GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI LUẬN VĂN CAO HỌC KINH TẾ
Sự cần thiết của đề tài
Chính sách tiền tệ là một công cụ vĩ mô quan trọng trong quản lý kinh tế, với mục tiêu duy trì giá cả ổn định, thúc đẩy tăng trưởng, tạo việc làm và ổn định thị trường tài chính Theo Mishkin (1996), chính sách tiền tệ tác động đến nền kinh tế qua ba kênh truyền dẫn cơ bản: kênh lãi suất, kênh giá tài sản và kênh tín dụng Tuy nhiên, nhiều nhà kinh tế phân chia thành năm kênh, bao gồm thêm kênh kỳ vọng và kênh tỷ giá hối đoái Nghiên cứu cho thấy kênh lãi suất là kênh truyền dẫn quan trọng nhất, khi Ngân hàng trung ương điều chỉnh lãi suất chính sách, lãi suất thị trường sẽ bị ảnh hưởng, dẫn đến việc các ngân hàng thương mại điều chỉnh lãi suất bán lẻ Hiểu rõ mức độ và tốc độ truyền dẫn từ lãi suất chính sách đến lãi suất bán lẻ là cần thiết để Chính phủ có thể chọn thời điểm và mức độ điều chỉnh lãi suất hợp lý, từ đó nâng cao hiệu quả của chính sách tiền tệ.
Một quốc gia có tốc độ truyền dẫn lãi suất nhanh chóng sẽ thấy hiệu quả rõ rệt từ việc sử dụng công cụ lãi suất để tác động vào nền kinh tế trong ngắn hạn, trong khi quốc gia có tốc độ truyền dẫn chậm sẽ không đạt được hiệu quả cao Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng truyền dẫn lãi suất không hoàn toàn và tốc độ truyền dẫn khác nhau tùy thuộc vào từng loại sản phẩm tài chính Vấn đề đặt ra là mức độ truyền dẫn và tốc độ điều chỉnh lãi suất từ lãi suất tái cấp vốn đến lãi suất tiền gửi và cho vay của các ngân hàng thương mại Việt Nam trong giai đoạn ngắn hạn và dài hạn như thế nào, cũng như liệu có sự đối xứng trong quá trình điều chỉnh này Ngoài ra, điểm gãy cấu trúc có thể ảnh hưởng đến mức độ truyền dẫn và tốc độ điều chỉnh lãi suất ở Việt Nam trong giai đoạn 2005 – 2014, điều này dẫn đến việc thực hiện nghiên cứu về truyền dẫn lãi suất trong giai đoạn này.
Mục tiêu nghiên cứu
Bài viết nghiên cứu sự truyền dẫn từ lãi suất tái cấp vốn đến lãi suất tiền gửi và cho vay của ngân hàng thương mại Việt Nam, tập trung vào mức độ truyền dẫn trong dài hạn và ngắn hạn, cũng như tốc độ điều chỉnh về mức cân bằng dài hạn Nghiên cứu cũng xem xét sự bất cân xứng trong truyền dẫn lãi suất và ảnh hưởng của điểm gãy cấu trúc đến quá trình này trong giai đoạn 2005 – 2014 Từ đó, tác giả đưa ra những khuyến nghị về chính sách điều hành lãi suất tại Việt Nam.
Mức độ truyền dẫn từ lãi suất tái cấp vốn đến lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay của các ngân hàng thương mại Việt Nam là yếu tố quan trọng cần xem xét trong cả dài hạn và ngắn hạn.
Tốc độ điều chỉnh lãi suất về mức cân bằng dài hạn và sự tồn tại của bất cân xứng trong quá trình truyền dẫn lãi suất tại Việt Nam là những yếu tố quan trọng cần được xem xét.
Ảnh hưởng của điểm gãy cấu trúc đến mức độ truyền dẫn và tốc độ điều chỉnh lãi suất là rất quan trọng, đặc biệt trong việc xác định mức cân bằng dài hạn của lãi suất cả trong ngắn hạn và dài hạn.
Thứ tƣ, đề xuất một số khuyến nghị về chính sách điều hành lãi suất ở Việt
Câu hỏi nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu trên, đề tài hướng đến trả lời các câu hỏi nghiên cứu như sau:
Mức độ truyền dẫn lãi suất từ lãi suất tái cấp vốn đến lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay của các ngân hàng thương mại Việt Nam trong cả dài hạn và ngắn hạn là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến hoạt động tài chính Việc hiểu rõ mối quan hệ này giúp các NHTM điều chỉnh chính sách lãi suất phù hợp, từ đó nâng cao hiệu quả kinh doanh và đáp ứng nhu cầu của khách hàng.
2005 – 2014 có hoàn toàn hay không? Mức độ truyền dẫn có khác nhau giữa lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay hay không?
Thứ hai, tốc độ điều chỉnh lãi suất về vị trí cân bằng dài hạn nhanh hay chậm?
Tốc độ điều chỉnh về vị trí cân bằng giữa lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay có thể khác nhau tùy thuộc vào việc chúng đang ở trên hay dưới mức cân bằng Sự khác biệt này ảnh hưởng đến cách mà thị trường tài chính phản ứng với biến động lãi suất, từ đó tác động đến hoạt động cho vay và tiết kiệm của người tiêu dùng.
Trong giai đoạn 2005 – 2014, có sự thay đổi về mức độ truyền dẫn lãi suất dài hạn và ngắn hạn, cũng như tốc độ điều chỉnh lãi suất về mức cân bằng Điểm gãy cấu trúc trong giai đoạn này đã ảnh hưởng đến cả mức độ truyền dẫn và tốc độ điều chỉnh lãi suất.
Thứ tƣ, những gợi ý chính sách nào có thể được rút ra từ nghiên cứu này?
1.4 Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
Mức độ truyền dẫn và tốc độ điều chỉnh từ lãi suất tái cấp vốn đến lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay của các ngân hàng thương mại Việt Nam có sự khác biệt trong ngắn hạn và dài hạn Trong ngắn hạn, lãi suất có thể biến động nhanh chóng, trong khi ở dài hạn, sự điều chỉnh diễn ra chậm hơn, ảnh hưởng đến quyết định vay và gửi tiền của người tiêu dùng Sự tương tác này là yếu tố quan trọng trong việc duy trì sự ổn định tài chính và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Sự bất cân xứng trong tốc độ điều chỉnh lãi suất về mức cân bằng ở Việt Nam
Nghiên cứu này sử dụng số liệu tháng từ 01/2005 đến 12/2014, dựa trên thông tin công bố từ Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và IFS Cụ thể, lãi suất tái cấp vốn được công bố bởi Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, trong khi lãi suất tiền gửi và cho vay được lấy từ IFS Lãi suất tiền gửi được đại diện bởi lãi suất gửi kỳ hạn 3 tháng trung bình của bốn ngân hàng thương mại lớn có cổ phần chi phối của Nhà nước: Vietcombank, Vietinbank, BIDV và Agribank Tương tự, lãi suất cho vay được tính bằng lãi suất cho vay kỳ hạn dưới 12 tháng trung bình của các ngân hàng này Không gian nghiên cứu tập trung vào Việt Nam.
Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Dựa trên mục tiêu nghiên cứu, tác giả áp dụng phương pháp nghiên cứu tại bàn để tổng hợp và phân tích dữ liệu từ các nguồn tin cậy, bao gồm Dữ liệu thống kê tài chính quốc tế (IFS) và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (SBV).
Nghiên cứu này áp dụng phương pháp định lượng với mô hình phân phối trễ tự hồi quy (ARDL) để phân tích mối quan hệ giữa lãi suất tái cấp vốn và lãi suất tiền gửi cũng như lãi suất cho vay của các ngân hàng thương mại tại Việt Nam trong giai đoạn 2005.
2014 Các bước kiểm định, ước lượng mô hình sử dụng phần mềm Eviews 9
1.6 Kết cấu của đề tài
Với mục tiêu nghiên cứu trên, đề tài được kết cấu như sau:
Chương 1: Giới thiệu đề tài luận văn cao học kinh tế Trong chương này, tác giả giới thiệu tổng quát về tính cần thiết của đề tài; mục tiêu nghiên cứu; phương pháp nghiên cứu; đối tượng, phạm vi nghiên cứu và ý nghĩa khoa học của đề tài
Chương 2: Cơ sở lý thuyết về truyền dẫn từ lãi suất tái cấp vốn đến lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay của các ngân hàng thương mại Việt Nam Trong chương này, tác giả nêu tổng quan về lãi suất và chính sách lãi suất, đưa ra nền tảng lý thuyết về truyền dẫn lãi suất, tính cứng nhắc trong cơ chế điều chỉnh lãi suất, điểm gãy cấu trúc và lược khảo các nghiên cứu trước ở nước ngoài cũng như trong nước có liên quan
Chương 3: Thực trạng lãi suất tái cấp vốn và lãi suất tiền gửi, lãi suất cho vay của các NHTM Việt Nam giai đoạn 2005 - 2014 Trong chương này, tác giả trình bày thực trạng lãi suất tái cấp vốn của NHNN; lãi suất tiền gửi, lãi suất cho vay của các NHTM Việt Nam và diễn biến lãi suất tái cấp vốn trong mối tương quan với lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay của các ngân hàng thương mại Việt Nam trong giai đoạn 2005 - 2014
Chương 4: Nghiên cứu truyền dẫn từ lãi suất tái cấp vốn đến lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay của các ngân hàng thương mại Việt Nam Trong chương này, tác giả đề xuất mô hình nghiên cứu; phương pháp nghiên cứu; thu thập, xử lý dữ liệu nghiên cứu và trình bày kết quả nghiên cứu của đề tài
Phương pháp nghiên cứu
Dựa trên mục tiêu nghiên cứu, tác giả áp dụng phương pháp nghiên cứu tại bàn để tổng hợp và phân tích dữ liệu từ nhiều nguồn tin cậy, bao gồm Dữ liệu thống kê tài chính quốc tế (IFS) và thông tin từ Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (SBV).
Đề tài áp dụng phương pháp định lượng với mô hình phân phối trễ tự hồi quy (ARDL) để phân tích mối quan hệ truyền dẫn giữa lãi suất tái cấp vốn và lãi suất tiền gửi cũng như lãi suất cho vay của các ngân hàng thương mại tại Việt Nam trong giai đoạn 2005.
2014 Các bước kiểm định, ước lượng mô hình sử dụng phần mềm Eviews 9.
Kết cấu của đề tài
Với mục tiêu nghiên cứu trên, đề tài được kết cấu như sau:
Chương 1: Giới thiệu đề tài luận văn cao học kinh tế Trong chương này, tác giả giới thiệu tổng quát về tính cần thiết của đề tài; mục tiêu nghiên cứu; phương pháp nghiên cứu; đối tượng, phạm vi nghiên cứu và ý nghĩa khoa học của đề tài
Chương 2: Cơ sở lý thuyết về truyền dẫn từ lãi suất tái cấp vốn đến lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay của các ngân hàng thương mại Việt Nam Trong chương này, tác giả nêu tổng quan về lãi suất và chính sách lãi suất, đưa ra nền tảng lý thuyết về truyền dẫn lãi suất, tính cứng nhắc trong cơ chế điều chỉnh lãi suất, điểm gãy cấu trúc và lược khảo các nghiên cứu trước ở nước ngoài cũng như trong nước có liên quan
Chương 3: Thực trạng lãi suất tái cấp vốn và lãi suất tiền gửi, lãi suất cho vay của các NHTM Việt Nam giai đoạn 2005 - 2014 Trong chương này, tác giả trình bày thực trạng lãi suất tái cấp vốn của NHNN; lãi suất tiền gửi, lãi suất cho vay của các NHTM Việt Nam và diễn biến lãi suất tái cấp vốn trong mối tương quan với lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay của các ngân hàng thương mại Việt Nam trong giai đoạn 2005 - 2014
Chương 4: Nghiên cứu truyền dẫn từ lãi suất tái cấp vốn đến lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay của các ngân hàng thương mại Việt Nam Trong chương này, tác giả đề xuất mô hình nghiên cứu; phương pháp nghiên cứu; thu thập, xử lý dữ liệu nghiên cứu và trình bày kết quả nghiên cứu của đề tài
Chương 5: Khuyến nghị về chính sách điều hành lãi suất ở Việt Nam Trong chương này, tác giả tóm tắt các kết quả chính của đề tài, giải thích kết quả đạt được, nêu định hướng chính sách tiền tệ của NHNN Việt Nam trong thời gian tới và từ đó đề xuất một vài khuyến nghị về chính sách điều hành lãi suất, đồng thời, nêu ra một vài hạn chế của đề tài nghiên cứu.
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ TRUYỀN DẪN TỪ LÃI SUẤT TÁI CẤP VỐN ĐẾN LÃI SUẤT TIỀN GỬI VÀ LÃI SUẤT CHO VAY CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
Tổng quan về lãi suất và chính sách lãi suất của ngân hàng Nhà nước Việt Nam6
2.1.1 Cơ sở lý thuyết về lãi suất và các loại lãi suất cơ bản
Cơ sở lý thuyết về lãi suất
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, lãi suất là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến cá nhân và tổ chức Có nhiều định nghĩa về lãi suất từ các góc độ khác nhau Theo K Marx, lãi suất là phần giá trị thặng dư từ việc bóc lột lao động mà chủ ngân hàng chiếm đoạt Tuy nhiên, quan điểm của ông chỉ tập trung vào mối quan hệ cho vay và đi vay trong bối cảnh tài chính và tiền tệ hạn chế của thời kỳ đó.
Theo J.M Keynes và các nhà kinh tế hiện đại, lãi suất được xem là chi phí cơ hội của việc nắm giữ tiền, phản ánh kết quả của các hoạt động tiền tệ.
Theo Ngân hàng Thế giới, lãi suất là giá cả của tín dụng, phản ánh chi phí trong quan hệ vay mượn hoặc cho thuê dịch vụ vốn, có thể dưới dạng tiền tệ hoặc tài sản khác Khi đến hạn, người vay phải trả cho người cho vay một khoản tiền vượt ngoài số vốn gốc, gọi là tiền lãi Tỷ lệ phần trăm của tiền lãi so với số vốn gốc được gọi là lãi suất.
Lãi suất là chi phí mà người vay phải trả để sử dụng vốn vay trong một khoảng thời gian nhất định, và đồng thời cũng là lợi tức mà người cho vay nhận được từ việc trì hoãn chi tiêu Nói một cách khác, lãi suất được tính bằng tỷ lệ phần trăm giữa số tiền lãi phải trả và số tiền vay, cho phép người vay sở hữu và sử dụng số tiền đó theo thỏa thuận.
Các loại lãi suất cơ bản
Trong nền kinh tế thị trường, có nhiều loại lãi suất được phân loại dựa trên mục đích và tiêu chí khác nhau Dưới đây là một số loại lãi suất phổ biến.
Lãi suất tái cấp vốn là tỷ lệ lãi suất mà ngân hàng trung ương áp dụng khi cung cấp vốn cho các ngân hàng thương mại thông qua việc chiết khấu các khoản vay chưa đến hạn.
Lãi suất thị trường tiền tệ liên ngân hàng là lãi suất mà các ngân hàng áp dụng khi cho vay trên thị trường này, thường được ấn định hàng ngày vào mỗi buổi sáng Lãi suất này hình thành từ quan hệ cung cầu tiền của các tổ chức tín dụng và bị chi phối bởi lãi suất tái cấp vốn của ngân hàng Nhà nước Mức độ chi phối này phụ thuộc vào sự phát triển của hoạt động thị trường mở và tỷ trọng sử dụng vốn vay từ ngân hàng Nhà nước của các tổ chức tín dụng.
Lãi suất tiền gửi là tỷ lệ lãi mà ngân hàng chi trả cho các khoản tiền gửi của khách hàng Các loại lãi suất này đa dạng, phụ thuộc vào thời hạn gửi, loại tiền tệ và mục đích sử dụng.
Lãi suất cho vay là khoản phí mà người vay phải trả cho ngân hàng để sử dụng vốn trong một khoảng thời gian nhất định Các loại lãi suất cho vay được phân chia dựa trên nhiều yếu tố như loại tiền tệ, thời hạn vay, phương thức thanh toán và mục đích sử dụng vốn vay.
2.1.2 Chính sách lãi suất và cơ chế điều hành lãi suất của ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Chính sách tiền tệ có thể được hiểu theo hai nghĩa: nghĩa rộng và nghĩa thông thường Theo nghĩa rộng, chính sách tiền tệ điều hành toàn bộ khối lượng tiền tệ trong nền kinh tế nhằm đạt được bốn mục tiêu lớn của kinh tế vĩ mô, với mục tiêu cơ bản là ổn định tiền tệ, giữ vững sức mua và ổn định giá cả hàng hóa Trong khi đó, theo nghĩa thông thường, chính sách tiền tệ tập trung vào khối lượng tiền cung ứng tăng thêm trong năm tới, phù hợp với mức tăng trưởng kinh tế dự kiến và chỉ số lạm phát, nhằm đảm bảo sự ổn định tiền tệ và giá cả hàng hóa.
Chính sách lãi suất là công cụ quan trọng trong chính sách tiền tệ, được ngân hàng Nhà nước điều chỉnh phù hợp với từng mục tiêu thời kỳ Mục đích là ổn định và phát triển thị trường tiền tệ, đồng thời tạo điều kiện cho việc phân bổ hiệu quả nguồn vốn trong nền kinh tế.
Cơ chế điều hành lãi suất của ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Lãi suất đóng vai trò quan trọng trong chính sách tiền tệ, với NHNN căn cứ vào tình hình kinh tế để quy định các chỉ tiêu lãi suất áp dụng cho toàn hệ thống ngân hàng Thông thường, NHNN quy định ba loại lãi suất cơ bản: lãi suất cơ bản, lãi suất tái chiết khấu và lãi suất tái cấp vốn.
Lãi suất cơ bản do NHNN xác định và công bố dựa trên tình hình thị trường và mục tiêu chính sách tiền tệ quốc gia, nhằm điều chỉnh thị trường tiền tệ, kiểm soát tín dụng và duy trì sự cân bằng giữa tổng cung và tổng cầu tiền tệ NHNN linh hoạt sử dụng lãi suất cơ bản để hạn chế tăng trưởng tín dụng thông qua việc tăng lãi suất vay và lãi suất gửi, từ đó kiểm soát việc sử dụng vốn vay và thu hút tiền nhàn rỗi Hai biện pháp này hỗ trợ lẫn nhau, giúp NHNN điều khiển thị trường tiền tệ, kiềm chế lạm phát, và điều tiết hợp lý nền kinh tế vĩ mô, đồng thời nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp và ngân hàng thương mại.
Lãi suất tái chiết khấu là công cụ quan trọng mà Ngân hàng Nhà nước (NHNN) sử dụng để điều hành lãi suất một cách gián tiếp trong nền kinh tế phát triển Nó ảnh hưởng đến lãi suất thị trường và lãi suất kinh doanh của các tổ chức tín dụng Khi NHNN điều chỉnh lãi suất tái chiết khấu, nó tác động đến cung tiền tệ thông qua khối lượng cho vay chiết khấu Cụ thể, việc giảm cho vay chiết khấu sẽ dẫn đến thu hẹp cung ứng tiền tệ, trong khi tăng cho vay chiết khấu sẽ mở rộng cơ sở tiền tệ và tăng cung ứng tiền tệ.
Lãi suất tái cấp vốn là công cụ quan trọng giúp Ngân hàng Nhà nước (NHNN) điều chỉnh lượng tiền cung ứng trong nền kinh tế Khi tăng lãi suất tái cấp vốn, NHNN thắt chặt chính sách tiền tệ, giảm lượng tiền lưu thông, trong khi việc giảm lãi suất tạo điều kiện cho các ngân hàng thương mại (NHTM) tăng khả năng thanh toán và tạo bút tệ Bên cạnh đó, NHNN cũng sử dụng hạn mức tái cấp vốn để tác động trực tiếp đến dự trữ của hệ thống NHTM, góp phần ổn định nền kinh tế.
Tổng quan về truyền dẫn lãi suất
“Truyền dẫn lãi suất” là một yếu tố quan trọng trong việc chuyển tải chính sách tiền tệ và đã được nghiên cứu rộng rãi trên toàn cầu về kênh lãi suất trong thời gian gần đây.
Truyền dẫn lãi suất đề cập đến tác động của lãi suất chính sách và lãi suất thị trường đến lãi suất bán lẻ của ngân hàng (Kazaziova, 2010) Mặc dù mỗi nhà nghiên cứu có cách nhìn và định nghĩa riêng về truyền dẫn lãi suất, nhưng các định nghĩa này đều có bản chất tương đồng.
Theo Qayyum và Khawaya (2005) cùng với Ozdemir (2009), quá trình truyền dẫn lãi suất diễn ra khi lãi suất bán lẻ, bao gồm lãi suất cho vay và lãi suất tiền gửi, của các ngân hàng điều chỉnh theo sự thay đổi của lãi suất chính sách hoặc lãi suất thị trường tiền tệ Quá trình này được đặc trưng bởi hai yếu tố chính: mức độ và tốc độ điều chỉnh của lãi suất bán lẻ.
Theo Rahman (2009), truyền dẫn lãi suất đề cập đến mức độ và tốc độ thay đổi của lãi suất bán lẻ khi có sự điều chỉnh lãi suất chính sách Quá trình này được chia thành hai giai đoạn: Giai đoạn đầu tiên đo lường sự ảnh hưởng của lãi suất chính sách đến lãi suất thị trường tiền tệ trong ngắn hạn và dài hạn; giai đoạn thứ hai đánh giá sự tác động của lãi suất thị trường tiền tệ đến lãi suất cho vay và lãi suất huy động của các ngân hàng.
Quá trình truyền dẫn lãi suất là khi ngân hàng trung ương điều chỉnh chính sách tiền tệ, ảnh hưởng đến lãi suất thị trường như lãi suất liên ngân hàng Sự thay đổi này buộc các ngân hàng thương mại phải chuyển chi phí gia tăng sang lãi suất bán lẻ, bao gồm lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay.
Karagiannis và cộng sự (2010) cũng định nghĩa tương tự về truyền dẫn lãi suất như các nhóm tác giả khác
Truyền dẫn lãi suất là quá trình mà sự điều chỉnh lãi suất chính sách tác động đến lãi suất thị trường và lãi suất bán lẻ Khái niệm “truyền dẫn hoàn toàn” chỉ ra rằng khi lãi suất chính sách thay đổi, lãi suất bán lẻ cũng sẽ thay đổi tương ứng theo tỷ lệ phần trăm.
Khái niệm "truyền dẫn không hoàn toàn" ám chỉ rằng lãi suất bán lẻ thường điều chỉnh ít hơn so với lãi suất chính sách Tuy nhiên, có thể xảy ra trường hợp đặc biệt khi lãi suất bán lẻ thay đổi mạnh mẽ hơn so với lãi suất chính sách (Wang và Lee, 2009).
Quá trình truyền dẫn từ lãi suất tái cấp vốn đến lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay tại các ngân hàng thương mại Việt Nam cho thấy sự điều chỉnh của lãi suất tái cấp vốn có tác động trực tiếp đến lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay của các ngân hàng này.
2.2.2 Tính cứng nhắc trong cơ chế điều chỉnh lãi suất
Nghiên cứu về tính cứng nhắc trong cơ chế điều chỉnh lãi suất bán lẻ, bao gồm lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay, đã thu hút sự quan tâm của nhiều tác giả, trong đó có Hannan và Berger.
Theo nghiên cứu của Wang, K M (2010), tính cứng nhắc trong cơ chế truyền dẫn lãi suất biểu thị sự không hoàn toàn của việc thay đổi lãi suất chính sách vào lãi suất bán lẻ Nhiều yếu tố đã được đưa ra để giải thích sự cứng nhắc này trong quá trình điều chỉnh lãi suất, như đã được thảo luận trong các nghiên cứu của Chong và cộng sự (2005) cũng như Claudia Kwapil và Johann Scharler (2010).
Thông tin bất cân xứng và lựa chọn nghịch
Thông tin bất cân xứng trong thị trường tài chính xảy ra khi các bên không có đầy đủ thông tin về nhau, dẫn đến quyết định không chính xác Ví dụ, người đi vay thường hiểu rõ hơn về khả năng thanh toán và rủi ro của dự án so với ngân hàng Hệ quả là những chủ thể có rủi ro cao thường tìm kiếm vay mượn một cách tích cực và dễ dàng được chấp nhận, hiện tượng này được gọi là lựa chọn nghịch.
Theo giả thuyết thông tin bất cân xứng, các ngân hàng đối mặt với hai lựa chọn trái ngược và rủi ro đạo đức khi phải nâng cao lãi suất cho vay để bắt kịp lãi suất thị trường Sự xuất hiện của chi phí cơ hội khiến nhiều ngân hàng muốn tăng lãi suất cho vay trong thời gian ngắn Khi lãi suất cho vay cao, khách hàng gặp khó khăn trong việc thanh toán nợ, dẫn đến tình trạng quá hạn và nợ xấu Nếu lãi suất ngân hàng dưới mức quy định và lãi suất thị trường duy trì cao, ngân hàng sẽ tăng lãi suất cho vay Tuy nhiên, các ngân hàng cũng sẽ hạn chế mở rộng tín dụng cho khách hàng khi áp lực lãi suất gia tăng Kết quả là lãi suất cho vay trở nên cứng nhắc theo mô hình thông tin bất cân xứng (Stiglitz và Weiss, 1981).
Thị trường cạnh tranh không hoàn hảo
Theo giả thuyết về thị trường cạnh tranh không hoàn hảo, sự thống nhất giữa các ngân hàng dẫn đến việc điều chỉnh lãi suất có thể diễn ra bất cân xứng Điều này có nghĩa là có sự cứng nhắc trong việc tăng lãi suất huy động và giảm lãi suất cho vay, như đã được nghiên cứu bởi Hannan và Berger (1991) cũng như Neuman và Sharp (1992).
Bangura (2011) chỉ ra rằng sự cạnh tranh trong ngành ngân hàng thúc đẩy việc điều chỉnh lãi suất bán lẻ nhanh chóng theo biến động của lãi suất thị trường Ngược lại, sự cạnh tranh yếu trong hệ thống ngân hàng có thể làm chậm quá trình điều chỉnh lãi suất bán lẻ (Egert và cộng sự, 2007).
Cấu trúc sở hữu của các ngân hàng
Cottarelli và Kourelis (1994) chỉ ra rằng các kiểm soát hành chính như bảo hộ lãi suất từ Chính phủ có tác động tiêu cực đến tốc độ điều chỉnh lãi suất Khi hệ thống ngân hàng bị chi phối bởi các ngân hàng nhà nước hoặc ngân hàng có cổ phần chi phối của nhà nước, quá trình truyền dẫn lãi suất trở nên kém linh hoạt do các ngân hàng này không chịu áp lực lớn về lợi nhuận.
Sự bất ổn của lãi suất thị trường, lạm phát và tình hình kinh tế vĩ mô
Điểm gãy cấu trúc
Các nghiên cứu về điểm gãy cấu trúc đã thu hút sự quan tâm lớn từ các nhà nghiên cứu kinh tế lượng, chủ yếu tập trung vào việc phát hiện và ước lượng vị trí của các điểm gãy cũng như các tham số của mô hình trước và sau điểm gãy Tuy nhiên, bản chất của điểm gãy cấu trúc lại ít được chú ý Theo G Kapetanios và E Tzavalis (2004), điểm gãy cấu trúc được định nghĩa là những sự kiện bất ngờ làm thay đổi cấu trúc của các mô hình kinh tế lượng, bao gồm điểm gãy trong trung bình và điểm gãy trong phương sai.
Theo nghiên cứu của Lydia Ndirangu và cộng sự (2014), điểm gãy cấu trúc đóng vai trò quan trọng trong phân tích chuỗi dữ liệu thời gian, xảy ra do các yếu tố như khủng hoảng kinh tế, thay đổi cấu trúc thể chế và chính sách Nếu điểm gãy này không được xem xét trong các kiểm định nghiệm đơn vị, kết quả có thể không đáng tin cậy, dẫn đến khả năng cao chấp nhận giả thuyết H0 (chuỗi dữ liệu không dừng) (Perron, 1989; Perron, 1997; Leybourne và Newbold, 2003) Điều này cho thấy rằng bất kỳ cú sốc nào cũng sẽ ảnh hưởng lâu dài đến các biến và tác động đến việc ước lượng mô hình cũng như dự báo trong tương lai.
1 Structural breaks, Structural change, Breakpoints
Theo Campbell và Perron (1991), mở rộng chuỗi thời gian có thể cải thiện độ tin cậy của các kiểm định thống kê, nhưng cũng có thể dẫn đến việc xuất hiện các điểm gãy cấu trúc trong dữ liệu, gây sai lệch kết quả kiểm định từ các phương pháp truyền thống Perron (1989) đã chỉ ra điều này qua việc phân tích 14 biến số kinh tế vĩ mô với hai điểm gãy cấu trúc quan trọng: đại khủng hoảng 1929 và cú sốc giá dầu 1973 Khi áp dụng phương pháp kiểm định nghiệm đơn vị truyền thống như kiểm định Dickey – Fuller trên chuỗi dữ liệu có điểm gãy, kết quả có thể sai lệch theo hướng không bác bỏ giả thuyết H0 (chuỗi dữ liệu có nghiệm đơn vị), mặc dù thực tế chuỗi số liệu có thể không phải là một bước ngẫu nhiên mà thể hiện tính dừng quanh các điểm gãy của đường xu hướng Nếu chuỗi số liệu là bước ngẫu nhiên, các cú sốc ngẫu nhiên sẽ có ảnh hưởng vĩnh viễn; ngược lại, chỉ những cú sốc làm thay đổi rõ rệt đường xu hướng mới có tác động lâu dài.
Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng điểm gãy cấu trúc có vai trò quan trọng trong việc kiểm định hiện tượng đồng liên kết giữa các chuỗi dữ liệu Cụ thể, sự tồn tại của điểm gãy cấu trúc có thể dẫn đến sai lệch trong kết quả kiểm định đồng liên kết, khiến cho giả thuyết H0 (không có vector đồng liên kết) không thể bị bác bỏ, mặc dù thực tế có mối quan hệ dài hạn giữa các biến Do đó, việc xem xét điểm gãy cấu trúc trong phân tích số liệu chuỗi thời gian là cần thiết, vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến kết luận về sự tồn tại của hiện tượng đồng liên kết, đặc biệt là trong mối quan hệ giữa lãi suất tiền gửi, lãi suất cho vay và lãi suất tái cấp vốn.
Theo Hansen (2012), có nhiều loại điểm gãy cấu trúc, bao gồm điểm gãy trong trung bình, điểm gãy trong phương sai, điểm gãy trong mối quan hệ, điểm gãy đơn, nhiều điểm gãy và điểm gãy liên tục.
Lược khảo một số nghiên cứu trước về truyền dẫn lãi suất
Nhiều nghiên cứu về cơ chế truyền dẫn chính sách tiền tệ giả định rằng sự thay đổi lãi suất chính sách sẽ ngay lập tức và hoàn toàn ảnh hưởng đến lãi suất bán lẻ của ngân hàng Tuy nhiên, các nghiên cứu gần đây cho thấy rằng quá trình truyền dẫn có thể không hoàn toàn và tốc độ điều chỉnh có thể chậm Mức độ truyền dẫn và tốc độ điều chỉnh khác nhau giữa các định chế tài chính và sản phẩm tài chính Hơn nữa, một số nghiên cứu chỉ ra rằng tốc độ điều chỉnh về mức cân bằng dài hạn cũng phụ thuộc vào việc lãi suất cao hơn hay thấp hơn mức cân bằng dài hạn Dưới đây là tóm tắt một số nghiên cứu trước đây về truyền dẫn lãi suất.
2.4.1 Một số nghiên cứu nước ngoài
Hannan và Berger (1991) cùng Neuman và Sharpe (1992) đã tiến hành nghiên cứu về tính cứng của lãi suất tiền gửi tại 398 ngân hàng Mỹ trong giai đoạn từ tháng 9 năm 1983 đến tháng 12 năm 1986 Nghiên cứu này tập trung vào tác động của sức mạnh thị trường đối với lãi suất tiền gửi, sử dụng phương pháp hợp lý cực đại (Maximum likelihood) Kết quả cho thấy rằng lãi suất tiền gửi có sự điều chỉnh bất cân xứng, với các ngân hàng tăng lãi suất chậm hơn so với việc giảm lãi suất Các tác giả cũng chỉ ra rằng sự tồn tại của những ngân hàng có khả năng chi phối lãi suất là nguyên nhân chính cho hiện tượng này.
Mojon (2000) đã nghiên cứu sự truyền dẫn ngắn hạn từ lãi suất thị trường tiền tệ đến lãi suất cho vay và lãi suất huy động tại 5 quốc gia trong khu vực đồng euro, bao gồm Bỉ, Đức, Pháp, Tây Ban Nha và Hà Lan, với giả định rằng lãi suất truyền dẫn hoàn toàn trong dài hạn Kết quả cho thấy lãi suất bán lẻ có sự phản ứng chậm đối với những thay đổi trong lãi suất thị trường tiền tệ, trong đó lãi suất dài hạn phản ứng chậm hơn lãi suất ngắn hạn Bên cạnh đó, nghiên cứu chỉ ra sự bất cân xứng trong tốc độ truyền dẫn lãi suất, với lãi suất cho vay tăng nhanh hơn khi lãi suất thị trường tăng và ngược lại đối với lãi suất tiền gửi.
Nghiên cứu của Bondt (2002) đã chỉ ra mối quan hệ giữa lãi suất trái phiếu chính phủ và lãi suất huy động, lãi suất cho vay tại khu vực Euro Kết quả cho thấy rằng sự truyền dẫn lãi suất là hoàn toàn đối với hầu hết các lãi suất cho vay, trong khi đó, lãi suất tiền gửi và một số lãi suất cho vay khác không hoàn toàn đáp ứng điều này.
Sarno và Thonton (2003) đã áp dụng mô hình VECM để phân tích mối quan hệ dài hạn giữa lãi suất quỹ liên bang và lãi suất tín phiếu kho bạc 3 tháng tại Mỹ trong giai đoạn 1974 - 1999 Nghiên cứu cũng đo lường tốc độ điều chỉnh về trạng thái cân bằng của lãi suất quỹ liên bang Kết quả cho thấy rằng lãi suất điều chỉnh về mức cân bằng nhanh hơn khi ở dưới mức cân bằng so với khi ở trên mức cân bằng.
Marco A Espinosa và Alessandro Rebucci (2003) đã nghiên cứu quá trình truyền dẫn lãi suất từ thị trường tiền tệ đến lãi suất bán lẻ tại Chile, Mỹ, Canada, Úc và 5 nước châu Âu trong giai đoạn 1993 - 2002 Kết quả cho thấy rằng quá trình truyền dẫn lãi suất ở Chile không hoàn toàn hiệu quả trong cả dài hạn và ngắn hạn, và tốc độ truyền dẫn ở đây nhanh hơn so với hầu hết các quốc gia khác.
Nghiên cứu của Chong và cộng sự (2005) về truyền dẫn lãi suất huy động và cho vay tại ngân hàng thương mại và công ty tài chính ở Singapore cho thấy rằng quá trình này không hoàn toàn hiệu quả Các tác giả chỉ ra rằng lãi suất huy động tăng lên chậm hơn so với việc giảm lãi suất, và tốc độ điều chỉnh này khác nhau tùy theo từng loại sản phẩm tài chính cũng như giữa các ngân hàng và công ty tài chính.
Nghiên cứu của Kleimeier và Sander (2006) về truyền dẫn lãi suất ngân hàng trong thị trường bán lẻ khu vực đồng Euro cho thấy rằng lãi suất cho vay có xu hướng phản ứng nhanh chóng hơn đối với những thay đổi trong chính sách tiền tệ dự đoán.
Nghiên cứu của Claudia Kwapil và Johann Scharler (2007) chỉ ra rằng có sự điều chỉnh bất cân xứng trong lãi suất tiền gửi, trong đó lãi suất bán lẻ tăng chậm hơn khi lãi suất thị trường tiền tệ tăng, nhưng lại giảm nhanh hơn khi lãi suất thị trường giảm.
Ming-Hua Liu và cộng sự (2008) đã áp dụng mô hình Phillips - Lorenta và mô hình hiệu chỉnh sai số ECM để đánh giá mức độ truyền dẫn và tốc độ điều chỉnh của lãi suất bán lẻ tại New Zealand trong giai đoạn 1994 – 2004 Kết quả nghiên cứu cho thấy mức độ truyền dẫn không đồng nhất và phụ thuộc vào từng loại sản phẩm, với lãi suất ngắn hạn có mức độ truyền dẫn và tốc độ điều chỉnh cao hơn so với lãi suất dài hạn.
Nghiên cứu của Sophia Mueller – Spahn (2008) về sự truyền dẫn lãi suất từ thị trường tiền tệ và thị trường vốn đến lãi suất bán lẻ của 197 ngân hàng ở Đức trong giai đoạn 1/2003 – 12/2006 sử dụng phương pháp định lượng với mô hình ARDL và ECM cho thấy rằng sự truyền dẫn này không hoàn toàn trong dài hạn, nhưng ở ngắn hạn, mức độ truyền dẫn cao hơn, đặc biệt là đối với lãi suất tiền gửi.
Nghiên cứu của Claudia Kwapil và Johann Scharler (2010) về tính xác định của trạng thái cân bằng trong mô hình giá cứng nhắc tại Mỹ và châu Âu trong giai đoạn 1/1995 – 9/2003 cho thấy rằng quá trình truyền dẫn từ lãi suất chính sách đến lãi suất bán lẻ diễn ra chậm và không hoàn toàn.
Hasan Muhammad Mohsin (2011) đã nghiên cứu sự truyền dẫn lãi suất trong bốn loại hình ngân hàng tại Pakistan từ tháng 11/2001 đến tháng 3/2011 Kết quả nghiên cứu cho thấy chính sách tiền tệ có tác động lớn hơn đến lãi suất cho vay so với lãi suất huy động Đặc biệt, lãi suất cho vay có mức truyền dẫn cao nhất tại Ngân hàng nhà nước, tiếp theo là ngân hàng tư nhân, ngân hàng nước ngoài và các ngân hàng đặc biệt khác.
Pil Nee Tai và cộng sự (2012) đã áp dụng mô hình SUR để phân tích sự truyền dẫn lãi suất và chính sách tiền tệ ở một số quốc gia châu Á trước và sau khủng hoảng tài chính 2007 Nghiên cứu cho thấy quá trình truyền dẫn lãi suất từ lãi suất chính sách đến lãi suất tiền gửi và tiền vay diễn ra chậm chạp ở hầu hết các quốc gia, với sự khác biệt không lớn giữa hai loại lãi suất này; cụ thể, truyền dẫn đến lãi suất tiền gửi cao hơn so với lãi suất cho vay.
Byung Chul Yu và cộng sự (2013) đã áp dụng mô hình NARDL để nghiên cứu sự truyền dẫn lãi suất từ lãi suất chính sách đến lãi suất cho vay ngân hàng tại 8 nước châu Á trong giai đoạn từ tháng 1 năm 2000 đến tháng 8 năm 2009 Nghiên cứu chỉ ra rằng sự truyền dẫn lãi suất không hoàn toàn và có mức độ khác nhau ở các quốc gia như Hồng Kông, Indonesia, Thái Lan và Philippines, do các yếu tố như chi phí thực đơn cố định, chi phí chuyển đổi cao, thị trường cạnh tranh không hoàn hảo và bất cân xứng thông tin Ngược lại, tại Hàn Quốc, sự truyền dẫn lãi suất lại diễn ra quá mức, điều này được giải thích bởi sự cạnh tranh mạnh mẽ trong ngành ngân hàng của nước này.
THỰC TRẠNG LÃI SUẤT TÁI CẤP VỐN VÀ LÃI SUẤT TIỀN GỬI, LÃI SUẤT CHO VAY CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT
Thực trạng điều hành lãi suất tái cấp vốn của ngân hàng Nhà nước Việt Nam
3.1 Thực trạng điều hành lãi suất tái cấp vốn của ngân hàng Nhà nước Việt Nam giai đoạn 2005 – 2014
Trong giai đoạn 2004 – 2005, nền kinh tế Việt Nam trải qua nhiều biến động như giá cả tăng cao và nhu cầu tín dụng gia tăng Để ứng phó với tình hình này, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã thực hiện 3 lần điều chỉnh tăng lãi suất tái cấp vốn và lãi suất tái chiết khấu, cùng với 2 lần tăng lãi suất cơ bản.
Lãi suất trên thị trường thế giới, đặc biệt là lãi suất đồng đô la Mỹ, đang có nhiều biến động, dẫn đến sự thay đổi của lãi suất VND Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) duy trì chính sách lãi suất thận trọng và linh hoạt, giữ nguyên lãi suất tái cấp vốn ở mức 6.5%/năm, lãi suất tái chiết khấu 4.5%/năm và lãi suất cơ bản 8.25%/năm.
Để ổn định lãi suất thị trường và kiểm soát lạm phát, NHNN đã giữ lãi suất cơ bản ở mức 4.5%/năm và lãi suất tái cấp vốn ở mức 6.5%/năm trong năm 2007 Từ ngày 1/3/2007, NHNN đã bãi bỏ quy định trần lãi suất tiền gửi bằng đô la Mỹ, cho phép áp dụng cơ chế thỏa thuận.
Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu suy giảm và tình hình kinh tế trong nước phức tạp đầu năm 2008, Chính phủ đã xác định nhiệm vụ trọng tâm là kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội và tăng trưởng bền vững, trong đó kiềm chế lạm phát là ưu tiên hàng đầu Để thực hiện mục tiêu này, Chính phủ đã đề ra 8 nhóm giải pháp, trong đó có việc đổi mới cơ chế điều hành lãi suất, điều chỉnh tăng hợp lý các mức lãi suất cơ bản, tái cấp vốn và tái chiết khấu, nhằm tạo hành lang lãi suất phù hợp với việc kiểm soát tốc độ tăng trưởng dư nợ tín dụng và đảm bảo lãi suất thực dương cho người gửi tiền.
Đầu năm 2008, việc thắt chặt tiền tệ và nới lỏng dần vào cuối năm đã dẫn đến một loạt điều chỉnh chính sách chưa từng có, bao gồm 8 lần điều chỉnh lãi suất cơ bản, tái cấp vốn và tái chiết khấu; 5 lần điều chỉnh dự trữ bắt buộc và lãi suất tiền gửi dự trữ; 3 lần nới biên độ tỷ giá; cùng 2 lần tăng mạnh tỷ giá bình quân liên ngân hàng.
Chính sách tiền tệ và hoạt động của các ngân hàng thương mại năm 2009 ổn định hơn so với năm 2008 Trong năm này, tần suất điều chỉnh lãi suất giảm, với Ngân hàng Nhà nước điều chỉnh lãi suất tái cấp vốn và tái chiết khấu 3 lần, bao gồm 2 lần giảm vào tháng 1 và tháng 4, và 1 lần tăng vào đầu tháng 12 Mục tiêu của các điều chỉnh này là duy trì lãi suất hợp lý nhằm kích thích tăng trưởng kinh tế.
Năm 2010, nền kinh tế Việt Nam đối mặt nhiều thách thức trong giai đoạn phục hồi sau khủng hoảng kinh tế toàn cầu 2008-2009 Để ứng phó với tình hình này, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã thực hiện chính sách tiền tệ thận trọng và linh hoạt, nhằm hỗ trợ tăng trưởng kinh tế và kiểm soát lạm phát NHNN duy trì lãi suất tái cấp vốn ổn định ở mức 8% trong 10 tháng đầu năm, trước khi điều chỉnh lên 9% trong hai tháng cuối năm do áp lực lạm phát gia tăng.
Từ đầu năm, NHNN đã quyết liệt tăng lãi suất cơ bản, tái cấp vốn và tái chiết khấu nhằm kiềm chế lạm phát Lãi suất tái cấp vốn đã tăng từ 9% lên 15% trong năm 2011, khi lạm phát ở Việt Nam đạt mức cao nhất 18,13%, đứng đầu khu vực ASEAN Nhờ chính sách tiền tệ thắt chặt, tỷ lệ lạm phát đã giảm liên tục trong các năm 2012 và 2013.
Cuối năm 2011, căng thẳng thanh khoản trong hệ thống ngân hàng kéo dài sang năm 2012, buộc NHNN phải áp dụng biện pháp hành chính với trần lãi suất huy động Trước tình hình giảm chỉ số giá tiêu dùng và lạm phát kỳ vọng, NHNN đã đồng loạt giảm các lãi suất chính sách Cụ thể, trong năm 2012, lãi suất tái cấp vốn giảm từ 15% xuống 9%, lãi suất tái chiết khấu giảm từ 13% xuống 8%, và trần lãi suất huy động kỳ hạn ngắn ngày giảm từ 14% xuống 9%.
Trong bối cảnh kinh tế khó khăn, chính sách tiền tệ năm 2013 được triển khai nhằm duy trì sự ổn định các cân đối vĩ mô Ngân hàng Nhà nước đã thực hiện điều chỉnh giảm lãi suất, cụ thể là giảm 2% lãi suất điều hành và 3% trần lãi suất cho vay ngắn hạn cho các lĩnh vực ưu tiên.
Năm 2014, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) tiếp tục thực hiện chính sách tiền tệ chủ động và linh hoạt, phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa để kiểm soát lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô, đồng thời hỗ trợ tăng trưởng kinh tế hợp lý NHNN quyết định duy trì ổn định các mức lãi suất điều hành như lãi suất tái cấp vốn, tái chiết khấu, và lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng Ngoài ra, NHNN theo dõi sát sao thị trường và điều hành đồng bộ các công cụ chính sách tiền tệ nhằm đảm bảo sự ổn định cho thị trường tiền tệ, ngoại hối và tỷ giá.
Thực trạng lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay của các ngân hàng thương mại Việt Nam giai đoạn 2005 – 2014
Lãi suất trung bình tiền gửi VND của các ngân hàng thương mại đạt 8.4%/năm trong năm 2005, tăng đều qua các tháng và tăng từ 0.48% đến 0.63% so với năm 2004 Ngược lại, lãi suất cho vay lại không có xu hướng rõ ràng và biến động trong biên độ nhỏ.
Mức lãi suất cơ bản của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã tăng lên 8.25%/năm, góp phần làm lãi suất huy động trên thị trường tăng Trong 6 tháng đầu năm, lãi suất tiền gửi và cho vay của các ngân hàng thương mại (NHTM) có sự tăng nhẹ so với đầu năm Đến quý 3/2006, các NHTM không có nhiều biến động lãi suất như trước, chỉ một số ngân hàng điều chỉnh lãi suất với biên độ nhỏ, cụ thể lãi suất tiền gửi của nhóm NHTM cổ phần đạt 8.25%/năm cho kỳ hạn 3 tháng, trong khi nhóm NHTM nhà nước là 7.56%/năm.
Trong năm 2007, mặt bằng lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay của các ngân hàng thương mại giữ được sự ổn định Lãi suất cho vay ngắn hạn dao động từ 11.48% đến 13.8% mỗi năm, trong khi lãi suất cho vay trung và dài hạn nằm trong khoảng từ 11.8% đến 16.2% mỗi năm.
Năm 2008, các ngân hàng thương mại (NHTM) gặp khó khăn do thiếu nguồn cung tiền, dẫn đến lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay tăng cao Mức lãi suất tái cấp vốn đã đạt đỉnh 15%/năm, trở thành mức cao nhất tại châu Á.
Lãi suất tiền gửi và cho vay VND đã ổn định theo lãi suất cơ bản sau những biến động lớn năm 2008 Tuy nhiên, từ giữa năm 2009, căng thẳng về lãi suất bắt đầu xuất hiện, phản ánh khó khăn thanh khoản trong hệ thống ngân hàng Từ tháng 7 đến tháng 11/2009, các ngân hàng thương mại (NHTM) đã tăng lãi suất tiền gửi VND, đặc biệt là ở các kỳ hạn dài, với mức cao nhất lên đến 10,5%/năm Để kiểm soát tình hình, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã quy định trần lãi suất là 10,5%/năm, dẫn đến các NHTM áp dụng lãi suất tối đa 10,49%/năm Cuối năm 2009, lãi suất cho vay phổ biến dao động từ 11-12%/năm do điều chỉnh lãi suất cơ bản từ 7% lên 8%.
Lãi suất tiền gửi VND đã tăng mạnh vào cuối năm 2009, sau khi ổn định trong quý II và III Sự gia tăng này đã dẫn đến việc lãi suất cho vay cũng tăng cao, trong bối cảnh áp dụng cơ chế lãi suất thỏa thuận Để giảm lãi suất thị trường và hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận vốn ngân hàng, NHNN và Hiệp hội ngân hàng đã yêu cầu các NHTM giảm lãi suất huy động vốn bằng VND Kết quả là, từ tháng 7, lãi suất huy động VND đã được điều chỉnh giảm xuống còn 11 – 11,2% cho các kỳ hạn và duy trì ổn định đến tháng 10.
Lãi suất cho vay hiện nay đã giảm ở một số lĩnh vực, nhưng nhìn chung vẫn duy trì ở mức cao Trong năm 2010, lãi suất cho vay dao động từ 14,5% đến 18% trong những tháng đầu và cuối năm.
Lãi suất tiền gửi VND hiện ổn định hơn so với cuối năm 2010, dao động trong khoảng 13,5-14%/năm Ngược lại, lãi suất cho vay đã tăng từ 1-1,5%/năm, hiện ở mức bình quân 16,23%/năm, với lãi suất cho vay lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn và xuất khẩu từ 14-16%/năm, trong khi lĩnh vực phi sản xuất lên tới 18-22%/năm Tuy nhiên, trong quý II/2011, lãi suất cho vay vẫn duy trì ở mức cao, trung bình từ 18-19%/năm và có thể lên tới 25%/năm, khiến nhiều doanh nghiệp, đặc biệt trong lĩnh vực phi sản xuất, gặp khó khăn và sản xuất đình trệ.
Ngày 28/05/2012, NHNN quyết định đưa trần lãi suất huy động và lãi suất cho vay lần lượt về còn 11% và 14%/năm Từ ngày 11/6/2012, trần lãi suất huy động
Lãi suất VND đã giảm từ 11%/năm xuống còn 9%/năm, theo thông tư 19/2012/TT-NHNN ban hành ngày 8/6/2012, cho phép các ngân hàng thương mại tự quyết định lãi suất huy động kỳ hạn dài từ 12 tháng trở lên Từ ngày 24/12/2012, NHNN đã giảm trần lãi suất huy động xuống còn 8%/năm Đến cuối năm 2012, lãi suất tiền gửi VND đã giảm mạnh từ 3-6%/năm, trong khi lãi suất cho vay giảm từ 5-9%/năm so với cuối năm 2011, trở về mức của năm 2007.
Trong 8 tháng đầu năm, lãi suất VND đã giảm từ 2-5%/năm so với đầu năm, với lãi suất tiền gửi giảm 2-3%/năm và lãi suất cho vay giảm 3-5%/năm, quay trở lại mức của giai đoạn 2005-2006 Mặc dù trần lãi suất huy động chỉ giảm 0,5%-1%, nhưng lãi suất thị trường đã giảm mạnh hơn, khoảng 0,8-1,5% cho các kỳ hạn dưới 1 năm và 2,5-3,5% cho các kỳ hạn trên 1 năm so với cuối năm 2012 Lãi suất cho vay VND cũng đã được điều chỉnh giảm thêm 3-4%/năm để hỗ trợ khách hàng, với mức lãi suất phổ biến vào cuối năm 2013 là 8-11,5%/năm cho kỳ hạn ngắn và 11,5-13%/năm cho kỳ hạn trung, dài hạn.
Trong bối cảnh ngân hàng thừa thanh khoản, lãi suất tiền gửi và cho vay đã giảm so với năm 2013 Cụ thể, từ ngày 29/10/2014, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã điều chỉnh giảm lãi suất tiền gửi tối đa bằng VND xuống 5,5%/năm cho các kỳ hạn từ 1 tháng đến dưới 6 tháng Đồng thời, lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa cũng giảm từ 8%/năm xuống còn 7%/năm đối với một số lĩnh vực kinh tế Ngoài ra, lãi suất tiền gửi bằng đô la Mỹ của cá nhân tại các tổ chức tín dụng cũng được điều chỉnh giảm từ 1%/năm xuống 0,75%/năm.