TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Cơ sở khoa học và thực tiễn của vấn đề nghiên cứu
1.1.1 Các khái niệm liên quan đến chi trả dịch vụ môi trường
1 Chi trả Dịch vụ môi trường (PES):
Theo Mayrand và Paquin (2004), bảo vệ các dịch vụ môi trường được định nghĩa là việc tạo ra lợi ích cho cá nhân và cộng đồng thông qua việc bồi hoàn chi phí phát sinh từ quản lý và cung cấp những dịch vụ này.
Theo định nghĩa của Wunder (2005), giao dịch môi trường là sự thỏa thuận tự nguyện giữa ít nhất một bên sử dụng dịch vụ môi trường và một bên cung cấp dịch vụ đó Giao dịch này chỉ diễn ra khi bên cung cấp có khả năng đáp ứng các yêu cầu dịch vụ trong những điều kiện nhất định.
Hệ sinh thái rừng bao gồm các thành phần như thực vật, động vật, vi sinh vật, nước, đất, không khí và cảnh quan thiên nhiên Môi trường rừng mang lại nhiều giá trị sử dụng quan trọng cho xã hội và con người, bao gồm bảo vệ đất, điều tiết nguồn nước, phòng hộ đầu nguồn và ven biển, phòng chống thiên tai, duy trì đa dạng sinh học, hấp thụ và lưu giữ carbon, cũng như tạo điều kiện cho du lịch và là nơi cư trú, sinh sản của nhiều loài sinh vật, bên cạnh việc cung cấp gỗ và lâm sản khác.
3 Dịch vụ môi trường rừng:
Công việc cung ứng giá trị sử dụng của môi trường rừng nhằm đáp ứng nhu cầu xã hội và đời sống của người dân được quy định tại Nghị định 99/2010/NĐ-CP.
4 Chi trả dịch vụ môi trường rừng (PES):
Là quan hệ cung ứng và chi trả giữa bên sử dụng dịch vụ môi trường rừng trả tiền cho bên cung ứng dịch vụ môi trường rừng.
5 Chi trả dịch vụ môi trường rừng trực tiếp:
Người sử dụng dịch vụ môi trường rừng, tức là người phải chi trả, sẽ thanh toán trực tiếp cho người cung ứng dịch vụ môi trường, người nhận được khoản chi trả này.
Chi trả trực tiếp cho dịch vụ môi trường rừng được áp dụng khi bên sử dụng có khả năng thanh toán thẳng cho bên cung ứng mà không cần qua tổ chức trung gian Hình thức này dựa trên hợp đồng tự nguyện giữa hai bên, tuân thủ quy định của nghị định hiện hành, với mức chi trả không thấp hơn mức tối thiểu do Nhà nước quy định cho loại dịch vụ tương ứng.
6 Chi trả dịch vụ môi trường rừng gián tiếp:
Chi trả gián tiếp là hình thức mà bên sử dụng dịch vụ môi trường thanh toán cho bên cung ứng dịch vụ môi trường rừng thông qua Quỹ bảo vệ và phát triển rừng cấp tỉnh Quỹ này có thể được ủy quyền cho các cơ quan, tổ chức khác thực hiện nhiệm vụ của mình theo quyết định của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.
Chi trả gián tiếp được áp dụng khi bên sử dụng dịch vụ môi trường rừng không thể thanh toán trực tiếp cho bên cung cấp dịch vụ, mà thông qua tổ chức trung gian theo quy định Hình thức này có sự hỗ trợ và can thiệp từ Nhà nước, với mức giá dịch vụ môi trường rừng được quy định bởi cơ quan nhà nước.
1.1.2 Dịch vụ môi trường rừng và chi trả dịch vụ môi trường rừng
Giá trị môi trường rừng, mặc dù đã được công nhận từ lâu, thường được xem như hàng hóa công cộng mà mọi người có thể tự do tiếp cận và sử dụng Tình trạng này, đặc biệt ở các nước nghèo, không khuyến khích người lâm nghiệp bảo vệ và phát triển giá trị môi trường, dẫn đến thiệt hại cho nhiều ngành sản xuất và đời sống Do đó, cần có sự hợp tác giữa người làm rừng và những người hưởng lợi, chia sẻ trách nhiệm trong việc bảo vệ và phát triển giá trị môi trường Những giá trị này được phân tích và giao dịch như hàng hóa và dịch vụ, được gọi là dịch vụ môi trường rừng Chính sách khuyến khích trao đổi và mua bán dịch vụ môi trường rừng được gọi là chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng Hiện nay, trên thế giới có nhiều chương trình chi trả dịch vụ môi trường rừng (PES), bao gồm PES tự nguyện và PES chính phủ Trong PES tự nguyện, cả nhà cung cấp và người sử dụng dịch vụ đều tham gia dựa trên hợp đồng, trong khi PES chính phủ thường yêu cầu người sử dụng phải chi trả qua các khoản phí và lệ phí bắt buộc.
Several voluntary PES programs have been implemented globally, including those in Los Negros, Bolivia (Asquith et al., 2008), Pimampiro, Ecuador (Wunder and Albán, 2008), and Vittel, France (Perrot-Maître, 2006) Additionally, various government-led PES initiatives exist, such as the slope land protection program in China (Bennett, 2008), the PES program in Costa Rica (Pagiola, 2008), and the PES program in Mexico (Muñoz-Piña et al., 2008) The United States has a conservation services program (Claassen et al., 2008), while the UK has an environmental sensitivity program and national management scheme (Dobbs and Pretty, 2008) Other notable programs include the Northeim model project in Germany (Bertke and Marggraf, 2004), the Wimmera program in Australia (Shelton and Whitten, 2005), the CAMPFIRE environmental service payment initiative in Zimbabwe (Frost and Bond, 2008), and the water services program in South Africa (Turpie et al., 2008) Analyzing global forest PES information leads to several key observations.
Cho đến nay, các chương trình thanh toán dịch vụ môi trường (PES) chủ yếu do chính phủ thực hiện Người làm rừng thường gặp khó khăn trong việc quản lý giá trị dịch vụ môi trường, do đó, để triển khai chi trả dịch vụ này, cần có sự hỗ trợ từ nhà nước Vì vậy, việc chi trả dịch vụ môi trường rừng trở thành một yêu cầu bắt buộc.
Các chương trình PES (Payment for Ecosystem Services) đã được phát triển trong những năm gần đây, bắt đầu từ chương trình dịch vụ bảo tồn tại Mỹ vào năm 1983, và hầu hết các chương trình còn lại được hình thành từ những năm 90 trở đi.
Mục tiêu của PES rất đa dạng, bao gồm bảo vệ nguồn nước, đa dạng sinh học, cảnh quan, đất ướt, đất, động vật hoang dã, kiểm soát nhiễm mặn và tích lũy Carbon Trong số đó, chương trình bảo vệ nguồn nước là phổ biến nhất và được coi là một trong những hiệu quả môi trường quan trọng nhất của rừng Các chương trình PES tự nguyện chủ yếu tập trung vào việc bảo vệ nguồn nước.
Các chương trình PES tập trung vào bảo tồn rừng, trồng rừng mới và tái trồng rừng, đồng thời áp dụng công nghệ mới trong chăn nuôi bò sữa và nông lâm kết hợp Ngoài ra, các chương trình này cũng khuyến khích canh tác nông nghiệp thân thiện với môi trường, bảo vệ đa dạng sinh học, quản lý thay đổi sử dụng đất, và bảo tồn cảnh quan thiên nhiên, đồng thời loại trừ các sinh vật xâm hại Mục tiêu chính vẫn là bảo vệ rừng và phát triển nông nghiệp bền vững.
Đối tượng chi trả dịch vụ môi trường rừng bao gồm nhiều thành phần như chính quyền địa phương, sở ban ngành, tập đoàn điện lực, chính quyền Trung ương, cơ quan lâm nghiệp, chính phủ, quỹ tư nhân, tài trợ quốc tế và người dân sử dụng nước Trong số đó, phần lớn là các tổ chức và cơ quan chính phủ cũng như phi chính phủ.
Tổng quan về các công trình đã công bố về vấn đề nghiên cứu
Hoạt động chi trả dịch vụ môi trường nhằm khuyến khích và mang lại lợi ích cho những người sử dụng hệ sinh thái có giá trị môi trường, với mục tiêu bảo vệ và tăng cường các dịch vụ môi trường phục vụ lợi ích cộng đồng Qua đó, từng cá nhân trong cộng đồng có thể trực tiếp hưởng lợi từ các dịch vụ mà họ cung cấp Điều này có nghĩa là những người cung cấp dịch vụ môi trường cần được chi trả hoặc bồi hoàn cho những nỗ lực duy trì chức năng của hệ sinh thái, trong khi những người sử dụng dịch vụ môi trường cũng cần chi trả cho các dịch vụ này.
Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra vai trò quan trọng của môi trường, đặc biệt là giá trị của rừng Tuy nhiên, với cách tiếp cận sử dụng và hưởng lợi tự do từ tài nguyên rừng, nhiều quốc gia chưa khuyến khích người dân và những người làm nghề rừng bảo vệ và phát triển các giá trị môi trường Điều này đã dẫn đến những thiệt hại nghiêm trọng cho môi trường sống và các ngành sản xuất liên quan.
Suy giảm rừng do phá rừng và sử dụng không hợp lý đã gây ra nhiều hệ lụy nghiêm trọng, bao gồm gia tăng thảm họa tự nhiên ảnh hưởng đến đời sống và sản xuất Hàng năm, lũ lụt khiến hàng ngàn người thiệt mạng và hàng vạn gia đình mất nhà cửa Bên cạnh đó, sự bồi lắng tại các hồ chứa thủy điện không chỉ giảm tuổi thọ của hồ mà còn làm tăng chi phí sản xuất điện Ô nhiễm nguồn nước đe dọa sự sống của các loài cá, động và thực vật trong hệ sinh thái nước nhạy cảm, đồng thời ảnh hưởng đến chất lượng nước sinh hoạt của con người.
Để bảo vệ và phát triển giá trị môi trường rừng, chúng ta cần hợp tác đồng bộ nhằm chia sẻ lợi ích và trách nhiệm Giá trị của rừng, đặc biệt là dịch vụ môi trường, ngày càng được công nhận qua các chức năng như bảo vệ nguồn nước, điều hòa không khí, hấp thụ carbon, bảo tồn đa dạng sinh học, tạo cảnh quan đẹp và giảm thiểu biến đổi khí hậu Cơ cấu giá trị dịch vụ môi trường rừng bao gồm: hấp thụ carbon (27%), bảo tồn đa dạng sinh học (25%), bảo vệ đầu nguồn (21%), vẻ đẹp cảnh quan (17%) và các giá trị khác (10%).
Với tầm quan trọng của dịch vụ môi trường rừng, nhiều tổ chức và quốc gia đã thiết lập các cơ chế quản lý, coi dịch vụ này như một loại hàng hóa Một số quốc gia đã nghiên cứu và phát triển cơ chế chi trả cho dịch vụ môi trường (Payment for Environment Services - PES) nhằm quản lý bền vững và đảm bảo nguồn tài chính cho bảo vệ và phát triển rừng Đây là xu hướng mới trong quản lý dịch vụ môi trường rừng, hướng tới phát triển bền vững cho mỗi quốc gia và toàn cầu.
1.2.1 Trên thế giới Đến nay trên thế giới đã có nhiều chương trình chi trả dịch vụ môi trường rừng (PES) Chúng được chia thành nhóm các chương trình PES tự nguyện và PES chính phủ Trong chương trình PES tự nguyện, cả nhà cung cấp dịch vụ môi trường và người sử dụng dịch vụ đều tự nguyện trên cơ sở hợp đồng Ngược lại, trong các chương trình PES chính phủ tài trợ thường chỉ tự nguyện ở bên nhà cung cấp, còn người sử dụng dịch vụ môi trường rừng sẽ chi trả qua các dạng phí và lệ phí bắt buộc.
Several voluntary PES programs have been implemented globally, including those in Los Negros, Bolivia (Asquith et al., 2008), Pimampiro, Ecuador (Wunder and Albán, 2008), and Vittel, France (Perrot-Maître, 2006) Additionally, government-led PES initiatives such as the slope land protection program in China (Bennett, 2008), Costa Rica's PES program (Pagiola, 2008), and Mexico's PES efforts (Muñoz-Piña et al., 2008) highlight the diverse applications of PES Other notable programs include conservation service initiatives in the United States (Claassen et al., 2008), the environmental sensitivity program and national management scheme in the UK (Dobbs and Pretty, 2008), the Northeim model project in Germany (Bertke and Marggraf, 2004), the Wimmera program in Australia (Shelton and Whitten, 2005), and the CAMPFIRE environmental payment system in Zimbabwe (Frost and Bond, 2008), along with the water-focused initiatives in South Africa (Turpie et al., 2008).
Từ cuộc điều tra toàn cầu về các chương trình chi trả cho dịch vụ môi trường, Châu Mỹ La tinh dẫn đầu với 101 chương trình, trong đó 36 chương trình hoạt động đã tạo ra 31 triệu đô-la Mỹ cho bảo tồn vùng đầu nguồn và tác động tới 2.3 triệu héc-ta vào năm 2008 Các chương trình này bắt đầu từ Quỹ nước đầu tiên ở Ecuador, sau đó mở rộng sang Colombia, Brazil và hiện tại là Peru, nhằm gây quỹ cho bảo tồn vùng thượng nguồn thông qua sự công bằng của người sử dụng dưới hạ lưu, đồng thời đóng vai trò là mô hình nhân rộng cho các thị trường hệ sinh thái toàn cầu.
Mặc dù nghiên cứu cho thấy Châu Á có 33 chương trình, trong đó 9 chương trình đã hoạt động từ năm 2008, nhưng khu vực này vẫn được coi là kém năng động Một số chương trình đã được triển khai từ giữa những năm trước đó.
80 Tổng giá trị chi trả là 1,8 triệu đô năm 2008 có ảnh hưởng tới gần 110 ngàn héc- ta đất Hoạt động được thực hiện bởi các dự án được thành lập và hỗ trợ bởi RUPES (Đền đáp Người dân ngèo Vùng cao vì các Dịch vụ Hệ sinh thái) như là nỗ lực nghiên cứu nhằm xây dựng các chương trình dịch vụ môi trường thực tế ở Đông Nam Á.
Số lượng và chủng loại các chương trình PES ở Trung Quốc đang tăng nhanh trong những năm gần đây, từ 8 chương trình năm 1999 đến hơn 47 năm
2008 với tổng giá trị giao dịch khoảng 7.8 tỷ đô-la Mỹ đó tác động đến hơn
Trung Quốc hiện có 290 triệu ha đất, và các chương trình chi trả cho dịch vụ rừng chủ yếu được thực hiện bởi chính phủ, nhằm thúc đẩy phát triển và đổi mới trong các cơ chế đền bù sinh thái Một động lực tiềm năng cho việc chi trả dịch vụ môi trường rừng ở cấp tỉnh và quốc gia là hệ thống mới về mua bán quyền xả thải vào nước Các hoạt động hiện tại bao gồm việc thành lập diễn đàn mua bán quyền xả thải, cho thấy rằng hệ thống này sẽ sớm được triển khai rộng rãi trên toàn quốc.
Tính đến năm 2008, Châu Phi có tổng cộng 20 chương trình PES, trong đó khoảng 10 chương trình đang hoạt động, mang lại giá trị chi trả lên tới 62,7 triệu đô-la Mỹ cho gần 200.000 ha đất Các hoạt động quản lý rừng tại đây thường được tích hợp trong các chương trình bảo tồn hệ sinh thái quốc gia, bao gồm đầu tư vào việc tăng cường và phục hồi các dịch vụ vùng đầu nguồn, cũng như nâng cao năng lực cho cộng đồng địa phương trong việc xác định, hình thành và thực hiện các hoạt động quản lý liên quan đến hệ sinh thái.
Một số nhận xét về PES trên thế giới như sau:
Cho đến nay, các chương trình chi trả dịch vụ môi trường rừng (DVMTR) chủ yếu do chính phủ triển khai Người làm rừng thường không đủ khả năng để quản lý giá trị của dịch vụ môi trường, do đó, việc thực hiện chi trả DVMTR thường cần sự hỗ trợ từ nhà nước, khiến cho chi trả này trở thành một yêu cầu bắt buộc.
Các chương trình PES đã được phát triển trong những năm gần đây, bắt đầu với chương trình dịch vụ bảo tồn tại Mỹ vào năm 1983, trong khi phần lớn các chương trình còn lại xuất hiện từ những năm 90 trở đi.
Mục tiêu của PES rất đa dạng, bao gồm bảo vệ nguồn nước, đa dạng sinh học, cảnh quan, đất ướt, đất, động vật hoang dã, kiểm soát sự nhiễm mặn và tích luỹ Carbon Trong đó, các chương trình bảo vệ nguồn nước là phổ biến nhất và được xem là một trong những hiệu quả môi trường quan trọng nhất của rừng Các chương trình PES tự nguyện chủ yếu tập trung vào việc bảo vệ nguồn nước.
MỤC TIÊU, ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Mục tiêu của đề tài
Bài viết phân tích và đánh giá thực trạng thực hiện chính sách Chi trả Dịch vụ môi trường rừng tại lưu vực thủy điện Khe Bố, dựa trên các khung pháp lý và tình hình thực tiễn địa phương Từ đó, bài viết đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả chi trả dịch vụ môi trường rừng cho lưu vực thủy điện Khe Bố trong thời gian tới.
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận và các khung pháp lý về chi trả dịch vụ môi trường rừng.
-Nêu đặc điểm tình hình cơ bản của tỉnh Nghệ An và khu vực nghiên cứu.
Trong nghiên cứu này, việc xác định phương pháp chi trả cho dịch vụ môi trường rừng là rất quan trọng Cần làm rõ các đối tượng được chi trả, bao gồm những người hưởng lợi từ dịch vụ môi trường, và đối tượng có nghĩa vụ chi trả, như các doanh nghiệp hoặc cá nhân có trách nhiệm tài chính trong việc bảo vệ rừng Điều này giúp đảm bảo tính công bằng và hiệu quả trong việc quản lý tài nguyên rừng trong lưu vực nghiên cứu.
Bài viết này phân tích và đánh giá thực trạng chi trả dịch vụ môi trường rừng (DVMTR) trong lưu vực nghiên cứu, đồng thời đề xuất cơ chế quản lý và sử dụng tiền DVMTR cho các cấp và các chủ rừng Việc xây dựng cơ chế này nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn tài chính từ DVMTR, góp phần bảo vệ và phát triển bền vững rừng.
Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Các cơ sở sản xuất thủy điện trong lưu vực Khe Bố, bao gồm hệ thống 8 thủy điện bậc thang, phải chi trả dịch vụ môi trường rừng nhằm bảo vệ đất, hạn chế xói mòn và bồi lắng lòng hồ, lòng sông, lòng suối Điều này cũng bao gồm việc điều tiết và duy trì nguồn nước phục vụ cho sản xuất thủy điện, theo quy định tại Nghị định số 99/2010/NĐ-CP ngày 24/9/2010 của Chính phủ.
2.2.2 Phạm vi nghiên cứu a) Phạm vi về nội dung:
Các chính sách và khung pháp lý hiện hành liên quan đến việc chi trả dịch vụ môi trường rừng được quy định bởi các nhà hoạch định chính sách, nhằm đảm bảo quyền lợi cho cả bên cung ứng và bên sử dụng dịch vụ môi trường rừng.
Thực trạng chi trả dịch vụ môi trường rừng tại các lưu vực thủy điện ở tỉnh Nghệ An, đặc biệt là thủy điện Khe Bố, đang được chú trọng Các lưu vực bậc thang cũng nằm trong phạm vi nghiên cứu, nhằm đánh giá hiệu quả và tính bền vững của các chính sách bảo vệ rừng và phát triển thủy điện Việc chi trả dịch vụ môi trường rừng không chỉ hỗ trợ bảo tồn tài nguyên thiên nhiên mà còn góp phần nâng cao đời sống của cộng đồng địa phương.
Để nâng cao hiệu quả chi trả dịch vụ môi trường rừng, đặc biệt là đối với thủy điện Khe Bố, cần triển khai các giải pháp đồng bộ và hiệu quả Các biện pháp này bao gồm việc tăng cường quản lý và giám sát tài nguyên rừng, cải thiện quy trình chi trả và tăng cường sự tham gia của cộng đồng địa phương Bên cạnh đó, cần chú trọng đến việc bảo vệ và phục hồi hệ sinh thái rừng, nhằm đảm bảo sự bền vững cho dịch vụ môi trường rừng trong khu vực.
Hệ thống 8 thủy điện bậc thang trong lưu vực Khe Bố gồm các công trình: Thủy điện Bản Vẽ, Thủy điện Bản Cánh, Thủy điện Nậm Mô, Thủy điện Nậm Nơn, Thủy điện Nậm Cắn, Thủy điện Yên Thắng, Thủy điện Ca Lôi và Thủy điện Khe Bố.
- Trên địa bàn 36 xã, thuộc 4 huyện miền núi cao của tỉnh Nghệ An, bao gồm:
Kỳ Sơn, Tương Dương, Con Cuông và Quỳ Hợp; được quy hoạch cho cả 3 loại rừng (đặc dụng, phòng hộ, sản xuất). c) Phạm vi về thời gian:
Từ năm 2012 đến 2015, tỉnh Nghệ An đã chính thức triển khai chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng, đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong việc bảo vệ và quản lý tài nguyên rừng.
Nội dung thực hiện
Để đạt được mục tiêu đề ra, đề tài thực hiện nghiên cứu các nội dung sau:
1) Nghiên cứu cơ sở kỹ thuật phục vụ chi trả dịch vụ môi trường rừng trong lưu vực thuỷ điện Khe Bố.
+ Xác định tọa độ điểm đầu ra và ranh giới của lưu vực và các điểm khai thác, sử dụng nước của lưu vực.
+ Xác định diện tích rừng trong lưu vực, hiện trạng rừng trong lưu vực.
2) Nghiên cứu thực trạng chi trả dịch vụ môi trường rừng trong lưu vực thuỷ điện Khe
Bố trên cơ sở kinh tế, xã hội của địa phương trong vùng lưu vực.
+ Xác định những thông tin cơ bản về bên sử dụng dịch vụ môi trường rừng trong lưu vực thuỷ điện Khe Bố (bên mua dịch vụ).
Theo Nghị định 99/2010/NĐ-CP, việc xác định các đối tượng được hưởng tiền chi trả dịch vụ môi trường rừng (bên bán dịch vụ) là rất quan trọng Điều này bao gồm việc xác định diện tích các loại rừng của từng đối tượng, nhằm đảm bảo quyền lợi và trách nhiệm trong việc bảo vệ và phát triển rừng.
+ Xác định mức chi trả DVMTR trong vực.
Nghiên cứu này tập trung vào việc phân tích những thuận lợi và khó khăn trong việc chi trả dịch vụ môi trường rừng tại các huyện thuộc lưu vực thủy điện Khe Bố, theo Nghị định 99/2010/NĐ-CP Qua đó, nhằm xác định các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả của chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng, từ đó đề xuất giải pháp cải thiện và nâng cao hiệu quả quản lý rừng bền vững trong khu vực.
3) Nghiên cứu đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chi trả dịch vụ môi trường rừng trong lưu vực thuỷ điện Khe Bố và trên địa bàn tỉnh Nghệ An
+ Giải pháp về kỹ thuật
+ Giải pháp về quy hoạch và kinh tế xã hội
+ Đề xuất hệ thống theo dõi và đánh giá việc chi trả dịch vụ môi trường rừng trên địa bàn tỉnh Nghệ An trong thời gian tới.
Phương pháp nghiên cứu
2.4.1 Phương pháp nghiên cứu tài liệu đã có
Nghiên cứu tài liệu về:
Điều kiện tự nhiên của khu vực bao gồm vị trí địa lý, địa hình, khí hậu, thủy văn và thổ nhưỡng, đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế Tình hình phát triển kinh tế, dân số và văn hóa xã hội cũng là những yếu tố cần xem xét Ngoài ra, việc tìm hiểu hiện trạng sử dụng đất lâm nghiệp cấp huyện sẽ giúp đánh giá tiềm năng tài nguyên và quản lý bền vững.
Chi trả DVMTR (Dịch vụ môi trường rừng) là một chủ đề quan trọng, liên quan đến nhiều văn bản pháp luật và nghị định của Chính phủ Các quy định này xác định cơ chế chi trả, quyền lợi và nghĩa vụ của các bên liên quan trong việc bảo vệ và phát triển rừng Việc hiểu rõ các văn bản này giúp nâng cao nhận thức và thực hiện hiệu quả chính sách chi trả DVMTR, góp phần bảo vệ môi trường và phát triển bền vững.
-Các kết quả nghiên cứu xác định giá trị môi trường rừng đã được thực hiện.
- Các qui trình, qui phạm có liên quan.
- Bản đồ hiện trạng rừng, bản đồ phân loại rừng theo Thông tư số 34/2009/TT-BNNPTNT ngày 10/6/2009 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.
- Bản đồ ranh giới hành chính các xã, bản đồ địa hình khu vực nghiên cứu, tỷ lệ 1:10.000
Bản đồ kết quả rà soát quy hoạch 3 loại rừng được điều chỉnh theo Quyết định số 48/2014/QĐ-UBND của UBND tỉnh Nghệ An, thể hiện rõ những thay đổi trong quy hoạch rừng Quyết định này nhằm đảm bảo quản lý hiệu quả và bền vững các loại rừng, góp phần bảo vệ môi trường và phát triển kinh tế địa phương.
2.4.2 Phương pháp nghiên cứu hiện trường
Xác định ranh giới lưu vực Thủy điện Khe Bố và các thủy điện bậc thang trong lưu vực này bằng máy định vị GPS cầm tay Quá trình này bao gồm việc xác định thân đập và các điểm đầu ra dọc theo đường phân thủy, theo hướng vuông góc với đường đồng mức, cho đến khi khép kín đường ranh giới của lưu vực.
Để đảm bảo thu thập số liệu tọa độ chính xác, cần thực hiện bấm GPS 3 lần tại mỗi điểm, với khoảng cách giữa các lần bấm là 5 phút Việc sử dụng máy GPS nên được thực hiện trong điều kiện tốt nhất và không có gió.
Việc điều tra sản lượng điện thương phẩm của các nhà máy thủy điện được thực hiện bằng cách thu thập số liệu quyết toán và thống kê từ các đơn vị, bắt đầu từ thời điểm áp dụng DVMTR cho đến hết tháng 12 năm 2015, dựa trên dữ liệu lưu trữ tại công ty hoặc báo cáo thuế của các doanh nghiệp.
* Sử dụng phương pháp RRA (phương pháp đánh giá nhanh), và PRA (phương pháp đánh giá nhanh có sự tham gia) nghiên cứu các nội dung:
Cơ sở kinh tế xã hội cho việc chi trả dịch vụ môi trường rừng (DVMTR) bao gồm việc xác định các thông tin quan trọng về đặc điểm sản xuất và thu nhập của người dân, cũng như mức độ phụ thuộc của họ vào rừng Những thông tin này đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng chính sách hỗ trợ và phát triển bền vững, nhằm nâng cao đời sống cộng đồng và bảo vệ tài nguyên rừng.
Người dân thể hiện thái độ tích cực đối với chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng (DVMTR), cho thấy sự nhận thức ngày càng cao về tầm quan trọng của việc bảo vệ rừng Chính sách này không chỉ cải thiện đời sống của cộng đồng mà còn nâng cao ý thức bảo vệ rừng, khuyến khích người dân tham gia tích cực vào các hoạt động bảo tồn và phát triển bền vững Những tác động tích cực từ chi trả DVMTR đã góp phần tạo ra sự gắn kết giữa lợi ích kinh tế và bảo vệ môi trường, thúc đẩy sự phát triển bền vững trong khu vực.
- Mức độ hài lòng của bên sử dụng và bên bán DVMTR trong việc thực hiện chi trả DVMTR.
UBND tỉnh Nghệ An đã phê duyệt Quyết định 4962/QĐ-UBND cho phép điều tra phỏng vấn về hệ số K =1 cho tất cả các kiểu rừng trên địa bàn tỉnh Nội dung điều tra bao gồm trạng thái rừng, phản ánh khả năng tạo dịch vụ môi trường rừng; phân loại rừng thành các loại đặc dụng, phòng hộ và sản xuất; xác định nguồn gốc hình thành rừng, bao gồm rừng tự nhiên và rừng trồng; và đánh giá mức độ khó khăn cùng tác động đối với việc bảo vệ rừng, xem xét các yếu tố xã hội và địa lý.
Trong quá trình thực hiện chi trả dịch vụ môi trường rừng (DVMTR), có nhiều thuận lợi và khó khăn cần xem xét Các vấn đề kỹ thuật thường gặp có thể gây cản trở, bên cạnh đó là những vướng mắc trong quá trình triển khai Hơn nữa, yếu tố kinh tế - xã hội của địa phương cũng đóng vai trò quan trọng, ảnh hưởng đến hiệu quả của việc chi trả DVMTR.
+ Một số giải pháp nhằm thực hiện chi trả DVMTR có hiệu quả.
- Đối tượng phỏng vấn gồm:
+ Đại diện bên bán DVMTR: 40 đối tượng (gồm 30 chủ rừng là các nhân, hộ gia đình; 7 đối tượng là tổ chức)
+ Đại diện bên mua DVMTR: 5 đối tượng
+ Đại diện 2 cơ quan thực hiên chi trả DVMTR: Quỹ bảo vệ và phát triển rừng tỉnh; Hạt kiểm lâm cấp huyện
- Chọn điểm và hộ gia đình đại diện để điều tra:
Trong 1 lưu vực chọn ra xã đại diện, đặc trưng cho xã về các mặt: Dân cư và phân bố dân cư, dân tộc, điều kiện tự nhiên có đầy đủ hoặc gần đủ các kiểu trạng thái rừng với mục đích sử dụng và ngồn gốc rừng khác nhau; đại diện cho thành phần kinh tế hộ: khá, trung bình và khó khăn trong xã Đề tài chọn 3 xã, trên địa bàn các huyện Kỳ Sơn, Tương Dương và Con Cuông để tiến hành phỏng vấn.
2.4.3 Phương pháp nội nghiệp, xử lý số liệu
Phương pháp so sánh đối chiếu là cách thức hiệu quả để phân tích và đánh giá tình hình qua các năm, giữa các địa phương hoặc lĩnh vực khác nhau Bằng việc chỉ ra những tồn tại và hạn chế, phương pháp này giúp xác định hướng đi đúng và tìm ra các giải pháp thích hợp cho sự phát triển.
Phương pháp phân tích thống kê tổng hợp được áp dụng để thu thập và phân tích dữ liệu về chi trả dịch vụ môi trường rừng tại tỉnh Nghệ An, cùng với các thông tin và chính sách chiến lược của tỉnh Qua đó, nghiên cứu nhằm đưa ra những kiến nghị thiết thực.
2.4.3.1 Phương pháp xác định ranh giới các lưu vực, các chủ rừng được chi trả DVMTR và diện tích mỗi loại rừng của từng đối tượng
Sử dụng phần mềm Arc GIS kết hợp với bản đồ địa hình, chúng ta có thể vẽ ranh giới lưu vực từ tọa độ các điểm khai thác và sử dụng nước.
Bước 1: Chuyển đổi dữ liệu phần mềm Mapinfo sang phần mềm Arc GIS
Sử dụng Tool Universal Translator của phần mềm Mapinfo:
- Trong thư mực Source, Format chọn “MapInfo TAB”, mục File(s) chọn đường dẫn đến file **.TAB cần chuyển.
- Destination/Format chọn “ESRI Shape”, mục Directory chọn đường dẫn của file đích **.Shp Click OK
Bước 2: Lựa chọn vùng bản đồ quan tâm
Bước 3: Lựa chọn những đường đồng mức trên vùng chọn
Selection/Select by Attrtbutes và nhập lệnh: “VAL” > 0/OK
Mục đích của việc này là xác định các đường đồng mức quan trọng và loại bỏ những đường không cần thiết khi xây dựng cơ sở dữ liệu.
Khi đó những đường đồng mức có Value >0 sẽ được chọn và thay đổi màu sắc còn những đường không phải đường đồng mức sẽ bị bỏ qua.
Bước 4: Chọn hệ quy chiếu cho bản đồ
Chọn hệ quy chiếu: VN 2000, KKT 105 0 , múi chiếu 6 0
Bước 5: Chuyển sang dạng raster
Chọn ArcToolbox chọn Conversion Tools/ To raster/ Feature to Raster Bước6: Làm tròn độ cao
Vào Spatial Analyst/ Raster calculutator Khi cửa sổ hiện ra nhập lệnh:
Bước 7: Chuyển sang đường đồng mức
Chọn Spatial Analyst/ Surface Analyst/ Contour
Bước 8: Chuyển bản đồ từ dạng đường đồng mức sang dạng DEM
Bước 9: Chuyển sạng dạng điểm
ArcToolbox chọn Conversion Tools/ From raster/ Raster to Point Bước 10: Nội suy khoảng cách
Nội suy ra bản đồ dạng DEM bằng cách sử dụng hàm tỷ lệ nghịch bình phương khoảng cách.
Vào Spatial Analyst/ Interpolate to Raster/ Inverse Ditance Weighted. Chọn như bảng sau => OK.
Điều kiện tự nhiên
Nghệ An là tỉnh có diện tích lớn nhất Việt Nam thuộc vùng Bắc Trung
Bộ Trung tâm hành chính của tỉnh là thành phố Vinh, nằm cách thủ đô Hà Nội
291 km về phía Nam Tổng diện tích 16.487km² Nghệ An bao gồm 1 thành phố trực thuộc, 3 thị xã và 17 huyện, có toạ độ địa lý:
Từ 18 0 52’20’’ - 20 0 00’00’’ Vĩ độ Bắc, từ 103 0 50’20’’ đến 105 0 49’43’’ Kinh độ Đông.
- Phía Bắc giáp tỉnh Thanh Hóa;
- Phía Nam giáp tỉnh Hà Tĩnh;
- Phía Đông giáp biển Đông;
- Phía Tây Bắc giáp tỉnh Huaphanh (Lào);
- Phía Tây giáp tỉnh Xiengkhuang (Lào);
- Phía Tây Nam giáp tỉnh Borikhamxay (Lào).
Lưu vực thủy điện Khe Bố nằm trên địa bàn 4 huyện Kỳ Sơn, Tương Dương, Con Cuông và Quỳ Hợp.
- Phía Bắc, Tây giáp nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào.
- Phía Nam nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào và huyện Anh Sơn, tỉnh Nghệ An.
- Phía Đông Bắc giáp huyện Quế Phong, phía Đông giáp huyện Quỳ Châu, tỉnh Nghệ An
Lưu vực Khe Bố tọa lạc ở khu vực Đông Bắc dãy Trường Sơn, nổi bật với địa hình đa dạng và phức tạp Khu vực này bị chia cắt bởi nhiều hệ thống đồi núi và sông suối, tạo nên những hướng nghiêng độc đáo.
Tây - Bắc xuống Đông - Nam Đỉnh núi cao nhất là đỉnh Pulaileng (2.711m) ở huyện Kỳ Sơn.
Địa hình lưu vực thủy điện Khe Bố có sự phân bố cao ở phía Tây và dần thấp xuống phía Đông, tạo nên một khung cảnh đa dạng và phức tạp Nơi đây có nhiều kiểu địa hình khác nhau, bao gồm núi cao, núi trung bình, núi thấp cùng với các vùng thung lũng xen kẽ.
Có thể phân chia thành 5 kiểu địa hình chính như sau:
Kiểu địa hình núi cao có sự chia cắt mạnh mẽ với độ dốc trung bình từ 25° đến 45° Độ cao trung bình đạt khoảng 1.500m, tạo nên một môi trường đa dạng sinh học phong phú Khu vực này có tỷ lệ che phủ rừng lớn, tập trung nhiều diện tích rừng với trữ lượng cao và nhiều nguồn gen động, thực vật quý hiếm.
Kiểu địa hình núi trung bình có đặc điểm phức tạp với sự chia cắt mạnh mẽ, độ dốc trung bình từ 20° đến 25° Độ cao trung bình đạt khoảng 1.200m, cùng với tỷ lệ che phủ rừng cao, khu vực này là nơi tập trung nhiều diện tích rừng có trữ lượng phong phú.
Kiểu địa hình núi thấp là vùng chuyển tiếp giữa núi trung bình và thung lũng, ven biển, với độ dốc bình quân từ 15° đến 20° và độ cao trung bình đáng chú ý.
600 - 800 m Độ che phủ của rừng không cao, rừng tự nhiên còn ít, rừng trồng manh mún.
- Kiểu địa hình thung lũng và máng trũng
Kiểu địa hình này nằm dọc theo triền Sông Lam, với đặc điểm địa hình tương đối bằng phẳng Độ cao trung bình của khu vực này dao động từ 400 đến 600m, trong khi độ dốc trung bình nằm trong khoảng từ 5 đến 10 độ.
Khu vực khe bố nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, có sự chuyển tiếp giữa khí hậu miền Bắc và miền Nam, với hai mùa rõ rệt là Hè và Đông Từ tháng 4 đến tháng 8 hàng năm, khu vực này chịu ảnh hưởng của gió phơn Tây Nam, mang đến thời tiết khô và nóng Trong khi đó, mùa đông lại chịu tác động của gió mùa Đông.
Bắc Nghệ An có khí hậu lạnh và ẩm ướt, với sự phân chia theo tiểu vùng và mùa vụ do địa hình phức tạp Nơi đây có lượng mưa trung bình hàng năm khoảng 1.670mm, nhiệt độ trung bình đạt 25,2°C và độ ẩm tương đối cao từ 86-87% Các huyện Kỳ Sơn, Tương Dương, và Con Cuông ở phía Tây tỉnh Nghệ An nổi bật với đặc trưng của rừng mưa nhiệt đới, thể hiện qua độ ẩm cao và sự chênh lệch nhiệt độ giữa ngày và đêm lớn.
Chế độ gió bão khá phức tạp: Gió mùa Đông Bắc từ tháng 10 đến tháng
Trong khoảng thời gian từ tháng 4 đến tháng 9, không khí lạnh và gió Tây Nam mang đến thời tiết khô nóng, trong khi gió Đông Nam từ Biển Đông thường gây ra mưa bão Các vùng núi còn phải đối mặt với hiện tượng gió lốc, mưa đá và sương muối, ảnh hưởng đáng kể đến sản xuất và đời sống của nông dân.
Lượng mưa hàng năm tương đối lớn nên nguồn nước mặt khá dồi dào
Việt Nam sở hữu khoảng 23 tỷ m³ nước, tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp, chăn nuôi và sinh hoạt của người dân Mặc dù lượng nước bình quân trên 1 ha đất tự nhiên đạt 13.064 m³, nhưng sự phân bố nước lại không đồng đều giữa các vùng và các mùa trong năm.
Hơn 70% lượng mưa rơi vào các tháng 8, 9, 10 và tiểu mãn (tháng 5), dẫn đến nguy cơ lũ lụt cao Trong khi đó, 30% lượng mưa còn lại rơi vào các tháng khác nhưng thường không phân bố đều, gây ra tình trạng hạn hán.
Tỉnh có hệ thống sông suối dày đặc với mật độ đạt từ 0,6 đến 0,7 km/km² Sông Cả (Sông Lam) là lưu vực lớn nhất, dài 375 km và có diện tích 28.590 km², bao gồm 117 thác lớn nhỏ Hệ thống này có khả năng cung cấp nước cho các hồ thủy lợi và thủy điện như Bản Vẽ, Khe Bố, Nậm Mô và Nậm Nơn.
3.1.5 Thổ nhưỡng Đất đai trong vùng nghiên cứu có 6 nhóm đất gồm 16 đơn vị đất, trong đó nhóm đất đỏ vàng và nhóm đất mùn vàng đỏ trên núi chiếm khoảng 96% tổng diện tích, phân bố theo các nhóm đất sau:
Đất đỏ vàng phát triển trên đá phiến thạch sét, phân bố rộng rãi tại các huyện như Tương Dương và Con Cuông Loại đất này xuất hiện trên nhiều loại địa hình, chủ yếu ở vùng núi thấp với độ dốc lớn và tầng đất dày Ở những vùng thấp, đất đỏ vàng thường gặp trên các đồi đất với tầng đất mỏng hoặc trung bình Đất đỏ vàng trên phiến sét có độ phì khá, với độ mùn từ 2 - 4%, đạm từ 0,1 đến 0,25%, lân từ 0,006 đến 0,07%, kali từ 1 đến 2%, và độ chua cao với pHKCL dưới 4 Thành phần cơ giới của đất dao động từ thịt nặng đến sét nhẹ, với độ dày tầng đất phần lớn trên 50 cm; trong khi ở các vùng có thảm thực vật cỏ hoặc đất hoang hoá do xói mòn, tầng đất thường mỏng từ 30 đến 50 cm.
Đất vàng nhạt phát triển trên sa thạch và cuội kết, phân bố rải rác theo dải hẹp giữa các dải đất phiến thạch kéo dài theo hướng Tây bắc – Đông nam tại các huyện Tương Dương, Kỳ Sơn Thành phần cơ giới nhẹ hơn so với đất phiến thạch sét khiến đất vàng nhạt trên sa thạch dễ bị xói mòn, dẫn đến tầng đất mỏng và nhiều khu vực trơ sỏi đá Chỉ ở một số nơi có địa hình núi cao và thảm thực vật che phủ tốt, độ dày của tầng đất mới đạt từ 50 cm trở lên.
Đặc điểm kinh tế - xã hội
Theo thống kê năm 2014, tỉnh có dân số trung bình là 2.951.985 người, trong đó 89,48% sống ở vùng nông thôn với 2.641.471 người, còn lại 10,52% tương đương 310.514 người sinh sống tại khu vực thành thị.
Mật độ dân số trung bình của khu vực là 179 người/km², với thành phố Vinh có mật độ cao nhất đạt 2.957 người/km², trong khi huyện Tương Dương có mật độ thấp nhất chỉ 25 người/km² Tỷ lệ tăng dân số bình quân hàng năm là 3,46‰.
Tổng cộng có 757.418 hộ dân cư, tất cả đều sở hữu nhà ở Trong số đó, 86,56% hộ có nhà kiên cố, 4,97% hộ có nhà bán kiên cố, 3,21% hộ có nhà thiếu kiên cố và 5,26% hộ có nhà đơn sơ.
Vùng núi phía bắc tỉnh Nghệ An nói chung, vùng lưu vực thủy điện Khe
Bố là cái nôi của cộng đồng với hơn 7 dân tộc anh em, bao gồm Kinh, Thái, Thổ, H’mông, Khơ Mú và các dân tộc khác Mỗi dân tộc mang trong mình những giá trị văn hoá truyền thống đặc sắc, được gìn giữ và bảo tồn, tạo nên bản sắc văn hoá độc đáo và đa dạng Trong đó, dân tộc Kinh chiếm 85,51%, dân tộc Thái 10,13%, dân tộc Thổ 2,05%, dân tộc Khơ Mú 1,22%, dân tộc H’mông 1,00%, và các dân tộc khác chiếm 0,09%.
Nghệ An, tỉnh có quy mô dân số lớn thứ 4 cả nước với hơn 3,037 triệu người (2014), trong đó gần 1,953 triệu lao động Tổng số lao động đang làm việc đạt 1,924 triệu người, chiếm 98,51% Lực lượng lao động được phân chia theo ngành nghề: nông, lâm, thủy sản có 1,215 triệu người (63%), công nghiệp xây dựng 254 ngàn người và ngành dịch vụ 458 ngàn người Mỗi năm, tỉnh bổ sung khoảng 3,3 vạn lao động mới.
Xét về cơ cấu, lực lượng lao động phần lớn là trẻ và sung sức, độ tuổi từ
15 - 24 chiếm 20,75%, từ 25 - 34 chiếm 15,2%; từ 35 - 44 chiếm 13,52% và từ
Tỷ lệ lao động qua đào tạo tại Nghệ An chỉ đạt gần 40%, với sự tập trung vào một số nghề như sửa chữa xe có động cơ, lái xe, may mặc, điện dân dụng, điện tử và xây dựng Trong khi đó, nhiều ngành nghề khác như chế biến nông, lâm sản, nuôi trồng thủy sản và vật liệu xây dựng lại thiếu lao động qua đào tạo Điều này cho thấy trình độ chuyên môn và nghề nghiệp của lực lượng lao động Nghệ An vẫn còn hạn chế, chưa đáp ứng được nhu cầu của thị trường lao động.
Trong 6 tháng đầu năm 2015, tỉnh ghi nhận tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân đạt 5,42%, với thu ngân sách nhà nước đạt 2.787.846 triệu đồng và chi ngân sách địa phương là 7.247.960 triệu đồng Thu nhập bình quân đầu người đạt 1.561 nghìn đồng/tháng, trong khi tỷ lệ hộ nghèo là 19,35% Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, với tỷ trọng ngành nông, lâm, ngư nghiệp chiếm 26,64% GDP, ngành thương mại-dịch vụ chiếm 41,41% GDP và ngành công nghiệp, xây dựng chiếm 31,95% GDP.
Theo số liệu niên giám thống kê năm 2012, tỉnh có 515 trường mầm non, 539 trường tiểu học (bao gồm 1 trường ngoài công lập), 388 trường trung học cơ sở và 92 trường trung học phổ thông (trong đó có 23 trường ngoài công lập) Mặc dù số lượng trường học đã đáp ứng nhu cầu học tập của học sinh, nhiều khu vực vùng sâu, vùng xa vẫn còn nhiều trường học xuống cấp cần được đầu tư xây dựng mới Bên cạnh đó, đời sống giáo viên tại những khu vực này còn gặp khó khăn, ảnh hưởng đến chất lượng dạy và học.
Theo niên giám thống kê năm 2012, tỉnh Nghệ An có 04 trường đại học (03 công lập và 01 ngoài công lập) với 1.198 giáo viên và 34.780 học sinh Ngoài ra, tỉnh còn có 06 trường cao đẳng (04 công lập) với 757 giáo viên và 15.792 học sinh, cùng với 03 trường trung cấp chuyên nghiệp có 126 giáo viên và 2.573 học sinh Những cơ sở giáo dục này đóng vai trò quan trọng trong việc đào tạo và cung cấp nguồn nhân lực kỹ thuật cho tỉnh Nghệ An.
Mạng lưới y tế tại tỉnh đã được xây dựng đồng bộ từ cấp tỉnh đến cấp huyện và xã Đến năm 2012, toàn tỉnh có tổng cộng 848 cơ sở y tế, bao gồm 38 bệnh viện, 43 phòng khám đa khoa và 480 trạm y tế xã, phường, đảm bảo 100% xã, phường đều có trạm y tế phục vụ cộng đồng.
Tính đến năm 2012, hệ thống y tế bao gồm 287 cơ sở với tổng số giường bệnh lên tới 8.471 Ngành y có 6.974 cán bộ, trong đó có 1.596 bác sĩ, 1.366 y sĩ, 3.137 y tá và 875 hộ sinh Ngoài ra, ngành dược có 659 cán bộ, bao gồm 64 dược sĩ đại học, 539 dược sĩ trung cấp và 56 dược tá Đặc biệt, 87,75% xã đã đạt chuẩn quốc gia về y tế.
Hệ thống thông tin liên lạc đã được triển khai toàn diện tại 20 huyện, thị, thành, cho phép kết nối từ trung tâm các huyện đến mọi vùng trong nước và quốc tế Tại các trung tâm xã, phường, thị trấn, 100% đã được trang bị điện thoại, với tỷ lệ 123,15 máy điện thoại/100 dân Về lĩnh vực phát thanh và truyền hình, 100% xã được phủ sóng truyền thanh, 97,9% được phủ sóng truyền hình, trong đó 84% hộ gia đình có khả năng xem đài truyền hình Việt Nam và 100% hộ nghe được đài tiếng nói Việt Nam.
Nghệ An đóng vai trò là một đầu mối giao thông quan trọng của Việt Nam, với mạng lưới giao thông phát triển và đa dạng bao gồm đường bộ, đường sắt, đường sông, sân bay và cảng biển Hệ thống giao thông này được hình thành và phân bố hợp lý, phù hợp với các vùng dân cư và trung tâm hành chính, kinh tế trong khu vực.
Hệ thống giao thông đường bộ của tỉnh bao gồm tổng chiều dài 7.070 km, trong đó có 3.306 km đường nhựa, chiếm 46,76% tổng số Đường bê tông xi măng dài 763 km, tương đương 10,79%, và đường cấp phối có chiều dài 1.110 km.
15,70%) và đường đất là 1.891 km (chiếm 26,75%).
+ Quốc lộ: quốc lộ 7, quốc lộ 48, quốc lộ 46, quốc lộ 15, ngoài ra còn có 132 km đường
Hồ Chí Minh chạy ngang qua các huyện miền núi trung du của tỉnh.
+ Tỉnh lộ gồm 2 tuyến với tổng chiều dài là 1.871 km.
+ Huyện/thành lộ có chiều dài là 4.169 km.
- Đường sắt: 124 km, trong đó có 94 km tuyến Bắc - Nam, có 7 ga, ga Vinh là ga chính.
Sân bay Vinh hiện có các tuyến bay nội địa như Vinh - Đà Nẵng, Vinh - Tân Sơn Nhất và Vinh - Nội Bài Trong tương lai gần, sân bay sẽ được nâng cấp thành sân bay Quốc tế, với kế hoạch xây dựng các đường bay quốc tế nối Vinh với Viên Chăn và Băng Cốc.
- Đường sông: Toàn tỉnh có 793 km đường sông Trong đó, tỉnh quản lý có chiều dài là 628 km, huyện/thành quản lý có chiều dài là 165 km.
Hiện trạng sử dụng đất lâm nghiệp trong lưu vực thủy điện Khe Bố
điện Khe Bố nằm trên địa bàn huyện Tương Dương, tỉnh Nghệ
Trên lưu vực của nhà máy thủy điện Khe Bố, có hệ thống các lưu vực thủy điện bậc thang, bao gồm các thủy điện Bản Vẽ, Yên Thắng, Nậm Nơn, Ca Lôi và Nậm.
Mô, Nậm Cắn và Bản Cánh.
Thủy điện Khe Bố có vị trí thân đập (điểm xả nước chính) có tọa độ theo hệ toạ độ Vn2000 là Y= 2120 518,02 m ; XF4 932,97m.
Phạm vi ranh giới lưu vực của thủy điện Khe Bố bao gồm 38 xã thuộc 4 huyện, cụ thể là Bảo Nam, Bảo Thắng, Chiêu Lưu, Hữu Kiệm, Hữu Lập, Huồi Tụ, Mường Ải, Mường Lống, Mường Típ, Na Loi, Na Ngoi, Nậm Càn, Nậm Cắn, Phà Đánh, Thị trấn Mường Xén và Tây Sơn.
Tà Cả là một xã thuộc huyện Kỳ Sơn, bao gồm các địa phương như Mai Sơn, Nhôn Mai, Hữu Khuông, Lượng Minh, Yên Na, Lưu Kiền, Tam Đình, Tam Thái, Tam Hợp, Tam Quang, Thạch Giám, Hòa Bình, Xá Lượng, Xiềng My và Yên Thắng.
Tương Dương; Bình Chuẩn thuộc huyện Con Cuông; Châu Cường, Nam Sơn, Châu Thái thuộc huyện Quỳ Hợp.
Theo Quyết định số 4284/QĐ-UBND ngày 05/9/2014 của UBND tỉnh Nghệ An, kết quả phê duyệt rà soát ranh giới và diện tích lưu vực cùng với diện tích rừng trong lưu vực Khe đã được xác định Hiện trạng sử dụng đất trong khu vực lưu vực này cũng cần được xem xét kỹ lưỡng để đảm bảo quản lý tài nguyên hiệu quả.
Bố thể hiện trên Bảng 3.1:
Bảng 3.1: Hiện trạng sử dụng đất lâm nghiệp chi tiết theo 3 loại rừng ĐVT: ha
TT Loại đất, trạng Phân theo 3 loại rừng Đất khác Tổng cộng thái Đặc dụng Phòng hộ Sản xuất
Báo cáo kết quả rà soát ranh giới lưu vực và hiện trạng rừng trong lưu vực thủy điện Khe Bố đã được Đoàn điều tra QHLN Nghệ An thực hiện Tài liệu này được UBND Nghệ An phê duyệt theo Quyết định số 4284/QĐ-UBND vào ngày 05/9/2014.
Qua Bảng 3.1 ta thấy, đất có rừng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng diện tích đất lâm nghiệp của lưu vực, đặc biệt là rừng phòng hộ.
Hiện trạng rừng chi tiết của 4 huyện trong lưu vực thể hiện trên Bảng 3.2.
Bảng 3.2: Hiện trạng rừng chi tiết theo địa phương ĐVT: ha
TT Loại đất, loại Con
Tổng cộng rừng Cuông Hợp Dương
B Các loại đất khác 922,67 28.659,58 8,55 22.799,50 52.390,30 Tổng cộng 12.928,17 209.238,94 4.068,05 238.108,65 464.343,81
Báo cáo kết quả rà soát ranh giới lưu vực và hiện trạng rừng trong lưu vực thủy điện Khe Bố được thực hiện bởi Đoàn điều tra QHLN Nghệ An Báo cáo này đã được UBND Nghệ An phê duyệt theo Quyết định số 4284/QĐ-UBND vào ngày 05/9/2014.