1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Nghiên cứu khảo sát một số nhóm hợp chất hữu cơ trong lá cây lô hội trên địa bàn thành phố đà nẵng bằng phương pháp hóa học

52 9 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Nghiên Cứu Khảo Sát Một Số Nhóm Hợp Chất Hữu Cơ Trong Lá Cây Lô Hội Trên Địa Bàn Thành Phố Đà Nẵng Bằng Phương Pháp Hóa Học
Tác giả Nguyễn Thị Hồng Hậu
Người hướng dẫn ThS. Phan Thảo Thơ
Trường học Đại học Đà Nẵng
Chuyên ngành Hóa học
Thể loại Khóa luận tốt nghiệp
Năm xuất bản 2014
Thành phố Đà Nẵng
Định dạng
Số trang 52
Dung lượng 1,3 MB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN (12)
    • 1.1. ĐẶC ĐIỂM THỰC VẬT CỦA CÂY LÔ HỘI (13)
      • 1.1.1. Mô tả thực vật (13)
        • 1.1.1.1. Đặc điểm hình thái (13)
        • 1.1.1.2. Đặc điểm vi phẫu (14)
      • 1.1.2. Vùng phân bố, thu hái và chế biến (16)
        • 1.1.2.1. Vùng phân bố (16)
        • 1.1.2.2. Thu hái và chế biến cao lô hội (16)
    • 1.2. CÁC NGHIÊN CỨU VỀ DƢỢC LÝ (17)
      • 1.1.2. Theo kinh nghiệm dân gian (0)
      • 1.2.2. Theo nghiên cứu khoa học (19)
    • 1.3. THÀNH PHẦN HÓA HỌC (21)
      • 1.3.1 Các hợp chất antraglicodid (21)
      • 1.3.2. Các dẫn xuất antraquinon (23)
      • 1.3.3. Các hợp chất chromon (24)
      • 1.3.4. Chất nhựa (27)
      • 1.3.5. Tinh dầu (27)
      • 1.3.6. Polysaccharid acemanan (27)
      • 1.3.7. Lectin (27)
  • CHƯƠNG 2: NGUYÊN LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU (28)
    • 2.1. XỬ LÝ NGHIÊN LIỆU (29)
      • 2.1.1. Nguyên liệu tươi (29)
      • 2.1.2. Nguyên liệu khô (29)
    • 2.2. ĐIỀU CHẾ CAO LÔ HỘI (29)
      • 2.2.1. Dụng cụ (29)
      • 2.2.2. Điều chế các loại cao (29)
    • 2.3. HÀM LƯỢNG NƯỚC TRONG LÁ TƯƠI LÔ HỘI (30)
      • 2.3.1. Nguyên tắc (30)
      • 2.3.2. Cách tiến hành (30)
    • 2.4. ĐỊNH TÍNH CÁC NHÓM CHẤT HỮU CƠ CÓ TRONG LÁ CÂY LÔ HỘI 21 1. Định tính Sterol (31)
      • 2.4.1.1. Điều chế dung dịch thử (31)
      • 2.4.2. Định tính alcaloid (31)
        • 2.4.2.1. Điều chế dung dịch thử (31)
      • 2.4.3. Định tính tanin (33)
        • 2.4.3.1. Điều chế dung dịch thử (33)
        • 2.4.3.2. Thuốc thử (33)
      • 2.4.4. Định tính flavon (33)
        • 2.4.4.1. Điều chế dung dịch thử (33)
        • 2.4.4.2. Thuốc thử (33)
    • 2.5. Định tính saponin (34)
    • 2.6. Định tính glicosid (34)
      • 2.6.1. Điều chế dung dịch thử (34)
      • 2.6.2. Thuốc thử (36)
  • CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ THỰC NGHIỆM (37)
    • 3.1. NGUYÊN LIỆU, HÓA CHẤT, THIẾT BỊ (38)
      • 3.1.1. Nguyên liệu (38)
    • 3.2. HÀM LƯỢNG NƯỚC TRONG LÁ LÔ HỘI TƯƠI (39)
    • 3.3. ĐIỀU CHẾ CÁC LOẠI CAO (40)
      • 3.3.1. Qui trình điều chế cao alcol etil (40)
      • 3.3.2. Qui trình điều chế cao benzene, cao chloroform, cao alcol etil (40)
    • 3.4. ĐỊNH TÍNH CÁC NHÓM HỢP CHẤT HỮU CƠ TRONG LÁ CÂY LÔ HỘI (42)
      • 3.4.1. Định tính Sterol (42)
      • 3.4.2. Định tính Alkaloid (43)
      • 3.4.3. Định tính tannin (44)
      • 3.4.4. Định tính Flavon (45)
      • 3.4.5. Định tính Saponin (45)
      • 3.4.6. Định đính Glicosid (0)
  • KẾT LUẬN (49)
  • TÀI LIỆU THAM KHẢO (51)

Nội dung

TỔNG QUAN

ĐẶC ĐIỂM THỰC VẬT CỦA CÂY LÔ HỘI

Ở nước ta, lô hội thường được trồng làm cảnh; lá, hoa và rễ được dùng làm thuốc Cây lô hội có các đặc điểm sau:

- Tên khoa học: Aloe Barbadensis Miller, var chinensi, họ Liliaceae ( họ hành tỏi)

Tên thông thường: Lô Hội, Long Tu, Nha Đam,…

Aloe Vera, hay còn gọi là Aloe Barbadensis, là một loài cây có tên quốc tế được ghép từ từ "Alloeh" trong tiếng Ả Rập, có nghĩa là "hồi sinh", và từ "Vera" trong tiếng Latin, nghĩa là "sự thật".

Lô hội, còn được biết đến với nhiều tên gọi khác nhau như Du thông, Tượng tỵ thảo, La vi hoa, Long miệt thảo và Lưỡi hổ, đã xuất hiện trong dân gian từ lâu Một số sách cổ như Khai bảo gọi nó là Lô hội hay Nô hội, Quỷ đan Theo nghĩa Hán, "lô" có nghĩa là đen, còn "hội" có nghĩa là hội tụ, tụ đọng lại, phản ánh màu đen của nhựa cây lô hội khi cô lại và có thể đóng thành bánh.

- Một số tên khác: Aloe Vulgaris Lamk., Aloe Ferox Linn., Aloe Ferox Mill., Aloe Perfoliata Linn., Aloe Perryi Bak…

Lô hội là cây sống nhiều năm, có các đặc điểm về hình thể nhƣ sau:

- Thân cây: Có thể hóa gỗ, đôi khi không có, đôi khi mọc cao lên

Lá cây lô hội có hình dáng như hoa thị khi nhìn từ trên xuống, với chiều dài từ 30-50cm, rộng 5-10cm và dày 1-2cm ở phần gốc Chúng có hình mũi mác, mép lá có răng cưa thô cứng và thường xuất hiện những đốm trắng trên mặt bên Đầu lá sắc nhọn, chứa nhiều thịt và nước, cùng với chất nhầy giúp cây giữ ẩm, thích ứng tốt với môi trường khô hạn.

Cụm hoa của cây có chiều dài khoảng 1 mét, với hoa màu vàng, đỏ hoặc vàng lục nhạt, mọc thành chum dài Hoa bắt đầu mọc đứng và sau đó rủ xuống, dài từ 3-4 cm Các mảnh bao hoa dính lại với nhau tạo thành ống dài bằng phiến hoa, và cây thường ra hoa vào mùa thu.

- Trái nang: hình trứng thuôn, màu xanh, khi già, có màu nâu chứa nhiều hột và dai

Cây lô hội trồng tại nhà Cây lô hội ra hoa

Lá cắt ngang có biểu bì dày và mô mềm bên ngoài chứa các tế bào thành mỏng với hạt diệp lục Phần giữa lá là mô mềm với các tế bào lớn hơn chứa chất nhầy, trong đó một số tế bào còn có tinh thể oxalat calcium hình kim Ở ranh giới giữa hai vùng mô mềm, có một vòng các bó liber gỗ, bao gồm các mạch gỗ ở giữa và liber xung quanh Các tế bào này chạy dọc theo bó liber gỗ, với vách ngăn mỏng giúp dịch chứa hoạt chất dễ dàng chảy ra khi thu hoạch lá.

Hình 3: Cấu trúc của lá lô hội

Hình 4: Mặt cắt ngang của lá lô hội

1.1.2 Vùng phân bố, thu hái và chế biến

Lô hội đƣợc trồng hoặc mọc hoang tại các vùng có khí hậu khô hoặc vùng nhiệt đới nhƣ Phi Châu, Nam Âu, Nam A, Đông Nam Á và Trung Mĩ:

- Aloe ferox Mill Có thân cao từ 2 – 5m, lá mọc thanh hoa thị dày, dài 15 –

Cây lô hội “Natal” có chiều cao 50 cm và rộng 10 cm ở gốc, với đặc điểm nổi bật là có gai ở mặt dưới lá và mép dưới lá Hoa của cây có màu đỏ và loài này chủ yếu phân bố ở Đông và Nam Phi.

- Aloe Ferox Linn (Aloe Africana) và Aloe Spicata ở miền Nam châu Phi gọi là lô hội xứ Cap

Aloe vera L (còn gọi là Aloe vulgaris Lamk và Aloe barbadensis Mill.) là một loại cây không có hoặc có thân ngắn, chiều cao từ 30 đến 50 cm Lá cây chỉ có gai ở hai mép và hoa có màu vàng Cây có nguồn gốc từ Bắc châu Phi, cực Nam châu Phi, Ấn Độ, Curacao và đảo Barbados ở biển Caribbean, Trung Mỹ Mặc dù đã được di nhập vào Antille, hiện nay cây chỉ được trồng ở các đảo Aruba, Bonaire, cùng với vùng thung lũng Rio Grande ở Texas, Mỹ, nơi sản xuất "lô hội Curacao".

- Aloe Perryi Bak.: Ở vùng Hồng Hải, cho lô hội “Socotra” và các đảo ở Ấn Độ Dương, cho lô hội “ Scotrin”

Vào cuối thế kỷ 13, du khách người Italia Marco Polo đã khám phá châu Á và giới thiệu cây nha đam (lô hội) cho người dân Trung Quốc Cây nha đam sau đó được di thực sang Việt Nam, nơi chỉ có một loài duy nhất là Aloe barbadensis Mill var chinensis (Haw.) Berg Nha đam phát triển mạnh ở các vùng như Phan Thiết, Phan Rang, Phan Rí, Bình Thuận và Bình Dương.

Tóm lại có hơn 300 loài lô hội, trong đó có hai loài đƣợc sử dụng làm thuốc và đƣợc chú ý nhiều là Aloe ferox Mill Và Aloe vera L

1.1.2.2 Thu hái và chế biến cao lô hội

Tại Nam Phi, người ta thu hoạch dịch từ lá bằng cách cắt tận gốc và xếp các lá vào một hố chứa Dịch trong lá sẽ tự chảy ra và sau 24 giờ, người ta chuyển dịch này sang nồi để cô lại.

Sản phẩm nhựa màu nâu đen ánh lục được thu nhận sau khi bốc hơi từ 4-5 giờ và để nguội, có vết bẻ bóng láng cùng với mùi đặc biệt và vị đắng khó chịu Chất này tan trong nước nóng để lại một ít cặn, tan trong cồn nhưng hầu như không tan trong ether, chloroform và benzen Mỗi năm, sản lượng đạt từ 400-500 tấn.

Hiện nay, ở Aruba, lá lô hội được thu hoạch bằng phương pháp cơ giới, thay vì thủ công như trước đây, dẫn đến sản phẩm có màu nâu đỏ và vết bẻ không nhẵn Trong quy trình sản xuất hiện đại, dịch lô hội được bốc hơi bằng máy phun sương, tạo ra sản phẩm ở dạng bột với màu sắc nâu đỏ và sẫm lại khi tiếp xúc với ánh sáng Mùi vị của sản phẩm tương tự như lô hội ở Nam Phi, với sản lượng đạt hàng trăm tấn.

Tại Curacao, lá lô hội được cắt và xếp vào thùng hình chữ V, với đầu lá hướng xuống dưới Nhựa sẽ tự chảy ra mà không cần ép Sau đó, nhựa được cô đặc trong thùng đồng và để nguội cho đến khi đông đặc lại.

Cắt nhỏ lá lô hội, sau đó giã và ép để thu được nước Để nước lắng trong 24 giờ, sau đó gạn lấy và cô đặc dưới ánh nắng hoặc đun cho đến khi cạn Tuy nhiên, phương pháp này có thể tạo ra cao lô hội chứa nhiều tạp chất, không đảm bảo chất lượng.

+ Thái nhỏ lá, ngâm với nước, lọc lấy nước Đun bã với lượng nước mới, trộn nước sau với nước mới, cô đặc lại

Để chế biến nước đen đặc từ lá, bạn có thể cho lá đã thái nhỏ vào rổ bằng dây thép và nhúng vào thùng nước sôi trong 10 phút Tiếp tục lặp lại quy trình với các lượng lá mới cho đến khi thu được nước đen đặc, sau đó gạn và cô đặc lại.

Phương pháp công nghiệp để chế biến lá bao gồm việc loại bỏ vỏ lá và chất dịch màu vàng, chỉ giữ lại phần thịt lá Sau đó, phần thịt lá được xay nhuyễn và lọc để thu được dịch trong, có thể sử dụng để uống hoặc chế thành dạng bột Sản phẩm này thường được ứng dụng trong ngành dược phẩm và hóa mỹ phẩm.

CÁC NGHIÊN CỨU VỀ DƢỢC LÝ

1.2.1 Theo kinh nghiệm dân gian

Liều thấp từ 20-50 mg nhựa Aloe khô có tác dụng bổ đắng, hỗ trợ chức năng tỳ vị và gan, đồng thời giúp nhuận tràng và chống táo bón Nhựa Aloe kích thích nhẹ niêm mạc ruột, có tác dụng thông mật và ngăn chặn tình trạng cao bã lưu lại lâu trong ruột.

- Liều vừa: 100 mg (3-5 lá tươi): Sát trùng đường ruột, điều kinh, nhuận trường, xổ

Liều cao từ 200-500 mg (10-20 lá) của loại thuốc này được xem là một vị thuốc tẩy mạnh, nhưng có tác dụng chậm và có thể gây ra các vấn đề như sung huyết phổi và sung huyết các phủ tạng Nó được sử dụng để chữa các bệnh nhức đầu khó trị, nhưng cần lưu ý rằng thuốc làm tăng lượng máu, do đó không nên dùng cho người bị bệnh trĩ hoặc phụ nữ mang thai Tùy thuộc vào liều lượng, thuốc có thể gây ra mức độ tẩy cần thiết, với tác dụng xuất hiện sau 10-15 giờ, dẫn đến phân mềm nhão, nhưng không lỏng, và có thể kèm theo cảm giác đau bụng nhẹ.

Lô hội có tác dụng chậm nếu không có mật, vì mật là yếu tố cần thiết để tăng cường hiệu quả Việc chỉ sử dụng lô hội mà không có mật sẽ không mang lại tác dụng tốt hơn so với việc chỉ dùng nước ấm Tuy nhiên, khi thêm một ít mật bò vào lô hội, hiệu quả sẽ trở nên mạnh mẽ hơn.

-Vì có tác dụng mạnh nên dùng sau bữa ăn chiều để có tác dụng vào sớm hôm sau

-Tác dụng phụ: Gây sung huyết ở ruột già và co bóp tử cung nên người bị trĩ và phụ nữ có thai không đƣợc dùng

-Liều cao hơn có thể gây nguy hiểm Liều 8g có thể gây chết( phân nhiều, yếu toàn thân, mạch chậm, nhiệt độ xuống)

- Một số bài thuốc từ lô hội:

+ Chữa nôn ra máu: Hoa lô hội 20g, sắc với rƣợu (Lĩnh nam thái dƣợc lục)

+ Chữa ho đờm: Lô hội 20g, bỏ vỏ ngoài, lấy nước rửa sạch chất dính Sắc uống ngày một thang (Quảng Đông trung thảo dƣợc)

+ Chữa ho khạc ra máu: Hoa lô hội 12-20g khô Sắc uống ngày một thang (Nam phương chủ yếu hữu độc thực vật)

+ Chữa trẻ em cam tích: Rễ lô hội khô 20g Sắc uống ngày một thang (Nam phương chủ yếu hữu độc thực vật)

+ Chữa đau đầu, chóng mặt: Lô hội 20g, hoa đại 12g, lá dâu 20g Sắc uống ngày một thang, chia 2-3 lần

+ Chữa tiêu hóa kém: Lô hội 20g, bạch truật 12g, cam thảo 4g Sắc uống ngày một thang, chia 2-3 lần

- Đơn thuốc chứa lô hội

Viên nhuận tràng của xí nghiệp dược phẩm Sài Gòn chứa các thành phần chính như bột lô hội, cao mật bò tinh chế, phenolphthalein và bột Cam Thảo, giúp hỗ trợ chữa táo bón, khó tiêu do thiếu nước mật, vàng da, và các vấn đề về gan và ruột Liều dùng khuyến nghị là 1-2 viên vào bữa cơm chiều, có thể tăng liều nếu cần Lưu ý, sản phẩm này không dành cho trẻ em dưới 15 tuổi.

+ Trị suy nhƣợc cơ thể: bài thuốc Kariất gôm lô hội (30g), Xuyên Tâm Liên ( 180g), trong 1 lit rƣợu 40 o , dung 4-16g rƣợu bổ mỗi ngày

Có thể hái 2-3 lá, bóc vỏ cứng bên ngoài, sau đó cắt thành từng miếng nhỏ để ăn tươi với đường, nấu với đường, hoặc sử dụng như rau sống Cách này giúp làm mát cơ thể và hỗ trợ điều trị kinh nguyệt không đều.

1.2.2 Theo nghiên cứu khoa học

Từ cuối thập kỷ 30, nhiều nghiên cứu khoa học đã khảo sát dược tính của cao lô hội, cho thấy nó có nhiều tác dụng hiệu quả trong điều trị các bệnh như hô hấp, tim mạch, tiểu đường, sưng viêm đường tiểu và sinh dục, cũng như hỗ trợ điều trị vết thương nhiễm trùng, viêm khớp, đau nhức, phỏng, rụng tóc, và các vấn đề về răng miệng.

Tại Liên Xô cũ, nước ép lá lô hội được sử dụng để rửa vết thương có mủ và một số bệnh ngoài da Dịch ép lá kết hợp với dầu thầu dầu và tinh dầu bạch đàn tạo thành nhủ dịch, được dùng để bôi ngoài da khi da bị tổn thương do bỏng bức xạ Ngoài ra, lá non còn được bảo quản trong điều kiện tối và lạnh để chế philatốp Dịch lá tươi lô hội có tính kháng khuẩn đối với vi khuẩn lao trong môi trường invitro.

Vào năm 1934, bác sĩ C E Collins đã sử dụng lá lô hội để điều trị cho một phụ nữ 31 tuổi bị bỏng do tia phóng xạ ở vùng đầu Ông áp dụng lá lô hội cắt đôi lên vết thương hoặc chế biến thành thuốc mỡ từ cả phần vỏ và gel của cây lô hội.

3 tháng, lớp da đầu đã lành nhƣ cũ không để lại sẹo Tiếp đó ông dùng lô hội chữa

Từ 10 đến 15 người đã trải qua các tổn thương da do tia phóng xạ và tất cả đều đã hồi phục Đây là ứng dụng đầu tiên của lô hội trong y học hiện đại, được nhiều bác sĩ công nhận và áp dụng rộng rãi.

Năm 1940-1941, T Rowe, B K Lovell và Lloyd M Parks báo cáo cho biết lô hội giúp lành các vết bỏng nhanh hơn bất kỳ biện pháp nào khác vào thời kỳ đó

Họ cũng nhận thấy rằng chất chữa bệnh nằm ở phần vỏ và chất nhựa của lô hội, chứ không nằm trong phần gel

Năm 1945, nhà bác học Nga Filatov phát hiện rằng nước ép lô hội có khả năng chữa trị nhiều bệnh ngoài da và bệnh phổi Ông cũng nhận thấy khi đặt lá lô hội vào bóng tối hoặc nơi lạnh, lá cây sẽ sản sinh ra các kích sinh tố (biostimulines), từ đó tạo ra cơ sở cho việc sản xuất thuốc Philatop từ lô hội.

Năm 1953, các nhà nghiên cứu tại Ủy ban nguyên tử lực Hoa Kỳ đã phát hiện ra rằng lô hội có khả năng chữa lành các vết loét do phóng xạ trên súc vật thí nghiệm nhanh hơn 50% so với các phương pháp điều trị khác.

Các bác sĩ Liên Xô đã tiến hành nghiên cứu so sánh hiệu quả của Philatop từ nhau thai và Philatop lô hội Kết quả cho thấy, trong thí nghiệm trên chuột bị tiêm chất độc Strychnin với liều tử vong 100% (LD100), Philatop lô hội có khả năng cứu sống 35% số chuột, trong khi Philatop từ nhau thai chỉ cứu sống 4% Nghiên cứu này được thực hiện tại Kiev vào năm 1975.

Năm 1976, S.MORRIS KUPCHAN và AZIZ KARIM từ Đại học Virginia đã nghiên cứu và phát hiện rằng Aloe-emodin với liều tối ưu 20 mg/kg có khả năng làm tăng từ 133% đến 154% tốc độ chuyển hóa các chất kháng bệnh nạch cầu P=-388 ở chuột.

Nghiên cứu đã chỉ ra rằng lô hội có khả năng kháng sinh mạnh mẽ, giúp chữa lành nhiều loại vết thương trên da, cũng như hỗ trợ điều trị các vấn đề về răng miệng, dạ dày và đại tràng.

G R Waller ở trường Ðại học tổng hợp bang Oklahoma báo cáo cho biết trong phần vỏ và nhựa của lô hội có chứa các acid amin tự do, các đường đơn, B- sitosterol, lupeol; trong đó B-sitosterol có tác dụng chống viêm và làm giảm cholesterol máu; lupeol làm giảm đau và chống các vi sinh vật

THÀNH PHẦN HÓA HỌC

Antraglicosid, hay còn gọi là antracenosid, là những glicosid có cấu trúc bao gồm một phần đường và một phần aglicon, với aglicon là dẫn xuất 9,10-diceton của antracen hoặc 9,10-antraquinon Đặc điểm nổi bật của nhóm carbonil trong antraquinon là không phản ứng với các thuốc thử thông thường của chức ceton Một số antraglicosid còn có tính chất nhuận tẩy, mang lại lợi ích cho sức khỏe tiêu hóa.

Barbaloin, a compound found in 15-30% concentration in aloe vera resin, is a yellow to dark yellow crystalline substance with a bitter taste that darkens when exposed to air and light It possesses laxative properties and is soluble in water, alcohol, acetone, ammonia, and alkaline hydroxides, while being only slightly soluble in benzene, chloroform, and ethyl ether.

Về dƣợc tính, nếu dùng ở liều lƣợng cao barbaloin có khả năng hây kích ứng trên ruột và dạ dày

Nhiệt độ nóng chảy: 148 0 C + Độ triền quang ở 20 0 C =+21 0 ( trong nước) + Độ tan ở nhiệt độ phòng: 1 – 10 % trong nước

+ Liều gây tử vong: LD50 = 200mg/kg (trên chuột)

Aloinosid, hay aloe-emodinatron-10-D-glucosil-11-α-L-ramnosid, laf ramnosid (O-glicosid) của aloin, rất ít gặp trong lô hội Curacao Aloinosid có nhiều trong loài Lô Hôi Africana hoặc Ferox

+ Nhiệt độ nóng chảy = 233 o C + Độ triền quang ở 20 o C = -45.3 o

Homonataloin thường gặp ở lô hội Natal, loài Speciosa Bak

Aloe-emodin; iso-emodin; 1.8-dodihidrooxxi-3-hidroximetilantraquinon

Aloe-emodin constitutes approximately 0.05-0.50% of aloe vera gel, dissolving in ethyl ether, chloroform, and benzene, and crystallizing as orange-yellow needles While small amounts of free aloe-emodin (0.15-0.25%) are present, the majority exists in the form of the anthraquinone glycoside known as aloin.

Chất emodin, một đồng phân của aloe-emodin, là một hợp chất metal trioxiantraquinon có thể được xác định trong lô hội thông qua phản ứng Borntraeger, trong khi các glycosid antraquinon không cho phản ứng này.

Nhiệt độ nóng chảy: 256-257 o C, thăng hoa Độ tan ở nhiệt độ phòng: aceton(5-10mg/ml), DMSO (10-50mg/ml), alcol metal (

Ngày đăng: 26/06/2021, 17:15

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w