng tài nguyên cây thuốc tại khu vực nghiên cứu
Để nghiên cứu sự phân bố của các loài cây thuốc trong khu vực, chúng tôi đã áp dụng phương pháp điều tra chuyên ngành Cụ thể, chúng tôi thiết lập các tuyến điều tra để lập các ô tiêu chuẩn (OTC) và tiến hành đo đếm các chỉ tiêu thuộc tầng cây gỗ, tầng cây tái sinh và tầng cây bụi thảm tươi.
Khu vực nghiên cứu được chia thành hai đai cao khác nhau: Đai 1 (200m - 700m) và Đai 2 (700m - 1200m) Tại mỗi đai, các ô tiêu chuẩn được thiết lập để đại diện cho các kiểu trạng thái rừng khác nhau, từ đó tiến hành lập OTC cho từng trạng thái rừng trong hai đai cao này.
Dựa vào cấu trúc đai cao ta có kết quả trong bảng sau:
Bảng 4.10 Thành phần loài và cấu trúc tầng thứ theo đai cao Đai cao (m)
Ghi chú: Bảng này có số loài lớn hơn 476 loài do một số loài có thể sống ở các đai cao khác nhau.
Bảng 4.10 cho thấy các cây thuốc chủ yếu phân bố ở đai cao từ 200-700m, trong đó rừng trung bình có số lượng cây thuốc nhiều nhất, trong khi ở ruộng, số lượng cây thuốc phân bố ít nhất Đối với đai trên 700m, cây thuốc tập trung chủ yếu ở rừng già trên núi cao, và số lượng loài ở ven khe là ít nhất.
Hiện nay có những loài chỉ gặp ở đai cao như Biến hóa núi cao, Lan kim tuyến, Hoàng đằng, Thanh thiên quỳ
Một số loài cây gỗ có bộ phận dùng làm thuốc, như sến mật, nhội, trám, cẩu tích, tắc kè đá, bổ béo đen, bình vôi và hoàng đằng, phân bố ở hai đai khác nhau.
Quá trình đánh giá sự đa dạng về dạng sống cho thấy các loài cây thuốc phân bố rất phong phú và phức tạp theo môi trường sống Các cây thuốc có thể sống ở nhiều dạng sinh cảnh khác nhau như vùng đồi núi cao, đồi núi thấp, rừng thưa, rừng thứ sinh phục hồi sau cháy, gần nước khe suối, ven đồng ruộng, và cả ven đường đi Dựa vào hiện trạng và sự tập trung phân bố tự nhiên của cây thuốc, tôi đã phân chia sinh cảnh phân bố của chúng thành 9 nhóm chính, kết quả được thể hiện trong bảng 4.11 dưới đây.
Bảng 4.11 Phân bố cây thuốc trong các sinh cảnh sống
Kết quả từ bảng 4.9 cho thấy sự phân bố không đồng đều của các loài cây thuốc trong các sinh cảnh, điều này có thể do thời điểm khảo sát không trùng với mùa sinh trưởng tối ưu của các cây thuốc hoặc do tác động từ các hoạt động khai thác của con người.
Khu vực nghiên cứu ghi nhận sự phân bố đa dạng của các loài cây thuốc, chủ yếu tập trung ở sinh cảnh rừng thứ sinh với 348 loài, chiếm 34,49% tổng số loài Tiếp theo là sinh cảnh trảng cỏ cây bụi với 218 loài, tương đương 21,61% Sinh cảnh môi trường nước có số lượng loài ít nhất, chỉ với 3 loài, chiếm 0,3% Các loài cây thuốc trong môi trường rừng không chỉ có ý nghĩa quan trọng trong việc chữa trị bệnh mà còn góp phần thúc đẩy quá trình tái sinh và phục hồi rừng.
Sinh cảnh rừng nguyên sinh hiện chỉ còn tồn tại ở độ cao trên 700 m và xa khu dân cư, nhưng vẫn có nhiều loài quý hiếm và có giá trị sử dụng cao như Lan lim tuyến và Thanh thiên quỳ Việc bảo tồn những loài này là rất cần thiết.
Sinh cảnh rừng thứ sinh đã chịu tác động từ khai thác gỗ trong nhiều năm, nhưng vẫn duy trì được cấu trúc với tầng tán chính bao gồm các loài cây gỗ Ngoài ra, rừng còn có tầng cây tái sinh, tầng cây bụi thảm tươi và thực vật ngoại tầng, tạo nên sự đa dạng sinh học trong hệ sinh thái này.
Diện tích rừng thứ sinh phục hồi đã được giao cho các hộ gia đình để bảo vệ và phòng hộ Người dân có quyền khai thác lâm sản ngoài gỗ, bao gồm cả cây thuốc, nhưng phải tuân theo hướng dẫn của cơ quan chức năng.
Các loài cây thuốc trong vườn nhà thường có nguồn gốc trồng hoặc mọc tự nhiên Chúng được sử dụng để chữa các bệnh thông thường như cảm cúm, nhức đầu, và đau bụng Nhiều loại cây còn vừa làm thuốc vừa làm gia vị, chẳng hạn như gừng, tía tô, lá lốt, lá khôi, nhội, sung và rau sắng.
Một số loài có phạm vi phân bố ở nhiều sinh cảnh như nhội, sung, sến mật, trám
Các cây thuốc trong rừng khu vực điều tra đang bị khai thác nghiêm trọng, với nhiều nhà buôn thường xuyên đến thu mua Người dân lên rừng lấy cây cỏ củ để bán mà không biết mục đích sử dụng và tác dụng của chúng Do đó, bảo vệ rừng chính là bảo vệ nguồn tài nguyên cây thuốc quý giá trong khu vực.
Nghiên cứu môi trường sống của từng loài là rất quan trọng, giúp bảo tồn sự đa dạng cây thuốc và cung cấp nguồn nguyên liệu hữu ích cho việc sản xuất thuốc chữa bệnh.
4.3 Thực trạng khai thác và sử dụng tài nguyên cây thuốc tại khu vực nghiên cứu
4.3.1 Tình hình khai thác cây thuốc để sử dụng tại cộng đồng
Xã có một trạm y tế nằm ở trung tâm, nhưng trang thiết bị y tế và thuốc men còn thiếu thốn Để bảo vệ sức khỏe cho người dân tại các khu vực đồng bào dân tộc thiểu số, y học truyền thống và cây thuốc hoang dã vẫn đóng vai trò quan trọng.
Tại Trung Thành, 100% hộ gia đình vẫn duy trì việc sử dụng cây thuốc hoang dại và áp dụng kinh nghiệm truyền thống trong phòng và chữa bệnh, cho thấy việc khai thác cây thuốc tự nhiên diễn ra thường xuyên.
Khai thác cây thuốc để sử dụng tại cộng đồng ở Trung Thành được quan tâm ở mức độ:
Đề xuất giải pháp bảo tồn và phát triển tài nguyên cây thuốc cho xã
4.4.1 Các giải pháp về kỹ thuật
- Điều tra thường xuyên về số lượng loài thuốc để bảo tồn và phát triển.
Xây dựng mô hình vườn cây thuốc nhỏ tại hộ gia đình không chỉ giúp người dân tăng thu nhập mà còn góp phần bảo tồn và phát triển các loài cây thuốc quý.
Hiện nay, xã có một vườn cây thuốc nhỏ với số lượng loài hạn chế Do đó, cần ưu tiên xây dựng một vườn sưu tập các loài cây thuốc tại trạm xã nhằm bảo tồn, chuyển chỗ và sử dụng hiệu quả Bên cạnh đó, việc thiết lập một vườn thực vật nhỏ tại trường THCS của xã cũng rất cần thiết để học sinh có cơ hội thực tập và tìm hiểu về cây thuốc.
Kế hoạch bảo tồn cây thuốc được xây dựng dựa trên hai phương thức chính: Thứ nhất, nghiên cứu để chuyển đổi các cây thuốc hoang dại có giá trị cao thành cây trồng kinh tế cho các hộ gia đình trong vùng đệm Thứ hai, triển khai bảo tồn các loài cây thuốc có biên độ sinh thái hẹp tại vùng lõi.
Tiếp tục bảo vệ và chăm sóc các loài cây thuốc hiện có, đồng thời thực hiện khoanh nuôi để thúc đẩy tái sinh Bên cạnh đó, cần kết hợp trồng bổ sung các loài cây thuốc quý hiếm nhằm bảo tồn và phát triển nguồn dược liệu tự nhiên.
Cần tăng cường quản lý và bảo vệ rừng, đặc biệt là các trạng thái rừng và sinh cảnh có cây thuốc quý hiếm, nhằm duy trì môi trường sống phù hợp cho các loài Đề xuất bổ nhiệm thêm lực lượng kiểm lâm tại xã Trung Thành, kết hợp với các Tổ bảo vệ rừng và Kiểm lâm huyện để đảm bảo công tác bảo vệ rừng diễn ra toàn diện, hiệu quả và kịp thời.
Mở lớp tập huấn nhằm hướng dẫn người dân nhận thức về việc sử dụng và thu hái cây thuốc Lớp học sẽ quy định rõ ràng các loài cây mà người dân cần hạn chế thu hái, đồng thời hướng dẫn cách thu hái bền vững Ngoài ra, sẽ có danh sách các loài cây bị cấm buôn bán để bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên.
Mở lớp tập huấn cho người dân vùng đệm nhằm trang bị kỹ thuật trồng các loài cây thuốc, xây dựng vườn cây thuốc, phân tích thị trường cây thuốc, cũng như hướng dẫn kỹ thuật khai thác và bảo quản dược liệu.
4.4.2 Các giải pháp về chính sách, xã hội
Cần thiết lập quy hoạch chiến lược cho đất rừng sản xuất, đất rừng phòng hộ, và đất nông nghiệp để cải thiện quản lý Đồng thời, cần tiếp tục thực hiện hiệu quả các chính sách trồng rừng và bảo vệ rừng phù hợp với thực tiễn địa phương, cũng như chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng nhằm tạo nguồn thu nhập cho người dân từ rừng.
Xây dựng các tổ, đội tuần tra rừng tại xã, bản, tổ là cần thiết để tăng cường công tác bảo vệ rừng Cần thành lập đội cơ động với sự tham gia của nhiều ban, ngành chức năng Đồng thời, đào tạo đội ngũ khuyến nông viên và cộng tác viên có đủ trình độ và kinh nghiệm để hướng dẫn kỹ thuật cho người dân Mục tiêu là giúp họ phát triển và trồng các loài cây thuốc quý hiếm một cách hợp lý, đồng thời nâng cao nhận thức cho cộng đồng tại khu vực nghiên cứu.
- Tuyên truyền nâng cao nhận thức của người dân về tầm quan trọng của cây dược liệu.
Cần bảo tồn các loài cây thuốc quý tại chỗ để phục vụ đời sống gia đình và tăng thu nhập cho các hộ dân Đồng thời, nên xây dựng các vườn ươm nhỏ tại ban quản lý khu Bảo tồn và các trung tâm xã nhằm ươm trồng những cây thuốc tiềm năng như Sa nhân, Ba kích và dây bổ máu.
- Tìm giải pháp để cải thiện, nâng cao đời sống của người dân tại khu vực nghiên cứu, nhằm giảm thiểu sự phụ thuộc của người dân vào rừng.
KẾT LUẬN,TỒN TẠI VÀ KIẾN NGHỊ
Dựa trên phân tích và đánh giá tình hình sử dụng cũng như khai thác cây thuốc tại xã Trung Thành, tôi rút ra một số kết luận quan trọng Việc sử dụng cây thuốc trong cộng đồng đang gia tăng, song cần chú trọng đến việc bảo tồn và phát triển bền vững nguồn tài nguyên này Cần có các biện pháp quản lý hiệu quả để đảm bảo việc khai thác không làm cạn kiệt nguồn lợi cây thuốc, đồng thời nâng cao nhận thức của người dân về giá trị và lợi ích của cây thuốc trong đời sống hàng ngày.
Qua điều tra, khu vực nghiên cứu ghi nhận 476 loài cây được sử dụng để chữa bệnh, thuộc 5 ngành thực vật chính: Quyết trần, Thông đất, Dương xỉ, Thông và Mộc lan Trong đó, ngành Mộc lan chiếm ưu thế với 441 loài, ngành Thầu dầu có 37 loài, và chi Ficus có 10 loài Đáng chú ý, tài nguyên cây thuốc tại đây bao gồm 22 loài nằm trong danh mục Sách đỏ Việt Nam - Phần II và 7 loài theo Nghị định số 06/2019/NĐ-CP.
Lá cây là bộ phận được sử dụng nhiều nhất trong các nghiên cứu, chiếm tỷ lệ 26,36% Tiếp theo là thân cây với 180 loài, chiếm 22,81% Ngọn cây là bộ phận ít được sử dụng nhất, chỉ với 0,63% và có 5 loài.
Trong khu vực nghiên cứu, các loài cây thuốc chủ yếu phân bố ở sinh cảnh rừng tự nhiên, với số lượng phong phú nhất là rừng thứ sinh, chiếm 34,49% tổng số loài với 348 loài Tiếp theo là sinh cảnh trảng cỏ cây bụi, có 218 loài, chiếm 21,61% Sinh cảnh ngập nước có số loài ít nhất, chỉ với 3 loài, chiếm 0,3%.
Khu vực nghiên cứu phân bố cây thuốc được chia thành hai đai cao: từ 200 - 700m và từ 700 - 1200m Các sinh cảnh chủ yếu bao gồm rừng già núi cao, rừng trung bình, rừng nghèo kiệt, rừng phục hồi, rừng trồng, nương rẫy, tràng cỏ, ven khe cạn, ven khe suối và vườn nhà.