CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÀI CHÍNH HỌC HÀNH VI
Lịch sử hình thành và phát triển của Tài chính học hành vi
Trong thời kỳ cổ điển, kinh tế học và tâm lý học có mối liên hệ chặt chẽ, đặc biệt qua tác phẩm "Lý thuyết về tình cảm luân lý" của Adam Smith, xuất bản năm 1759 Tác phẩm này không chỉ là một văn bản phân tích với nhiều giai thoại hấp dẫn mà còn khám phá nguyên tắc tâm lý của hành vi cá nhân Adam Smith đã chỉ ra rằng con người có một "con người bên trong" (an inner man) đóng vai trò như một người đánh giá khách quan, thường xuyên chấp nhận hoặc lên án hành động của chính mình và của người khác Ông cũng nhấn mạnh rằng con người, trong quá trình tìm kiếm lợi ích cá nhân, thường bị dẫn dắt bởi "bàn tay vô hình" mà không hề hay biết, từ đó góp phần vào việc gia tăng lợi ích cho xã hội.
Trong thời kỳ kinh tế học tân cổ điển, các nhà kinh tế học đã chuyển hướng nghiên cứu ra ngoài tâm lý học, coi kinh tế như một khoa học tự nhiên Họ bắt đầu giải thích hành vi kinh tế dựa trên các giả định về bản chất của các tác nhân kinh tế Khái niệm "con người kinh tế" được hình thành, trong đó tâm lý con người được xem xét chủ yếu từ góc độ lý trí Những nhân vật tiêu biểu của thời kỳ này bao gồm Francis Edgeworth, Vilfredo Pareto, Irving Fisher và John Maynard Keynes.
Vào năm 1979, Daniel Kahneman, giáo sư tâm lý học tại Đại học Princeton, cùng với Amos Tversky đã giới thiệu "Lý thuyết kỳ vọng", giải thích cách thức con người đưa ra quyết định trong các tình huống có yếu tố rủi ro, đặc biệt là trong các quyết định liên quan đến tài chính.
Năm 2002, giáo sư Vernon Smith và giáo sư Daniel Kahneman đã nhận giải Nobel kinh tế nhờ công trình nghiên cứu về ảnh hưởng của tâm lý tới quyết định chi tiêu của người dân Nghiên cứu của họ đã mở ra một hướng mới trong mối quan hệ giữa tâm lý học và kinh tế học, chỉ ra rằng quyết định của con người trong các tình huống không chắc chắn có thể khác biệt một cách hệ thống so với dự đoán của lý thuyết kinh tế tiêu chuẩn.
Ngày nay, Tài chính học hành vi được áp dụng nhiều trong phân tích về các quyết định thị trường cũng như trong phân tích vềsựlựa chọn công.
Lý thuyết Tài chính học hành vi: (Behavioral Finance)
Tài chính học hành vi là một nhánh của kinh tế học, nghiên cứu cách mà hành vi của các chủ thể kinh tế như người tiêu dùng, nhà phân phối và nhà sản xuất ảnh hưởng đến quyết định kinh tế và giá cả thị trường.
Tài chính học hành vi đóng vai trò then chốt trong việc dự đoán và giải thích xu hướng thị trường tài chính, đặc biệt trong bối cảnh suy thoái kinh tế toàn cầu hiện nay, khi mà các phương pháp phân tích cơ bản và phân tích kỹ thuật đang bộc lộ những hạn chế của chúng.
Thuyết kỳ vọng và Tâm lý dựa vào kinh nghiệm là hai yếu tố chủ chốt trong học thuyết hành vi tài chính, tập trung vào việc nghiên cứu ảnh hưởng của cảm xúc con người đến quyết định tài chính.
1.2.1 Thuy ết k ỳ vọng : (The Prospect Theory)
Nền tảng của thuyết kỳ vọng được xây dựng bởi Kahneman và Tversky vào năm 1979, mô tả độ hữu dụng của nhà đầu tư tài chính thông qua hàm hữu dụng lõm Theo đó, sự gia tăng giá trị tài sản đầu tư mang lại giá trị hữu dụng tăng thêm ít hơn so với trước đó, trong khi sự giảm giá trị tài sản do thua lỗ gây ra nỗi đau và dằn vặt nhiều hơn.
Hình 1.1 : Hàm giá trị của Kahneman và Tversky
Kahneman và Tversky chỉ ra rằng hàm giá trị có độ dốc khác nhau tùy thuộc vào vị trí của giá trị tài sản so với điểm tham chiếu cá nhân Khi giá trị tài sản dưới điểm tham chiếu, nhà đầu tư thường sẵn sàng chấp nhận rủi ro để phục hồi khoản đầu tư Ngược lại, khi giá trị tài sản vượt qua điểm tham chiếu, họ có xu hướng ngần ngại đối mặt với rủi ro và thường nhanh chóng bán cổ phiếu để kiếm lời, mà không xem xét khả năng gia tăng giá trị đầu tư để tối đa hóa lợi nhuận.
Hàm giá trị của Kahneman và Tversky đóng vai trò quan trọng trong việc giải thích các hành vi tài chính của nhà đầu tư, đặc biệt là hiện tượng ghét lỗ và cảm giác tiếc nuối.
Nghiên cứu cho thấy rằng những khoản lỗ mang lại cảm giác đau khổ gấp đôi so với niềm vui từ khoản lãi tương đương; cụ thể, việc mất 1 đô la gây ra nỗi đau lớn hơn gấp hai lần so với việc kiếm được 1 đô la (Kahneman và Tversky, 1991).
Sự ghét lỗ là hiện tượng mà con người thường cảm thấy đau khổ hơn khi mất mát tài sản so với việc có được lợi nhuận tương đương Điều này dẫn đến việc các nhà đầu tư thường giữ lại cổ phiếu bị lỗ, hy vọng rằng giá trị của chúng sẽ phục hồi, thay vì bán chúng để cắt lỗ Họ cảm thấy tiếc nuối khi phải chấp nhận mất mát, và do đó, có xu hướng kỳ vọng vào lợi nhuận trong tương lai, dẫn đến việc giữ cổ phiếu lỗ quá lâu Lý thuyết này giúp giải thích sự lệch lạc trong quyết định đầu tư của họ.
Con người thường cảm thấy đau khổ và dằn vặt khi mắc lỗi, ngay cả những lỗi nhỏ Họ hối hận về những quyết định dẫn đến kết quả tệ bạc và mong muốn phục hồi lại số tiền đã đầu tư Khi cổ phiếu tăng giá, họ vội vàng bán ra để hòa vốn, nhưng khi giá xuống, họ lại chần chừ không dám bán vì sợ lỗ Họ lo ngại rằng việc bán ở giá thấp sẽ không thể mua lại được với giá tốt hơn và hy vọng thị trường sẽ phục hồi Cảm giác nuối tiếc càng lớn, càng thể hiện sự liều lĩnh khi đối mặt với thua lỗ.
1.2.2 Tâm lý d ựa v ào kinh nghi ệm: (Heuristics)
Các nhà đầu tư thường hành động theo kinh nghiệm Kinh nghiệm và sự lệch lạc, càng kinh nghiệm, càng ít lệch lạc.
Tâm lý dựa vào kinh nghiệm ảnh hưởng đến quá trình ra quyết định, phản ánh sự khắc phục lỗi lầm của con người Phương pháp này giúp giải thích hành động đôi khi phi lý của thị trường, trái ngược với mô hình thị trường hiệu quả Hành vi bầy đàn, một dạng của tâm lý dựa vào kinh nghiệm, khiến cá nhân quyết định theo đám đông, dẫn đến sự lạc lối khi theo xu hướng thị trường do sự tự tin thái quá vào những đánh giá của mình.
Sự quá tự tin có thể được hiểu qua "sự biểu hiện của tâm lý nhận thức", nơi con người có xu hướng phân loại sự kiện theo cách quen thuộc Trong thị trường chứng khoán, nhà đầu tư thường nhóm các cổ phiếu có lịch sử tăng trưởng lợi nhuận, nhưng lại bỏ qua thực tế rằng rất ít công ty duy trì được tốc độ tăng trưởng này theo thời gian Do đó, sự tự tin trở thành một yếu tố cấu thành tâm lý dựa vào kinh nghiệm, sẽ được phân tích chi tiết hơn trong phần dưới đây, cùng với các tình huống điển hình, hành vi tâm lý bầy đàn và tâm lý dựa vào các giá trị đã thiết lập trong quá trình ra quyết định đầu tư.
1.2.2.1 Tình hu ống điển h ình: (Representativeness):
Hiệu quả kinh doanh và hiệu quả đầu tư tài chính là hai khái niệm khác nhau nhưng thường bị nhầm lẫn Hiệu quả kinh doanh được đo lường qua doanh thu và lợi nhuận, trong khi hiệu quả đầu tư tài chính phụ thuộc vào chênh lệch giá.
Tình huống điển hình cho thấy việc ra quyết định thường dựa vào kinh nghiệm quá khứ, dẫn đến việc bỏ sót nhiều sự kiện hiện tại Điều này khiến cho việc đánh giá sự việc trở nên rời rạc, thiếu sự kết hợp thành một hệ thống và không tính đến mối liên hệ với tổng thể.
1.2.2.2 S ự quá t ự tin : (Overconfidence and Over & Underreaction)
Con người thường có xu hướng phóng đại tài năng của mình và đánh giá thấp những rủi ro không thể kiểm soát, dẫn đến sự tự tin và lạc quan thái quá Điều này khiến họ đánh giá quá cao kiến thức của bản thân trong khi lại xem nhẹ những rủi ro tiềm ẩn, từ đó dẫn đến khối lượng giao dịch quá mức và hình thành thị trường bong bóng Sự tự tin quá mức có thể làm gia tăng rủi ro và sai lầm trong quyết định, vì nó không phản ánh đúng kiến thức thực tế Thêm vào đó, con người thường phản ứng thái quá trước những sự kiện và thông tin bất ngờ, điều này giúp lý giải cho sự gia tăng giá cả trong thị trường bong bóng đầu cơ.
1.2.2.3 Bám vào nh ững giá trị đ ã thi ết lập: (Anchoring) Được định nghĩa như là việc hình thành một giá trị và đánh giá các vấn đề dựa vào giá trị đã được thiết lập trước đó.Vì sự thật là con người ai cũng có trong đầu một vài điểm tham chiếu, chẳng hạn như giá IPO, giá chào sàn trước đây của cổ phiếu Một khi có được thông tin mới họ sẽ điều chỉnh giá cả cổ phiếu lên trên điểm tham chiếu Trong trường hợp thị trường thiếu vắng những thông tin tốt hơn những thông tin trước đây thì giá cả quá khứ là căn cứ để đưa ra quyết định cho giá cả ngày hôm nay Vì vậy, việc bám vào những giá trị đã thiết lập gần như là sự gợi nhớ về giá cả quá khứ Bằng chứng điển hình cho lý thuyết này là trường phái phân tích kỹ thuật, sử dụng giá cả quá khứ của chứng khoán để dự đoán xu h ướng giá trong tương lai.
I.2.2.4 Hành vi b ầy đ àn: (Herb Behavior)
SƠ LƯỢC VỀ SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
Giai đoạn 2000 – 2005
Ngày 10/07/1998 Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Nghị định 48/1998/NĐ-
Vào ngày 20/07/2000, Trung tâm Giao dịch Chứng khoán TP Hồ Chí Minh chính thức hoạt động, với phiên giao dịch đầu tiên diễn ra vào ngày 28/07/2000 Trong phiên giao dịch này, hai loại cổ phiếu niêm yết là REE (Công ty Cổ phần Cơ Điện lạnh) và SAM (Công ty Cổ phần Cáp và Vật liệu viễn thông) đã được giao dịch, cùng với một số ít trái phiếu Chính phủ Sự kiện này đánh dấu bước tiến quan trọng trong sự phát triển của thị trường chứng khoán tại Việt Nam.
VN-Index bắt đầu từ 100 điểm và nhanh chóng tăng lên 570 điểm vào giữa tháng 06/2001, nhưng chỉ sau một thời gian ngắn, chỉ số này đã giảm xuống còn 200 điểm vào đầu năm 2002, tiếp tục tạo đáy 130 điểm vào tháng 4/2003 Thị trường chứng khoán Việt Nam trong giai đoạn này phát triển như một ngôi sao băng, lóe sáng rồi vụt tắt.
Trong giai đoạn hiện tại, số lượng nhà đầu tư tổ chức và cá nhân hiểu biết về chứng khoán còn hạn chế, cùng với việc có ít quỹ đầu tư được cấp phép hoạt động tại thị trường chứng khoán Việt Nam Tuy nhiên, sự quan tâm của nhà đầu tư đối với thị trường chứng khoán đang gia tăng theo thời gian.
Sự quan tâm đến thị trường chứng khoán không chỉ xuất phát từ sự tăng trưởng kinh tế mà còn từ suy nghĩ của những người mới tham gia, cho rằng đây là cách dễ dàng để kiếm lợi nhuận nhanh chóng Họ thường coi đầu tư chứng khoán như một trò chơi may rủi, tin rằng may mắn có thể mang lại sự giàu có nhanh chóng Tâm lý này đã dẫn đến nhu cầu mua chứng khoán tăng cao trong khi cung vẫn còn hạn chế, khiến giá cổ phiếu liên tục tăng trong nhiều tháng, vượt xa giá trị thực của chúng.
Ủy ban Chứng khoán Nhà nước đã thực hiện các biện pháp mạnh mẽ như giảm biên độ giao dịch và quy định khối lượng giao dịch tối đa để hạn chế bong bóng tài chính và đầu cơ quá mức, nhằm bảo vệ nhà đầu tư Tuy nhiên, những chính sách này đã gây ra tác động tiêu cực đến thị trường chứng khoán, làm giảm tâm lý của nhà đầu tư và dẫn đến sự sụt giảm mạnh giá cổ phiếu Kể từ cuối năm 2001, tâm lý nhà đầu tư bị tổn thương nghiêm trọng, khiến thị trường rơi vào trạng thái "đóng băng".
Cảnh chợ chiều đã làm cho thị trường chứng khoán Việt Nam chậm phát triển, với chỉ 73 loại chứng khoán vào cuối năm 2003, bao gồm 21 mã cổ phiếu niêm yết, 2 loại trái phiếu của Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam, và 50 loại trái phiếu chính phủ Tổng mức vốn hóa chỉ khoảng 6.600 tỷ đồng, chiếm khoảng 1.6% GDP, quá nhỏ so với mức 20% - 30% GDP của các nước trong khu vực, trong khi thị trường cổ phiếu bị lấn át bởi giao dịch trái phiếu.
Thị trường chứng khoán đang trải qua giai đoạn ảm đạm, thể hiện rõ qua quy mô giao dịch Từ khi thành lập đến tháng 05/2003, khối lượng giao dịch hàng ngày chưa bao giờ vượt quá 100.000 cổ phiếu, mặc dù đã có 26 công ty niêm yết Tình trạng thanh khoản thấp khiến nhà đầu tư cảm thấy chán nản và mệt mỏi, đặc biệt khi họ cần bán để thu hồi vốn, chứ chưa nói đến việc hiện thực hóa lợi nhuận từ các khoản đầu tư.
Sau ba năm hoạt động, thị trường chứng khoán Việt Nam chỉ có 14.500 tài khoản giao dịch, trong đó có 90 nhà đầu tư tổ chức và 35 nhà đầu tư nước ngoài Theo số liệu từ Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, trong số 14.500 tài khoản này, chỉ khoảng 1.000 tài khoản thực hiện giao dịch thường xuyên.
Đến cuối năm 2003, hệ thống các thể chế tài chính trung gian tại Việt Nam còn rất hạn chế với chỉ 13 Công ty Chứng khoán, 2 Công ty Quản lý Quỹ Đầu tư, 5 Ngân hàng lưu ký và 1 Ngân hàng chỉ định thanh toán Hoạt động chủ yếu của các Công ty Chứng khoán tập trung tại Tp.Hồ Chí Minh và Hà Nội, trong đó nghiệp vụ môi giới là chính, trong khi các dịch vụ khác như bảo lãnh phát hành và tư vấn đầu tư vẫn còn rất hạn chế.
Thị trường chứng khoán đang gặp khó khăn trong việc thực hiện chức năng huy động vốn, khi các doanh nghiệp niêm yết chưa hình thành thói quen phát hành thêm cổ phiếu Theo thống kê, tính đến cuối năm 2003, chỉ có 5 công ty niêm yết thực hiện phát hành cổ phiếu mới nhằm tăng vốn điều lệ và mở rộng sản xuất kinh doanh.
Năm 2004 đánh dấu sự hồi phục của giá cổ phiếu sau giai đoạn suy giảm trong các năm 2002 và 2003, với giao dịch cổ phiếu trở nên ổn định hơn và ít biến động lớn Đến ngày 31/12/2004, chỉ số VN-Index đạt 239,29 điểm, tăng hơn 72 điểm so với 166,94 điểm của cùng thời điểm năm 2003.
Đến cuối năm 2004, tổng số tài khoản của các nhà đầu tư tại các công ty chứng khoán đạt 20.300 tài khoản, trong đó nhà đầu tư nước ngoài đã chuyển hướng mạnh mẽ sang giao dịch trái phiếu, chiếm 48% tổng giá trị giao dịch Tính thanh khoản của thị trường được cải thiện với tổng giá trị giao dịch gần 20.000 tỷ đồng, tăng 6,6 lần so với năm 2003, với bình quân 80 tỷ đồng mỗi phiên Các nhà đầu tư tổ chức, mặc dù chỉ chiếm hơn 1% về số lượng, nhưng lại đóng góp gần 39% tổng giá trị giao dịch trong năm 2004.
Năm 2005, thị trường chứng khoán Việt Nam đã khởi sắc với quy mô được mở rộng và lòng tin của nhà đầu tư tăng cao, nhờ vào sự tăng trưởng mạnh mẽ trong sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp niêm yết về vốn, doanh thu và lợi nhuận.
Nhà nước đã tích cực cổ phần hóa nhiều doanh nghiệp lớn trong ngành điện lực, tổ chức đấu giá công khai qua Trung tâm Giao dịch chứng khoán Các doanh nghiệp như Nhà máy Thủy điện Vĩnh Sơn-Sông Hinh, Thủy điện Thác Bà, Nhiệt điện Phả Lại và Điện lực Khánh Hòa đã góp phần đáng kể vào việc gia tăng lượng hàng hóa trên thị trường chứng khoán.
Năm 2005 đánh dấu nhiều thay đổi quan trọng trong chính sách thị trường chứng khoán tại Việt Nam, đặc biệt là đối với nhà đầu tư nước ngoài Chính phủ đã nâng tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài từ 30% lên 49%, đồng thời cho phép các tập đoàn bảo hiểm như Prudential và Manulife cùng một số tổ chức liên doanh thành lập công ty quản lý quỹ Ngoài ra, CitiGroup cũng được cấp phép lưu ký, và nhiều xí nghiệp liên doanh đang chuyển đổi thành công ty cổ phần, hoàn tất hồ sơ niêm yết tại Trung tâm giao dịch chứng khoán.
Tóm lại: trong giai đoạn này, sự phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam vẫn cònở giai đoạn khởi đầu được thể hiện ở những đặc điểm sau:
Giai đoạn 2006 – 2007
Thị trường chứng khoán Việt Nam đã trải qua một giai đoạn bùng nổ mạnh mẽ từ cuối năm 2005, thu hút sự quan tâm của nhiều nhà đầu tư Không chỉ có các bà nội trợ, mà cả những người hưu trí, sinh viên và công nhân viên chức đều tham gia đầu tư, tận dụng thời gian và tiền nhàn rỗi Ngay cả những người làm nghề xe ôm hay bán bánh mì cũng đã chuyển sang làm môi giới chứng khoán OTC, cho thấy sức hấp dẫn và tiềm năng của thị trường này.
Chứng khoán đang trở thành một chủ đề nóng hổi trong xã hội Việt Nam, với thông tin về cổ phiếu xuất hiện ngày càng nhiều trên các phương tiện truyền thông Người dân thường xuyên thảo luận về các cổ phiếu khác nhau, cho thấy sự quan tâm lớn đối với thị trường chứng khoán Điều này không chỉ phản ánh sự phát triển của thị trường tài chính mà còn cho thấy chứng khoán đã trở thành một phần quan trọng trong đời sống hàng ngày của người dân.
Vào thời điểm này người ta tranh nhau mua chứng khoán với cùng suy nghĩ là
“Việc mua cổ phiếu được coi là cơ hội đổi đời nhanh chóng, khiến nhiều người chen chúc để đặt lệnh vào sàn giao dịch Cơn khát chứng khoán chưa từng có tiền lệ đã bùng nổ, với người dân tranh nhau mua mà không quan tâm đến lý do công ty phát hành thêm cổ phiếu hay tình hình sản xuất kinh doanh của họ Họ chỉ chú trọng vào các công ty chia cổ tức bằng cổ phiếu, vì tin rằng nắm giữ nhiều cổ phiếu sẽ mang lại sự giàu có nhanh chóng.”
Sự thăng hoa nhanh chóng của VN-Index không có gì lạ khi tất cả mọi người cùng chung một suy nghĩ, đặc biệt trong bối cảnh hàng loạt sự kiện trọng đại của đất nước Ngày 07/11/2006, Việt Nam chính thức gia nhập WTO, và chỉ vài ngày sau, vào ngày 19/11/2006, Việt Nam tổ chức thành công hội nghị APEC lần thứ 14, tạo ra kỳ vọng cao về sự phát triển kinh tế Đỉnh điểm là ngày 20/11/2006, khi Tổng thống Mỹ G.W BUSH thăm Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Tp.Hồ Chí Minh, gặp gỡ các nhà lãnh đạo tại Việt Nam, khiến thị trường bùng nổ Giá trị khớp lệnh của sàn Tp.Hồ Chí Minh lần đầu tiên vượt ngưỡng 21 triệu USD/ngày ngay sau khi Tổng thống Bush mở cửa phiên giao dịch.
Năm 2006, VN-Index đạt 750 điểm, đưa Việt Nam trở thành quốc gia có tốc độ tăng trưởng thị trường chứng khoán nhanh nhất thế giới với 148%/năm Trong bối cảnh này, nhiều tỷ phú Mỹ đã đến Việt Nam để tìm kiếm cơ hội hợp tác, khiến giá cổ phiếu của các công ty tăng vọt Sự quan tâm của các tập đoàn lớn như Microsoft và Intel đầu tư vào Việt Nam càng củng cố thêm kỳ vọng về sự phát triển mạnh mẽ của thị trường chứng khoán nước nhà.
Việt Nam đã ghi nhận những thành tựu ấn tượng trong tăng trưởng kinh tế, trở thành điểm đến đầu tư hấp dẫn nhờ vào nguồn nhân công giá rẻ và môi trường chính trị ổn định, an toàn hàng đầu thế giới Những yếu tố này đã cộng hưởng, thúc đẩy sự bùng nổ của thị trường chứng khoán từ cuối năm 2006.
Cơn sốt chứng khoán đã làm thay đổi diện mạo thị trường chứng khoán Việt Nam, với vốn hóa đạt khoảng 22% GDP vào năm 2006, tăng từ 6.5% năm 2005 Số lượng công ty niêm yết trên cả hai sàn giao dịch đã tăng lên 193, cùng với 100.000 tài khoản giao dịch chứng khoán, trong đó có hơn 1.000 tài khoản của nhà đầu tư nước ngoài Sự gia tăng này đã thúc đẩy tổng vốn đầu tư gián tiếp vào Việt Nam, ước tính đạt trên 1 tỷ USD từ các nhà đầu tư nước ngoài vào cuối năm 2006 Bên cạnh đó, số lượng các công ty chứng khoán cũng tăng nhanh, đạt 55 công ty và 18 công ty quản lý quỹ, so với 14 và 6 công ty năm 2005.
Năm 2007, VN-Index đạt kỷ lục mới với đỉnh 1.170,67 điểm vào ngày 12/03, đánh dấu sự phát triển vượt bậc của thị trường chứng khoán Đến cuối năm, giá trị vốn hóa toàn thị trường đã đạt 40% GDP, tương đương khoảng 30,7 tỷ USD, với 249 công ty niêm yết và chứng chỉ quỹ trên hai sàn giao dịch (HOSE: 138 và HASTC: 111).
Số lượng tài khoản giao dịch chứng khoán đã vượt 330.000, trong đó có 7.000 tài khoản của nhà đầu tư nước ngoài Khối ngoại đã đầu tư khoảng 3 tỷ USD vào thị trường, và nếu tính cả tiền dành cho các đợt IPO, con số này lên tới 7-10 tỷ USD Số lượng các định chế tài chính trung gian cũng tăng lên, hiện có 74 công ty chứng khoán và 24 công ty quản lý quỹ Sự gia tăng của chỉ số VN-Index đã giúp các công ty trên sàn huy động vốn thành công qua thị trường chứng khoán, với tổng vốn huy động trong năm 2007 đạt hơn 63.000 tỷ đồng theo thống kê của Ủy Ban Chứng khoán Nhà nước.
Giai đoạn 2006 – 2007 đánh dấu sự bùng nổ và phát triển mạnh mẽ nhất của thị trường chứng khoán Việt Nam kể từ khi ra đời.
Giai đoạn 2008 đến nay
Vào ngày 10/10/2007, VN-Index đạt 1.104 điểm, nhiều nhà đầu tư hy vọng thị trường chứng khoán Việt Nam sẽ trở lại ngưỡng 1.170 điểm thiết lập vào ngày 12/03/2007 Tuy nhiên, sau hai tuần dao động quanh mức 1.100 điểm, thị trường bắt đầu giảm mạnh từ ngày 25/10/2007, xuyên thủng nhiều ngưỡng hỗ trợ và thiết lập những đáy mới Đến ngày 24/02/2009, VN-Index chỉ còn 234 điểm, mức thấp nhất trong gần 48 tháng, khiến các nhà đầu tư cảm thấy hụt hẫng và bàng hoàng trước sự sụt giảm nhanh chóng và mạnh mẽ của thị trường.
Năm 2007, Việt Nam ghi nhận thành công ấn tượng trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài, với con số FDI đạt kỷ lục hơn 6.5 tỷ USD và 5.6 tỷ USD vốn đầu tư gián tiếp, chiếm hơn 10% GDP Tuy nhiên, quy mô lớn của dòng vốn này đã bộc lộ các khuyết điểm trong hệ thống tài chính, gây áp lực lên chính sách tiền tệ Đặc biệt, lượng kiều hối 5 tỷ USD từ kiều bào, chủ yếu vào bất động sản, đã khiến Việt Nam gặp khó khăn trong việc hấp thụ vốn đầu tư lớn, khi GDP chỉ khoảng 72 tỷ USD Để duy trì tỷ giá hối đoái, Ngân hàng Nhà nước đã phải chi hơn 112.000 tỷ đồng để mua vào 7 tỷ USD trong 6 tháng đầu năm 2007.
Vào cuối năm 2007, lạm phát tại Việt Nam đã vượt qua 12,63%/năm, trong khi Ngân hàng Nhà nước chậm trễ trong việc thực thi các chính sách kiềm chế lạm phát, mặc dù có lượng vốn lớn được bơm vào lưu thông Đến quý I/2008, lạm phát tiếp tục tăng lên 19,39% so với cùng kỳ năm trước, khiến Ngân hàng Nhà nước rơi vào tình thế tiến thoái lưỡng nan giữa việc tiếp tục mua ngoại tệ hay ngừng mua để kiểm soát lạm phát Quyết định dừng mua ngoại tệ vào cuối tháng 02 năm 2008 đã dẫn đến việc VND tăng giá so với USD, ảnh hưởng đến ngành xuất khẩu.
Tình hình kinh tế thế giới đang gặp khó khăn với sự gia tăng mạnh mẽ của giá cả các mặt hàng như dầu, vàng, phôi thép và phân bón, dẫn đến lạm phát trở thành thách thức lớn cho chính phủ Việt Nam Để kiềm chế lạm phát, chính phủ đã điều chỉnh chính sách từ mở rộng sang thắt chặt, bao gồm cắt giảm đầu tư công và tăng lãi suất cơ bản Tuy nhiên, từ tháng 3/2008, thâm hụt thương mại khổng lồ đã khiến tình hình trở nên tồi tệ hơn, với lượng ngoại tệ chuyển từ dư thừa sang khan hiếm, tỷ giá VND gia tăng và thâm hụt thương mại đạt 17% GDP, trong khi thâm hụt ngân sách là 5% GDP, có nguy cơ dẫn đến suy thoái kinh tế tương tự như Thái Lan năm 1997.
Trước biến động lớn của tình hình kinh tế vĩ mô, thị trường chứng khoán Việt Nam đã giảm mạnh do các chính sách của Chính phủ như rút 20.300 tỷ đồng qua tín phiếu và tăng lãi suất cơ bản để hạn chế cho vay Luồng tiền sụt giảm nhanh chóng khiến hoạt động sản xuất kinh doanh gặp khó khăn, trong khi những nhà đầu tư có tiền mặt trở thành "vua", dẫn đến tình trạng bán tháo cổ phiếu và tôn vinh việc chi trả cổ tức bằng tiền mặt Tuy nhiên, nguyên nhân còn đến từ bất ổn nội tại của thị trường, với làn sóng đầu cơ tạo ra bong bóng và lạm phát như "viên thuốc nổ" làm nổ tung bong bóng đó Tình hình càng xấu đi khiến áp lực bán tháo gia tăng, đến tháng 05/2008, nhiều hợp đồng cầm cố phải giải chấp do nhà đầu tư không có tiền thanh toán, làm thị trường suy giảm mạnh Lượng cầu cổ phiếu yếu, trong khi áp lực bán tăng lên, khiến VN-Index liên tục rơi xuống các mức đáy mới.
Trước tình hình thị trường chứng khoán lao dốc, Chính phủ đã triển khai nhiều biện pháp can thiệp như hạ biên độ giao dịch xuống còn 1% tại HOSE và 2% tại HASTC, cùng với chính sách kích cầu và giảm cung bằng cách cho phép Tổng Công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn Nhà nước (SCIC) mua cổ phiếu qua nhiều tài khoản Tuy nhiên, những biện pháp này vẫn chưa mang lại hiệu quả như mong đợi.
Vào tháng 9 năm 2008, khi thị trường chứng khoán Việt Nam đang gặp khó khăn, cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu bùng nổ với sự sụp đổ của nhiều định chế tài chính lớn của Mỹ như Bear Stearn, Lehman Brothers và Merrill Lynch Sự kiện này đã khiến thị trường chứng khoán toàn cầu lao dốc, làm cho thị trường chứng khoán Việt Nam vốn đã yếu kém càng lún sâu hơn vào khủng hoảng.
Năm 2008, chỉ số VN-Index giảm gần 70%, khiến thị trường chứng khoán Việt Nam trở thành tồi tệ nhất Châu Á với quy mô chỉ còn khoảng 10 tỷ USD Hoạt động huy động vốn trên thị trường sơ cấp gặp khó khăn, nhiều đợt IPO của các Tổng Công ty như Sabeco, Habeco thất bại, gây thách thức cho quá trình cổ phần hóa Doanh nghiệp Nhà nước Trong khi đó, các Công ty chứng khoán đối mặt với thua lỗ, nhiều công ty đứng bên bờ vực phá sản, mặc dù số lượng công ty chứng khoán tăng từ 78 lên 102 trong năm 2008.
Năm 2009, thị trường chứng khoán Việt Nam vẫn chưa có nhiều cải thiện so với năm 2008, với mức đáy 234 điểm vào ngày 24/02/2009, sau đó hồi phục lên 501.48 điểm vào ngày 08/06/2009 Trong giai đoạn này, Vn-Index đã tạo ra nhiều yếu tố bất ngờ với khối lượng và giá trị giao dịch liên tục lập kỷ lục mới Đến nay, Vn-Index vẫn đang trong giai đoạn tích lũy, dao động trong khoảng 450 - 650 điểm, với thanh khoản cao, đạt giá trị giao dịch bình quân trên 2.000 tỷ đồng mỗi phiên.
Thị trường chứng khoán Việt Nam trải qua ba giai đoạn phát triển, trong đó tâm lý thị trường đóng vai trò cực kỳ quan trọng, ảnh hưởng đến sự biến động của thị trường Các yếu tố tâm lý hành vi đã tạo ra lực đẩy mạnh mẽ, giúp thị trường tăng trưởng nhanh chóng và đáng kể trong thời gian ngắn, nhưng cũng chính những yếu tố này có thể kéo thị trường giảm sâu một cách nhanh chóng.
Tâm lý thị trường chứng khoán Việt Nam bị ảnh hưởng bởi nhiều nhân tố hành vi, bao gồm hành vi bầy đàn, mua bán theo phong trào, và sự lạc quan hoặc bi quan thái quá trước thông tin thị trường Các nhà đầu tư thường dựa vào kinh nghiệm quá khứ để đánh giá tình hình hiện tại, dẫn đến sự tự tin quá mức khi nhận định đúng một sự việc nhưng lại dễ dàng cảm thấy ác cảm với những khoản lỗ Họ cũng thường có tâm lý tiếc nuối và lo âu khi không kịp mua cổ phiếu trong thời điểm thị trường tăng điểm hoặc bán cổ phiếu khi thị trường giảm điểm Chương tiếp theo sẽ phân tích tác động của những nhân tố hành vi này đến quyết định của các nhà đầu tư cá nhân thông qua khảo sát và xử lý dữ liệu bằng SPSS.
KHẢO SÁT SỰ TÁC ĐỘNG CÁC NHÂN TỐ HÀNH VI ĐẾN QUYẾT ĐỊNH CỦA NHÀ ĐẦU TƯ CÁ NHÂN TRÊN TTCK TP.HỒ CHÍ MINH
Mô hình khảo sát
Luận văn tập trung vào nghiên cứu tác động của các yếu tố hành vi đến quá trình ra quyết định của nhà đầu tư cá nhân trên thị trường chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh, thông qua mô hình khảo sát dựa trên hai khái niệm chính.
Tâm lý dựa vào kinh nghiệm
Quy trình khảo sát
Bước 1: Xây dựng bảng câu hỏi
Giai đoạn đầu tiên trong quá trình nghiên cứu là xây dựng bảng câu hỏi thô, dựa trên các thông tin cần thu thập từ mô hình lý thuyết và các nghiên cứu liên quan đến hành vi tài chính Bảng câu hỏi này sẽ được sử dụng để thu thập dữ liệu cần thiết cho nghiên cứu.
Giai đoạn 2 bao gồm việc chọn lọc và hiệu chỉnh các câu hỏi dựa trên ý kiến từ các chuyên gia Để kiểm tra mức độ rõ ràng của bảng câu hỏi, chúng tôi tiến hành phỏng vấn thử 10 nhà đầu tư cá nhân ngẫu nhiên Qua đó, chúng tôi ghi nhận ý kiến ban đầu của những người được khảo sát về tác động của các nhân tố hành vi đến quá trình ra quyết định đầu tư của họ.
Giai đoạn 3: Hiệu chỉnh và hoàn tất bảng câu hỏi lần cuối, tiến hành gửi bảng câu hỏi chính thức(phụ lục1).
Bước 2: Xác định số lượng mẫu cần thiết và thang đo cho việc khảo sát
Kích thước mẫu dự tính là n0, nhưng hiện nay vẫn chưa có sự đồng thuận rõ ràng về kích thước mẫu đủ lớn trong nghiên cứu Kích thước mẫu phụ thuộc vào các phương pháp ước lượng cụ thể Một số nghiên cứu cho rằng kích thước mẫu 5 mẫu cho mỗi ước lượng là phù hợp Với mô hình khảo sát gồm 22 biến quan sát, số lượng mẫu cần thiết tối thiểu là 110 mẫu Do đó, với số lượng mẫu n6 được sử dụng trong khảo sát, tính đại diện của mẫu được đảm bảo.
Thang đo Likert là một trong những phương pháp đo lường phổ biến trong nghiên cứu định lượng, bao gồm 5 cấp độ từ 1 đến 5 để đánh giá ý kiến của người trả lời Bảng câu hỏi được thiết kế với các mức độ từ "Hoàn toàn đồng ý" (1) đến "Hoàn toàn không đồng ý" (5).
Bước 3: Gửi phiếu điều tra đến nhà đầu tư
Trong một khảo sát gần đây, 200 phiếu điều tra đã được phát cho các nhà đầu tư tại quầy giao dịch của Công ty Cổ phần Chứng khoán Bản Việt và các công ty chứng khoán khác tại Thành phố Hồ Chí Minh Sự hỗ trợ nhiệt tình từ các môi giới, bạn bè và đồng nghiệp của tác giả đã giúp quá trình này diễn ra thuận lợi Các nhà đầu tư nhận phiếu điều tra được chọn một cách ngẫu nhiên khi họ đến giao dịch tại sàn Bản Việt và các sàn giao dịch chứng khoán khác trong khu vực.
Bước 4:Nhậnkết quả trả lời
Các phiếu điều tra được gửi trực tiếp đến tay các nhà đầu tư, cho phép họ dễ dàng trả lời và gửi lại cho tác giả hoặc chia sẻ với bạn bè, đồng nghiệp ngay sau khi hoàn tất.
Bước 5: Thu thập phản hồi từ nhà đầu tư đã hoàn thành với 200 phiếu điều tra, đạt tỷ lệ phản hồi 100% Tuy nhiên, 24 phiếu không hợp lệ đã bị loại, do đó còn lại 176 phiếu hợp lệ để tiến hành phân tích.
Bước 6: Xử lý dữ liệu thông qua việc sử dụng công cụ phân tích SPSS
Dữ liệu bảng câu hỏi được thiết kế như sau:
Section 1: Một số thông tin về khách hàng:
Q1: Thời giantham gia thị trường chứng khoán
Q2: Vốn đầu tư chứng khoán
Trong quá trình ra quyết định đầu tư, các nhân tố tâm lý đóng vai trò quan trọng, ảnh hưởng đến hành vi của nhà đầu tư Những yếu tố như cảm xúc, niềm tin và nhận thức có thể dẫn đến những quyết định không hợp lý, từ đó tác động đến kết quả đầu tư Hiểu rõ các nhân tố này giúp nhà đầu tư có cái nhìn sâu sắc hơn và đưa ra những quyết định chính xác hơn trong việc quản lý danh mục đầu tư của mình.
Sau khi thu thập đủ mẫu cần thiết, tác giả đã sử dụng công cụ SPSS để tiến hành phân tích dữ liệu, với các thang đo được mã hóa như trình bày trong bảng dưới đây Kết quả chi tiết sẽ được trình bày ở phần tiếp theo.
Bảng 3.1 : Tổng hợp các thang đo được mã hóa
STT Mã hóa Diễn giải
1 T Thời gian tham gia thị trường chứng khoán
2 C Vốn đầu tư chứng khoán
4 B Sự tác động của nhân tố tâm lý đến tiến trình ra quyết định đầu tư
TÂM LÝ DỰA VÀO KINH NGHIỆM
Việc đầu tư vào các cổ phiếu "hot" trên thị trường có thể mang lại lợi nhuận nhanh chóng, mặc dù đi kèm với nhiều rủi ro.
6 RP2 Cổ phiếu đã có kết quả tăng trưởng tốt trong quá khứ thường sẽ có sự tăng trưởng tốt trong tương lai
7 OV1 Tôi nghĩ rằng mình hoàn toàn có đủ kiến thức và kinh nghiệm để tự phân tích và dự báo về tình hình thị trường
Bám vào những giá trị đã thiết lập
STT Mã hóa Diễn giải
Giá tham chiếu để quyết định mua cổ phiếu là mức giá đã được giao dịch trước đó hoặc giá cổ phiếu trong phiên chào sàn đầu tiên.
Cổ phiếu blue chip, đại diện cho các công ty lớn và nổi tiếng, thường có tính thanh khoản cao và khả năng tăng trưởng giá mạnh mẽ hơn so với cổ phiếu penny stock, vốn ít được chú ý hơn.
Khi quyết định mua hoặc bán cổ phiếu trong thời gian ngắn, việc tuân theo xu hướng của số đông là một chiến lược nhanh chóng và đáng tin cậy.
11 HB2 Thông tin tham khảo có độ tin cậy cao là thông tin từ người thân, bạn bè và đồng nghiệp
Dựa vào tình hình giao dịch hàng ngày của nhà đầu tư nước ngoài trên thị trường là một phương pháp đầu tư an toàn và hiệu quả Việc theo dõi các hoạt động của nhà đầu tư nước ngoài giúp đưa ra quyết định đầu tư chính xác hơn.
Các chuyên gia chứng khoán sở hữu kiến thức sâu rộng và hiểu biết sâu sắc về thị trường, vì vậy việc tuân theo các khuyến nghị của họ là rất quan trọng khi ra quyết định mua hoặc bán cổ phiếu.
Kết quả khảo sát
3.3.1.1 Thời giantham gia thị trường chứng khoán của nhà đầu tư:
Bảng 3.2 : Thống kê mô tả thời giantham gia thị trường chứng khoán của nhà đầu tưcá nhân Tp.Hồ Chí Minh:
Thời gian tham gia Tầng suất Giá trị Phần trăm Phần trăm lũy kế
Theo thống kê, trong số 176 nhà đầu tư cá nhân được khảo sát, 54.5% trong số họ đã tham gia thị trường chứng khoán chưa đầy 3 năm, với giá trị trung bình thời gian tham gia là 2.69 năm.
Hình 3.1: Biểu đồthời giantham gia thị trường chứng khoán của các nhà đầu tư cá nhân Tp.HồChí Minh
Theo thống kê, 80.3% nhà đầu tư cá nhân đã tham gia thị trường từ 1 năm trở lên, trong khi chỉ có 9.7% là các nhà đầu tư mới gia nhập thị trường trong năm nay.
Từ 500 triệu đến 1 tỷ Trên 1 tỷ
3.3.1.2 Vốn đầu tư vào thị trườngchứng khoán:
Bảng 3.3 : Thống kê mô tả sốvốn đầu tư vào thị trường của nhà đầu tư cá nhân
Số vốn đầu tư Tầng suất Giá trị phần trăm Phần trăm lũy kế
Giá trị trung bình của các nhà đầu tư cá nhân tham gia thị trường chứng khoán là 2.10, cho thấy hơn một nửa trong số họ đầu tư dưới 500 triệu đồng Thống kê cho thấy 92% nhà đầu tư cá nhân có số vốn đầu tư dưới 1 tỷ đồng, trong khi chỉ 8% có vốn đầu tư trên 1 tỷ đồng.
Hình 3.2: Biểu đồvốn đầu tư vào thị trường chứng khoán của các nhà đầu tư
17.6% 2.3% Đầu tư ngắn hạn (lướt sóng) Đầu tư trung hạn Đầu tư dài hạn
Bảng 3.4 : Thống kê mô tảchiến lược đầu tư của các nhà đầu tư cá nhân
Chiến lược đầu tư Tầng suất Giá trị phần trăm
Phần trăm lũy kế Đầu tư ngắn hạn (lướt sóng) 141 80.1 80.1 Đầu tư trung hạn (từ 1 năm đến 2 năm) 31 17.6 97.7 Đầu tư dài hạn (trên 2 năm) 4 2.3 100.0
Hình 3.3: Biểu đồthống kê chiến lược đầu tưcủa các nhà đầu tư cánhân
Kết quả khảo sát cho thấy, 80.1% nhà đầu tư cá nhân ưa chuộng chiến lược đánh ngắn hạn, với giá trị trung bình đạt 1.22 Chiến lược đầu tư ngắn hạn và trung hạn chiếm 97.7%, trong khi chỉ có 2.3% người tham gia khảo sát chọn chiến lược đầu tư dài hạn.
3.3.1.4 Sự ảnh hưởng củanhân tố tâm lý đếntiến trình ra quyết định đầu tư:
Bảng 3.5 : Thống kê mô tảSự ảnh hưởngcủa nhân tốtâm lý đếntiến trình ra quyết định đầu tư của nhà đầu tư cá nhân Tp.Hồ Chí Minh:
Hình 3.4: Biểu đồ thống kê sự ảnh hưởng của nhân tố tâm lý đến tiến trình ra quyết định của nhà đầu tư cá nhân
Theo bảng thống kê, có 155 người trong số 176 người được khảo sát (chiếm 88.1%) thừa nhận rằng yếu tố tâm lý ảnh hưởng đến quá trình ra quyết định của họ Chỉ 21 người (11.9%) cho rằng yếu tố tâm lý không quan trọng trong quyết định đầu tư Điều này cho thấy rằng, bên cạnh việc sử dụng các phương pháp phân tích như phân tích cơ bản và phân tích kỹ thuật, các nhà đầu tư cá nhân tại Tp.Hồ Chí Minh còn bị ảnh hưởng bởi các yếu tố thuộc hành vi tài chính.
3.3.1.5 Phân tích mô tảcác nhân tố hành vi tác động đến tiến trình ra quyết định của các nhà đầu tư cá nhân Tp.Hồ Chí Minh:
Bảng 3.6 :Thống kê mô tả cácnhân tố hành vi tác động đến tiến trình ra quyết định của các nhà đầu tư cá nhân Tp.Hồ Chí Minh
N Minimum Maximum Mean Std Deviation
Với 5 thang đo tương ứng với 1 là “Hoàn toàn đồng ý”; 3 là “Trung dung hay không có ý kiến” đến 5 là “Hoàn toàn không đồng ý”, ta thấy nhân tố được nhiều nhà đầu tư thừa nhận sự tác động của nó đến hành vi ra quyết định của mình nhất là nhân tốRP1 tức là“Thích đầu tư vào các cổ phiếu đang “hot” trên thị trường” (giá trị trung bình là 1.65) Nhân tố nhà đầu tư cá nhân ít đồng ý nhất là HB4“Ra quyết định dựa trên các khuyến nghị của các chuyên gia trên các phương tiên truyền thông chuyên đề về chứng khoán” (giá trị trung bình là 2.43).
3.3.2Đánh giá độ tin cậy của thang đo:
Hệ số Cronbach’s Alpha là một công cụ thống kê quan trọng để đánh giá sự chặt chẽ và tương quan giữa các biến quan sát Nó xem xét cả mối tương quan giữa các biến và sự liên kết của điểm số từng biến với tổng điểm của tất cả các biến của người trả lời Phương pháp này giúp loại bỏ các biến không phù hợp và giảm thiểu biến rác trong nghiên cứu, từ đó cải thiện độ chính xác của độ biến thiên và độ lỗi Chỉ những biến có hệ số tương quan tổng biến lớn hơn 0.3 và hệ số Alpha lớn hơn 0.6 mới được coi là chấp nhận được cho các phân tích tiếp theo Theo nhiều nhà nghiên cứu, nếu Cronbach’s Alpha đạt từ 0.8 trở lên, thang đo sẽ được xem là tốt và mức độ tương quan sẽ tăng cao hơn.
3.3.2.1Đánh giá độ tin cậy của thang đo các biến quan sát nhân tố hành vi:
Bảng 3.7 : Kết quả đánh giá độ tin cậy của thang đo các biến quan sát
Scale Mean if Item Deleted
Scale Variance if Item Deleted
Cronbach's Alpha if Item Deleted
Bảng 3.7 cho thấy hệ số Cronbach's Alpha đạt 0.913, với hệ số tương quan tổng biến (Corrected Item-Total Correlation) của tất cả các biến quan sát đều trên 0.3, chứng tỏ rằng các nhà đầu tư đánh giá các biến này một cách nhất quán.
Do vậy, các biến quan sát này đều đạt yêu cầu và được sử dụng trong việc phân tích nhân tố EFA (Exploratory Factor Analysis).
3.3.2.2Đánh giá độ tin cậy của thang đo quyết định đầu tư:
Bảng 3.8 : Kết quả đánh giá độ tin cậy của thang đo quyết định đầu tư
Scale Mean if Item Deleted
Scale Variance if Item Deleted
Cronbach's Alpha if Item Deleted
Xu hướng giá ở hiện tại 6.14 3.883 687 880
Thông tin kinh tế trong và ngoài nước 6.13 3.474 764 852
Xu hướng của giá chứng khoán trong quá khứ 6.15 3.479 815 833
Tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của các công ty 5.90 3.475 756 855
Hệ số Cronbach’s Alpha của thang đo “quyết định đầu tư” của các nhà đầu tư cá nhân đạt 0.888, cho thấy độ tin cậy cao Tất cả các hệ số tương quan biến tổng của các biến quan sát đều trên 0.3, cho phép sử dụng các biến này trong phân tích nhân tố khám phá EFA ở bước tiếp theo.
Kết quả kiểm tra độ tin cậy của các thang đo “nhân tố hành vi tài chính” và “quyết định đầu tư” cho thấy không có biến quan sát nào bị loại do không đạt chuẩn thống kê (hệ số tương quan tổng biến nhỏ hơn 0.3), chứng tỏ rằng các biến này đều có độ tin cậy cao và sẽ được sử dụng cho các phân tích tiếp theo trong nghiên cứu.
Các biến sẽ được kiểm tra độ tin cậy qua hệ số Cronbach’s Alpha và hệ số tương quan biến tổng, sau đó tiếp tục kiểm tra mức độ tương quan theo nhóm biến Phân tích nhân tố sẽ được thực hiện khi hệ số Kaiser-Mayer-Olkin (KMO) lớn hơn 0.5 (Garson, 2003) Những hệ số chuyển tải nhân tố (factor loading) nhỏ hơn 0.4 sẽ bị loại để đảm bảo sự hội tụ giữa các biến trong một nhân tố; điểm dừng là khi eigenvalue lớn hơn 1 và tổng phương sai trích lớn hơn 0.5 (Gerbing & Anderson, 1998) Trong nghiên cứu này, phương pháp Principal Component với phép quay Varimax sẽ được áp dụng để phân tích nhân tố.
3.3.3.1 Phân tích nhân tố biến độc lập
Sau khi kiểm định sự tin cậy bằng hệ số Cronbach’s Alpha, 14 biến quan sát ban đầu đều thỏa mãn và đã được đưa vào phân tích nhân tố khám phá (EFA) Kết quả của phân tích EFA cho thấy
Bảng 3.9 : Kết quả phân tích nhân tố EFA các biến độc lập
Kaiser-Meyer-Olkin Measure of Sampling Adequacy .852
Hệ số KMO đạt 0.852, lớn hơn 0.5, cho thấy giả thuyết về ma trận tương quan tổng thể là ma trận đồng nhất bị bác bỏ Mức ý nghĩa kiểm định Bartlett là 0.000, nhỏ hơn 0.05, chứng tỏ các biến quan sát có mối tương quan với nhau trong phạm vi tổng thể.
Phân tích từ Bảng 3.9 chỉ ra rằng có 4 nhân tố được trích ra với điểm eigenvalue là 1.065, và phương sai trích đạt 73.798%, cho thấy 73.798% biến thiên của dữ liệu được giải thích bởi các nhân tố này.
Bảng 3.10 :Phân tích phương sai tổng thể
Loadings Rotation Sums of Squared Loadings
% of Variance Cumulative % Total % of Variance
Trong 4 nhân tố trích được ta quan sát thấy:
Nhóm nhân tố thứ 1(nhân tố X1): Bao gồm các biếnRG1, RP1, OV1 và RG2
Các hệ số tải nhân tố (factor loading) lớn nhất của mỗi biến quan sát đều trên 0.5 nên không có biến nào bị loại khỏi mô hình nghiên cứu.
Bốn biến quan sát RG1, RP1, OV1 và RG2 đã được hợp nhất thành một biến mới với hệ số tải nhân tố cao, phản ánh sự nuối tiếc, sự tự tin vào bản thân và sở thích đầu tư vào các cổ phiếu "hot" Mặc dù lý thuyết phân loại chúng thành ba khái niệm khác nhau, nhưng trong nghiên cứu này, các nhà đầu tư cá nhân tại Tp.Hồ Chí Minh đã đồng nhất ba yếu tố này thành một, gọi là "HÀNH VI TỰ TIN VÀ TIẾC NUỐI" (biến X1).
Nhóm nhân tố thứ2 (nhân tố X2): Bao gồm các biếnLA2, LA1, HB2 và LA3
Các biến quan sát này đều có hệ số tải nhân tố trên 0.5 nên không bị loại khỏi mô hình.