TỔNG QUAN LÝ THUYẾT
Tổng quan về chất thải rắn
1.1.1 Định nghĩa về chất thải rắn [4] [11]
Chất thải rắn được định nghĩa là tất cả các loại vật chất mà con người loại bỏ trong các hoạt động kinh tế - xã hội, bao gồm sản xuất và sinh hoạt hàng ngày Trong đó, chất thải từ hoạt động sản xuất và sinh hoạt là hai nguồn phát sinh chính cần được chú trọng.
Theo quan niệm mới, CTR đô thị hay rác đô thị được định nghĩa là vật chất do con người tạo ra và vứt bỏ trong khu vực đô thị mà không yêu cầu bồi thường Ngoài ra, chất thải được coi là CTR đô thị nếu xã hội nhận thức rằng thành phố có trách nhiệm thu gom và tiêu hủy chúng.
Theo Nghị định số 59/2007/NĐ - CP của Chính phủ về Quản lý chất thải rắn:
Chất thải rắn là loại chất thải ở dạng rắn phát sinh từ các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và sinh hoạt Nó được chia thành hai loại chính: chất thải rắn thông thường và chất thải rắn nguy hại.
Chất thải rắn được chia thành hai loại chính: chất thải rắn sinh hoạt, phát sinh từ sinh hoạt cá nhân, hộ gia đình và nơi công cộng; và chất thải rắn công nghiệp, phát sinh từ hoạt động sản xuất công nghiệp, làng nghề, kinh doanh và dịch vụ.
1.1.2 Nguồn gốc phát sinh chất thải rắn [11]
Chất thải rắn phát sinh chủ yếu từ các nguồn sau:
Khu dân cư bao gồm các khu vực dân cư tập trung và những hộ gia đình riêng lẻ Nguồn rác thải chủ yếu từ các khu dân cư này là thực phẩm dư thừa, cùng với các vật liệu như thuỷ tinh, gỗ, nhựa và cao su, bên cạnh đó còn có một số chất thải nguy hại.
Các hoạt động thương mại như quầy hàng, nhà hàng, chợ, văn phòng, và khách sạn tạo ra nguồn thải tương tự như các khu dân cư, bao gồm thực phẩm, giấy, và carton.
Các cơ quan, công sở như trường học, bệnh viện và các cơ quan hành chính phát sinh lượng rác thải tương tự như rác thải dân cư và hoạt động thương mại, tuy nhiên khối lượng rác thải này thường ít hơn.
Xây dựng bao gồm việc xây mới nhà cửa, cầu cống, sửa chữa đường xá và dỡ bỏ các công trình cũ Chất thải trong lĩnh vực xây dựng thường có những đặc trưng riêng, bao gồm sắt thép vụn, gạch vỡ, cát sỏi, bê tông, vôi vữa, xi măng và các đồ dùng cũ không còn sử dụng.
Dịch vụ công cộng tại các đô thị bao gồm vệ sinh đường phố, phát quang và bảo trì công viên, bãi biển cùng với các hoạt động khác Quá trình này cũng liên quan đến việc xử lý rác thải như cỏ dại và rác từ trang trí đô thị.
Quá trình xử lý nước thải bao gồm nhiều giai đoạn quan trọng, từ việc xử lý nước thải sinh hoạt đến nước rác và các quy trình công nghiệp Nguồn thải chính trong quá trình này là bùn, có thể được tái chế thành phân compost, góp phần vào việc bảo vệ môi trường và tái sử dụng tài nguyên.
Chất thải từ hoạt động sản xuất công nghiệp bao gồm các loại chất thải phát sinh từ quy trình sản xuất và tiểu thủ công, quá trình đốt nhiên liệu, cùng với bao bì đóng gói sản phẩm Ngoài ra, một phần chất thải cũng đến từ sinh hoạt của nhân viên làm việc.
Các hoạt động sản xuất nông nghiệp tạo ra nguồn chất thải đa dạng, chủ yếu từ các cánh đồng sau mùa vụ, trang trại và vườn cây Rác thải này bao gồm thực phẩm dư thừa, phân gia súc, rác nông nghiệp, cũng như các chất thải phát sinh từ quá trình trồng trọt, thu hoạch và chế biến sản phẩm nông nghiệp.
- Rác bệnh viện: phát sinh từ các bệnh viện, các cơ sở khám chữa bệnh
1.1.3 Phân loại chất thải rắn [11]
Chất thải rắn được phát sinh từ các hoạt động khác nhau được phân loại theo nhiều cách:
Rác thải được phân loại theo vị trí hình thành, bao gồm rác thải đường phố, rác thải từ vườn, rác thải từ các khu công nghiệp tập trung và rác thải hộ gia đình.
Chất thải được phân loại dựa trên thành phần hóa học và vật lý, bao gồm chất thải hữu cơ, chất thải vô cơ, kim loại, phi kim, cũng như các loại chất thải khác như cháy được, không cháy được, da, giẻ vụn, cao su và chất dẻo.
- Theo bản chất nguồn tạo thành, chất thải rắn được phân thành các loại:
Chất thải rắn sinh hoạt là những chất thải phát sinh từ hoạt động của con người, chủ yếu từ khu dân cư, cơ quan, trường học và các trung tâm dịch vụ, thương mại Theo khoa học, có thể phân loại các loại chất thải rắn khác nhau dựa trên nguồn gốc và tính chất của chúng.
Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội ở huyện Điện Bàn
Điện Bàn là huyện ven biển thuộc tỉnh Quảng Nam, nằm ở phía bắc tỉnh này Huyện cách thành phố Đà Nẵng 25 km về phía nam và cách thành phố Tam Kỳ 45 km về phía bắc.
- Phía bắc: giáp thành phố Đà Nẵng
- Phía nam: giáp huyện Duy Xuyên
- Phía đông: giáp biển Đông và đông nam giáp thành phố Hội An
- Phía tây: giáp huyện Đại Lộc
- Nội thị: 212,66 km 2 , chiếm 99,05% tổng diện tích đất tự nhiên
- Ngoại thị: 2,05 km 2 , chiếm 0.95% tổng diện tích đất tự nhiên
1.2.1.3 Khí hậu Điện Bàn chịu ảnh hưởng của khí hậu nhiệt đới gió mùa
- Gió tây nam vào các tháng 5, 6, 7 và gió đông bắc vào các tháng 10, 11, 12
Lượng mưa lớn trong khu vực này phân bố không đều, chủ yếu tập trung vào các tháng 9, 10 và 11 Nhiệt độ dao động từ 14,1°C đến 40,8°C, với nhiệt độ trung bình đạt 25°C Tổng lượng mưa ghi nhận cao nhất lên tới 2616 mm, trong khi mức thấp nhất là 1796 mm, và lượng mưa trung bình đạt khoảng 2208 mm.
- Độ ẩm không khí: Độ ẩm tương đối trung bình trong năm: 82,3%
+ Tháng có độ ẩm tương đối lớn nhất là tháng 12: 85,8%
+ Tháng có độ ẩm tương đối thấp nhất là tháng 7: 75,2%
+ Các hướng gió thịnh hành là gió mùa Đông Nam (Từ tháng 5 đến tháng 9), Tây Nam (Từ tháng 4 đến tháng 7) và Đông Bắc (Từ tháng 10 đến tháng 12)
Bão thường xảy ra vào tháng 9, 10, 11, kết hợp với mưa lớn gây lũ lụt, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất và đời sống của người dân.
Khí hậu ở Điện Bàn có đặc điểm của khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa, với sự ổn định về nhiệt độ trong suốt các tháng Gió mùa Đông Nam là gió thịnh hành, mang lại thời tiết mát mẻ cho khu vực Bên cạnh đó, tác động của gió mùa Tây Nam và Đông Bắc ít gây thiệt hại đến sản xuất cây trồng.
Nhiệt độ ấm áp và tổng tích ôn cao thúc đẩy sự sinh trưởng và phát triển của cây trồng Tuy nhiên, chế độ mưa không đồng đều theo mùa gây ra tình trạng khô hạn vào mùa khô và ngập lũ, xói lở trong mùa mưa.
Hệ thống thuỷ văn tại Điện Bàn chủ yếu được hình thành từ các con sông bắt nguồn từ hệ thống sông Vu Gia và Thu Bồn, trong đó sông Thu Bồn là con sông chính của tỉnh Các sông ở đây phân bố tương đối đồng đều, với dòng chảy uốn khúc và nông, tạo nên mật độ phân bố trung bình 0,4 km/km² Ngoài sông Thu Bồn, khu vực còn có các sông khác như sông Yên, sông Vĩnh Điện, sông Bà Rén, sông Bình Phước, cùng với các sông nhánh như sông Thanh Quýt, sông Cổ Cò, sông Hà Sáu và sông Bình Long.
Sông Thu Bồn, con sông chính của tỉnh Quảng Nam, đóng vai trò quan trọng trong việc kết nối các huyện ở vùng Tây và đồng bằng Đoạn sông chảy qua huyện Điện Bàn dài 27 km, đi qua các xã như Điện Hồng, Điện Quang, Điện Trung, Điện Phong và Điện Phương Với lòng sông rộng trung bình từ 100 - 300m, khu vực này còn có nhiều bãi giữa và bãi cạn.
Sông có 26 biến phức tạp, với lưu lượng bình quân hằng năm đạt 243 m³/s và lưu lượng đỉnh lũ lớn nhất lên tới 10.200 m³/s Trong mùa lũ, lưu tốc lớn gây ra tình trạng xói lở bờ mạnh mẽ, khiến hàng năm khoảng 500 - 600 ha đất đai bị xói lở và vùi lấp, gây thiệt hại cho sản xuất và các khu dân cư ven sông Vào mùa khô, độ sâu trung bình của sông dao động từ 0,8 đến 1 m.
Sông Thu Bồn là nguồn nước quan trọng cho sản xuất nông nghiệp ở phía nam huyện, đặc biệt hỗ trợ cho sự phát triển của cây dâu tằm Để ổn định sản xuất nông nghiệp, cần áp dụng các biện pháp hạn chế và khắc phục tình trạng xói lở ven sông.
1.2.1.5 Đơn vị hành chính- dân số
Huyện Điện Bàn bao gồm 1 thị trấn (TT Vĩnh Điện) và 19 xã, trong đó có các xã như Điện Dương, Điện Nam Đông, Điện Nam Trung, Điện Nam Bắc, Điện Ngọc, và nhiều xã khác Dân số trung bình của huyện đạt 201.445 người, với mật độ dân số khoảng 938 người/km² và tỷ lệ gia tăng dân số chung là 0,96%.
(Theo Niên giám thống kê huyện Điện Bàn năm 2012) 1.2.2 Đặc điểm kinh tế, văn hóa - xã hội
Năm 2012, kinh tế tiếp tục ổn định với tổng giá trị sản xuất ước đạt 8.118,58 tỷ đồng, tăng 12,38% so với năm 2011 Nhóm ngành nông - lâm - thuỷ sản tăng 2,81%, trong khi ngành Công nghiệp - Xây dựng tăng 11,48% và nhóm ngành Thương mại - dịch vụ tăng mạnh 19,25% Cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực, với giá trị sản xuất ngành Công nghiệp - Tiểu thủ công nghiệp - Xây dựng chiếm 75,26%, Thương mại - dịch vụ 19,35% và nông - lâm - thuỷ sản 5,39%.
Mặc dù ngành Công nghiệp – Tiểu thủ công nghiệp đối mặt với nhiều thách thức, nhưng nhờ vào những nỗ lực từ các phong trào thi đua, sản xuất đã ổn định và duy trì mức tăng trưởng ấn tượng Tổng giá trị sản xuất của ngành đạt 5.183 tỷ đồng (theo giá cố định năm 1994), tăng 9,5% so với năm 2011, trong khi giá trị sản xuất tại địa phương đạt 564,3 tỷ đồng, cũng cho thấy sự tăng trưởng đáng kể so với năm trước.
Đầu tư xây dựng cơ bản là yêu cầu cấp thiết để phát triển kinh tế - xã hội của huyện, với việc xúc tiến hồ sơ và thủ tục để giải quyết nhanh chóng các vấn đề tồn đọng Mặc dù gặp khó khăn do cắt giảm đầu tư công, tổng mức đầu tư trên địa bàn vẫn đạt 1.359,3 tỷ đồng, tăng 25,3% so với năm trước.
Chương trình phát triển đô thị của huyện đã hoàn thành tuyến ĐH 9 từ trung tâm hành chính đến Cống chui (QL 1A) và nâng cấp, mở rộng đường nội thị Thị trấn Vĩnh Điện từ Bệnh viện Vĩnh Đức đến ĐH 9 Ngoài ra, đã cải tạo đường ven hồ trung tâm hành chính và đầu tư hệ thống điện chiếu sáng trên các tuyến đường.
Ngành thương mại - dịch vụ tiếp tục phát triển mạnh mẽ với tốc độ tăng trưởng ổn định Dự kiến, giá trị sản xuất của ngành này trong năm 2012 sẽ đạt khoảng 1.571 tỷ đồng (tính theo giá cố định năm).