GIỚI THIỆU
Vấn đề nghiên cứu
Tối đa hóa giá trị tài sản cổ đông là mục tiêu quan trọng của doanh nghiệp, với giá trị thị trường là tiêu chuẩn đánh giá tài sản của cổ đông (Gill và Obradovich, 2012) Cấu trúc sở hữu và quản trị công ty có vai trò quan trọng trong việc tối đa hóa giá trị này, ảnh hưởng đến giá trị doanh nghiệp Mối quan hệ giữa quản trị công ty và giá trị doanh nghiệp đã được nhiều nghiên cứu chỉ ra (Gill và Mathur, 2011; Lee và Zhang, 2011; Black, 2011; Rouf, 2011; Gill và Obradovich, 2012) Đồng thời, cấu trúc sở hữu liên quan đến chi phí đại diện, phản ánh mâu thuẫn lợi ích giữa cổ đông và nhà quản lý, từ đó tác động đến chi phí và giá trị doanh nghiệp (Lee và Zhang, 2011; Fazlzadeh và cộng sự, 2011; Turki và Sedrine, 2012; Ryu và Yoo, 2011; Uwuigbe và Olusanmi, 2012).
Các vụ bê bối tài chính lớn như Enron và WorldCom đã làm giảm niềm tin của nhà đầu tư vào thị trường vốn và hiệu quả quản trị công ty, ảnh hưởng tiêu cực đến giá cổ phiếu và giá trị doanh nghiệp Để tối đa hóa giá trị cổ đông, việc khám phá các nhân tố tác động đến giá trị doanh nghiệp là rất quan trọng Cấu trúc sở hữu và quản trị công ty, đặc biệt là đặc tính của Hội đồng Quản trị (HĐQT) và Ban Kiểm soát (BKS), là hai yếu tố cần được xem xét để đánh giá ảnh hưởng của chúng lên giá trị doanh nghiệp.
Trong bối cảnh Việt Nam, gần đây đã xảy ra nhiều vụ bê bối liên quan đến gian lận báo cáo tài chính, điển hình là vụ việc của Công ty cổ phần Bông Bạch Tuyết và Hội đồng Quản trị Công ty chứng khoán Đại Nam, khi lập báo cáo khống cho Ban Kiểm soát Những sự việc này đã gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy tín của các doanh nghiệp và thị trường chứng khoán.
Quản trị công ty đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ quyền lợi của cổ đông và duy trì niềm tin của nhà đầu tư đối với công ty cổ phần Việc kiểm định mối quan hệ giữa cấu trúc sở hữu, quản trị công ty và giá trị doanh nghiệp là cần thiết tại Việt Nam Mặc dù đã có một số nghiên cứu về tác động của cấu trúc sở hữu và quản trị công ty đến hiệu quả hoạt động doanh nghiệp, nhưng hầu hết chỉ xem xét dưới góc độ tổng thể và ngành mà chưa phân tích theo mức độ sở hữu nhà nước Luận văn này sẽ tập trung nghiên cứu tác động của cấu trúc sở hữu và quản trị doanh nghiệp đến giá trị doanh nghiệp dựa trên các mức độ sở hữu nhà nước khác nhau.
Mục tiêu và câu hỏi nghiên cứu
Nghiên cứu này nhằm mục đích phân tích mối quan hệ giữa cấu trúc sở hữu, quản trị công ty và giá trị doanh nghiệp của các công ty niêm yết trên sàn HOSE.
Cấu trúc sở hữu có tác động đến hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp niên yết tại HOSE hay không? Nếu có thì tác động như thế nào?
Quản trị công ty thông qua các đặc tính của Hội đồng quản trị (HĐQT) và Ban kiểm soát (BKS) có ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp niêm yết tại Sở Giao dịch Chứng khoán TP.HCM (HOSE) Nghiên cứu này sẽ làm rõ mối quan hệ giữa các yếu tố này và hiệu quả kinh doanh, đồng thời chỉ ra cách thức mà HĐQT và BKS có thể tác động tích cực đến sự phát triển và thành công của các doanh nghiệp.
Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
1.3.1 Đối tƣợng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn này là cấu trúc sở hữu, quản trị công ty, giá trị doanh nghiệp của các công ty niêm yết trên HOSE Cụ thể, cấu trúc sở hữu bao gồm sở hữu nhà nước, sở hữu nước ngoài, sở hữu thành viên HĐQT, sở hữu
Trong luận văn, quản trị doanh nghiệp được phân tích qua các đặc điểm của Hội đồng Quản trị (HĐQT), bao gồm sự kiêm nhiệm giữa CEO và Chủ tịch HĐQT, tỷ lệ thành viên độc lập trong HĐQT, cùng với vai trò của ban kiểm soát.
Công ty phi tài chính niêm yết trên HOSE thời gian từ năm 2008 đến 2012
Phương pháp nghiên cứu
Bài viết sử dụng dữ liệu bảng và phương pháp hồi quy OLS để phân tích mối quan hệ giữa cấu trúc sở hữu, quản trị công ty qua đặc điểm HĐQT và BKS với hiệu quả hoạt động doanh nghiệp Khi các giả định của OLS không được đáp ứng, bài viết áp dụng phương pháp hồi quy ảnh hưởng cố định và ảnh hưởng ngẫu nhiên Để xác định phương pháp hồi quy phù hợp, kiểm định Hausman được sử dụng.
Bố cục luận văn
Luận văn này được trình bày theo thứ tự như sau:
Chương 2: Nghiên cứu thực nghiệm
Chương 3: Phương pháp nghiên cứu
Chương 4: Nội dung và kết quả nghiên cứu
NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM
Các nghiên cứu thực nghiệm trước đây
Nghiên cứu về mối quan hệ giữa cấu trúc sở hữu, quản trị công ty và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp đã được thực hiện rộng rãi trên toàn cầu, với nhiều nghiên cứu lý thuyết và thực nghiệm Bài viết sẽ phân tích hai khía cạnh chính: tác động của cấu trúc sở hữu đến hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp và ảnh hưởng của quản trị công ty, đặc biệt là đặc tính của Hội đồng Quản trị (HĐQT), đến hiệu quả này.
2.1.1 Quan điểm về mối quan hệ giữa cấu trúc sở hữu và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp
Các nghiên cứu về mối quan hệ giữa cấu trúc sở hữu và hiệu quả hoạt động đã chỉ ra rằng cấu trúc sở hữu có thể được phân loại theo nhiều cách khác nhau Jensen và Meckling (1976) phân loại cấu trúc sở hữu thành hai nhóm chính: nhà đầu tư bên trong (nhà quản lý) và nhà đầu tư bên ngoài (chủ nợ và chủ sở hữu) Fazlzadeh (2011) lại chia cấu trúc sở hữu thành hai loại chính là sở hữu phân tán và sở hữu tập trung Trong khi đó, Abel Ebel và Okafor (2010) xây dựng cấu trúc sở hữu dựa trên tỷ lệ cổ phần nắm giữ của các nhà quản lý (sở hữu của nhà quản lý), tổ chức (sở hữu thuộc tổ chức), và chính phủ.
5 phủ (sở hữu nhà nước), các nhà đầu tư nước ngoài (sở hữu nước ngoài), gia đình (sở hữu gia đình) …
Nghiên cứu của Zeitun và Almudehki (2012) đã phân tích mối quan hệ giữa cấu trúc sở hữu và hiệu quả hoạt động của 29 công ty phi tài chính trên thị trường chứng khoán Quarta từ năm 2006 đến 2011 Các yếu tố cấu trúc sở hữu bao gồm sở hữu tập trung, sở hữu tổ chức, sở hữu nước ngoài và sở hữu thành viên HĐQT Kết quả cho thấy sở hữu tập trung, sở hữu thành viên HĐQT và sở hữu nước ngoài đều có tác động tích cực đến hiệu quả hoạt động doanh nghiệp Đặc biệt, sở hữu thành viên HĐQT có mối quan hệ tích cực và có ý nghĩa thống kê với ROA và ROE, trong khi sở hữu tập trung không chỉ ảnh hưởng tích cực đến ROA và ROE mà còn đến Tobin Q.
Nghiên cứu của Turkin và cộng sự (2012) cho thấy mối quan hệ giữa thành viên HĐQT và thành quả công ty là âm, khi sử dụng phương pháp hồi quy hai giai đoạn 2SLS để kiểm định mối quan hệ nhân quả giữa cấu trúc sở hữu và hiệu quả hoạt động Kết quả chỉ ra rằng sở hữu tập trung có tác động ngược chiều và có ý nghĩa thống kê lên hiệu quả hoạt động doanh nghiệp, trong khi sở hữu nhà quản lý tác động cùng chiều và cũng có ý nghĩa thống kê Tuy nhiên, hiệu quả hoạt động doanh nghiệp lại có tác động ngược chiều lên sở hữu tập trung và cùng chiều lên sở hữu nhà quản lý, nhưng không đạt ý nghĩa thống kê.
Nghiên cứu của Karaca và Eksi (2012) đã phân tích mối quan hệ giữa cấu trúc sở hữu và hiệu quả hoạt động của 50 doanh nghiệp sản xuất niêm yết tại ISE Sử dụng dữ liệu bảng và phương pháp Hausman để lựa chọn giữa REM và FEM, kết quả không phát hiện bằng chứng cho thấy sở hữu tập trung có ảnh hưởng đến chỉ số Tobin Q.
Sở hữu nhà nước đã được đề cập trong các nghiên cứu của Omran, Bolbol và
Fatheldin (2008), Huang và cộng sự (2011), Trien le and Amon chizema (2011), Lee and Zhang (2011) Cụ thể:
Lee và Zhang (2011) nghiên cứu tác động của cấu trúc sở hữu và quản trị công ty đến hiệu quả hoạt động doanh nghiệp tại thị trường vốn Trung Quốc trong giai đoạn 2004-2007 Cấu trúc sở hữu được khảo sát bao gồm sở hữu nhà nước, sở hữu thành viên Hội đồng quản trị (HĐQT), sở hữu ban giám đốc và sở hữu tổ chức Kết quả cho thấy sở hữu nhà nước và sở hữu ban giám đốc có ảnh hưởng tiêu cực đến giá trị doanh nghiệp, trong khi quy mô HĐQT và sở hữu tổ chức lại có tác động tích cực đến giá trị doanh nghiệp.
Nghiên cứu của Le và Chizema (2011) chỉ ra rằng sở hữu nhà nước có ảnh hưởng đáng kể đến giá trị doanh nghiệp, được đo bằng giá trị sổ sách (ROA) và giá trị thị trường (Tobin Q) Nghiên cứu này tập trung vào các công ty niêm yết trên hai sàn chứng khoán tại Trung Quốc trong giai đoạn 2004-2005, cho thấy rằng sở hữu nhà nước tác động tích cực đến ROA Hơn nữa, nghiên cứu cũng phát hiện rằng mối quan hệ giữa giá trị sổ sách và giá trị thị trường bị ảnh hưởng bởi tỷ lệ sở hữu nhà nước; cụ thể, ở mức sở hữu thấp, mối quan hệ này là âm, trong khi ở mức sở hữu cao, mối quan hệ trở nên dương.
Nghiên cứu của Huang và cộng sự (2011) cho thấy sở hữu nhà nước có ảnh hưởng tích cực đến giá trị doanh nghiệp tại thị trường Trung Quốc trong giai đoạn 2004-2009 Tuy nhiên, tác giả không phát hiện bằng chứng nào cho thấy sở hữu ban giám đốc tác động đến giá trị doanh nghiệp.
Dòng vốn đầu tư nước ngoài đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp nguồn tài chính cho các nước đang phát triển Sự gia tăng số lượng các dòng vốn quốc tế đã thu hút sự chú ý và nghiên cứu từ nhiều tác giả về tác động của chúng đến thành quả của doanh nghiệp.
Nghiên cứu của Gurbuz và Aybars (2011) sử dụng dữ liệu bảng từ 205 công ty phi tài chính tại Thổ Nhĩ Kỳ trong giai đoạn 2005-2007 để phân tích tác động của sở hữu nước ngoài đến hiệu quả hoạt động doanh nghiệp Kết quả cho thấy các công ty có tỷ lệ sở hữu nước ngoài thấp thường có hiệu quả hoạt động doanh nghiệp kém hơn.
Các công ty có tỷ lệ sở hữu nước ngoài cao thường có ROA thấp hơn so với các công ty nội địa Điều này cho thấy hiệu quả hoạt động của những công ty này không đạt mức tốt như các doanh nghiệp trong nước.
Lê Thị Phương Vy và Phùng Đức Nam (2012) đã tiến hành nghiên cứu mối quan hệ giữa sở hữu nước ngoài, cấu trúc vốn và giá trị doanh nghiệp của các công ty niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán Hồ Chí Minh trong giai đoạn 2007-2011 Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng sở hữu nước ngoài có tác động ngược chiều đến giá trị doanh nghiệp, do sự phân tán của sở hữu nước ngoài tại Việt Nam không cho phép giữ vai trò kiểm soát trong cơ chế quản trị doanh nghiệp.
Việc lựa chọn công cụ đánh giá hiệu quả hoạt động doanh nghiệp là rất quan trọng, với nhiều chỉ tiêu tài chính có thể được sử dụng Các chỉ tiêu này thường được chia thành hai loại chính: hệ số giá trị kế toán và hệ số giá trị thị trường Trong số các chỉ tiêu dựa trên giá trị kế toán, lợi nhuận trên tổng tài sản (ROA) và lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE) là những chỉ số phổ biến nhất Đối với hệ số giá trị thị trường, hệ số Tobin Q được xem là công cụ đánh giá hiệu quả tài chính hữu ích Cấu trúc sở hữu thường liên quan đến sở hữu của thành viên HĐQT, BGĐ và sở hữu nước ngoài, trong khi hình thức sở hữu nhà nước phụ thuộc vào đặc trưng từng quốc gia Các nghiên cứu thường áp dụng phương pháp hồi quy OLS, nhưng cũng có những nghiên cứu sử dụng phương pháp ảnh hưởng cố định (FEM) hoặc ảnh hưởng ngẫu nhiên (REM) để phân tích.
Năm 2011, nghiên cứu đã áp dụng phương pháp GMM, trong khi nghiên cứu của Turkin và cộng sự vào năm 2012 sử dụng phương pháp 2SLS để phân tích cấu trúc sở hữu, xem xét cả vai trò của biến nội sinh và biến ngoại sinh.
2.1.2 Quan điểm về mối quan hệ giữa quản trị công ty và hiệu quả hoạt động doanh nghiệp
Quản trị công ty tốt đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao giá trị doanh nghiệp, với tác động khác nhau giữa các quốc gia do cơ chế quản trị bị ảnh hưởng bởi điều kiện kinh tế, xã hội và phong cách quản lý (Rouf, 2011).
Mối quan hệ giữa cấu trúc sở hữu, quản trị công ty và giá trị doanh nghiệp
sử dụng các phương pháp nghiên cứu khác nhau
2.2 Mối quan hệ giữa cấu trúc sở hữu, quản trị công ty và giá trị doanh nghiệp
Nghiên cứu về mối quan hệ giữa cấu trúc sở hữu và hiệu quả hoạt động đã chỉ ra rằng biến cấu trúc sở hữu có thể được phân loại theo nhiều cách khác nhau Bài viết này sẽ phân tích tác động của các yếu tố như sở hữu nhà nước, sở hữu của ban giám đốc, sở hữu của các thành viên hội đồng quản trị, sở hữu nước ngoài, tính kiêm nhiệm giữa chủ tịch hội đồng quản trị và CEO, số lượng thành viên ban kiểm soát, cũng như tỷ lệ thành viên hội đồng quản trị độc lập.
Cấu trúc sở hữu đóng vai trò quan trọng trong việc xác định giá trị doanh nghiệp Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra mối quan hệ giữa sở hữu nhà nước và giá trị doanh nghiệp (Trien Le và Chizema, 2011; Huang và cộng sự, 2011), nhưng kết quả của các nghiên cứu này không đồng nhất.
Nghiên cứu của Jia, Sun và Tong (2005) cùng Lee và Zhang (2011) chỉ ra mối tương quan âm giữa sở hữu nhà nước và thành quả hoạt động của doanh nghiệp Hiệu quả hoạt động doanh nghiệp bị ảnh hưởng tiêu cực bởi sở hữu nhà nước, điều này có thể được giải thích thông qua lý thuyết đại diện của Jensen và Meckling.
Năm 1976, có sự phân tách rõ ràng giữa quyền quản lý và quyền sở hữu, trong đó quyền sở hữu thuộc về chính phủ và quyền quản lý thuộc về người được ủy quyền Điều này dẫn đến việc các nhà quản lý có thể có động cơ để né tránh trách nhiệm hoặc không nỗ lực tối đa trong việc tạo ra giá trị cho cổ đông.
Mối tương quan dương được tìm thấy trong các nghiên cứu của Sun, Tong and
Sở hữu nhà nước được coi là một cổ đông chi phối trong các công ty, giúp cung cấp nguồn lực tài chính và hỗ trợ pháp lý, từ đó cải thiện hiệu suất hoạt động (Tong, 2002; Chen, Firth và Rui, 2006; Huang và cộng sự, 2011; Le và Chizema, 2011) Nghiên cứu về sở hữu nhà nước tại Trung Quốc cho thấy chính phủ áp dụng các ưu đãi thuế và hỗ trợ vay vốn, giúp các công ty có tỷ lệ sở hữu nhà nước cao tiếp cận dễ dàng hơn với các khoản vay ưu đãi từ ngân hàng (Gordon và Li, 2003; Cull và Xu, 2003; Lu, Thangavelu và Hu, 2005) Những hỗ trợ này góp phần tăng doanh thu, giảm chi phí và nâng cao hiệu suất hoạt động của doanh nghiệp (Lu, 2000).
Biến sở hữu nhà nước được xác định thông qua tỷ lệ vốn sở hữu của các cổ đông đại diện cho nhà nước so với tổng vốn chủ sở hữu, như đã được nghiên cứu bởi Huang và cộng sự (2011), Le và Chizema (2011), cũng như Lee và Zhang (2011).
2.1.2 Sở hữu thành viên HĐQT
Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra mối quan hệ giữa sở hữu của thành viên hội đồng quản trị (HĐQT) và hiệu quả hoạt động doanh nghiệp, với kết quả cho thấy có thể tồn tại cả mối quan hệ tích cực lẫn tiêu cực giữa hai yếu tố này.
Tỷ lệ sở hữu của thành viên HĐQT có tác động ngược chiều đến thành quả hoạt động, như được chỉ ra trong các nghiên cứu của Ryu và Yoo (2011), Fazlzadeh và cộng sự (2011), Turki và Sedrine (2012), Uwuigbe và Olusanmi (2012) Nghiên cứu cho thấy rằng khi quyền sở hữu tăng lên, quyền kiểm soát cũng gia tăng, tuy nhiên, giá cổ phiếu và lợi nhuận lại có xu hướng giảm Tác động ngược chiều này được giải thích bởi sự kiểm soát đối với các cổ đông thiểu số.
Nghiên cứu của Zeitun và Almudehki (2012) cho thấy tỷ lệ sở hữu thành viên HĐQT có tác động tích cực đến ROA và ROE Mối quan hệ dương giữa hai biến này xuất phát từ hiệu quả của việc giám sát chặt chẽ và lợi ích của các cổ đông.
11 hữu nhằm tối đa hoá lợi nhuận doanh nghiệp
Biến sở hữu của các thành viên Hội đồng quản trị (HĐQT) được đo lường thông qua tỷ trọng vốn sở hữu của họ trên tổng vốn chủ sở hữu, như đã được nghiên cứu bởi Huang và các cộng sự (2011), Lee và Zhang (2011), Zeitun và Almudehki (2012), Turki và Sedrine (2012), cùng với Uwuigbe và Olusanmi (2012).
2.1.3 Sở hữu ban giám đốc
Xu hướng nghiên cứu mối tương quan giữa sở hữu BGĐ và hiệu quả hoạt động thì không đồng nhất trong các nghiên cứu thực nghiệm trước đây
Nghiên cứu Huang và cộng sự (2011), Ruan và cộng sự (2011) không tìm thấy mối tương quan giữa sở hữu BGĐ và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp
Nghiên cứu của Krivogorsky (2006), Cornett và cộng sự (2008), cũng như Gardner và cộng sự (2012) chỉ ra mối tương quan dương giữa sở hữu ban giám đốc (BGĐ) và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, được giải thích qua lý thuyết đại diện Khi quyền sở hữu và quyền quản lý được phân định, xung đột lợi ích giữa cổ đông và người quản lý trở thành vấn đề đáng lưu ý Một giải pháp hiệu quả để giảm thiểu xung đột này là chia cổ phần cho nhà quản lý, như đề xuất của Huang và cộng sự (2011), giúp họ trở thành cổ đông Phương pháp này không chỉ giảm chi phí đại diện mà còn gia tăng giá trị doanh nghiệp, từ đó gắn kết mục tiêu của chủ sở hữu và nhà quản lý.
Nghiên cứu của Reyna và cộng sự (2012), Lee và Zhang (2011), Arifur Khan và cộng sự (2012), cùng với William Bradford và cộng sự đã chỉ ra mối tương quan âm giữa sở hữu thuộc ban giám đốc và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.
Nghiên cứu năm 2012 chỉ ra rằng khi các nhà quản lý nắm giữ một lượng lớn cổ phần, việc kiểm soát từ phía các chủ sở hữu bên ngoài trở nên khó khăn hơn Điều này dẫn đến việc các nhà quản lý không thể tối đa hóa giá trị doanh nghiệp, từ đó hình thành mối quan hệ ngược chiều giữa sở hữu của ban giám đốc và hiệu quả công việc.
Sở hữu nước ngoài, mặc dù không chiếm tỷ trọng lớn nhất trong cấu trúc sở hữu, lại đóng vai trò quan trọng trong các công ty tại thị trường mới nổi (Douma và cộng sự, 2006) Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng sở hữu nước ngoài có mối quan hệ tích cực với hiệu quả hoạt động doanh nghiệp, như nghiên cứu của Barako & Tower (2007) và Zeitun và Almudehki.
Nghiên cứu của Uwuigbe và Olusanmi (2012) cho thấy rằng sở hữu nước ngoài có thể làm tăng giá trị doanh nghiệp thông qua việc giảm chi phí đại diện nhờ vào vai trò giám sát của các nhà đầu tư nước ngoài Sự hiện diện của các thành viên HĐQT là người nước ngoài có thể cải thiện hoạt động quản trị doanh nghiệp, từ đó tăng cường niềm tin của nhà đầu tư và nâng cao giá trị doanh nghiệp (Kim, 2011; Choi, Sul & Min, 2012) Sở hữu nước ngoài trở nên có giá trị hơn khi các cổ đông nước ngoài tham gia giám sát công ty (Mishra và Rattia, 2011) Bên cạnh đó, nhà đầu tư nước ngoài thường sở hữu nguồn lực tài chính, công nghệ và kinh nghiệm vượt trội so với nhà đầu tư trong nước, giúp họ chuyển giao công nghệ và cải thiện khả năng quản lý cũng như hiểu biết về thị trường địa phương (Huang và Shiu, 2009; Gurunlu & Gursoy, 2010; Romalis, 2011; Zeitun và Almudehki, 2012).
Mối quan hệ ngược chiều giữa sở hữu nước ngoài và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp được thể hiện trong nghiên cứu của Benfratello & Sembenelli (2006),
Tổng hợp các nghiên cứu giữa cấu trúc sở hữu, quản trị công ty và giá trị doanh nghiệp
Bảng tóm tắt các nhân tố trong nghiên cứu thực nghiệm về cấu trúc sở hữu, quản trị công ty và giá trị doanh nghiệp cho thấy mối liên hệ chặt chẽ giữa các yếu tố này Các nghiên cứu chỉ ra rằng cấu trúc sở hữu ảnh hưởng đến quyết định quản trị và từ đó tác động đến giá trị doanh nghiệp Quản trị công ty hiệu quả có thể gia tăng giá trị doanh nghiệp thông qua việc tối ưu hóa tài nguyên và cải thiện hiệu suất Sự tương tác giữa các yếu tố này đóng vai trò quan trọng trong việc định hình chiến lược phát triển bền vững cho doanh nghiệp.
Bảng 2.1 Tổng hợp các nghiên cứu trước đây
Các nghiên cứu Cách tính
Le and Chizema (2011), Huang và cộng sự (2011)
Tỷ trọng vốn sở hữu của các cổ đông đại diện nhà nước trên tổng vốn chủ sở hữu
- Qi, Wu và Zhang (2000), Lee and
+ Zeitun and Almudehki (2012) Tỷ trọng vốn sở hữu của các cổ đông là thành viên HĐQT trên tổng vốn chủ sở hữu
Ryu và Yoo (2011), Fazlzadeh và cộng sự (2011), Turki and Sedrine
Sở hữu ban giám đốc
+ Turki and Sedrine (2012), Gardner và cộng sự (2012)
Tỷ trọng vốn sở hữu của các cổ đông là ban giám đốc trên tổng vốn chủ sở hữu
Lee and Zhang(2011), Arifur Khana và cộng sự (2012), William Bradford và cộng sự (2012)
Sở hữu FO + Zeitun and Almudehki (2012), Tỷ trọng vốn sở hữu
Trên thế giới, nghiên cứu về mối quan hệ giữa cấu trúc sở hữu, quản trị công ty và hiệu quả hoạt động doanh nghiệp rất phong phú, với nhiều phương pháp và biến giải thích khác nhau Tuy nhiên, mỗi nghiên cứu thường tập trung vào những yếu tố cụ thể phù hợp với đặc điểm kinh tế của từng quốc gia Ví dụ, Le và Chizema (2011) chỉ xem xét tác động của sở hữu nhà nước đến thành quả doanh nghiệp, trong khi Gill và Mathur cũng có những nghiên cứu tương tự.
Năm 2011, Lee và Zhang đã nghiên cứu tác động của cấu trúc sở hữu, bao gồm sở hữu nhà nước, sở hữu của các thành viên HĐQT và BGĐ, cùng với các yếu tố quản trị công ty như việc Chủ tịch HĐQT kiêm CEO, tỷ lệ thành viên HĐQT độc lập và số lượng thành viên BKS Nghiên cứu này tập trung vào quy mô HĐQT và mối quan hệ giữa các yếu tố này trong bối cảnh công ty.
Uwuigbe and Olusanmi (2012) của các cổ đông là người nước ngoài trên tổng vốn chủ sở hữu
Konijn và cộng sự (2011), Lê Thị Phương Vy và Phùng Đức Nam
(2013) Có giá trị là 1 nếu
CEO kiêm chủ tịch HĐQT, ngược lại là 0
Lee and Zhang (2011), Turki and
Sedrine (2012) SL thành viên HĐQT độc lập
Lee and Zhang (2011) Có giá trị bằng 1 nếu công ty đó có BKS, ngược lại thì có giá trị là 0 Gill and Mathur (2011) Tổng số thành viên trong BKS
Nghiên cứu đã chỉ ra rằng tác động của tỷ lệ sở hữu nhà nước rất quan trọng trong bối cảnh Việt Nam, điều mà các nghiên cứu trước đây chưa đề cập Hầu hết các nghiên cứu về mối quan hệ giữa cấu trúc sở hữu và quản trị công ty ở Việt Nam chỉ sử dụng phương pháp OLS Trong khi đó, nghiên cứu của Phùng Đức Nam và Lê Thị Phương Vy (2011) áp dụng phương pháp FEM và REM, nhưng chỉ tập trung vào mối quan hệ giữa sở hữu nước ngoài và hiệu quả hoạt động doanh nghiệp Luận văn này dựa trên nghiên cứu của Karaca và Eksi (2012) để xử lý dữ liệu bảng và kiểm định mô hình bằng phương pháp REM và FEM.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Dữ liệu
Dữ liệu nghiên cứu bao gồm 100 công ty phi tài chính niêm yết trên sàn HOSE trong giai đoạn 2008-2012 Các công ty thuộc ngành tài chính, ngân hàng và bảo hiểm đã được loại trừ do báo cáo tài chính của chúng khác biệt đáng kể so với các ngành khác, điều này có thể ảnh hưởng đến kết quả nghiên cứu về mối quan hệ giữa cấu trúc sở hữu và hiệu quả hoạt động doanh nghiệp (Basil and Khaled, 2011).
Nghiên cứu được thực hiện trong giai đoạn 2008-2012 do số lượng công ty niêm yết tại HOSE tăng lên đáng kể sau giai đoạn 2000-2005, khi mà các doanh nghiệp chủ yếu là nhỏ Năm 2007, có 138 công ty niêm yết, nhưng sau khi loại bỏ các công ty tài chính, vi phạm công bố thông tin và các công ty bị theo dõi đặc biệt, cỡ mẫu trở nên rất nhỏ Quyết định 12 về quy chế quản trị công ty cũng được áp dụng trong giai đoạn này, góp phần vào việc nâng cao chất lượng quản trị doanh nghiệp.
Vào ngày 17/9/2007, có 19 công ty được niêm yết trên sở giao dịch chứng khoán Kết quả của việc áp dụng quy chế này sẽ được thể hiện rõ ràng vào năm 2008.
Dữ liệu về cấu trúc sở hữu và quản trị công ty được thu thập từ báo cáo thường niên hàng năm của các công ty Các biến kiểm soát như đòn bẩy và quy mô, cùng với dữ liệu tính toán giá trị doanh nghiệp, được lấy từ báo cáo tài chính đã kiểm toán Thêm vào đó, dữ liệu giao dịch chứng khoán và các báo cáo liên quan được thu thập từ website vietstock.vn.
Giả thuyết nghiên cứu
Nghiên cứu gần đây chỉ ra rằng sở hữu nhà nước có tác động tích cực đến hiệu quả hoạt động của các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán, với doanh nghiệp nhà nước thường thực hiện tốt hơn khi được niêm yết (Chen, Li và Lin, 2007) Lê và O'Brien (2011) cũng cho thấy rằng sở hữu nhà nước ảnh hưởng tích cực đến hiệu quả hoạt động doanh nghiệp trong bối cảnh tỷ lệ nợ và vốn chủ sở hữu cao Nghiên cứu của Le và Chizema (2011) về vai trò của sở hữu nhà nước tại Trung Quốc khẳng định mối tương quan tích cực giữa sở hữu nhà nước và hiệu quả hoạt động doanh nghiệp Hơn nữa, các công ty sở hữu nhà nước thường dễ dàng nhận được các điều kiện vay ưu đãi (Trang Thúy Quyên, 2013), điều này giúp tăng doanh thu, giảm chi phí và cải thiện hiệu suất hoạt động (Lu, 2000).
Giả thuyết 1: Sở hữu nhà nước có mối quan hệ cùng chiều với hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp
Giả thuyết 2: Tồn tại mối tương quan dương giữa sở hữu thành viên HĐQT và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp
Một trong những cách hiệu quả để giảm thiểu xung đột lợi ích giữa cổ đông và ban quản lý là thiết lập sự giao thoa lợi ích thông qua việc cấp cổ phần cho các nhà quản lý Khi các nhà quản lý sở hữu cổ phần, họ sẽ có xu hướng đưa ra quyết định phù hợp hơn với lợi ích của cổ đông.
Mục tiêu tối đa hóa giá trị doanh nghiệp, như được đề xuất bởi Jensen và Meckling (1976), đồng nghĩa với việc tối đa hóa lợi ích của nhà quản lý, dẫn đến hiệu ứng hội tụ Tuy nhiên, khi tỷ lệ sở hữu cổ phần của ban giám đốc (BGĐ) đạt đến một mức độ cao, các đặc quyền như lương, thưởng, và đền bù thôi việc có thể vượt quá thiệt hại do sự sụt giảm giá trị doanh nghiệp Điều này khiến BGĐ theo đuổi những mục tiêu cá nhân mà không lo ngại về sự trừng phạt từ các cổ đông khác, dẫn đến việc họ yêu cầu các đặc quyền có thể gây thiệt hại cho quyền lợi của cổ đông.
Việc giám sát hoạt động của Ban Giám Đốc (BGĐ) trở nên khó khăn khi tỷ trọng sở hữu của BGĐ cao Tại Việt Nam, giai đoạn 2008-2012, tỷ lệ sở hữu của BGĐ chỉ đạt khoảng 6,18%, cho thấy mức độ kiểm soát hạn chế trong quản lý doanh nghiệp.
Giả thuyết 3 cho rằng có mối tương quan dương giữa sở hữu ban giám đốc và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp Tại thị trường Việt Nam, tỷ lệ sở hữu nước ngoài thấp và phân tán, dẫn đến sự giám sát từ các nhà đầu tư nước ngoài không đáng kể Hơn nữa, họ chỉ có thể nắm giữ tối đa 49% tổng số cổ phần, do đó không thể tạo ra ảnh hưởng mạnh mẽ đến việc gia tăng giá trị doanh nghiệp.
Giả thuyết 4: Tồn tại mối tương quan âm giữa sở hữu nước ngoài và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp
Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng các công ty đạt hiệu quả cao hơn khi tách biệt vai trò giữa CEO và Chủ tịch Hội đồng Quản trị (HĐQT), cùng với sự hiện diện của Ban Kiểm soát (BKS) Các thành viên độc lập trong HĐQT đóng vai trò giám sát quan trọng, khác biệt với các thành viên quản lý, nhờ vào sự độc lập và mối quan tâm duy trì uy tín của họ trên thị trường lao động.
Giả thuyết 5: Tồn tại mối tương quan dương giữa tỷ lệ thành viên HĐQT đọc lập và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp
Khi công ty có sự kiêm nhiệm giữ chủ tịch HĐQT và BKS thì giữa quản lý và
21 sở hữu làm phát sinh chi phí đại diện làm ảnh hưởng giá trị doanh nghiệp
Giả thuyết 6 đề xuất rằng có mối tương quan âm giữa việc kiêm nhiệm chức vụ CEO và Chủ tịch HĐQT với hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp Tại Việt Nam, Ban Kiểm soát (BKS) là cơ quan độc lập, được bầu bởi cổ đông và có trách nhiệm giám sát hoạt động của HĐQT và Ban Giám đốc (BGĐ) theo quy định tại điều 133 luật doanh nghiệp 2005 Điều này cho thấy BKS đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo tính minh bạch trong việc cung cấp thông tin cho HĐQT và cổ đông.
Giả thuyết 7: Tồn tại mối tương quan dương giữa số lượng thành viên BKS và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp
Mô tả biến
Việc lựa chọn và đo lường các biến trong mô hình hồi quy cần dựa trên các nghiên cứu thực nghiệm trước đây để đảm bảo tính chính xác và khả năng so sánh của kết quả (Lee và Zhang, 2011; Fazlzadeh và cộng sự, 2011; Zeitun và Almudehki, 2012).
Biến phụ thuộc trong mô hình trên là giá trị doanh nghiệp được đo lường thông qua hai chỉ số là ROA và Tobin Q
ROA, or Return on Assets, is calculated by dividing net profit by total assets, as noted in studies by Lee and Zhang (2011), Fazlzadeh et al (2011), and Zeitun and Almudehki (2012).
Tobin Q: để đo lường giá trị doanh nghiệp Lựa chọn này dựa trên nghiên cứu của Lee and Zhang (2011), Uwuigbe and Olusanmi (2012)…
Trong mô hình hồi quy, biến độc lập được phân chia thành ba nhóm chính: nhóm biến cấu trúc sở hữu, nhóm biến quản trị công ty và nhóm biến kiểm soát.
3.3.2.1 Các biến về cấu trúc sở hữu
Biến sở hữu nhà nước: Theo như nghiên cứu của Lee and Zhang
Năm 2011, Le và Chizema đã định nghĩa sở hữu nhà nước thông qua tỷ trọng vốn sở hữu của các cổ đông đại diện cho nhà nước trong tổng vốn chủ sở hữu.
Biến sở hữu của Ban Giám Đốc (BGĐ) được đo lường bằng tỷ trọng vốn sở hữu của các cổ đông là thành viên BGĐ so với tổng vốn chủ sở hữu, theo nghiên cứu của Lee và Zhang (2011) cũng như Gardner và cộng sự (2012).
Biến sở hữu của thành viên Hội đồng Quản trị (HĐQT) được đo lường thông qua tỷ trọng vốn sở hữu của các cổ đông là thành viên HĐQT so với tổng vốn chủ sở hữu, theo nghiên cứu của Lee và Zhang (2011).
Biến sở hữu nước ngoài được xác định bằng cách đo lường tỷ trọng vốn sở hữu của các cổ đông là nhà đầu tư nước ngoài trong tổng vốn chủ sở hữu của Zeitun và Almudehki.
3.3.2.2 Các biến về quản trị công ty thông qua đặc tính của HĐQT
Kiêm nhiệm chức vụ CEO và Chủ tịch HĐQT được xác định bằng giá trị 1 nếu cùng một người đảm nhận cả hai vị trí này; ngược lại, giá trị sẽ là 0 (Lee và Zhang, 2011; Gill và Mathur, 2012).
BKS: để đo lường biến này trong mô hình thì các nghiên cứu trước đã tính bằng tổng số thành viên trong BKS theo Gill và Obradovich (2012)
Tỷ lệ thành viên hội đồng quản trị (HĐQT) độc lập được xác định bằng cách lấy số lượng thành viên HĐQT độc lập chia cho tổng số thành viên HĐQT, theo nghiên cứu của Lee và Zhang (2011) cùng với Turki và Sedrine (2012).
Nghiên cứu thực nghiệm chỉ ra rằng bên cạnh các yếu tố cấu trúc sở hữu và quản trị công ty, hiệu quả hoạt động doanh nghiệp còn bị ảnh hưởng bởi các biến khác như quy mô, đòn bẩy và tăng trưởng, từ đó tác động đến giá trị doanh nghiệp.
Nghiên cứu của Lee và Zhang (2011) chỉ ra rằng quy mô doanh nghiệp có tác động ngược chiều đến hiệu quả hoạt động khi được đo bằng Tobin’s Q, nhưng lại có tác động cùng chiều khi sử dụng ROA Tương tự, Fazlzadeh và cộng sự (2011), cùng với Charitou và Louca (2013), cũng phát hiện mối tương quan dương giữa quy mô và giá trị doanh nghiệp Điều này được giải thích bởi các công ty lớn thường sở hữu công nghệ và quản lý tốt hơn, giúp giảm thiểu rủi ro phá sản thông qua đa dạng hóa danh mục đầu tư và hưởng lợi từ kinh tế theo quy mô.
Hầu hết các nghiên cứu trước đây cho thấy mối tương quan âm giữa đòn bẩy và hiệu quả hoạt động doanh nghiệp, tức là các công ty có tỷ lệ nợ thấp thường đạt được kết quả tốt hơn so với các công ty có tỷ lệ nợ cao Trong nghiên cứu này, đòn bẩy được tính toán dựa trên các phương pháp của Lee và Zhang (2011), cùng với Turki và Sedrine (2012), với công thức Đòn bẩy = Tổng Nợ.
Lee and Zhang (2011) cho thấy tác động cùng chiều biến tăng trưởng lên hiệu quả hoạt động doanh nghiệp Trong nghiên cứu trên thị trường chứng khoán Trung
Quốc, tác giả đo lường biến tăng trưởng thay đổi trong thu nhập sau thuế trên tổng tài sản
Mô hình nghiên cứu
Để đánh giá ảnh hưởng của cấu trúc sở hữu và cấu trúc quản trị công ty đến giá trị doanh nghiệp, nghiên cứu áp dụng mô hình hồi quy bội đa biến theo phương pháp của Lee và Zhang (2011).
FV: biến giá trị doanh nghiệp được thể hiện thông qua biến ROA và Tobin Q
Cấu trúc sở hữu trong doanh nghiệp bao gồm các loại hình như sở hữu nhà nước, sở hữu của ban giám đốc, sở hữu của thành viên hội đồng quản trị (HĐQT) và sở hữu nước ngoài Các biến thuộc cấu trúc này đóng vai trò quan trọng trong việc xác định quyền lực và trách nhiệm trong quản lý doanh nghiệp.
Các yếu tố quản trị công ty bao gồm vai trò kiêm nhiệm của Chủ tịch Hội đồng quản trị và CEO, tỷ lệ thành viên độc lập trong Hội đồng quản trị, cũng như số lượng thành viên của Ban kiểm soát.
CV: biến kiểm soát (bao gồm biến quy mô, đòn bẩy, tăng trưởng)
Bảng 3.1: Bảng tóm tắt cách đo lường các biến trong mô hình nghiên cứu
SO Tỷ trọng vốn sở hữu của các cổ đông đại diện nhà nước trên tổng vốn chủ sở hữu
MO Tỷ trọng vốn sở hữu của các cổ đông là ban giám đốc trên tổng vốn chủ sở hữu
BO Tỷ trọng vốn sở hữu của các cổ đông là thành viên
HĐQT trên tổng vốn chủ sở hữu
FO Tỷ trọng vốn sở hữu của các cổ đông là người nước ngoài trên tổng vốn chủ sở hữu
OD SL thành viên HĐQT độc lập
CEOD Có giá trị là 1 nếu CEO kiêm chủ tịch HĐQT, ngược lại là 0
AUD Số lượng thành viên BKS
SIZE Ln(tổng Tài sản)
Phương pháp kiểm định mô hình
Bài nghiên cứu áp dụng mô hình dữ liệu bảng (panel data) để thực hiện hồi quy theo ba phương pháp: hồi quy OLS (pooling), mô hình các ảnh hưởng cố định (FEM) và mô hình các ảnh hưởng ngẫu nhiên (REM) Nghiên cứu này kế thừa các công trình của Lee và Zhang (2011), Lê Thị Phương Vy & Phùng Đức Nam (2011), cùng với Karaca và Eks.
Dữ liệu bảng mang lại nhiều lợi ích, bao gồm khả năng nghiên cứu sự khác biệt giữa các đơn vị chéo, cung cấp thông tin phong phú hơn và quan trọng hơn là tăng cường số lượng quan sát trong mẫu, từ đó giảm thiểu những hạn chế của mô hình OLS do bỏ sót các biến.
Việc sử dụng OLS thông thường để hồi quy dữ liệu bảng có thể dẫn đến ước lượng sai do vi phạm giả thuyết của mô hình Để chọn phương pháp ước lượng phù hợp, tác giả thực hiện các kiểm định theo một tiến trình cụ thể.
Bước 1: Thống kê mô tả
Nghiên cứu trình bày số liệu thống kê với các giá trị nhỏ nhất, lớn nhất, trung bình, trung vị và độ lệch chuẩn, nhằm mô tả đặc trưng dữ liệu của các công ty niêm yết trên sàn HOSE, phản ánh tổng quát tình hình hoạt động của các doanh nghiệp này.
Bước 2: Phân tích ma trận hệ số tương quan
Thiết lập ma trận hệ số tương quan giữa các biến độc lập và biến kiểm soát giúp xác định mối tương quan giữa chúng, đồng thời kiểm tra mối quan hệ giữa các biến độc lập với biến phụ thuộc và giữa các biến độc lập với nhau.
Bước 3: Ước lượng các hệ số hồi quy OLS
Ước lượng OLS có thể bị sai lệch do tự tương quan và ràng buộc quá chặt về các đơn vị chéo Nếu xuất hiện hiện tượng đa cộng tuyến hoặc phương sai thay đổi, kết quả ước lượng sẽ không chính xác Vì vậy, sau khi thực hiện ước lượng OLS, cần tiến hành kiểm định các giả định của mô hình để đảm bảo tính chính xác của kết quả.
Kiểm tra hiện tượng đa cộng tuyến:
Mô hình cổ điển lý tưởng yêu cầu các biến giải thích không tương quan, nghĩa là mỗi biến cung cấp thông tin độc lập về biến phụ thuộc mà không bị trùng lặp với các biến độc lập khác Khi không có hiện tượng đa cộng tuyến, việc kiểm tra có thể thực hiện thông qua tương quan cặp giữa các biến độc lập và chỉ số nhân tử phóng đại phương sai (VIF).
Nếu các biến độc lập có mối tương quan cao (trên 0,8), có thể xảy ra hiện tượng đa cộng tuyến, tuy nhiên, tiêu chuẩn này thường không chính xác.
Trong nghiên cứu, có thể xảy ra hiện tượng đa cộng tuyến mặc dù hệ số tương quan giữa các biến không cao Để đảm bảo tính chính xác của kết quả, cần sử dụng nhân tử phóng đại phương sai để kiểm tra hiện tượng này.
Nhân tử phóng đại phương sai:
Theo quy tắc kinh nghiệm, nếu VIF >10 thì xảy ra hiện tượng đa cộng tuyến
Kiểm tra hiện tượng tự tương quan là quá trình xác định sự tương quan giữa các thành phần trong chuỗi quan sát theo thứ tự thời gian hoặc không gian Trong mô hình hồi quy cổ điển OLS, giả thiết đặt ra là không có tương quan giữa các sai số (Ui), tức là Cov(Ui, Uj) = 0 với j ≠ i Điều này có nghĩa là sai số của một quan sát không bị ảnh hưởng bởi sai số của quan sát khác Các phương pháp kiểm định tự tương quan phổ biến bao gồm kiểm định Durbin-Watson và Breusch.
Kiểm định Durbin – Watson: áp dụng quy tắc đơn giản với ba trường hợp tương ứng với các hệ số Durbin – Waston như sau:
- Nếu 1 < d < 3 thì kết luận mô hình không có tự tương quan
- Nếu 0 < d < 1 thì kết luận mô hình có tự tương quan dương
- Nếu 3 < d < 4 thì kết luận mô hình có tự tương quan âm
Kiểm tra hiện tượng phương sai thay đổi là một trong những giả thiết quan trọng của mô hình OLS cổ điển, trong đó yêu cầu phương sai của từng yếu tố ngẫu nhiên U i phải là một số không đổi và bằng δ 2 Giả thiết này nhấn mạnh rằng phương sai không thay đổi, tức là var(U i ) = δ 2 i (i=1, 2,…,n) Để kiểm tra hiện tượng phương sai thay đổi, chúng ta sử dụng kiểm định White.
Bước 4: Lựa chọn phương pháp
Khi một trong những giả thiết cơ bản của phương pháp OLS bị vi phạm, như phương sai thay đổi, tự tương quan, đa cộng tuyến, hoặc mối tương quan giữa biến độc lập và phần dư, các ước lượng thu được sẽ không chính xác và có thể dẫn đến sai lầm trong phân tích.
Phương pháp cơ bản trong trường hợp có thể sử dụng phương pháp hồi quy
Mô hình ảnh hưởng cố định (FEM) và ảnh hưởng ngẫu nhiên (REM) được sử dụng để ước lượng dữ liệu dạng bảng Để lựa chọn giữa mô hình ảnh hưởng ngẫu nhiên và mô hình ảnh hưởng cố định, kiểm định Hausman là công cụ quan trọng.
Mô hình ảnh hưởng cố định (FEM)
FEM phân tích mối tương quan giữa phần dư của mỗi thực thể và các biến độc lập, nhằm kiểm soát và tách biệt ảnh hưởng của những đặc điểm riêng biệt không thay đổi theo thời gian Điều này giúp chúng ta ước lượng chính xác ảnh hưởng thực sự của biến độc lập lên biến phụ thuộc.
Mô hình ước lượng sử dụng:
Yit = Ci + β Xit + uit * Trong đó: Yit: biến phụ thuộc – với i:doanh nghiệp và t: thời gian (năm)
Ci (i=1….n): hệ số chặn cho từng thực thể nghiên cứu β : hệ số góc đối với nhân tố X uit : phần dư
Mô hình này đã bổ sung chỉ số i vào hệ số chặn c, nhằm phân biệt hệ số chặn giữa các doanh nghiệp khác nhau Sự khác biệt này có thể xuất phát từ các đặc điểm riêng biệt của từng doanh nghiệp hoặc do sự khác nhau trong chính sách quản lý và hoạt động của họ.
KẾT QUẢ HỒI QUY
Thống kê mô tả
Trong nghiên cứu này, chúng tôi đã thu thập và tính toán số liệu từ 100 doanh nghiệp niêm yết trên sàn HOSE trong giai đoạn 2008-2012, sau đó áp dụng mô hình hồi quy để phân tích Kết quả thống kê mô tả về các biến độc lập và phụ thuộc được tóm tắt một cách rõ ràng và có hệ thống.
Bảng 4.1: Thống kê mô tả
Giá trị trung vị Độ lệch chuẩn ROA -0.193843 0.45278 0.073331 0.056392 0.084156
Giá trị doanh nghiệp trong mô hình hồi quy được xác định qua hai chỉ số ROA và Tobin Q ROA có giá trị trung bình là 0,073, với giá trị thấp nhất là -0,193 (Công ty Cổ Phần Nhựa Tân Đại Hưng, 2008) và cao nhất là 0,45278 (Công ty Cổ Phần Phát Triển Đô Thị Từ Liêm, 2009) Biến động ROA của các doanh nghiệp niêm yết trên HOSE tương đối thấp Ngược lại, chỉ số Tobin Q cho thấy sự chênh lệch lớn hơn, dao động từ 0,004899 đến 3,93723, với giá trị trung bình là 1,092742, phản ánh sự đánh giá tích cực của các nhà đầu tư đối với các doanh nghiệp này.
Bài viết cho biết rằng vốn nhà nước trung bình chiếm khoảng 23,09% trong các doanh nghiệp, với độ lệch chuẩn là 22,9% Công ty có vốn nhà nước cao nhất là công ty cổ phần Thủy Điện Thác Bà với 75% Đáng chú ý, 37,9% số lượng doanh nghiệp trong mẫu không có vốn sở hữu nhà nước Vốn sở hữu thuộc ban giám đốc trung bình khoảng 6,18%, trong đó có công ty đạt mức cao nhất là 80,43% Ngoài ra, tỷ lệ sở hữu của các thành viên HĐQT trong giai đoạn 2008-2012 của các công ty niêm yết trên HOSE là khoảng 12,16%.
Sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài của 100 doanh nghiệp niêm yết trên sàn
Trong giai đoạn 2008-2012, chỉ số HOSE trung bình đạt khoảng 15,01% Tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài cao nhất là 49%, phù hợp với quy định tại Điều 2, Quyết định số 55/2009/QĐ-TTg, cho phép nhà đầu tư nước ngoài nắm giữ tối đa 49% vốn điều lệ của các công ty chứng khoán đại chúng tại thị trường chứng khoán Việt Nam.
Quản trị công ty được ảnh hưởng bởi các đặc điểm của Hội đồng Quản trị (HĐQT), trong đó có sự kiêm nhiệm giữa CEO và Chủ tịch HĐQT Theo bảng 4.1, khoảng 44,5% doanh nghiệp trong mẫu cho thấy cùng một người đảm nhiệm cả hai chức danh này Thêm vào đó, tỷ lệ thành viên độc lập trong HĐQT và thành viên Ban Kiểm soát (BKS) cũng đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả quản trị.
Theo quyết định 12/2007/QĐ-BTC, tỷ lệ thành viên HĐQT độc lập yêu cầu có ít nhất 5 và tối đa 11 thành viên, trong đó khoảng 1/3 tổng số thành viên phải là các thành viên độc lập không điều hành.
Tỷ lệ thành viên HĐQT độc lập tối thiểu cần đạt 0.2, nhưng nhiều công ty, như công ty cổ phần Nam Việt vào năm 2011, không thực hiện đúng quy định này.
Số lượng thành viên của Ban Kiểm Soát (BKS) dao động từ 3 đến 5 thành viên, phù hợp với quy định tại Điều 121, Luật Doanh Nghiệp 2005, trừ khi Điều lệ công ty quy định khác Hơn 90% các công ty hiện có 3 thành viên trong BKS, dẫn đến giá trị trung bình khoảng 3,054.
Trong giai đoạn 2008-2012, ROA bình quân của các công ty trong mẫu chỉ đạt khoảng 7,3%, do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2007 khiến nền kinh tế Việt Nam chưa phục hồi, dẫn đến nhiều doanh nghiệp thua lỗ Tốc độ tăng trưởng bình quân trong giai đoạn này chỉ khoảng 0,4%, cho thấy tình hình kinh tế khó khăn Ngoài ra, tỷ trọng sở hữu của nhà nước trong các doanh nghiệp vẫn chiếm một phần đáng kể, ảnh hưởng đến cấu trúc sở hữu và hoạt động của Hội đồng quản trị.
BKS thì phần lớn các doanh nghiệp thì có sự tách biệt giữa chức vụ chủ tịch HĐQT và CEO; hơn 90% công ty trong mẫu có 3 thành viên BKS.
Ma trận tương quan giữa các biến
Bảng 4.2 dưới đây trình bày ma trận hệ số tương quan giữa các biến độc lập với các biến phụ thuộc, giữa các cặp biến độc lập với nhau
Bảng 4.2: Hệ số tương quan
Biến ROA TOBINQ SO MO BO FO OD CEOD AUD
Trong việc phân tích mối quan hệ giữa các biến độc lập và biến phụ thuộc, nhận thấy rằng chỉ có tỷ lệ sở hữu của thành viên Hội đồng quản trị (HĐQT) và tỷ lệ sở hữu của Ban Giám đốc (BGĐ) có mối tương quan âm (-) với kết quả nghiên cứu.
ROA và Tobin Q, còn các biến độc lập còn lại thì tương quan dương Trong các biến
Biến sở hữu nước ngoài có mối tương quan trung bình với hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, trong khi hầu hết các biến khác chỉ thể hiện mối liên hệ yếu với hiệu quả này.
Trong nghiên cứu về các biến độc lập, hầu hết các cặp biến trong mô hình không có mối tương quan đáng kể Tuy nhiên, có bốn cặp biến có mối tương quan tương đối rõ rệt, bao gồm: sở hữu thành viên HĐQT với sở hữu nhà nước, sở hữu thành viên HĐQT với sở hữu BGĐ, sở hữu BGĐ với tính kiêm nhiệm giữa Chủ tịch HĐQT và CEO, và đặc biệt là cặp biến giữa sở hữu thành viên HĐQT và sở hữu BGĐ, với mối tương quan chặt chẽ đạt 0,7134.
Phương pháp kiểm định và lựa chọn mô hình
4.3.1 Kiểm tra hiện tượng phương sai thay đổi
Theo lý thuyết, có nhiều phương pháp để kiểm tra hiện tượng phương sai thay đổi Trong nghiên cứu này, chúng tôi sử dụng kiểm định White với giả thuyết được đặt ra là
Ho: Phương sai không thay đổi
Cả hai mô hình đều cho thấy hiện tượng phương sai thay đổi, với P-value nhỏ hơn mức ý nghĩa 5%, chứng tỏ sự tồn tại của phương sai thay đổi trong các mô hình này.
Khi thực hiện hồi quy OLS, nếu phát hiện mô hình có hiện tượng phương sai thay đổi, phương pháp này sẽ không còn phù hợp Đối với dữ liệu bảng, việc sử dụng OLS có thể bỏ qua các khía cạnh không gian và thời gian, dẫn đến sai lệch trong việc đánh giá mối quan hệ giữa các biến độc lập và biến phụ thuộc Trong khi đó, các phương pháp ảnh hưởng cố định (FEM) và ảnh hưởng ngẫu nhiên (REM) có khả năng khắc phục hiện tượng phương sai thay đổi Do đó, cần sử dụng một trong hai mô hình FEM hoặc REM để phân tích tác động của cấu trúc sở hữu và quản trị công ty lên hiệu quả hoạt động doanh nghiệp, đồng thời áp dụng kiểm định Hausman để lựa chọn phương pháp phù hợp.
Trong nghiên cứu này, chúng tôi thực hiện hồi quy theo hai phương pháp FEM và REM, sau đó áp dụng kiểm định Hausman để xác định phương pháp hồi quy phù hợp nhất Kết quả hồi quy chi tiết theo hai phương pháp được trình bày trong phụ lục 3.1-4.2 Sau khi lựa chọn phương pháp hồi quy tối ưu, phần kết quả nghiên cứu sẽ chỉ tập trung vào phân tích kết quả của phương pháp đã chọn.
Kiểm định Hausman được áp dụng để so sánh mô hình FEM và REM, theo nghiên cứu của Phùng Đức Nam và Lê Thị Phương Vy (2012) cùng với Karaca và Eksi (2012) Mô hình REM giả định không có sự tương quan giữa các yếu tố ngẫu nhiên đặc thù và kết quả mô hình, tức là Cov(u_i; X) = 0 Ngược lại, FEM không tuân theo giả định này và cho rằng sự không tương quan của REM là không khả thi Để lựa chọn mô hình phù hợp, chúng ta cần xây dựng giả thuyết thích hợp.
Giả thuyết Ho: Ước lượng của FEM và REM không khác nhau
H 1 : Ước lượng của FEM và REM khác nhau Nếu: P-value < 5% : bác bỏ Ho (chọn mô hình FEM)
P-value > 5% : chấp nhận Ho (chọn mô hình REM)
Kết quả kiểm định Hausman như sau:
Biến phụ thuộc Chi Prob>Chi 2
Mô hình FEM được xác định là ưu việt hơn mô hình REM dựa trên P-value < 𝛼 ở từng biến phụ thuộc, do đó phân tích sẽ tập trung vào mô hình FEM Theo nghiên cứu của Phùng Đức Nam và Lê Thị Phương Vy (2012) cũng như Karaca và Eksi (2012), việc so sánh giữa hai mô hình này thông qua kiểm định Hausman cho thấy mô hình FEM là lựa chọn thích hợp nhất Kết quả kiểm định Hausman cho thấy hệ số Chi 2 của các mô hình, xác nhận rằng phương pháp hồi quy ảnh hưởng cố định là phù hợp nhất trong trường hợp này Dưới đây sẽ trình bày kết quả hồi quy của phương pháp ảnh hưởng cố định.
4.3.3 Kiểm định giải thiết hồi quy cho mô hình lựa chọn
Sau khi chọn mô hình hồi quy ảnh hưởng cố định, chúng ta tiến hành thực hiện hồi quy bằng phương pháp FEM và kiểm tra hiện tượng đa cộng tuyến cũng như tự tương quan.
4.3.3.1 Kiểm tra hiện tƣợng đa cộng tuyến
Kiểm tra hiện tượng đa cộng tuyến thông qua ma trận hệ số tương quan và nhân tử phóng đại phương sai (VIF)
Dựa trên ma trận hệ số tương quan, mối tương quan cao nhất là 0.7 giữa sở hữu BGĐ và sở hữu thành viên HĐQT Các nghiên cứu kinh tế lượng cho rằng nếu hệ số tương quan đạt hoặc vượt 0.8, sẽ có dấu hiệu của đa cộng tuyến Tuy nhiên, tất cả các hệ số tương quan giữa các biến độc lập và biến phụ thuộc đều nhỏ hơn 0.8 Thêm vào đó, bảng tính VIF cũng hỗ trợ kết luận này.
Bảng 4.4 – Kết quả kiểm tra hiện tƣợng đa cộng tuyến
Theo quy tắc kinh nghiệm, nếu chỉ số VIF lớn hơn 10, mức độ đa cộng tuyến được coi là cao Tuy nhiên, theo bảng 4.4, chỉ số VIF của các hàm hồi quy đều rất thấp, điều này cho thấy không tồn tại hiện tượng đa cộng tuyến trong mô hình hồi quy.
4.3.3.2 Kiểm tra hiện tự tương quan
Tự tương quan là mối liên hệ giữa các thành phần trong dãy quan sát theo thời gian hoặc không gian Để kiểm tra hiện tượng này, có nhiều phương pháp lý thuyết khác nhau Trong nghiên cứu này, tác giả lựa chọn phương pháp kiểm định tự tương quan bằng cách sử dụng kiểm định Durbin-Watson.
Kiểm định Durbin – Watson: áp dụng quy tắc đơn giản với ba trường hợp tương ứng với các hệ số Durbin – Waston như sau:
- Nếu 1 < d < 3 thì kết luận mô hình không có tự tương quan
- Nếu 0 < d < 1 thì kết luận mô hình có tự tương quan dương
- Nếu 3 < d < 4 thì kết luận mô hình có tự tương quan âm
Bảng 4.5 – Kết quả kiểm tra hiện tượng tự tương quan
Biến phụ thuộc Durbin – Watson
Giá trị Durbin – Watson cho cả hai mô hình với ROA và Tobin Q là biến phụ thuộc đều gần 2, cho thấy không có hiện tượng tự tương quan trong cả hai mô hình này.
1 Ths Phạm Trí Cao-THs Vũ Minh Châu(2009), Kinh tế lượng ứng dụng, Nhà xuất bản thống kê TP HCM, tr 191
Mô hình nghiên cứu sử dụng dữ liệu bảng (panel data) được hồi quy qua ba phương pháp: pooling, random effect và fixed effect Kiểm định Hausman được áp dụng để xác định phương pháp hồi quy phù hợp Nghiên cứu bắt đầu bằng việc kiểm tra mối tương quan giữa từng biến giải thích và hiệu quả hoạt động doanh nghiệp Sau đó, các biến cấu trúc sở hữu và quản trị công ty được kết hợp để phân tích tác động đồng thời của chúng lên hiệu quả hoạt động Cuối cùng, nghiên cứu xem xét ảnh hưởng của cấu trúc sở hữu và quản trị công ty dựa trên tỷ lệ sở hữu nhà nước.
Nghiên cứu này sử dụng các biến độc lập như sở hữu nhà nước, sở hữu của thành viên Ban Giám Đốc (BGĐ), sở hữu của thành viên Hội Đồng Quản Trị (HĐQT), sở hữu nước ngoài, tỷ lệ thành viên HĐQT độc lập, việc kiêm nhiệm chức vụ Chủ tịch HĐQT và CEO, cùng với số lượng thành viên Ban Kiểm Soát (BKS) để phân tích tác động của cấu trúc sở hữu và quản trị công ty lên giá trị doanh nghiệp.
Kết quả hồi quy
Tất cả các kết quả dưới đây được phân tích bằng phương pháp ảnh hưởng cố định (FEM) Kết quả kiểm định Hausman cho thấy P-value của hệ số Chi 2 nhỏ hơn 𝛼 = % trong cả hai trường hợp ROA và Tobin Q là biến phụ thuộc, điều này chứng minh rằng mô hình hồi quy theo phương pháp ảnh hưởng cố định là phù hợp nhất.
4.4.1 Kết quả hồi quy cho từng biến độc lập
4.4.1.1 Kết quả hồi quy cho từng biến cấu trúc sở hữu đến ROA
Mô hình hồi quy biến sở hữu nhà nước
Mô hình hồi quy biến sở hữu ban giám đốc
Mô hình hồi quy biến sở hữu thành viên HĐQT
Mô hình hồi quy biến sở hữu nước ngoài
Bảng 4.6: Kết quả hồi quy cho từng biến cấu trúc sở hữu đến ROA
Mô hình (1) Mô hình (2) Mô hình (3) Mô hình (4)
*,**,***: hệ số hồi quy có ý nghĩa thống kê lần lượt ở mức 10%, 5%, 1%
Bảng 4.6 trình bày kết quả hồi quy kiểm định tác động của các biến cấu trúc sở hữu lên hiệu quả hoạt động doanh nghiệp, trong đó ROA được sử dụng để đại diện cho biến này.
Để kiểm định giả thuyết về hệ số hồi quy và xác định các biến có ý nghĩa thống kê, có thể áp dụng phương pháp giá trị p-value hoặc t-test Kết quả cho thấy chỉ có hai biến, gồm sở hữu nhà nước và sở hữu nước ngoài, có giá trị thống kê T (t-statistic) lớn hơn giá trị tra bảng phân phối Student.
Kiểm định sự phù hợp của mô hình hồi quy chỉ ra rằng các giá trị p tương ứng với F rất nhỏ, và giá trị F lớn hơn F0.1(10, 490) = 2,32, cho thấy giá trị R² có ý nghĩa thống kê với mức tin cậy 1% Trong số các mô hình hồi quy, mô hình hồi quy biến sở hữu nhà nước có khả năng giải thích cao nhất.
Kết quả hồi quy chỉ ra rằng tỷ lệ sở hữu nhà nước có mối tương quan dương với hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, với hệ số hồi quy là 0.117551 và mức ý nghĩa 1% Điều này có nghĩa là khi tỷ lệ vốn sở hữu nhà nước tăng lên 1 đơn vị, hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp sẽ tăng lên 0.1175, nhấn mạnh vai trò giám sát của cổ đông nhà nước Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của Le và Chizema (2011) cũng như Huang và cộng sự (2011), nhưng lại trái ngược với nghiên cứu của Lee và Zhang (2012).
Tỷ lệ sở hữu của thành viên Hội đồng quản trị và ban giám đốc có mối tương quan ngược chiều với ROA, nhưng không đạt ý nghĩa thống kê Ngược lại, tỷ lệ sở hữu nước ngoài lại có mối tương quan dương đáng kể với ROA, với mức ý nghĩa 1%.
4.4.1.2 Kết quả hồi quy cho từng biến cấu trúc sở hữu đến Tobin Q
Mô hình hồi quy biến sở hữu nhà nước
Mô hình hồi quy biến sở hữu ban giám đốc
Mô hình hồi quy biến sở hữu thành viên HĐQT
Mô hình hồi quy biến sở hữu nước ngoài
(8) Bảng 4.7: Kết quả hồi quy cho từng biến cấu trúc sở hữu đến Tobin Q
Mô hình (5) Mô hình (6) Mô hình (7) Mô hình (8)
*,**,***: hệ số hồi quy có ý nghĩa thống kê lần lượt ở mức 10%, 5%, 1%
Bảng 4.7 trình bày kết quả hồi quy cho các biến cấu sở hữu ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động doanh nghiệp, được đo bằng giá trị Tobin Q Kết quả kiểm định giả thuyết cho thấy chỉ có hai biến sở hữu nhà nước và sở hữu nước ngoài có giá trị thống kê T (t-statistic) lớn hơn giá trị tra bảng phân phối Student, cho thấy chúng là những biến phù hợp và có ý nghĩa thống kê.
Kiểm định mô hình hồi quy cho thấy giá trị p tương ứng với F rất nhỏ, với F > F0.1(10, 490) = 2,32, cho thấy giá trị R² có ý nghĩa thống kê ở mức tin cậy 1% Trong trường hợp hồi quy từng biến cấu trúc với Tobin Q là biến phụ thuộc, khả năng giải thích thấp hơn Tương tự, tỷ lệ sở hữu vốn nhà nước và vốn nước ngoài cũng cho thấy mối quan hệ cùng chiều với hiệu quả hoạt động doanh nghiệp khi ROA là biến phụ thuộc Tuy nhiên, mức giải thích trong mô hình chỉ đạt 33.15% đối với sở hữu nhà nước và 33.35% đối với sở hữu nước ngoài.
Nghiên cứu của Zeitun và Almudehki (2012) cùng Uwuigbe và Olusanmi (2012) cho thấy rằng tỷ lệ sở hữu nước ngoài cao có thể làm tăng hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.
Biến sở hữu BGĐ cho thấy mối tương quan âm, tương tự như trường hợp ROA, với cả hai biến đều không có ý nghĩa thống kê.
4.4.1.3 Kết quả hồi quy từng biến đặc tính HĐQT đến ROA
Mô hình hồi quy biến tỷ lệ thành viên HĐQT độc lập
Mô hình hồi quy biến kiêm nhiệm chủ tịch HĐQT và CEO
Mô hình hồi quy biến số lượng thành viên ban kiểm soát
(11) Bảng 4.8: Kết quả hồi quy từng biến đặc tính HĐQT đến ROA
Mô hình (9) Mô hình (10) Mô hình (11)
*,**,***: hệ số hồi quy có ý nghĩa thống kê lần lượt 10%, 5%, 1%
Bảng 4.8 cho thấy chỉ có biến tỷ lệ thành viên HĐQT độc lập có giá trị T thống kê = 3,66, vượt qua ngưỡng ý nghĩa 1% Điều này chứng tỏ biến tỷ lệ thành viên HĐQT độc lập có ý nghĩa thống kê Hơn nữa, giá trị R² đạt 64,52% với ý nghĩa thống kê 1%, cho thấy rằng 64,52% sự thay đổi trong ROA được giải thích bởi biến tỷ lệ thành viên HĐQT độc lập.
Nghiên cứu cho thấy có mối tương quan dương giữa tỷ lệ thành viên HĐQT độc lập và ROA, với mức ý nghĩa thống kê đạt 1%.
Kết quả kiểm định cho thấy số lượng thành viên Ban Kiểm Soát (BKS) có tác động tích cực đến tỷ suất sinh lợi trên tài sản (ROA), tương tự như các nghiên cứu trước đây của Lee và Zhang (2011), Fauzi và Locke (2012), và Gill và Mathur.
Biến tỷ lệ thành viên HĐQT độc lập có mối tương quan dương với ROA, tuy nhiên không đạt ý nghĩa thống kê Các mô hình này giải thích khoảng 47,8% đến 48,04% biến động.
Kiểm định sự phù hợp của mô hình hồi quy cho thấy giá trị p tương ứng với F rất nhỏ, với giá trị F lớn hơn F0.1(10, 490) = 2,32, cho thấy giá trị R² có ý nghĩa thống kê với mức tin cậy 1% Trong số các mô hình hồi quy, mô hình hồi quy biến tỷ lệ thành viên HHĐQT độc lập có khả năng giải thích cao nhất.
4.4.1.4 Kết quả hồi quy từng biến đặc tính HĐQT đến Tobin Q
Mô hình hồi quy biến tỷ lệ thành viên HĐQT độc lập
Mô hình hồi quy biến kiêm nhiệm chủ tịch HĐQT và CEO
Mô hình hồi quy biến số lượng thành viên BKS
Bảng 4.9: Kết quả hồi quy từng biến đặc tính HĐQT đến Tobin Q
Mô hình (12) Mô hình (13) Mô hình (14)
Tóm tắt kết quả nghiên cứu
Sở hữu nhà nước ảnh hưởng tích cực đến cả ROA và Tobin Q, phù hợp với kỳ vọng ban đầu của nghiên cứu Kết quả này cũng nhất quán với các nghiên cứu trước đây của Chen, Firth và Rui (2006), Le và Chizema (2011), cũng như Huang và các cộng sự.
Sự chi phối của các cổ đông nhà nước trong các công ty giải thích cho việc sở hữu nhà nước được hưởng nhiều đặc quyền trong kinh doanh và khả năng tiếp cận nguồn vốn Nghiên cứu của Trang Thúy Quyên (2013) chỉ ra rằng trong giai đoạn 2009-2012, các công ty sở hữu nhà nước thường dễ dàng nhận được các điều kiện vay ưu đãi Sự hỗ trợ này giúp tăng doanh thu, giảm chi phí và cải thiện hiệu suất hoạt động của doanh nghiệp (Lu, 2000).
Mối tương quan dương giữa tỷ lệ sở hữu thành viên HĐQT và Tobin Q được xác định ở các công ty có tỷ lệ sở hữu nhà nước thấp Đặc biệt, trong các công ty với sự kiểm soát hạn chế của cổ đông nhà nước, khi tỷ lệ thành viên HĐQT cao thì hiệu quả hoạt động của công ty cũng tăng lên.
Sự giám sát chặt chẽ và lợi ích của chủ sở hữu đóng vai trò quan trọng trong việc tối đa hóa lợi nhuận doanh nghiệp, như đã được thể hiện trong nghiên cứu của Lee và Zhang.
Mối quan hệ giữa sở hữu thành viên ban giám đốc (BGĐ) và lợi nhuận trên tài sản (ROA) không có ý nghĩa thống kê, điều này cho thấy chưa thể xác định mối liên hệ rõ ràng giữa sở hữu BGĐ và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.
Sở hữu nước ngoài có mối quan hệ tích cực với hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, thể hiện qua các biến ROA và Tobin Q, và điều này đúng trong cả mẫu có tỷ lệ sở hữu nhà nước thấp và cao Vai trò kiểm soát của cổ đông nước ngoài giúp tăng cường tính minh bạch và chất lượng quản trị doanh nghiệp, từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh và tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn, gia tăng hiệu quả hoạt động Kết quả này phù hợp với quan điểm của Zeitun và Almudehki (2012), Uwuigbe và Olusanmi (2012).
Tỷ lệ thành viên HĐQT độc lập có mối tương quan dương với Tobin Q, cho thấy ý nghĩa thống kê trong cả trường hợp tỷ lệ sở hữu nhà nước cao và thấp Theo lý thuyết đại diện, các thành viên HĐQT độc lập đóng vai trò quan trọng trong việc giải quyết xung đột giữa các thành viên nội bộ, từ đó giảm thiểu các vấn đề đại diện Kết quả nghiên cứu này phù hợp với các nghiên cứu thực nghiệm trước đó của Daraghma và Alsinawi (2010), Lee và Zhang (2011), Rouf (2011), và Turki và Sedrine (2012).
Kiêm nhiệm chức vụ Chủ tịch HĐQT và CEO có ảnh hưởng tích cực đến hiệu quả hoạt động doanh nghiệp, đặc biệt khi Tobin Q được xem là biến phụ thuộc Nghiên cứu của Phạm Quốc Việt (2010) chỉ ra rằng mối tương quan dương giữa hai biến này tồn tại rõ ràng trong nhóm công ty có tỷ lệ sở hữu nhà nước cao, cũng như trong các công ty quy mô nhỏ và có nợ thấp.
Số lượng thành viên Ban Kiểm Soát (BKS) hiện tại chưa đủ để xác định tác động của nó đến hiệu quả hoạt động doanh nghiệp Hệ số hồi quy của biến số lượng thành viên BKS không đạt ý nghĩa thống kê trong các phân tích riêng lẻ cũng như trong mô hình tổng thể Điều này có thể do đặc tính của BKS chưa được thể hiện rõ qua số lượng thành viên trong các công ty nghiên cứu, khi mà hơn 90% mẫu có 3 thành viên, trong khi chỉ 10% còn lại có 4 hoặc 5 thành viên.
Nghiên cứu cho thấy tỷ lệ thành viên HĐQT độc lập có mối tương quan tích cực với ROA và Tobin Q, điều này khẳng định vai trò quan trọng của họ trong việc quản lý công ty Do đó, việc gia tăng số lượng thành viên HĐQT độc lập là cần thiết để nâng cao hiệu quả kiểm soát trong các doanh nghiệp.
Quy chế quản trị công ty năm 2007 quy định rằng các công ty niêm yết trên Sở Giao dịch Chứng khoán phải có ít nhất 1/3 thành viên độc lập trong Hội đồng Quản trị (HĐQT) Tuy nhiên, nhiều công ty đã vi phạm quy định này.
Trong bốn biến cấu trúc sở hữu, sở hữu nhà nước và sở hữu nước ngoài đều có tác động tích cực đến hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp Tỷ lệ sở hữu của thành viên HĐQT chỉ ảnh hưởng đến Tobin Q của các công ty có tỷ lệ sở hữu nhà nước thấp, trong khi không có bằng chứng cho thấy tỷ lệ sở hữu của BGĐ tác động đến hiệu quả hoạt động Tỷ lệ thành viên HĐQT độc lập có ảnh hưởng tích cực đến hiệu quả hoạt động doanh nghiệp Biến kiêm nhiệm Chủ tịch HĐQT và CEO chỉ tác động tích cực đến Tobin Q của các công ty có tỷ lệ sở hữu nhà nước cao Về số lượng thành viên BKS, chưa có kết luận rõ ràng về mối quan hệ của nó với hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.
Nghiên cứu đã xác định các biến trong cấu trúc sở hữu và quản trị công ty, thông qua đặc tính của Hội đồng Quản trị (HĐQT) và Ban Kiểm soát (BKS), có ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của các công ty niêm yết trên sàn HOSE.
61 của chúng đến hiệu quả hoạt động như thế nào, tức là chúng có quan hệ cùng chiều hay ngược chiều với hiệu quả hoạt động