Lịch sử vấn đề
Liên quan đến đề tài đã có nhiều công trình nghiên cứu ở những góc độ khác nhau, tiêu biểu là các công trình sau:
Các giáo trình nổi bật trong lĩnh vực dạy học lịch sử bao gồm "Phương pháp dạy học lịch sử" của Phan Ngọc Liên, Trịnh Đình Tùng và Nguyễn Thị Côi; "Phương pháp dạy học lịch sử ở trường phổ thông" do Phan Ngọc Liên, Trần Vĩnh Tường và Đặng Văn Hồ biên soạn; cùng với "Đổi mới phương pháp dạy học lịch sử" do Trần Đình Tùng chủ biên Những giáo trình này cung cấp các phương pháp và chiến lược hiệu quả nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy lịch sử trong các trường học.
Phương pháp và nguyên tắc sử dụng tài liệu văn học trong dạy học lịch sử đã được trình bày một cách đầy đủ, tuy nhiên, nội dung chỉ dừng lại ở lý thuyết mà chưa áp dụng vào thực tiễn giảng dạy.
- Trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã đón đầu đổi mới chương trình đào tạo
GV vừa phát hành bộ sách "Dạy học tích hợp phát triển năng lực học sinh," bao gồm hai quyển Bộ sách này cung cấp các cơ sở lý luận cần thiết về dạy học tích hợp và giới thiệu nhiều chủ đề tích hợp với các mức độ khác nhau.
Ngoài việc sử dụng giáo trình và sách tham khảo về phương pháp dạy học lịch sử, nhiều sinh viên và học viên cao học cũng chọn đề tài này làm nội dung cho khóa luận tốt nghiệp và luận văn Thạc sĩ của mình.
Trần Thị Kim Vân đã thực hiện khóa luận tốt nghiệp với chủ đề "Sử dụng tài liệu văn học trong dạy học lịch sử Việt Nam (Thế kỷ X - XV) ở lớp 7 trường Trung học cơ sở" Nghiên cứu này nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tích hợp tài liệu văn học vào giảng dạy lịch sử, nhằm nâng cao hiệu quả học tập cho học sinh lớp 7.
Trần Thị Hà với Luận văn thạc sỹ “Sử dụng tài liệu văn học trong dạy học lịch sử
Trong giai đoạn 1958 – 1918, chương trình giảng dạy lịch sử lớp 11 tại các trường trung học phổ thông ở Việt Nam đã được cải tiến với việc áp dụng các nguyên tắc và phương pháp sử dụng tài liệu văn học Những công trình nghiên cứu này đã đề xuất các cách thức hiệu quả nhằm nâng cao chất lượng dạy và học lịch sử Việt Nam trong bối cảnh cụ thể của thời kỳ này.
Tài liệu Hội thảo Khoa học tại Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh về “Dạy học tích hợp, dạy học phân hóa ở trường trung học” đã giới thiệu bài viết của tác giả Đỗ Hồng Thái, với tiêu đề “Tài liệu hướng dẫn dạy học tích hợp trong dạy học lịch sử ở trường Trung học phổ thông” (2011) Bài viết này cung cấp cái nhìn tổng quan về lý luận tích hợp trong dạy học lịch sử, nhấn mạnh vai trò của tài liệu văn học trong giảng dạy và đề xuất một số phương pháp áp dụng tài liệu văn học Tuy nhiên, bài viết vẫn chưa đi sâu vào phân tích cụ thể các phương pháp này.
Nhóm cuối trong Tạp chí Dạy và học ngày nay bao gồm nhiều bài viết nổi bật, trong đó có bài của Nay Thị Hương với chủ đề “Dạy học lịch sử nhằm phát huy tính tích cực của học sinh” và bài viết “Một số yêu cầu cơ bản khi dạy học tích hợp” của Nguyễn Thị Hướng.
Lài và Đặng Hoàng Sang đã nghiên cứu "Sử dụng văn học dân gian trong dạy học lịch sử Việt Nam ở trường Trung học phổ thông", trong khi Đặng Hữu Quế tập trung vào "Vận dụng kiến thức liên môn trong dạy học lịch sử ở trường trung học cơ sở" Những nghiên cứu này góp phần nâng cao hiệu quả giảng dạy lịch sử thông qua việc kết hợp các yếu tố văn hóa và kiến thức liên môn.
Trong các bài giảng ở trường THPT, chưa có nghiên cứu hệ thống về việc tích hợp tài liệu văn học vào dạy học lịch sử Khóa luận này sẽ tập trung vào việc nghiên cứu và lựa chọn các thể loại, tác phẩm thơ ca và văn học phù hợp để giảng dạy trong sách giáo khoa lịch sử lớp 12, đặc biệt là phần lịch sử Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945.
Đề tài này kế thừa và phát triển các nghiên cứu trước đó, nhằm tìm hiểu việc tích hợp tài liệu văn học trong giảng dạy lịch sử Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945 Mục tiêu là đổi mới phương pháp dạy học lịch sử, từ đó nâng cao chất lượng giảng dạy bộ môn này.
ối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là việc tích hợp tài liệu văn học vào giảng dạy lịch sử Việt Nam trong giai đoạn 1930 – 1945, nhằm phát huy tính tích cực của học sinh.
Nghiên cứu này tập trung vào việc tích hợp tài liệu văn học trong dạy học lịch sử Việt Nam trong giai đoạn 1930, thay vì đi sâu vào lý luận dạy học lịch sử.
1945 ở trường Trung học phổ thông (Chương trình chuẩn).
hương pháp nghiên cứu
- Cơ sở pháp luận: dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh về dạy học nói chung và dạy học lịch sử nói riêng
Tiếp cận và nghiên cứu sâu về tài liệu tâm lý học, giáo dục học, cũng như phân tích chương trình môn lịch sử và sách giáo khoa lịch sử lớp 12 theo chương trình chuẩn là rất quan trọng để nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập.
Để xây dựng nội dung cho đề tài, cần lựa chọn và sắp xếp các tài liệu phù hợp, sau đó tiến hành tập hợp và so sánh, đối chiếu nhằm chọn lọc những thông tin chính xác, khách quan và khoa học Điều này phải phù hợp với chương trình học và khả năng nhận thức của học sinh trung học phổ thông, đồng thời tích hợp các tài liệu văn học liên quan đến nội dung chương trình trong giới hạn đề tài.
Điều tra cơ bản về việc tích hợp tài liệu văn học trong dạy học lịch sử ở các trường phổ thông được thực hiện thông qua việc dự giờ, trao đổi với giáo viên và học sinh, cùng với việc tiến hành điều tra xã hội học để hiểu rõ thực tiễn áp dụng phương pháp này.
Thực nghiệm sư phạm được thực hiện thông qua việc giảng dạy thực nghiệm toàn phần và đối chứng tại các lớp 12 Trung học phổ thông Dựa trên các tiết giảng thực nghiệm, kết quả được kiểm tra bằng phương pháp trắc nghiệm giáo dục để rút ra những kết luận quan trọng.
óng góp của khóa luận
Đề tài này khẳng định vai trò quan trọng của phương pháp tích hợp trong dạy học lịch sử, đồng thời làm nổi bật mối liên hệ giữa việc giảng dạy các sự kiện lịch sử và các tài liệu văn học.
Nâng cao hiệu quả dạy học và củng cố phương pháp giảng dạy cho giáo viên là mục tiêu quan trọng, đồng thời phát huy tính tích cực trong việc học lịch sử của học sinh.
Sưu tầm và lựa chọn những tài liệu văn học cơ bản, phù hợp và có giá trị sử dụng là rất quan trọng trong việc dạy học lịch sử Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945 ở trường Trung học phổ thông Các tài liệu này không chỉ giúp học sinh hiểu rõ hơn về bối cảnh lịch sử mà còn kích thích sự quan tâm và yêu thích môn học Việc sử dụng tài liệu phù hợp sẽ nâng cao chất lượng giảng dạy và giúp học sinh tiếp cận kiến thức một cách hiệu quả hơn.
Khóa luận này cung cấp tài liệu quý giá cho những ai quan tâm đến vấn đề lịch sử Việt Nam trong giai đoạn 1930 – 1945, đồng thời là nguồn tham khảo hữu ích cho sinh viên và giáo viên dạy môn lịch sử.
Cấu trúc của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, tài liệu tham khảo, khóa luận đƣợc chia làm 3 chương
Chương 1 trình bày cơ sở lý luận và thực tiễn về việc tích hợp tài liệu văn học vào dạy học lịch sử ở trường Trung học phổ thông Mục tiêu chính là phát huy tính tích cực của học sinh trong quá trình học tập, giúp các em không chỉ nắm vững kiến thức lịch sử mà còn phát triển khả năng tư duy, sáng tạo và cảm thụ văn học Việc kết hợp này không chỉ làm phong phú thêm nội dung bài học mà còn tạo ra môi trường học tập sinh động, khuyến khích học sinh tham gia tích cực vào các hoạt động học tập.
Chương 2 trình bày hệ thống tài liệu văn học được áp dụng trong giảng dạy lịch sử Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945 tại trường Trung học phổ thông theo chương trình chuẩn Chương 3 đề xuất phương pháp tích hợp tài liệu văn học vào việc dạy học lịch sử Việt Nam trong cùng giai đoạn, nhằm phát huy tính tích cực và chủ động của học sinh trong quá trình học tập.
Ơ Ở LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC TÍCH HỢP TÀI LIỆU VĂ C TRONG D Y H C L CH SỬ Ở ƢỜNG TRUNG H C PHỔ THÔNG E ƢỚNG PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA H C
ơ sở lí luận
1.1.1.1 Khái niệm về tích hợp và dạy học tích hợp
- Khái niệm về tích hợp:
Nguyễn Thị Kim Dung định nghĩa "Tích hợp" (tiếng Anh: Integration) xuất phát từ tiếng Latinh "integration", mang ý nghĩa là thiết lập lại sự chung, toàn thể và thống nhất dựa trên các bộ phận riêng lẻ.
Theo từ điển Bách khoa Khoa học Giáo dục của Cộng hòa Liên bang Đức, "integration" có hai khía cạnh chính: một là quá trình hình thành cái chung, cái toàn thể từ những phần riêng lẻ; hai là trạng thái mà trong đó cái chung, cái toàn thể được tạo ra từ các phần riêng lẻ.
Phạm Thanh Bình định nghĩa tích hợp là khái niệm trong lý thuyết hệ thống, mô tả trạng thái kết nối các phần tử riêng lẻ thành một tổng thể, cũng như quá trình dẫn đến trạng thái này.
Ta có thể hiểu tích hợp là sự hợp nhất, sự kết hợp, sự hòa nhập
- Khái niệm về dạy học tích hợp:
Dạy học tích hợp đã trở thành một xu hướng giáo dục hiện đại được quan tâm cả trên thế giới và tại Việt Nam Theo nghiên cứu của Trần Bá Hoành, dạy học tích hợp được định nghĩa bởi UNESCO là quá trình giúp học sinh sử dụng kiến thức và kỹ năng để giải quyết các tình huống cụ thể, nhằm phát triển năng lực của người học.
Theo Đỗ Hồng Thái, tích hợp trong giáo dục được hiểu là sự kết hợp có hệ thống và hữu cơ giữa các kiến thức trong một môn học hoặc giữa các môn học, tạo thành một nội dung thống nhất.
Nguyễn Thị Kim Dung cho rằng khái niệm tích hợp trong giáo dục đã xuất hiện từ thời kỳ Khai sáng (thế kỷ XVIII) và được sử dụng để chỉ một quan niệm giáo dục toàn diện con người.
Ban chỉ đạo đổi mới chương trình, sách giáo khoa sau 2015 định nghĩa dạy học tích hợp là quá trình mà giáo viên giúp học sinh kết hợp kiến thức và kỹ năng từ nhiều lĩnh vực khác nhau để giải quyết nhiệm vụ học tập Qua đó, học sinh không chỉ hình thành kiến thức và kỹ năng mới mà còn phát triển những năng lực cần thiết cho tương lai.
Tích hợp trong dạy học là quá trình liên kết các phân môn và bộ môn có mối quan hệ hỗ trợ, tạo thành một thể thống nhất Qua đó, giúp người học phát triển khả năng liên môn và xuyên môn, đồng thời khuyến khích tính tích cực trong việc tiếp thu kiến thức.
Dạy học tích hợp là phương pháp giáo dục nhằm phát triển năng lực vận dụng kiến thức của học sinh trong các tình huống thực tiễn Phương pháp này giúp học sinh áp dụng kiến thức đã học vào những hoàn cảnh mới và khó khăn, từ đó trở thành công dân có trách nhiệm và người lao động có năng lực Việc gắn kết học tập với các tình huống thực tế giúp học sinh nhận thức rõ hơn về ý nghĩa của việc học, đồng thời phát huy tối đa sự trưởng thành và phát triển cá nhân Nhờ đó, học sinh sẽ thành công trong vai trò chủ gia đình, công dân và người lao động trong tương lai.
Dạy học tích hợp là một trong những định hướng chính của đổi mới chương trình giáo dục phổ thông tại Việt Nam sau năm 2015, nhằm chuyển đổi nền giáo dục từ việc cung cấp kiến thức và kỹ năng sang phát triển phẩm chất và năng lực của học sinh Mục tiêu giáo dục phổ thông là giúp học sinh phát triển toàn diện.
Bộ Giáo dục và Đào tạo đã triển khai nhiều môn học nhằm đạt được mục tiêu giáo dục Mặc dù nội dung và nhiệm vụ của từng môn học có sự khác biệt, chúng đều góp phần vào sự phát triển toàn diện của học sinh.
Mối quan hệ giữa các môn học, đặc biệt là giữa Lịch sử và các môn học khác, thường rất chặt chẽ nhưng chưa được khai thác đúng mức trong quá trình dạy học Để cải thiện tình trạng này, một giải pháp hiệu quả là áp dụng phương pháp dạy học tích hợp, bao gồm việc tích hợp tài liệu văn học vào giảng dạy Lịch sử.
1.1.1.2 Các mức độ tích hợp trong chương trình giáo dục phổ thông Ở mức độ thấp thì dạy học tích hợp mới chỉ là lồng ghép những nội dung giáo dục có liên quan vào quá trình dạy học một môn học nhƣ: lồng ghép giáo dục đạo đức, lối sống; giáo dục pháp luật; giáo dục chủ quyền quốc gia về biên giới, biển đảo; …
Mức độ tích hợp cao trong giáo dục yêu cầu xử lý các nội dung kiến thức có mối liên hệ chặt chẽ, giúp học sinh vận dụng tổng hợp kiến thức một cách hợp lý để giải quyết vấn đề trong học tập và cuộc sống Điều này cũng giúp tránh việc học sinh phải học lại nhiều lần cùng một nội dung kiến thức ở các môn học khác nhau.
Có thể đưa ra ba mức độ tích hợp cụ thể theo thang tăng dần như sơ đồ dưới đây:
Mức độ lồng ghép trong giáo dục là việc tích hợp các yếu tố nội dung liên quan đến thực tiễn, xã hội và các môn học khác vào bài học chính của một môn học Tuy nhiên, ở mức độ này, các môn học vẫn giữ tính riêng biệt và không hoàn toàn hòa nhập với nhau.
ơ sở thực tiễn
Để đánh giá khách quan nhận thức của giáo viên và học sinh về việc tích hợp tác phẩm văn học vào dạy học Lịch sử tại trường Trung học phổ thông, tôi đã tiến hành khảo sát thông qua phiếu điều tra Nghiên cứu được thực hiện tại các trường THPT Nguyễn Thượng Hiền và THPT Thanh Khê ở thành phố Đà Nẵng.
Để hiểu rõ hơn về nhận thức của giáo viên về vai trò và ý nghĩa của việc tích hợp tài liệu văn học vào giảng dạy Lịch sử tại trường THPT, cần tiến hành điều tra thực tế Qua đó, chúng ta sẽ nắm bắt được tình hình cụ thể, từ đó đưa ra các lựa chọn tài liệu và phương pháp giảng dạy hợp lý.
- Đối tƣợng điều tra: công tác điều tra đƣợc tiến hành đối với GV và HS ở các trường nói trên
Để điều tra thực trạng giảng dạy và học tập lịch sử tại các trường THPT, tôi đã tiến hành quan sát, dự giờ và trao đổi với giáo viên (GV) và học sinh (HS) Chúng tôi đã sử dụng bộ câu hỏi trắc nghiệm khách quan để thu thập ý kiến của GV và HS, nhằm đánh giá tình hình dạy học và ghi nhận các đề xuất, nguyện vọng của họ Sau khi thu thập dữ liệu, tôi đã tiến hành phân tích và xử lý để rút ra những kết luận cần thiết về vấn đề này.
1.2.2 Nội dung điều tra Đối với GV, chúng tôi đƣa ra một số câu hỏi để biết đƣợc quan niệm của GV về sử dụng phương pháp tích hợp TLVH trong dạy học lịch sử cũng như những đề xuất của GV về những biện pháp mà họ đã tiến hành nhằm phát huy tính tích cực của HS trong dạy học lịch sử Đối với HS, chúng tôi sử dụng phiếu điều tra để tìm hiểu thái độ học tập lịch
Tính tích cực học tập lịch sử của học sinh Trung học phổ thông bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố khách quan và chủ quan Các yếu tố này không chỉ tác động đến động lực học tập mà còn thể hiện rõ qua các biểu hiện cụ thể trong quá trình học Việc hiểu rõ những yếu tố này giúp nâng cao hiệu quả giảng dạy và khuyến khích sự tham gia tích cực của học sinh trong môn lịch sử.
- Đối với GV, từ kết quả của phiếu điều tra cho thấy:
+ Xét về nhận thức vai trò của phương pháp tích hợp TLVH trong dạy học Lịch sử:
Kết quả điều tra từ 10 giáo viên cho thấy 100% giáo viên nhận thức rõ ràng về tầm quan trọng của việc sử dụng tài liệu văn học trong giảng dạy lịch sử, đặc biệt là ở bậc THPT Tất cả các giáo viên đều nhấn mạnh vai trò và ý nghĩa của việc áp dụng phương pháp tích hợp trong dạy học lịch sử, nhằm phát huy tính tích cực của học sinh và nâng cao hiệu quả môn học.
+ Về sử dụng phương pháp tích hợp TLVH trong dạy học Lịch sử:
Tất cả 100% giáo viên đều áp dụng phương pháp tích hợp TLVH trong giảng dạy Lịch sử Trong số đó, 20% giáo viên sử dụng TLVH để giới thiệu và kết thúc bài học, trong khi 80% còn lại kết hợp cả hai phương án này nhằm phát huy tính tích cực của học sinh.
Phương pháp tích hợp TLVH trong dạy học Lịch sử đóng vai trò quan trọng trong việc phát huy tính tích cực của học sinh, với 70% giáo viên thường xuyên áp dụng phương pháp này Tùy thuộc vào đối tượng học sinh và điều kiện trường học, các giáo viên lựa chọn hình thức sử dụng khác nhau, trong đó 50% áp dụng trong bài học nội khóa, 20% trong bài học ngoại khóa, và 30% chọn cả hai hình thức Điều này cho thấy sự phổ biến của TLVH trong các bài học trên lớp, giúp bài học trở nên sinh động và hấp dẫn hơn, đồng thời làm cho các sự kiện và nhân vật dễ ghi nhớ, phát huy tính tích cực của học sinh.
+ Hiệu quả của việc sử dụng phương pháp tích hợp TLVH trong dạy học Lịch
Phương pháp tích hợp TLVH mang lại hiệu quả cao trong giảng dạy, được tất cả giáo viên công nhận qua từng tiết học.
- Về phía HS, từ kết quả điều tra 300 HS cho thấy:
+ Hiệu quả học tập của HS khi GV sử dụng TLVH trong dạy học lịch sử:
Khi được hỏi về việc giáo viên sử dụng tài liệu văn học (TLVH) trong dạy học, 90% học sinh cho biết thường xuyên, trong khi 10% còn lại thỉnh thoảng Học sinh nhận thấy rằng việc sử dụng TLVH không chỉ làm tăng hứng thú học tập mà còn giúp họ dễ nhớ các nhân vật và sự kiện, từ đó hiểu bài một cách đầy đủ và sâu sắc hơn.
+ Nhận thức của HS về mối quan hệ giữa văn học và lịch sử:
Hơn 80% học sinh cho rằng văn học và lịch sử có mối liên hệ chặt chẽ, không có em nào cho rằng hai lĩnh vực này không liên quan Nhận thức được mối quan hệ này, hầu hết các em ủng hộ việc sử dụng tác phẩm văn học trong giảng dạy lịch sử Khi được hỏi về việc sưu tầm ca dao, tục ngữ, thơ, và truyện liên quan đến nhân vật và sự kiện lịch sử trong bài học, có 72% học sinh (216 em) cho biết thực hiện thỉnh thoảng, 9,7% (29 em) thường xuyên, và 18,3% (55 em) rất ít khi làm điều này.
Qua điều tra tại hai trường THPT Nguyễn Thượng Hiền và THPT Thanh Khê, hầu hết giáo viên đã nhận thức đúng về tầm quan trọng của việc tích hợp tài liệu văn hóa lịch sử trong giảng dạy môn Lịch sử Tuy nhiên, do một số điều kiện và nguyên nhân chủ quan, khách quan, việc thực hiện vẫn chưa đầy đủ và hiệu quả cao.
Giáo viên cần tâm huyết trong việc nghiên cứu và áp dụng các phương pháp tích hợp lý thuyết vào thực hành Đồng thời, việc sưu tầm và lựa chọn tài liệu văn học phù hợp với nội dung bài học là rất quan trọng Điều này không chỉ giúp phát huy tính tích cực của học sinh mà còn nâng cao chất lượng giảng dạy bộ môn.
HỆ THỐNG TÀI LIỆU VĂ ƢỢC SỬ DỤNG TRONG
Nội dung cơ bản của Lịch sử Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945 (Sách giáo
Lịch sử Việt Nam giai đoạn 1930-1945 được trình bày trong 3 bài của chương
II “Việt Nam từ năm 1930 đến năm 1945” Bài 14: Phong trào cách mạng 1930-
1935; Bài 15: Phong trào dân chủ 1936-1939; Bài 16: Phong trào giải phóng dân tộc và Tổng khởi nghĩa tháng Tám (1939-1945) Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời
Cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu từ năm 1929 đến 1933 đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến tình hình kinh tế - xã hội tại Việt Nam, khiến nền kinh tế nước này ngày càng phụ thuộc vào Pháp Hệ quả là tình trạng nghèo đói của người dân Việt Nam trở nên nghiêm trọng hơn, dẫn đến mâu thuẫn giữa các tầng lớp nhân dân và thực dân Pháp ngày càng gia tăng.
Trong bối cảnh đất nước bị xâm lược, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã nhanh chóng tập hợp và lãnh đạo quần chúng, tạo nên phong trào cách mạng 1930 – 1931, đặc biệt là phong trào Xô viết Nghệ - Tĩnh, khiến thực dân Pháp và bọn phong kiến tay sai phải run sợ.
Xô viết Nghệ - Tĩnh là phong trào đấu tranh của công nhân và nông dân tại Nghệ An và Hà Tĩnh diễn ra trong giai đoạn 1930 - 1931 Tên gọi này xuất phát từ sự hình thành các "xã bộ nông" do các lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng, phản ánh tinh thần đấu tranh và khát vọng tự do của nhân dân địa phương.
Nam gọi là "Xô Viết" Chính quyền Xô viết thi hành nhiều chính sách tiến bộ
Vào tháng 10 năm 1930, Hội nghị lần thứ nhất của Ban chấp hành Trung ương lâm thời Đảng Cộng sản Việt Nam tại Hương Cảng, Trung Quốc đã quyết định đổi tên Đảng Cộng sản Việt Nam thành Đảng Cộng sản Đông Dương và bầu ra Ban Chấp hành mới.
Trung ương chính thức do Trần Phú làm Tổng bí thư và thông qua Luận cương chính trị của Đảng
Phong trào cách mạng 1930 - 1931 chỉ diễn ra một thời gian ngắn nhƣng có ý nghĩa lịch sử to lớn và để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý báu
Vào nửa cuối những năm 30 của thế kỉ XX, tình hình thế giới và trong nước có nhiều biến chuyển lớn
Trong bối cảnh chủ nghĩa phát xít và chế độ độc tài đang gia tăng, Đại hội lần thứ VII của Quốc tế Cộng sản diễn ra tại Mátxcơva vào tháng 7 năm 1935 Sự kiện này thu hút sự tham gia của đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Đông Dương, phản ánh mối quan tâm toàn cầu về việc chống lại các thế lực phản động và chuẩn bị cho chiến tranh thế giới.
Lê Hồng Phong đã tham dự Đại hội, nơi xác định rằng nhiệm vụ cấp bách của giai cấp công nhân và nhân dân lao động toàn thế giới hiện nay là đấu tranh chống lại chủ nghĩa phát xít.
Trước bối cảnh biến động toàn cầu và tình hình nước Pháp, Đông Dương cũng chứng kiến những thay đổi trong chính trị và kinh tế - xã hội Thực dân đã mở rộng một số quyền tự do dân chủ cho người dân thuộc địa Đảng Cộng sản Đông Dương đã điều chỉnh chiến lược để phù hợp với từng giai đoạn, nhằm đạt được mục tiêu chung của cách mạng Đảng đã áp dụng hình thức đấu tranh công khai, hợp pháp và nửa hợp pháp, thực hiện khẩu hiệu “Chống ".
Cao trào cách mạng 1936 - 1939 đã diễn ra mạnh mẽ với nhiều phong trào đấu tranh tiêu biểu, bao gồm phong trào Đông Dương Đại hội và các hoạt động đòi dân sinh, dân chủ Những nỗ lực này không chỉ tập trung vào lĩnh vực chính trị mà còn mở rộng ra văn hóa, tư tưởng và nghị trường, thể hiện rõ quyết tâm chống phát xít và khát vọng về tự do, hòa bình cho nhân dân.
Cao trào đấu tranh dân chủ công khai từ năm 1936 đến 1939 là một sự kiện hiếm có của quần chúng tại các vùng thuộc địa, đánh dấu một thành công lớn trong lịch sử Những kinh nghiệm quý báu từ phong trào này đã trở thành hành trang quan trọng cho Đảng Cộng sản Đông Dương và tất cả những người yêu nước Việt Nam trong cuộc đấu tranh giành độc lập.
Cuộc đấu tranh cho tự do độc lập diễn ra qua 31 giai đoạn, được xem là cuộc tập dượt thứ hai nhằm chuẩn bị cho tổng khởi nghĩa trong Cách mạng tháng Tám.
2.1.3 Phong trào giải phóng dân tộc và Tổng khởi nghĩa tháng Tám (1939 –
1945) Nước Việt nam Dân chủ Cộng hòa ra đời
Lịch sử Việt Nam 1939 – 1945 trình bày phong trào giải phóng dân tộc ở Việt Nam trong những năm diễn ra chiến tranh thế giới thứ hai (1939 – 1945)
Tháng 9 - 1940, phát xít Nhật nhảy vào Đông Dương Pháp và Nhật đã cấu kết với nhau cùng thống trị Đông Dương Chính sách vơ vét bóc lột của Pháp – Nhật đã đẩy nhân dân ta tới chỗ cùng cực
Trước những biến động nhanh chóng của tình hình thế giới, Đảng Cộng sản Đông Dương đã điều chỉnh chiến lược đấu tranh, lựa chọn hình thức đấu tranh vũ trang và chuẩn bị cho Tổng khởi nghĩa khi có thời cơ thích hợp.
Sự chuẩn bị về đường lối đấu tranh của Đảng được tiến hành qua ba Hội nghị Trung ƣơng họp vào tháng 11 – 1939, tháng 11 – 1940 và tháng 5 – 1941
Các Hội nghị đã đánh dấu sự chuyển hướng chiến lược đúng đắn trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, mở ra thời kỳ mới với các cuộc khởi nghĩa tiêu biểu như Bắc Sơn, Nam Kì và binh biến Đô Lương Mặc dù những cuộc nổi dậy này thất bại, nhưng chúng đã là những tiếng súng báo hiệu cho cuộc khởi nghĩa toàn quốc, đánh dấu bước đầu của cuộc đấu tranh vũ trang của các dân tộc Đông Dương.
Vào tháng 2 năm 1941, Nguyễn Ái Quốc trở về Việt Nam để lãnh đạo trực tiếp cuộc cách mạng và chủ trì Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 8 diễn ra vào tháng 5 năm 1941 tại Pác Bó, Cao Bằng.
Sau hội nghị lần thứ Tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Đảng và Mặt trận Việt Minh đã lãnh đạo toàn dân chuẩn bị cho cuộc Tổng khởi nghĩa, bao gồm xây dựng lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang và căn cứ địa Đầu năm 1945, khi chiến tranh thế giới thứ hai bước vào giai đoạn kết thúc với sự thất bại của chủ nghĩa phát xít, quân Nhật cũng chịu nhiều tổn thất Tình hình Đông Dương trở nên căng thẳng với mâu thuẫn giữa Nhật và Pháp gia tăng, tạo cơ hội cho cuộc khởi nghĩa giành chính quyền.
Hệ thống tài liệu văn học đƣợc sử dụng trong dạy học lịch sử Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945 ở trường Trung học phổ thông (chương trình chuẩn)
Bài 14: Phong trào cách mạng 1930 - 1935
Mục Kiến thức lịch sử cơ bản TLVH đƣợc tích hợp
Từ năm 1930, nền kinh tế Việt Nam đã chịu sự phụ thuộc nặng nề vào Pháp, và giờ đây, khi phải đối mặt với khủng hoảng tại "chính quốc", tình hình càng trở nên tồi tệ hơn.
- Tình trạng đói khổ trầm trọng:
+ Công nhân: bị sa thải + Nông dân: sưu cao, thuế nặng
- Mâu thuẫn xã hội sâu sắc:
+ Dân tộc Việt Nam >< Đọc trích đoạn bài viết nói về cuộc sống nhân dân trên báo Nhân Dân:
“…Công nhân Lỗ làm việc như nô lệ Tiền công rất rẻ mạt Chỉ từ 1929 đến
Năm 1933, tiền công lao động đã giảm một nửa, cùng với tình trạng thất nghiệp nghiêm trọng diễn ra như ở nhiều quốc gia tư bản khác Sự phân phối ruộng đất rất bất công, khiến hàng trăm nghìn người dân không có đất canh tác.
Kể thêm cho các em nghe về câu chuyện Tắt đèn của Ngô Tất Tố, Chị Dậu để có tiền nộp sưu cho chồng phải bán chó, bán con:
Chị đã thu dọn tất cả quần áo của Tý vào một gói Trong khi một tay nâng cổ con chó con lên, tay còn lại cầm sợi xích sắt để chuẩn bị dẫn theo con chó cái.
+ Nông dân >< địa chủ ra cửa, sụt sịt chị bảo cái Tý …”
(Xem phụ lục 2) Mục II.1:
- Từ tháng 2 – 4/1930, phong trào nổ ra mạnh mẽ
- Tháng 5, bùng nổ nhiều cuộc đấu tranh kỷ niệm ngày Quốc tế lao động
- Tháng 6, 7, 8, phong trào liên tục nổ ra rộng khắp
- Tháng 9, phong trào dâng cao ở Nghệ An và Hà Tĩnh
Tháng 9/1930, Xô viết ra đời ở nhiều xã thuộc Nghệ
An, Hà Tĩnh, đƣa ra nhiều chính sách:
+ Chính trị: thực hiện quyền tự do dân chủ
+ Kinh tế: bỏ các loại thuế cũ, chia ruộng đất cho dân cày
+ Văn hoá - Xã hội: học chữ Quốc ngữ, bài trừ mê tín…
- Tiêu biểu là phong trào công nhân Phú Riềng, thời bấy giờ người ta thường ví đồn điều cao su Phú Riềng nhƣ "Địa ngục trần gian”…
Xem một số câu ca dao về công nhân
- Kể thêm sự kiện “Phú Riềng Đỏ” qua hồi ức của Bí thƣ chi bộ Trần Tử Bình:
“… Các đồng chí của ta bị giải về Biên Hòa Dọc đường anh em hô vang khẩu hiệu “Đả đảo đế quốc Pháp!”, “Đảng Cộng sản muôn năm ”
(Xem phụ lục 4) Đọc trích đoạn thơ của Đặng Chánh Kỷ về phong trào Xô viết Nghệ - Tĩnh:
“Kìa Bến Thuỷ đứng đầu dậy trước,
Nọ Thanh Chương tiếp bước đứng lên Nam Đàn, Nghi Lộc, Hưng Nguyên, Anh Sơn, Hà Tĩnh một phen dậy rồi…”
Kể thêm cho HS nge về Tổng bí thƣ
Hội nghị lần thứ nhất Ban
Chấp hành rung ƣơng lâm thời ảng Cộng sản Việt
Mục II 4: Ý nghĩa lịch sử và bài học kinh nghiệm của phong trào cách mạng
Ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng lâm thời họp tại (Hương Cảng, Trung Quốc)
Đảng Cộng sản Đông Dương được thành lập với việc bầu Ban Chấp hành Trung ương chính thức, do Trần Phú đảm nhiệm chức Tổng bí thư, cùng với việc thông qua Luận cương chính trị.
- Khẳng định đường lối đúng đắn của đảng, quyền lãnh đạo của giai cấp công nhân đối với cách mạng Đông Dương
1931 đƣợc đánh giá cao trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế
- Phong trào để lại nhiều bài học kinh nghiệm quí báu về công tác tư tưởng khối liên minh công – nông, tổ chức lãnh đạo quần chúng đấu tranh…
“Trần Phú sinh ngày 1/5/1904, trong một gia đình trí thức nho học giàu lòng yêu nước, quê gốc tại Đức Thọ, Hà Tĩnh…”
Trích dẫn đoạn văn để các em thấy rõ hơn về vai trò lãnh đạo của Đảng:
“…Tất cả các cuộc đấu tranh quan trọng trong cao trào 1930 – 1931 tại Sài Gòn – Gia Định đều do thành ủy chỉ đạo…”
Bài 15: Phong trào dân chủ 1936 – 1939
Mục Kiến thức lịch sử cơ bản V đƣợc tích hợp
- Trước bối cảnh các thế lực phát xít cầm quyền ở Để các em hiểu hơn về chủ nghĩa phát xít nêu ra nhận định sau: “Rất nhiều
Tình hình trong nước một số nước
- Tháng 7/1935, Đại hội Quốc tế Cộng sản xác định nhiệm vụ trước mắt là chống chủ nghĩa phát xít
- Tháng 6/1936, Chính phủ Mặt trận Nhân dân cầm quyền ở Pháp
Thực dân đã nới rộng một vài quyền tự do dân chủ cho người dân thuộc địa
Trong giai đoạn 1936 – 1939, kinh tế Việt Nam vẫn còn lạc hậu và phụ thuộc nhiều vào kinh tế Pháp, dẫn đến đời sống của người dân gặp nhiều khó khăn Nhiều học giả đã chỉ ra rằng tình hình này có những đặc điểm tương đồng với chủ nghĩa phát xít.
Liên hệ đến tác phẩm
“Tinh thần thể dục” của tác giả
Nguyễn Công Hoan (Ngữ văn 11), nhắc lại cho học sinh thấy đƣợc tính chất bịp bợm của phong trào này
“- Lạy các bác, các bác cho tôi ở nhà làm ăn…”
Ban Chấp hành Trung ƣơng ảng
Hội nghị do Lê Hồng Phong chủ trì đã xác định nhiệm vụ quan trọng là chống phát xít, ngăn chặn chiến tranh và bảo vệ hòa bình, đồng thời thành lập Mặt trận Dân tộc phản đế Đông Dương.
Bài thơ "Hiệu triệu phản đế" kêu gọi toàn thể đồng bào, đồng chí, anh chị em ở miền Đông Dương đoàn kết đứng lên chống lại sự áp bức của thực dân tàn bạo.
“Than ôi! Một kiếp ở đời, Đông Dương dân tộc e rồi diệt vong…”
II.2: Những phong trào đấu tranh tiêu biểu
Mục II.3: Ý nghĩa lịch sử và bài học kinh nghiệm
Dưới lời kêu gọi của Đảng Cộng sản Đông Dương, phong trào quần chúng lan rộng ra cả nước, lôi cuốn đông đảo các lực lƣợng tham gia
Đấu tranh vì quyền tự do, dân sinh và dân chủ là những hình thức tiêu biểu, bao gồm cả hoạt động nghị trường và báo chí.
Cuộc vận động dân chủ
1936 – 1939 có ý nghĩa to lớn: Là phong trào quần chúng rộng lớn, có tổ Để giúp học sinh rút ra nhận xét và khắc sâu phong trào cách mạng 1936 -
1939 thực sự là một phong trào dân tộc dân chủ rộng lớn, GV có thể minh hoạ bằng đoạn thơ sau:
"Áo nâu liền với áo xanh Nông thôn cùng với thị thành đứng lên…”
Trích một đoạn truyện ngắn của Nguyên Hồng viết về sự đấu tranh của công nhân năm 1938:
Sáng hôm đó, hầu hết công nhân từ năm sở đã tập trung trước phòng thanh tra lao động để yêu cầu được gặp đại biểu của mình, đưa ra những yêu sách hợp lý trong bối cảnh giá cả đang tăng cao.
Hay bài vè đấu tranh của công nhân Cẩm Phả:
“…Nói về Cẩm-phả min ta Đình công tự chủ Béc-na trước ngày
40 của phong trào dân chủ
1936 – 1939 chức, dưới sự lãnh đạo của Đảng, buộc Pháp phải nhƣợng bộ một số yêu sách về dân sinh, dân chủ…
Là một cuộc diễn tập thứ hai, chuẩn bị cho Tổng khởi nghĩa tháng Tám sau này
Bài 16: Phong trào giải phóng dân tộc và Tổng khởi nghĩa tháng Tám (1939 –
1945) Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời
Mục Kiến thức lịch sử cơ bản TLVH đƣợc tích hợp Mục I.1: Tình hình chính trị
Tình hình kinh tế - xã hội
- 1/9/1939, Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ Chính phủ Pháp đầu hàng phát xít Đức
- 9/1940, Nhật vào Việt Nam và giữ nguyên chính quyền của Pháp để bóc lột phục vụ chiến tranh
- 9/3/1945, Nhật đảo chính Pháp, kẻ thù trước mắt là Nhật
- Pháp: Thực hiện chính sách
“kinh tế chỉ huy”, tăng thuế, tăng giờ làm, giảm lương…
Qua đoạn trích “Bài ca Việt Minh” sẽ giúp HS nhận thức sâu sắc hơn đƣợc tình hình bấy giờ:
“Đồng bào hỡi! Nước nhà tan nát, Căm hận thay Nhật – pháp hung tàn…”
(Xem phụ lục 13) Đọc một số ca dao để HS thấy đƣợc sự tàn bạo của Nhật – Pháp:
“Đất này đất tổ đất tiên Đất này chồng vợ bỏ tiền ra
- Nhật: Cướp ruộng đất, bắt nhân dân nhổ lúa trồng đay, buộc Pháp cung cấp nguyên liệu và lương thực…
- Chính sách của Pháp – Nhật đẩy nhân dân đến chỗ cùng cực
- Mâu thuẫn dân tộc trở nên gay gắt mua…”
Nhắc lại một đoạn trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân để gợi cho các em khung cảnh chết chóc vì đói:
“Cái đói đã tràn đến xóm này tự lúc nào Những gia đình từ những vùng Nam Định, Thái Bình, đội chiếu lũ lượt bồng bế…”
Mục II.1: Hội nghị Ban
Chấp hành rung ƣơng ảng Cộng sản ông
- Do Tổng bí thƣ Nguyễn Văn Cừ chủ trì
Nhiệm vụ và mục tiêu cấp bách là đánh đổ đế quốc và tay sai, nhằm đạt được độc lập cho Đông Dương Đồng thời, cần thành lập Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương để tập hợp sức mạnh toàn dân trong cuộc đấu tranh này.
- Ý nghĩa: Đánh dấu sự chuyển hướng quan trọng - đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu
Giới thiệu cho HS về Nguyễn Văn
Cừ - Tổng bí thư trẻ nhất của nước ta:
“Nguyễn Văn Cừ sinh năm 1912, trong một gia đình nhà Nho nghèo có truyền thống học hành, khoa bảng…”
Những cuộc đấu tranh mở đầu thời kì mới
Quốc về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng Hội nghị lần thứ 8
Ban Chấp hành Trung ƣơng ảng
Chuẩn bị tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền
Trong hơn 3 tháng, ba cuộc nổi dậy lớn đã diễn ra ở cả ba miền đất nước, thể hiện tinh thần bất khuất của dân tộc Việt Nam Các cuộc khởi nghĩa này bao gồm Khởi nghĩa Bắc Sơn, Khởi nghĩa Nam Kỳ và Binh biến Đô Lương, với sự tham gia của nhiều tầng lớp nhân dân và binh lính.
- 28/1/1941, Nguyễn Ái Quốc về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam và chủ trì Hội nghị Ban chấp hành Trung ƣơng Đảng lần thứ 8 (5/1941)
Hội nghị hoàn chỉnh chủ trương đề ra tại Hội nghị Trung ƣơng tháng 11 – 1939, đề ra nhiều chủ trương sáng tạo, thành lập Mặt trận Việt Minh
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, toàn quân và nhân dân ta đang nỗ lực chuẩn bị xây dựng lực lượng chính trị, vũ trang và các căn cứ địa cho cuộc khởi nghĩa Hãy cùng nhau khám phá phong trào ở Đô Lương qua bài thơ để hiểu rõ hơn về tinh thần đấu tranh và ý chí của nhân dân trong cuộc khởi nghĩa này.
“Mừng Đô Lương khởi nghĩa”:
“Ngày xưa Cao Thắng, Phan Đình Phùng,
Nối gót sau này có Đội Cung ”
Để tránh nhầm lẫn với sự kiện năm 1924, Nguyễn Ái Quốc đã trở về nước, và để khắc sâu thêm ý nghĩa của sự kiện này, chúng ta có thể sử dụng đoạn thơ của Tố Hữu để miêu tả.
"Ôi sáng xuân nay Xuân41 Trắng rừng biên giới nở hoa mơ Bác về… Im lặng Con chim hót…”
(Xem phụ lục 18) Để HS thấy đƣợc không khí tích cực chuẩn bị cho khởi nghĩa, đọc cho các em nghe một đoạn bài
“Sửa soạn vũ trang khởi nghĩa”:
“Khắp bầu trời bom rơi, đạn nổ,
(Từ tháng 3 đến giữa tháng 8 –
Mục III.2: Sự chuẩn bị cuối cùng trước ngày Tổng khởi nghĩa vũ trang
Sau Hội nghị Ban thường vụ trung ƣơng Đảng năm 1943, công tác chuẩn bị khởi nghĩa đƣợc tiến hành gấp rút
- Năm 1945, quân phát xít thất bại thảm hại
- Tháng 3/1945, Nhật đảo chính Pháp và đƣa dựng nên chính phủ Trần Trọng Kim
Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã ra chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”, khơi dậy làn sóng khởi nghĩa mạnh mẽ tại nhiều địa phương.
Cuộc chuẩn bị gấp rút đã hoàn tất với việc thành lập Ủy ban Quân sự cách mạng Bắc Kì, Ủy ban Dân tộc giải phóng Việt Nam và khu giải phóng Việt Bắc.
Nhật bắt đầu sụp đổ mọi nơi…”