Cách tiếp cận
Nghiên cứu này áp dụng cách tiếp cận nghiên cứu có sự tham gia để đánh giá tổng hợp các vấn đề môi trường, dân sinh, kinh tế và xã hội từ góc nhìn hệ thống, nhằm xây dựng khung sinh kế bền vững với sự tham gia của cộng đồng Việc lựa chọn phương pháp này yêu cầu thu thập thông tin từ các nhóm liên quan khác nhau trong khu vực nghiên cứu, do đó, nghiên cứu chỉ dừng lại ở việc phát hiện và xác minh các vấn đề mà không tiến hành đánh giá định lượng cho hệ thống quản lý rừng hiện tại.
Tóm lại, phương pháp tiếp cận tổng quát ở đây là:
Bài viết này thu thập thông tin về dòng thời gian, dân số và hiện trạng phân bố dân cư tại xã Mã Đà Đồng thời, nó cũng xem xét diện tích đất sản xuất và mức thu nhập từ các hoạt động sản xuất của cộng đồng dân cư nơi đây.
- Điều tra thông tin liên quan đến những sinh kế hiện tại của người dân xã
Mã Đà thường sử dụng, mà những sinh kế đó có phụ thuộc vào tài nguyên rừng của Khu Bảo tồn Thiên nhiên và Di tích Vĩnh Cửu.
Nội dung bài viết phân tích nguyên nhân hình thành các sinh kế của cộng đồng dân cư xã Mã Đà dựa vào tài nguyên rừng, đồng thời đánh giá những tác động của các sinh kế này đối với rừng trong Khu Bảo tồn Thiên nhiên và Di tích Vĩnh Cửu Các yếu tố như nhu cầu sinh sống, văn hóa địa phương và sự phụ thuộc vào tài nguyên thiên nhiên đã thúc đẩy sự phát triển của các hoạt động kinh tế, nhưng cũng gây ra áp lực lên hệ sinh thái rừng, dẫn đến những hệ quả tiêu cực cho môi trường.
Phương pháp lấy mẫu sử dụng đơn vị là hộ gia đình, sau đó tiến hành xử lý, phân tích và tính toán trên mẫu Từ đó, có thể suy ra các kết luận cho tổng thể cộng đồng nghiên cứu.
Phương pháp thu thập thông tin
Để thu thập thông tin thứ cấp về điều kiện tự nhiên, kinh tế và xã hội của địa bàn nghiên cứu, cần tham khảo các nghiên cứu đã được thực hiện, bao gồm báo cáo hàng năm và tài liệu từ các dự án phát triển liên quan Nguồn thông tin này sẽ được thu thập từ các cơ quan, đơn vị có liên quan như Ủy ban Nhân dân và các tổ chức phòng ban ở cấp huyện và xã.
Quan sát trực tiếp là phương pháp hiệu quả để thu thập và xác minh thông tin về tình hình sử dụng đất cũng như cách quản lý tài nguyên thiên nhiên của cộng đồng trong khu vực nghiên cứu.
Kết hợp phỏng vấn chuyên sâu với những nhân vật chủ chốt như chủ tịch xã, trưởng thôn và già làng để thu thập thông tin từ cộng đồng địa phương Thiết kế bảng câu hỏi tập trung vào các vấn đề nghiên cứu nhằm phục vụ cho phỏng vấn bán định hướng, với đơn vị hỏi là hộ gia đình Phần lớn các câu hỏi được xây dựng dưới dạng đóng để dễ dàng thu thập dữ liệu (xem phần phụ lục 1).
- Dung lượng mẫu quan sát (đơn vị hộ) [12]: n trong đó:
- n: số hộ cần điều tra, N: tổng số hộ hiện có
- t: hệ số tin cậy của kết quả (t = 1,64)
- S 2 : phương sai mẫu (0,25) Với tổng số hộ (N) của xã Mã Đà là 1.725 hộ, do đó n tính được khoảng
Chúng tôi sẽ tiến hành khảo sát 66 hộ, nhưng để đảm bảo độ tin cậy, số lượng sẽ được rút gọn xuống còn gấp đôi, tức là khoảng 8% tổng số hộ trong 6 ấp thuộc khu vực vùng đệm của KBT, ngoại trừ ấp 1 nằm ngoài khu bảo tồn.
Kết quả khảo sát cho thấy có 132 hộ gia đình đang sinh sống tại 6/7 ấp của xã Mã Đà đã được chọn ngẫu nhiên, với số lượng hộ ở từng ấp tương ứng với tỷ lệ mẫu chung Cụ thể, số hộ được điều tra tại các ấp là: ấp 2 có 15 hộ, ấp 3 có 12 hộ, ấp 4 có 27 hộ, và ấp 5 có 48 hộ.
6: 10 hộ và ấp 7: 20 hộ (chi tiết ở phụ lục 1).
- Sử dụng một số công cụ PRA (Participatory Rural Appraisal) để thu thập và phân tích thông tin, cụ thể như sau:
Sử dụng bản đồ, dù là bản đồ có sẵn hay vẽ nháp, là phương pháp hiệu quả để tiếp cận các đối tượng nghiên cứu và các nguồn tài nguyên thiên nhiên như đất, nước, động thực vật rừng trong khu vực.
Vẽ sơ đồ phác thảo khu vực nghiên cứu và thực hiện các lát cắt để phân tích hiện trạng sử dụng đất đai và tài nguyên thiên nhiên Đồng thời, đánh giá tiềm năng sử dụng tài nguyên thiên nhiên của cộng đồng địa phương cũng là một phần quan trọng trong nghiên cứu này.
Sử dụng công cụ dòng thời gian giúp hiển thị các sự kiện trong quá khứ và phân tích ảnh hưởng của chúng đến đời sống, tình hình sản xuất và việc sử dụng nguồn lực của cộng đồng trong khu vực nghiên cứu.
Hộ gia đình có thể được phân loại dựa trên nhiều tiêu chí như cách sử dụng tài nguyên thiên nhiên, thành phần dân tộc và mức sống, từ đó giúp xác định các nhóm liên quan khác nhau.
Họp dân theo nhóm quan tâm nhằm thảo luận sâu về một vấn đề cụ thể, chẳng hạn như phân tích SWOT, giúp tổng kết và kiểm chứng các thông tin cũng như công cụ đã được thu thập.
Phương pháp xử lý và phân tích thông tin
Công cụ hỗ trợ xử lý và phân tích dữ liệu bao gồm phần mềm Excel 2003 và SPSS 15.0 Dữ liệu được nhập vào bảng tính theo dạng hàng và cột, trong đó hàng đại diện cho hộ gia đình và cột thể hiện các biến chỉ tiêu Dữ liệu định tính được mã hóa theo các mức đã xác định trong bảng câu hỏi, như giới tính, dân tộc, hoặc loại cây trồng, trong khi dữ liệu định lượng bao gồm các số liệu như năng suất, thu nhập, đầu tư và chi phí Cần ghi chú rõ các loại mã hóa cho từng biến để đảm bảo tính chính xác trong phân tích.
Có 3 phương pháp phân tích số liệu thống kê được áp dụng trong đề tài này là:
Để xác định tần số hộ gia đình hoặc tỷ lệ phần trăm cho từng vấn đề, cần áp dụng nguyên tắc số đông, tức là tần số xuất hiện nhiều hơn Cụ thể, việc phân bố số hộ theo các chỉ tiêu nghiên cứu như lao động, nhà ở, tài sản, diện tích, tín dụng, năng suất và thu nhập là rất quan trọng (xem phụ lục 2.1) Dữ liệu thường được trình bày dưới dạng tỷ lệ phần trăm để dễ dàng phân tích và so sánh.
Xác định mối quan hệ phụ thuộc giữa các biến định tính và biến định lượng thông qua phương pháp trắc nghiệm thống kê Chi-square là một công cụ quan trọng Ví dụ, có thể phân tích mối quan hệ giữa độ tuổi lao động và dân tộc, trình độ học vấn theo giới tính, cũng như thu nhập liên quan đến dân tộc và độ tuổi lao động Phương pháp này giúp làm rõ những tương tác giữa các yếu tố xã hội và kinh tế.
Xác định mối quan hệ phụ thuộc giữa các biến định lượng thông qua phương pháp tính toán và kiểm tra ý nghĩa của hệ số tương quan là rất quan trọng Ví dụ, có thể phân tích quan hệ giữa tổng thu nhập và thu nhập từ các nguồn khác nhau, cũng như giữa thu nhập từ rừng và các loại thu nhập khác Ngoài ra, việc nghiên cứu tương quan giữa thu nhập và đầu tư cũng cần được xem xét Nếu cần thiết, có thể xác định hàm số hồi quy để hỗ trợ cho việc phân tích này.
Phân tích nguồn sinh kế bao gồm các nhóm sinh kế hiện có và đang phát triển theo ngành nghề, trong đó mỗi nhóm lại chứa đựng nhiều loại hình sinh kế khác nhau Đồng thời, việc phân tích nguồn tài sản tạo sinh kế theo phân loại của DFID cũng rất quan trọng để hiểu rõ hơn về các yếu tố ảnh hưởng đến sinh kế Cuối cùng, việc tìm hiểu nguyên nhân của vấn đề sẽ giúp xác định những thách thức và cơ hội trong việc cải thiện sinh kế cho cộng đồng.
Xác định và phân loại giá trị tài nguyên rừng là bước quan trọng trong việc cho điểm các chức năng môi trường Qua đó, các giá trị này được xếp hạng theo các nhóm liên quan, giúp lựa chọn chức năng môi trường ưu tiên cho từng nhóm tài nguyên rừng nhằm tối ưu hóa việc sử dụng và bảo vệ chúng.
Họp riêng các nhóm liên quan để xác định và thảo luận về cách sử dụng cũng như quản lý tài nguyên thiên nhiên theo quan điểm của từng nhóm.
Phân tích SWOT là công cụ hữu ích để xác định các điểm mạnh và điểm yếu trong việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên, đồng thời nhận diện cơ hội và nguy cơ ảnh hưởng đến sinh kế của các nhóm liên quan Qua việc đánh giá này, các bên có thể phát triển các chiến lược quản lý tài nguyên hiệu quả, tối ưu hóa lợi ích và giảm thiểu rủi ro cho cộng đồng.
33
Hiện trạng đời sống kinh tế xã hội và hệ thống sinh kế của cộng đồng dân cư xã Mã Đà
4.1.1 Hiện trạng về đời sống kinh tế và xã hội
4.1.1.1 Dòng thời gian và chiều hướng
Chúng tôi đã sử dụng công cụ Dòng thời gian để phỏng vấn người cao tuổi trong ấp và tham khảo thông tin thứ cấp, nhằm tái hiện những sự kiện quan trọng ảnh hưởng đến cách kiếm sống, tập quán sinh hoạt và phương thức sử dụng tài nguyên trong cộng đồng qua từng mốc thời gian cụ thể.
(1) Năm 1977: Lâm trường Mã Đà được thành lập (theo Quyết định số: 515/QĐ.UBT, ngày 10/6/1977 của UBND tỉnh Đồng Nai).
(2) Năm 1978: Nhà nước khởi công xây dựng Nhà máy thủy điện Trị An nằm trên địa phận huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai.
Năm 1992-1993, Lâm trường Mã Đà đã chuyển đổi cơ chế hoạt động từ hình thức tập trung bao cấp sang mô hình doanh nghiệp hạch toán độc lập, đồng thời triển khai các dự án nông lâm nghiệp theo chương trình 327.
(4) Năm 1997: Lâm trường Mã Đà đóng cửa rừng tự nhiên (Quyết định số: 4631/QĐ.UBT ngày 24/12/1997) và chuyển sang loại hình doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích.
Năm 2001-2002, chính quyền đã tiến hành lập sổ hợp đồng giao khoán đất sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp và nuôi trồng thủy sản cho tất cả các hộ dân có đất sản xuất, theo Nghị định 01/CP của Chính phủ.
(6) Năm 2003: Xã Mã Đà được thành lập.
Năm 2004-2005, Khu Dự trữ Thiên nhiên Vĩnh Cửu được thành lập bằng cách sáp nhập ba Lâm trường: Mã Đà, Hiếu Liêm và Vĩnh An theo Quyết định số 4679/QĐ.UB ngày 03/12/2003 Đồng thời, UBND huyện Vĩnh Cửu đã triển khai dự án Quy hoạch ổn định dân cư cho xã Mã Đà.
Năm 2006-2007, Trung tâm quản lý di tích chiến khu Đ đã sáp nhập với Khu DTTN Vĩnh Cửu, và được đổi tên thành Khu Bảo tồn Thiên nhiên và Di tích Vĩnh Cửu Khu Bảo tồn tiến hành rà soát tất cả các diện tích đất đã giao khoán cho người dân theo Nghị định 01/CP để chuẩn bị cho việc giao khoán theo Nghị định 135/CP.
Dựa trên các mốc thời gian đã trình bày, chúng tôi đã thảo luận với nhóm người cao tuổi trong cộng đồng để phân tích và nhận định về ảnh hưởng của các sự kiện lịch sử đến đời sống kinh tế xã hội của xã Mã Đà.
Các hộ gia đình người dân tộc thiểu số sống rải rác trong rừng theo phong tục du canh, du cư, hoàn toàn phụ thuộc vào tài nguyên rừng cho sinh hoạt và sinh kế Nhà nước đã có chính sách bố trí định canh định cư cho họ.
Vào những năm 1970, các lâm trường hoạt động theo cơ chế tập trung bao cấp, chủ yếu tập trung vào việc quản lý và bảo vệ rừng, khai thác kinh doanh rừng tự nhiên, và trồng rừng để phủ xanh đất trống Trong giai đoạn này, mọi hoạt động của công nhân lâm trường đều mang tính tập thể, góp phần hình thành các cụm dân cư hiện nay Xuất phát từ những gia đình công nhân lâm trường, sinh kế của họ thường phụ thuộc vào tài nguyên rừng.
Việc xây dựng Nhà máy Thủy điện Trị An đã dẫn đến việc khai thác trắng một diện tích lớn rừng tự nhiên, thu hút lực lượng lao động từ khắp nơi Nhiều dân nhập cư tự do đã khai phá rừng lân cận để trồng trọt cho gia đình Sau khi các công trình hoàn thành, nhiều công nhân quyết định định cư ven hồ Dù đã có đất sản xuất nông nghiệp, nhưng do trình độ thâm canh thấp và giống cây trồng chưa được cải thiện, thu nhập từ nông nghiệp không đủ sống Vì vậy, họ vẫn chủ yếu phụ thuộc vào nghề rừng, khai thác lâm sản, làm thuê cho lâm trường và nuôi trồng, đánh bắt thủy sản trên mặt nước hồ thủy điện.
Sự kiện lâm trường Mã Đà trở thành doanh nghiệp nhà nước hạch toán độc lập đã tạo ra bước ngoặt quan trọng, thúc đẩy sản xuất và tạo việc làm cho người dân địa phương Nhà nước đã hỗ trợ người dân về giống cây trồng, vốn sản xuất và kỹ thuật canh tác theo mô hình nông lâm kết hợp, góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của cộng đồng Tuy nhiên, sau vài năm, tình trạng thiếu việc làm và thu nhập không được cải thiện đã xảy ra do vốn đầu tư từ Nhà nước thấp và không được cấp phát kịp thời Hệ quả là nhiều người dân lại quay trở về với cuộc sống phụ thuộc vào tài nguyên rừng tự nhiên.
Từ năm 1997, Lâm trường Mã Đà đã chuyển sang hình thức doanh nghiệp nhà nước công ích, tập trung vào việc quản lý, bảo vệ và phát triển vốn rừng Sự thay đổi này đã khiến lực lượng quản lý rừng chú trọng hơn đến công tác tuần tra và ngăn chặn can thiệp của người dân vào tài nguyên rừng Tuy nhiên, các nhà quản lý lâm nghiệp thời điểm đó chưa chú ý đến đời sống người dân và lĩnh vực lâm nghiệp xã hội, dẫn đến việc áp dụng các chính sách quản lý chưa đồng bộ và mang tính áp đặt Hệ quả là, nhiều hộ dân sống trong và gần rừng đã gặp khó khăn do thu nhập từ khai thác lâm sản bị hạn chế đột ngột.
Mặc dù người dân đã canh tác đất từ năm 1990, nhưng họ chưa được Lâm trường Mã Đà công nhận quyền sử dụng hợp pháp, dẫn đến việc thiếu chủ động trong quyết định về cây trồng và đầu tư Năm 2002, Lâm trường đã công nhận quyền sử dụng đất cho người dân thông qua hợp đồng giao khoán đất sản xuất nông nghiệp và đất rừng trồng theo Nghị định số 01/CP Sự kiện này thể hiện sự quan tâm của Lâm trường đối với người dân, tạo điều kiện cho những định hướng mới trong phát triển sản xuất nông hộ.
Năm 2003, xã Mã Đà được thành lập, chính quyền địa phương đã lập sổ hộ khẩu gia đình cho người dân chưa có hộ khẩu thường trú, từ đó quản lý hành chính hiệu quả hơn Người dân tại xã Mã Đà đã được hưởng quyền lợi từ các chính sách của Nhà nước.
Để tuân thủ quy chế quản lý rừng đặc dụng và hạn chế tác động tiêu cực từ con người, UBND tỉnh Đồng Nai đã chỉ đạo UBND huyện Vĩnh Cửu thực hiện “Dự án quy hoạch ổn định dân cư xã Mã Đà” Dự án này yêu cầu di dời một số ấp và ổn định một số ấp khác tại chỗ Chính quyền địa phương và KBT đang đối mặt với thách thức xây dựng giải pháp phát triển kinh tế cho cộng đồng thông qua những sinh kế mới, nhằm giảm dần sự phụ thuộc của người dân vào tài nguyên rừng và thực hiện kế hoạch khai thác, sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên này.
Từ những biến đổi lịch sử tại xã Mã Đà, có thể khẳng định rằng người dân nơi đây luôn phụ thuộc vào tài nguyên rừng cho sinh kế và tập quán của họ, dù mức độ phụ thuộc có khác nhau, từ trực tiếp đến gián tiếp.
Sự phụ thuộc vào tài nguyên rừng cho sinh kế của các nhóm hộ dân tại xã Mã Đà
4.2.1 Sự phụ thuộc của các nhóm hộ dân vào tài nguyên rừng Để đi tìm hiểu sự phụ thuộc vào tài nguyên rừng của các nhóm hộ tại địa phương, trước hết sẽ phân tích nguồn thu nhập từ rừng của các nhóm dân cư này. Bởi vì, thu nhập từ rừng là một chỉ báo quan trọng của những cộng đồng có cuộc sống dựa vào rừng Việc phân tích nguồn thu nhập từ rừng của người dân có thể cung cấp một sự hiểu biết sâu sắc về việc quản lý tài nguyên và chiến lược sinh kế của họ Ngoài ra, thu nhập từ những hoạt động liên quan đến rừng cũng được coi như là một tiêu chuẩn để đánh giá giá trị của tài nguyên rừng và sự phụ thuộc của con người vào rừng. Đa dạng sinh học của tài nguyên rừng trên địa bàn xã Mã Đà nói riêng và KBT Vĩnh Cửu nói chung đã có tác dụng quan trọng đối với đời sống của cộng đồng dân cư địa phương Từ nhiều năm nay, việc khai thác tài nguyên rừng mang lại nguồn thu nhập cho người dân xã Mã Đà Kết quả từ bảng 4.10 và hình 4.2 ở phần trên đã cho ta thấy ngay rằng, nhóm người dân tộc có đời sống phụ thuộc vào rừng cao hơn so với nhóm người Kinh.
Phần tiếp theo sau đây là những phân tích chi tiết cho sự phụ thuộc vào rừng của hai nhóm này.
Bảng 4.14 Cơ cấu thu nhập (%) từ các sản phẩm rừng của nhóm hộ
Nhóm hộ dân sử dụng TNR
Thu nhập bình quân từ các sản phẩm rừng của nhóm hộ người Kinh đạt 19,6 triệu đồng/hộ, trong khi nhóm người dân tộc chỉ đạt 13,7 triệu đồng/hộ Theo bảng 4.14, nguồn thu từ các sản phẩm khác như dầu chai, mật ong, và song mây chiếm tỷ lệ cao nhất, đạt 34,2% tổng thu nhập từ rừng Tiếp theo là thu nhập từ hoạt động khai thác gỗ, chủ yếu là gỗ lục, chiếm 27,1% Đối với nhóm hộ người dân tộc, nguồn thu chính đến từ khai thác dầu chai và mật ong (45,7%), trong khi thu nhập từ thực vật rừng như măng, mây, cây thuốc, lồ ô cũng chiếm tỷ lệ cao (27,7%) Tỷ lệ thu nhập từ săn bắt động vật của họ thấp hơn so với người Kinh, đạt 11,1%, và hoàn toàn không có thu nhập từ rừng trồng.
Ngày nay, khi vốn rừng suy giảm và khả năng canh tác nông nghiệp tăng lên, sự phụ thuộc vào tài nguyên rừng của người Kinh có xu hướng giảm Tuy nhiên, một số người vẫn còn phụ thuộc vào rừng, đặc biệt trong mùa giáp hạt, khi thực phẩm từ rừng có thể làm đa dạng bữa ăn cho các gia đình khá giả và là nguồn thực phẩm chính cho các gia đình nghèo Hầu hết các hộ gia đình dân tộc tại xã Mã Đà đều gặp khó khăn, do đó, họ cần tác động đến rừng để duy trì sinh kế.
Ngoài việc khai thác gỗ, người dân còn thu hái các lâm sản khác như dầu chai và mật ong để phục vụ nhu cầu sinh hoạt và thị trường địa phương Những sản phẩm này dễ tiêu thụ và có nguồn tài nguyên phong phú, bao gồm nhiều loại cây thuốc, khiến người dân ưu tiên khai thác lâm sản đa dạng này.
Bài viết không chỉ sử dụng số liệu thu nhập từ rừng để thể hiện sự phụ thuộc của người dân vào rừng, mà còn nghiên cứu và phân tích một số chỉ báo khác để làm rõ mối quan hệ định lượng giữa các nguồn thu nhập và thu nhập chung của họ Các phân tích thống kê chi tiết được trình bày trong phụ lục 2.3.
Bảng 4.15 Mức độ quan hệ tương quan giữa các nguồn thu nhập
(Ghi chú: dấu ** biểu thị cho mức rất có ý nghĩa, * là mức có ý nghĩa)
Mức độ quan hệ tương quan giữa tổng thu nhập và thu nhập từ các nhóm nguồn cho sinh kế như chỉ ra ở bảng 4.15 cho thấy:
Tổng thu nhập của hộ gia đình có mối liên hệ chặt chẽ với thu nhập từ trồng trọt và chăn nuôi, trong đó thu nhập từ trồng trọt đóng vai trò quan trọng hơn Cụ thể, khi thu nhập từ trồng trọt tăng lên, tổng thu nhập chung của hộ gia đình cũng sẽ tăng theo.
Tổng thu nhập không tương quan trực tiếp với thu nhập từ rừng, mặc dù thu nhập từ rừng có mối quan hệ có ý nghĩa với thu nhập từ trồng trọt, nhưng mức độ liên kết này không mạnh mẽ.
Trong lĩnh vực nông nghiệp, tổng thu nhập từ trồng trọt và chăn nuôi có mối quan hệ tỷ lệ thuận, tức là khi thu nhập từ một nguồn tăng lên thì thu nhập từ nguồn kia sẽ giảm xuống.
Kết quả đánh giá cho thấy sinh kế của người dân phụ thuộc chủ yếu vào các nhóm sinh kế, đặc biệt là ngành trồng trọt và chăn nuôi, trong khi sự phụ thuộc vào rừng là không đáng kể Thu nhập từ rừng không phải là yếu tố quyết định sự sống còn, mà chỉ có ảnh hưởng gián tiếp hoặc hỗ trợ cho thu nhập, thậm chí có thể có mối quan hệ nghịch với thu nhập từ trồng trọt Những chỉ báo này là quan trọng trong quản lý tài nguyên, thể hiện rõ ở hai khía cạnh.
Cuộc sống hiện tại của người dân trong cộng đồng không còn hoàn toàn phụ thuộc vào rừng như trước đây, mặc dù một số hộ gia đình vẫn nhận được sản phẩm từ rừng Điều này cho thấy rằng, rừng chỉ đóng vai trò hỗ trợ sinh kế cho một số ít hộ gia đình nghèo, chứ không phải cho toàn bộ cộng đồng.
Mối quan hệ âm giữa thu nhập từ trồng trọt và thu nhập từ rừng cho thấy rằng, khi người dân có việc làm ổn định và thu nhập cao từ đất canh tác, họ sẽ ít có xu hướng vào rừng để kiếm thêm thu nhập.
Cần lưu ý rằng số liệu thu thập trong nghiên cứu về nguồn thu nhập từ rừng có thể chưa phản ánh chính xác thực tế Điều này đặc biệt quan trọng trong bối cảnh nhạy cảm hiện nay, khi địa điểm nghiên cứu nằm trong vùng đệm của Khu BTTN&DT Vĩnh Cửu, nơi mà mọi hoạt động xâm hại đến rừng đều bị nghiêm cấm.
4.2.2 Giá trị và tầm quan trọng của các sản phẩm từ rừng trong việc tạo ra sinh kế
Tài nguyên rừng tại xã Mã Đà không chỉ tạo thêm thu nhập mà còn góp phần bảo vệ môi trường cho cư dân địa phương Giá trị của sản phẩm từ rừng phụ thuộc vào mức sống và nhóm dân tộc Các sản phẩm gỗ và ngoài gỗ như dầu chai, măng, mây, tre nứa là nguồn thu nhập quan trọng cho nhiều hộ nghèo trong mùa khô Đối với nhóm hộ người Kinh, động vật rừng và lâm sản phụ không chỉ là nguồn thực phẩm mà còn dễ tiêu thụ Kết quả từ phỏng vấn 61 hộ gia đình cho thấy sự đánh giá cao về vai trò và tầm quan trọng của tài nguyên rừng.
5 nhóm loại sản phẩm từ rừng đóng góp vào thu nhập hộ trong việc tạo ra sinh kế(xem bảng 4.16).
Bảng 4.16 Tóm tắt xếp hạng về tầm quan trọng của các loại lâm sản
Gỗ từ rừng tự nhiên Động vật rừng
(Ghi chú: 1, 2 là thứ bậc xếp hạng ưu tiên tính trên 5 sản phẩm)
Kết quả từ bảng 4.16 và so sánh với thu nhập từ các sản phẩm (bảng 4.14) cho thấy rằng, không phải sản phẩm nào có thu nhập cao và dễ bán cũng được người dân đánh giá cao hơn Sự đánh giá này còn phụ thuộc vào khả năng tiếp cận nguồn tài nguyên, khả năng tự ứng phó trong tình huống khó khăn và tính cộng đồng trong quá trình thực hiện.
Trong số các sản phẩm ngoài gỗ từ rừng, dầu chai, mật ong và một số lâm sản phụ khác được người dân địa phương coi là quan trọng nhất Nhiều tháng trong năm, các hộ gia đình nhàn rỗi có thể vào rừng thu hái lâm sản, nhờ vào đường đi thuận tiện và không bị kiểm lâm kiểm soát Việc này không chỉ giúp họ có thêm thu nhập để trang trải chi phí sinh hoạt mà còn là nguồn tiền quý giá cho các hộ dân tộc để đóng học phí cho con cái.
Các nhân tố ảnh hưởng đến sinh kế và ảnh hưởng của sinh kế đến tài nguyên rừng
4.3.1 Ảnh hưởng của các nguồn lực tự nhiên và xã hội đến khả năng tiếp cận tài sản sinh kế
4.3.1.1 Các nguồn lực tự nhiên a) Tài nguyên đất và rừng
Xã Mã Đà có tổng diện tích tự nhiên lên tới 27.497 ha, trong đó đất nông nghiệp chiếm 7,9% với 2.171,1 ha, đất lâm nghiệp chiếm 85,1%, và phần còn lại là đất khác (7%) Diện tích vùng lõi của xã là 23.567,5 ha (85,7%), trong khi vùng đệm chiếm 3.929,5 ha (14,3%) Hiện tại, phần diện tích canh tác trong vùng lõi không được cấp quyền sử dụng, kể cả đất nương rẫy, do thuộc phạm vi quản lý của Khu Bảo tồn (KBT) Đối với đất lâm nghiệp trong ranh giới xã thuộc vùng đệm, xã và KBT cùng quản lý và đã giao một số diện tích cho người dân để trồng rừng theo chương trình 661.
Xã Mã Đà sở hữu tiềm năng lớn về đất nông nghiệp và lâm nghiệp, với diện tích đất tự nhiên lớn nhất trong huyện Vĩnh Cửu Đối với đất lâm nghiệp, dự kiến sẽ giao cho các hộ dân trong xã ngoài vùng đệm, nhằm giúp họ duy trì và phát triển vốn rừng, đồng thời hưởng lợi từ các sản phẩm rừng Điều này không chỉ góp phần cải thiện đời sống của người dân mà còn bảo vệ và phát triển bền vững nguồn tài nguyên rừng.
Với 21.527,4 ha diện tích đất có rừng tự nhiên cho thấy, xã Mã Đà có thế mạnh về các sản phẩm lâm nghiệp Từ năm 2002, một số khu vực thuộc địa bàn xã được công nhận là vùng đệm của Khu BTTN&DT Vĩnh Cửu Do đó, mọi tác động của người dân vào tài nguyên rừng tự nhiên bị hạn chế Điều này đã ảnh hưởng đến sinh kế của người dân Song, dự án BVR&PTNT cũng hình thành và triển khai giao đất giao rừng cho người dân theo quyết định 178 Đây là một hoạt động góp phần vào việc tăng diện tích đất canh tác cho người dân Tuy nhiên, điều này đã dẫn đến việc nảy sinh mâu thuẫn giữa những hộ được nhận và không được nhận rừng, nhưng ngược lại, tài nguyên rừng tự nhiên sẽ được bảo tồn và phát triển tốt hơn. b) Tài nguyên cây trồng Đất ở xã Mã Đà thuộc nhóm Feralit đỏ vàng phát triển trên sa phiến thạch, đây là nhóm đất chủ yếu và phổ biến nhất Nhóm đất này có độ phì trung bình, tầng đất mỏng nhưng trong điều kiện có nguồn nước tưới nên thích hợp với các loài cây công nghiệp dài ngày như cây ăn quả và cây lâm nghiệp.
Theo điều tra tại hiện trường, cây Xoài và Điều là hai loại cây trồng chủ yếu trong diện tích canh tác của các hộ gia đình Người dân lựa chọn cây Điều do phù hợp với điều kiện đất đai và dễ chăm sóc, đặc biệt là với các hộ nghèo và dân tộc thiểu số Đối với nhóm hộ người Kinh, cây Xoài chiếm ưu thế về số hộ trồng (76,2%) và diện tích canh tác trung bình đạt 1,16 ha/hộ.
Ngoài bắp và khoai mì, một số hộ gia đình người Kinh còn canh tác xen canh các loại cây ăn quả như mít, chôm chôm, đu đủ và rau đậu trong vườn Trong khi đó, lúa nước được nhóm hộ gia đình người Ch’ro ở ấp 7 chú trọng hơn, chủ yếu trồng ở vùng đất thấp trong mùa mưa Như vậy, số lượng cây trồng mang lại thu nhập trong khu vực này vẫn còn hạn chế.
Bảng 4.17 Mức độ quan hệ tương quan giữa các nguồn thu nhập
(Ghi chú: dấu ** biểu thị cho mức rất có ý nghĩa, * là mức có ý nghĩa)
Theo bảng 4.17, thu nhập từ trồng trọt có mối quan hệ chặt chẽ với thu nhập từ cây Xoài (r = 0,95) và cây Điều (r = 0,30) Điều này cho thấy rằng, hộ gia đình có thu nhập từ Xoài và Điều thường không có thu nhập từ lúa nước hoặc các loại cây ngắn ngày, vì hai nguồn thu nhập này hiếm khi xuất hiện cùng một hộ gia đình.
4.3.1.2 Cấu trúc cộng đồng và hộ gia đình a) Dân tộc, tôn giáo và thu nhập
Tính đến đầu năm 2007, xã Mã Đà có 1.725 hộ với tổng dân số 7.959 người Dân tộc chính tại đây là Ch’ro, nhưng chỉ chiếm 12 hộ trong tổng số Ngoài ra, xã còn có sự hiện diện của 8 dân tộc di cư khác.
Theo nghiên cứu từ 132 hộ gia đình, nhóm dân cư chủ yếu tại xã là người Kinh, chiếm 92,4% Các hộ gia đình người Kinh có nguồn gốc từ nhiều vùng khác nhau và đến định cư tại đây qua nhiều hình thức, chủ yếu theo nhóm công việc Điều này dẫn đến mối quan hệ xã hội không dựa nhiều vào dòng dõi gia đình hay địa phương, khác với các cộng đồng thuần túy địa phương Đặc điểm này là điểm nhấn trong nghiên cứu, khi so sánh sự khác biệt giữa hai nhóm sinh kế của người dân.
Theo kết quả điều tra 132 hộ, ba loại tôn giáo chính tại địa phương là Phật giáo (37,1%), Thiên chúa giáo (36,2%) và Tin lành (6,1%), trong khi 24,2% người dân không theo tôn giáo nào Để đánh giá sinh kế của người dân có phụ thuộc vào dân tộc và tôn giáo hay không, phương pháp kiểm định định tính đã được áp dụng Kết quả chi tiết về mối quan hệ này được thể hiện trong bảng 4.18, cụ thể là mức tổng thu nhập bình quân của các nhóm hộ dân (triệu/hộ/năm).
Kiểm định Chi-square cho thấy P = 0,008, cho thấy sự phụ thuộc giữa thu nhập và thành phần dân tộc là rất có ý nghĩa thống kê (P < 0,01) Cụ thể, nhóm người Kinh có thu nhập đa dạng, chủ yếu từ 25 – 50 triệu, trong khi nhóm dân tộc thiểu số chủ yếu có thu nhập dưới 25 triệu/hộ.
Bảng 4.18b Mức tổng thu nhập (triệu/hộ/năm) của các nhóm tôn giáo
Kết quả kiểm định Chi-square cho thấy P = 0,025, cho thấy sự phụ thuộc giữa thu nhập và thành phần tôn giáo là có ý nghĩa thống kê (P < 0,05) Cụ thể, nhóm Phật giáo có thu nhập cao nhất từ 25 – 50 triệu, nhóm Thiên chúa giáo thu nhập dưới 50 triệu, nhóm Tin lành chủ yếu dưới 25 triệu, trong khi nhóm không theo tôn giáo lại có thu nhập nổi bật hơn, dao động từ 50 – 100 triệu.
Xã này chủ yếu sống bằng sản xuất nông nghiệp, với tổng thu nhập hàng năm từ lĩnh vực này chiếm tới 63,0% Nhân khẩu và lao động trong hộ gia đình có ảnh hưởng quyết định đến các hoạt động nông nghiệp như trồng cây, chăm sóc và thu hoạch, tất cả đều cần nhiều lao động phổ thông Do đó, cấu trúc cộng đồng, thông qua các số liệu về nhân khẩu và lao động, có thể tác động đến sinh kế của hộ Kết quả về mức độ quan hệ được ghi nhận trong bảng 4.19, chi tiết kiểm định được lưu ở phụ lục 2.2.
Bảng 4.19 Mức tổng thu nhập (triệu/hộ/năm) theo số lao động/hộ
Kiểm định Chi-square cho thấy P = 0,017, cho thấy mối quan hệ phụ thuộc giữa thu nhập và số lao động/hộ là có ý nghĩa thống kê (P < 0,05) Cụ thể, hộ có 1-2 lao động có thu nhập dưới 25 triệu chiếm tỷ lệ cao nhất, trong khi hộ có 3-4 hoặc 5-6 lao động có thu nhập từ 25 đến 50 triệu lại chiếm ưu thế hơn.
Cuộc sống tại xã Mã Đà vẫn còn nhiều khó khăn, với nhiều hộ gia đình phải lo lắng từng bữa ăn, khiến việc tích lũy tài chính gần như không khả thi Tuy nhiên, từ năm 2008, tình hình đã cải thiện đáng kể khi số hộ vay vốn từ Ngân hàng NN&PTNT, Ngân hàng Chính sách xã hội và các tổ chức khác đã tăng lên 102/132 hộ Bên cạnh đó, xã cũng triển khai hình thức vay tín chấp thông qua Quỹ tín dụng người nghèo, với sự bảo lãnh từ Hội phụ nữ địa phương, góp phần hỗ trợ người dân vượt qua khó khăn.
Từ năm 2008, có 5 tổ chức chính thức, bao gồm Hội Nông dân và Hội Phụ nữ, cung cấp khoản vay với thời hạn từ 2 đến 4 năm, số tiền vay phổ biến từ 5 đến 10 triệu đồng (tối đa 20 triệu đồng) Kết quả cho thấy người dân đã sử dụng vốn vay hiệu quả và thực hiện tốt việc trả lãi hàng tháng và quý Minh chứng rõ nét là 132 hộ điều tra trong xã Mã Đà đã vay vốn và đạt được lợi nhuận qua thu nhập.
Bảng 4.20 Mức tổng thu nhập (triệu/hộ/năm) theo vốn vay tín dụng