Môi tr−ờng sinh thái
Vị trí địa lý
Huyện Hà Quảng là một huyện miền núi nằm ở phía bắc tỉnh Cao Bằng có toạ độ địa lý: 105 0 5’ – 106 0 16’ kinh độ đông, 20 0 45’ – 22 0 59’ vĩ độ bắc
Phía bắc giáp Trung Quốc có cửa khẩu Sóc Giang thuộc xã Sóc Hà Phía nam giáp huyện Hoà An
Phía đông giáp huyện Trà Lĩnh
Phía tây giáp huyện Thông Nông
Huyện Hà Quảng có diện tích tự nhiên 45367 ha, đ−ợc phân chia thành
19 đơn vị hành chính xã.
Địa hình
Hà Quảng là huyện biên giới vùng cao có địa hình phức tạp tạo nên hai tiểu vùng chủ yếu tiểu vùng thấp và tiểu vùng cao
Tiểu vùng thấp bao gồm 6 xã và 1 thị trấn: Trường Hà, Sóc Hà, Nà Sác, Quý Nhân, Phù Ngọc, Đào Ngạn, cùng thị trấn Xuân Hòa Khu vực này có thung lũng bằng phẳng với đất canh tác chủ yếu là đất trồng lúa, cùng với hệ thống sông suối đáp ứng nhu cầu nước cho sinh hoạt và sản xuất của người dân Vùng cao này có những cánh đồng lớn, tỷ lệ đồi đất cao, cây rừng tái sinh nhanh, tạo điều kiện thuận lợi cho việc trồng lúa, cây lâu năm, rừng và các loại cây hoa màu khác.
Tiểu vùng cao bao gồm 12 xã: Kéo Yên, Lũng Nặm, Vân An, Cải Viên, Thượng Thôn, Nội Thôn, Hồng Sĩ, Sĩ Hải, Tổng Cọt, Hạ Thôn, Mã Ba và Vần Dính Khu vực này chủ yếu là núi đá và hầu như không có suối, gây khó khăn về nguồn nước cho sản xuất và sinh hoạt của người dân Tuy nhiên, đất ở đây lại phù hợp cho việc trồng hoa màu.
Tài nguyên thiên nhiên
Hà Quảng thuộc tiểu vùng khí hậu Hà Quảng, Hoà An, Thạch An của tỉnh, nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa với nhiệt độ cao Khu vực này có mùa đông lạnh và mùa mưa vừa phải, tạo thành hai mùa rõ rệt: mùa khô và mùa mưa.
Mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 Nhiệt độ thấp ít mưa, bị ảnh hưởng gió mùa đông bắc
Mùa m−a từ tháng 5 đến tháng 10, mùa này nóng ẩm, m−a nhiều, thường có gió xoáy, mưa đá, lũ quét
Nhiệt độ trung bình năm: 21,4 0 C
Nhiệt độ cao trung bình: 26,1 0 C
Nhiệt độ thấp tuyệt đối: -2 0 C
Tổng nhiệt độ năm thường lớn hơn: 7.500 0 C
L−ợng m−a trung bình hằng năm từ 1400 – 1600 mm L−ợng m−a th−ờng tập trung vào mùa hè chiếm từ 80 – 90 %
Chế độ gió Hà Quảng quanh năm thịnh hành gió Đông Nam Ngoài ra gió Đông Bắc cũng chiếm một tần suất đáng kể
Hệ thống sông suối ở Hà Quảng phân bổ không đồng đều, với tiểu vùng cao gồm 12 xã hầu như không có sông suối Ngược lại, vùng thấp gồm 7 xã lại có sự tập trung của sông suối, với 3 nguồn nước chính.
Hệ thống suối “Lê Nin” dài 27 Km chảy từ Pac bó thuộc xã Tr−ờng Hà đến Xuân Hoà
Hệ thống sông Bằng chảy qua huyện với chiều dài 15 km, bắt nguồn từ hai điểm Nà Dằm và Nà Giàng, sau đó hợp dòng tại Nà Giàng và tiếp tục chảy về hướng Nam Tuấn – Hoà An.
Ngoài ra còn có các con suối nhỏ có hai hồ nước tương đối lớn là hồ Bán N−a và Bán Cải thuộc xã Đào Ngạn
Tiểu vùng cao bao gồm 12 xã hoàn toàn phụ thuộc vào nguồn nước mưa Chế độ mưa lũ của hệ thống sông suối trong huyện có tính đồng nhất về thời gian, với mùa lũ thường bắt đầu từ tháng 6 và kết thúc vào tháng.
Trong những năm cụ thể, giới hạn lượng nước có thể dao động trong khoảng 1 tháng Trong mùa lũ, lượng nước chiếm từ 65-80% tổng lượng nước cả năm Khu vực này có nhiều đá vôi, dẫn đến sự tập trung cao độ của lượng nước sông trong thời gian ngắn.
Chế độ mùa cạn là giai đoạn mà nguồn nước chủ yếu đến từ nước mưa được tích tụ trong đất và các tầng chứa nước khác Dòng chảy trong mùa cạn có mối liên hệ chặt chẽ với thổ nhưỡng, thảm thực vật và độ rỗng của đá vôi, từ đó ảnh hưởng đến chế độ canh tác trong khu vực.
Huyện Hà Quảng có nhiều loại đất đa dạng, bao gồm: Đất phù sa ngòi suối với diện tích 165,3 ha, thích hợp cho cây ngắn ngày như ngô, đỗ, lúa; Đất nâu đỏ trên đá macmabazơ, diện tích 9151,21 ha, phân bố rộng rãi và phù hợp với hoa màu, cây công nghiệp; Đất nâu đỏ trên đá vôi, diện tích 1.721 ha, thích hợp cho ngô, lạc; Đất nâu vàng trên đá vôi, diện tích 1.791 ha, có dinh dưỡng kém; Đất đỏ vàng trên đá sét, diện tích 7.275 ha, phù hợp với ngô, khoai, đậu và một số cây dài ngày; Đất vàng nhạt trên đá cát, diện tích nhỏ tại Lũng Nặm; Đất thung lũng do sản phẩm dốc tụ, diện tích 525,2 ha, phù hợp cho lúa và cây ngắn ngày; và Đất cácbonat, diện tích 52,68 ha, thích hợp cho lúa và hoa màu.
Núi đá vôi: Có diện tích 23.749 ha núi đá vôi chiếm diện tích lớn ở huyện Trên núi đá vôi có nhiều cây thuốc quý hiếm phát triển
Huyện Hà Quảng sở hữu đa dạng loại đất, bao gồm đất đỏ vàng biến đổi do trồng lúa, đất mùn đỏ vàng trên đá sét biến chất, đất phù sa chịu ảnh hưởng của cacbonat, và đất trơ sỏi đá phân bố rộng rãi ở các xã.
Tài nguyên đất của huyện rất phong phú, dẫn đến sự đa dạng của nguồn tài nguyên thực vật Thảm thực vật ở đây chịu ảnh hưởng từ hoạt động của con người Diện tích đất rừng núi chiếm tới 98% tổng diện tích đất tự nhiên, trong đó đất đạt tiêu chuẩn rừng là 11.193,57 ha, tương đương 24,67% đất tự nhiên Tuy nhiên, sau thời gian khai thác bừa bãi, rừng nguyên sinh gần như không còn Gần đây, diện tích rừng đang được phục hồi với tốc độ khả quan, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của các loại cây thuốc trong rừng và trên núi đá.
Trong rừng cũng có nhiều động vật có tác dụng chữa bệnh nh− trăn, nhím, tê tê… và nhiều loại động vật quý hiếm khác
Hà Quảng có khí hậu và thổ nhưỡng thuận lợi cho việc trồng trọt các loại cây lương thực như lúa, ngô, khoai, cũng như cây công nghiệp ngắn ngày như thuốc lá và đậu tương Ngoài ra, khu vực này còn phát triển cây ăn quả, cây thực phẩm và cây thuốc Đặc biệt, đã có những vườn thuốc nam được trồng tại đây, phục vụ cho nhu cầu y tế.
Tỉnh Cao Bằng, đặc biệt là huyện Hà Quảng, sở hữu nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú và đa dạng, cung cấp nhiều sản phẩm quý giá từ thiên nhiên Đặc biệt, nguồn dược liệu tại đây đóng vai trò quan trọng trong việc chăm sóc sức khỏe cho cộng đồng, đặc biệt là phụ nữ trong thời kỳ mang thai và cho con bú.
Đặc điểm kinh tế- xãhội
D©n c−
Trên địa bàn huyện Hà Quảng có tổng số dân 344.530 người, 6.516 hộ thuộc các dân tộc anh em: Nùng, Tày, Mông, Kinh, Dao…
Người Tày là nhóm dân tộc đông thứ hai tại huyện, chỉ sau dân tộc Nùng, sống chủ yếu tại các xã như Trường Hà, Sóc Hà, Nà Sác, Quý Nhân và Xuân Hòa, thường tập trung thành từng bản hoặc sinh sống xen kẽ với các dân tộc khác như Kinh và Nùng Phụ nữ Tày và trẻ nhỏ đóng vai trò quan trọng trong xã hội, vì vậy họ nhận được sự quan tâm đặc biệt.
Dân tộc Tày đã hình thành bản sắc văn hóa độc đáo trong bối cảnh văn hóa phong phú của các dân tộc anh em Những giá trị văn hóa này đang được gìn giữ và phát triển, hòa quyện trong đời sống hiện đại Trong bối cảnh giao lưu văn hóa diễn ra sôi nổi, việc kết hôn giữa con em các dân tộc cùng sống trên một địa bàn ngày càng trở nên phổ biến Do đó, chăm sóc sức khỏe cho bà mẹ và trẻ nhỏ không chỉ là trách nhiệm của riêng một dân tộc mà là nhiệm vụ chung của toàn cộng đồng.
Kinh tÕ
Người Tày ở huyện Hà Quảng chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, với việc trồng lúa nước và rẫy nương là chính Tập quán canh tác lúa nước đã tồn tại từ lâu, họ biết sử dụng hệ thống mương, phai, lái, lịn và cọn nước để điều tiết nguồn nước vào ruộng Ngoài ra, họ còn áp dụng phương pháp làm ruộng bậc thang ở các thung lũng và những quả đồi dốc thấp Nhờ đó, năng suất lúa đạt khá tốt, đảm bảo nguồn lương thực cho cộng đồng.
Huyện có đa dạng các loại cây trồng, trong đó cây lúa và cây ngô được canh tác hai vụ mỗi năm, cùng với nhiều loại cây khác như khoai, đậu, sắn, lạc, và mía trồng ở chân đồi và ven rừng Hiện tại, huyện cũng đang mở rộng trồng cây thuốc lá và giống cây thuốc nam Hoạt động chăn nuôi gia súc như trâu, bò, dê và gia cầm như gà, vịt, ngan đóng góp vào việc cải thiện đời sống người dân Mỗi hộ dân tộc Tày thường có một mảnh vườn trồng rau và cây ăn quả, cây thuốc, cung cấp thực phẩm tươi ngon cho bữa ăn hàng ngày.
Hoạt động của các ngành thủ công nghiệp đang trên đà phục hồi và phát triển, với các nghề truyền thống như dệt thổ cẩm và đúc lưỡi cày đang được chú trọng Sự phát triển này không chỉ đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của người dân địa phương mà còn góp phần vào sản xuất vật liệu xây dựng.
Huyện Hà Quảng nổi bật với vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên và nhiều di tích lịch sử văn hóa quan trọng, gắn liền với sự nghiệp cách mạng của dân tộc Để phát huy tối đa tiềm năng này, huyện uỷ Hà Quảng đã thực hiện hiệu quả các chủ trương từ tỉnh uỷ Cao Bằng.
Khu di tích lịch sử cách mạng Pác Bó, thuộc xã Trường Hà, huyện Hà Quảng, gần biên giới Việt - Trung, là một trong những di tích quốc gia quan trọng, được công nhận vào ngày 21/2/1975 Vào ngày 30/7/1994, chính phủ đã phê duyệt dự án bảo tồn và phát huy giá trị khu di tích nhằm phát triển kinh tế - xã hội địa phương Du khách đến thăm nơi đây có thể khám phá cột mốc 108 (nay là mốc 675), nơi Bác Hồ lần đầu tiên trở về nước sau 30 năm sống ở nước ngoài, cùng với nhà ông Lý Quốc Súng và hang Pác Bó, nơi Bác đã chọn làm chỗ ở và làm việc.
Tại khu di tích Pác Bó, du khách sẽ được chiêm ngưỡng những kỷ vật thiêng liêng như chiếc máy chữ, làn mây cũ và đôi dép cao su mà Bác Hồ đã sử dụng Những đồ vật tưởng chừng bình dị này lại mang ý nghĩa sâu sắc, gắn liền với cuộc đời hoạt động của Bác và lịch sử cách mạng Việt Nam trước tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945.
Khu di tích Kim Đồng nằm ở làng Nà Mạ, xã Trường Hà, huyện Hà Quảng, bao gồm mộ anh Kim Đồng và tượng đài Kim Đồng trong trang phục dân tộc Nùng, tay nâng cao chim bồ câu Đây là nơi lý tưởng cho thiếu niên và nhi đồng tỉnh Cao Bằng cũng như cả nước tổ chức cắm trại, vui chơi và ca hát Khu di tích còn gần cửa khẩu Sóc Giang, tạo điều kiện thuận lợi cho giao thương với Trung Quốc, góp phần thúc đẩy sự phát triển của ngành du lịch, dịch vụ và thương mại trong khu vực.
Sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế hiện nay đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe, đặc biệt là cho bà mẹ và trẻ em.
Xã hội
Kể từ khi đất nước được giải phóng, Đảng và Nhà nước đã chú trọng đến công tác giáo dục và đào tạo, góp phần xóa mù chữ Sự phát triển này không chỉ về số lượng mà còn về chất lượng, với số lượng học sinh năm sau luôn tăng hơn năm trước Đặc biệt, đã hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học và thực hiện thành công chương trình xóa mù chữ.
13 xã Cơ sở hạ tầng của huyện đang đ−ợc xây dựng và hoàn thiện nhanh chóng để phục vụ cho đời sống nhân dân tốt hơn
Huyện Hà Quảng sở hữu nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú và đa dạng, cùng với vị trí là một trong những căn cứ cách mạng nổi tiếng Cửa khẩu thông thương với nước bạn cũng tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh tế - xã hội của khu vực.
Công tác giáo dục, đào tạo và y tế được tăng cường, cùng với phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư” được người dân tích cực hưởng ứng Từ năm 2007 đến năm 2009, có hơn 9.056 gia đình đạt danh hiệu gia đình văn hóa và 269 xóm được Ủy ban nhân dân huyện Hà Quảng công nhận là gia đình văn hóa Nhu cầu vui chơi giải trí và hưởng thụ văn hóa của người dân ngày càng được nâng cao.
Chính trị ổn định và trật tự an toàn xã hội được đảm bảo, góp phần nâng cao niềm tin của nhân dân Quốc phòng an ninh được giữ vững, tạo điều kiện cho các dân tộc anh em trong huyện đoàn kết và hỗ trợ lẫn nhau, từ đó cải thiện đời sống của người dân ngày càng vững mạnh.
Sau cách mạng tháng 8, hệ thống y tế tại tỉnh Cao Bằng, đặc biệt là huyện Hà Quảng, đã phát triển nhanh chóng nhờ sự quan tâm của Nhà Nước Năm 1988, bệnh viện đa khoa huyện Hà Quảng được xây dựng và đã trải qua hai lần sửa chữa vào các năm 1998 và 2008 Hiện nay, bệnh viện đã được xây dựng khang trang, trang bị đầy đủ thiết bị khám chữa bệnh và có đội ngũ cán bộ y tế có trình độ, góp phần xoá bỏ tình trạng xã trắng y tế.
Đời sống kinh tế và xã hội huyện Hà Quảng đang có những chuyển biến mạnh mẽ, tạo điều kiện thuận lợi cho việc cải thiện chăm sóc sức khỏe cộng đồng, đặc biệt là sức khỏe bà mẹ và trẻ em dân tộc Tày.
Phong tục, tập quán
Về mặc
Người Tày có trang phục truyền thống đơn giản với màu đen hoặc chàm, được nhuộm từ lá cây tự nhiên Đàn ông thường mặc áo ngắn, quần chân què màu nâu, trong khi phụ nữ mặc áo dài 5 thân, quần và khăn chít mỏ quạ Trang phục chủ yếu do phụ nữ Tày tự tay khâu và nhuộm, không có hoa văn cầu kỳ, ngoại trừ trang phục của thầy cúng Chiếc áo chàm truyền thống còn có khả năng chống muỗi, bảo vệ sức khỏe Tuy nhiên, do ảnh hưởng từ người Kinh, trang phục hàng ngày của người Tày đã chuyển sang kiểu Âu phục, chỉ mặc trang phục truyền thống trong dịp lễ tết Trẻ em mới sinh được quấn trong áo cũ của bố mẹ, nhưng hiện nay, quần áo sơ sinh thường được mua sắm giống như người Kinh Về mặt ăn mặc, bà mẹ và trẻ nhỏ luôn chú trọng đảm bảo sự thoáng mát vào mùa hè và giữ ấm vào mùa đông để bảo vệ sức khỏe.
Về nhà ở
Nhà sàn là kiểu kiến trúc truyền thống của người Tày, được xây dựng nhằm mục đích tránh thú dữ và ẩm thấp, đồng thời bảo vệ con người Kiểu nhà này cũng giúp người Tày dễ dàng trong việc trông giữ gia súc và gia cầm.
Người dân thường chọn những khu đất gần nguồn nước và thuận lợi cho việc canh tác ruộng nương Họ xây dựng nhà theo hướng nam để tránh gió Đông Bắc, bảo vệ sức khỏe cho gia đình Trong ngôi nhà, gian chính giữa đặt bàn thờ tổ tiên, hai bên là hai gian buồng ngủ dành cho phụ nữ Cầu thang bằng gỗ được bố trí ở gian nối giữa nhà chính và bếp.
Người Tày sống trong những ngôi nhà đất truyền thống, được xây dựng theo cấu trúc chình tường với hai mái chính và thiết kế sâu vào bên trong Những ngôi nhà thường có ba gian, trong đó bếp được đặt ở gian giữa phía sau, ngăn cách bởi một bức vách với phần phía trước Khu vực này có thể được sử dụng làm bàn thờ hoặc nơi sinh hoạt chung của gia đình Chỗ ngủ được sắp xếp ngăn nắp, với phụ nữ thường ngủ trong một dãy ở gian bên cạnh Ngoài ra, trong nhà còn có gác để chứa lương thực dự trữ.
Ngày nay, sự thay đổi trong mọi khía cạnh của đời sống, đặc biệt là do sự khan hiếm gỗ, đặc biệt là các loại gỗ tốt, đã dẫn đến việc những ngôi nhà sàn truyền thống dần được thay thế bằng những ngôi nhà mái bằng và nhà tầng hiện đại hơn.
Bố trí phòng ở cho phụ nữ mang thai và sau sinh là vấn đề được đồng bào Tày đặc biệt quan tâm, nhằm đảm bảo quá trình sinh đẻ diễn ra thuận lợi, giúp mẹ và bé khỏe mạnh.
Tín ng−ỡng, tôn giáo
Ng−ời Tày theo tôn giáo đa thần Họ thờ tổ tiên thờ các thần
Tín ngưỡng thờ tổ tiên là một phần quan trọng trong đời sống tâm linh của người Tày, thể hiện niềm tin rằng tổ tiên dù đã qua đời vẫn luôn chăm sóc con cháu Họ tin rằng tổ tiên có thể tham gia vào mọi khía cạnh của cuộc sống, từ niềm vui đến nỗi buồn, và thường gửi đi những dấu hiệu qua giấc mơ khi có điều không may Do đó, việc thờ cúng tổ tiên cần được thực hiện với lòng thành kính Bàn thờ tổ tiên được đặt ở gian giữa của ngôi nhà, nơi được coi là linh thiêng nhất, thể hiện sự tôn trọng và kết nối với thế hệ trước.
Người Tày tin rằng mọi vật đều có linh hồn, với khái niệm "phi" (ma) bao gồm tất cả các thần thánh, ma quỷ hiện diện trong cuộc sống Họ phân biệt giữa ma lành và ma ác, cả hai đều có thể gây hại cho con người, vì vậy cần thực hiện cúng bái để tránh bệnh tật và tai nạn Đặc biệt, người Tày còn tin vào sự tồn tại của "ma người sống", có khả năng làm cho người khỏe mạnh trở nên ốm yếu Ngoài ra, còn nhiều loại ma khác như ma sông, ma suối, ma rừng, và ma đói cũng có thể gây ra những tai họa cho con người Dân tộc Tày, như nhiều dân tộc thiểu số phía Bắc Việt Nam, chịu ảnh hưởng từ Đạo giáo, Khổng giáo, và Phật giáo, bên cạnh việc sử dụng thuốc nam, họ còn thực hiện cúng bái để chữa bệnh.
Phong tục và tập quán của đồng bào nơi đây ảnh hưởng đáng kể đến việc chăm sóc sức khỏe cho bà mẹ và trẻ em, thể hiện rõ trong cả dân gian lẫn thực tiễn hiện tại của người dân.
LÔ héi
Người Tày tổ chức nhiều lễ hội truyền thống đặc sắc, tương tự như các cộng đồng khác, bao gồm lễ Tết Nguyên Đán, lễ hội Lồng Tồng, Tết mùng 3 tháng 3 âm lịch và Tết Rằm tháng Bảy.
Tết Nguyên Đán, hay còn gọi là Bươn Chiêng, là ngày hội lớn nhất của đồng bào, diễn ra theo âm lịch Vào dịp cuối năm, các gia đình chuẩn bị cho Tết bằng cách thanh toán nợ nần, dọn dẹp nhà cửa và lau dọn bàn thờ Họ cũng chuẩn bị mâm cỗ cho năm mới với các món như mổ lợn, gói bánh chưng, làm bánh khảo và khảu sli Bữa cơm chiều tất niên vào ngày 30 tháng 12 ÂL không chỉ mang giá trị vật chất mà còn mang ý nghĩa tinh thần sâu sắc Trong bữa cơm này, món thịt vịt không thể thiếu, tượng trưng cho việc giải xui và xóa bỏ những khó khăn của năm cũ Đến ngày 30 tháng Giêng ÂL, đồng bào nơi đây lại tiếp tục ăn Tết.
“Đắp nọi”, trong ngày này ng−ời dân th−ờng làm các loại bánh Giày,bánh Gai
“pẻng tải”,để cúng tổ tiên,đồng thời kết thúc tháng ăn tết, bắt đầu vào những ngày lao động cho vụ mùa bội thu mới
Lễ lồng tồng, hay còn gọi là lễ cầu mùa, được tổ chức vào tháng Giêng để cúng thần Nông với hy vọng có mùa màng bội thu Trong lễ hội này, nhiều trò chơi truyền thống thú vị như kéo co, ném còn và đánh quay được diễn ra, mang lại không khí vui tươi cho người tham gia.
Vào ngày Tết tảo mộ (mùng 3/3 ÂL), mọi người thực hiện việc phát quang và tu sửa mộ phần, đồng thời cúng cơm và đốt vàng mã tại mộ để thể hiện lòng thành kính và sự chăm sóc đối với tổ tiên Hành động này không chỉ bày tỏ sự tri ân mà còn cầu nguyện cho tổ tiên phù hộ cho gia đình mọi điều tốt lành.
Tết mùng 5/5, hay còn gọi là Tết giết sâu bọ, mang ý nghĩa cầu mùa màng bội thu bằng cách tiêu diệt sâu bọ hại cây trồng Trong dịp lễ này, người dân thường làm bánh gai (pẻng tải), bánh tro (pẻng đắng), và chế biến rượu, cùng với việc thưởng thức các loại hoa quả Ngoài ra, họ còn rủ nhau đi hái thuốc nam để dự trữ cho cả năm.
Tết rằm tháng 7, hay còn gọi là Tết xá tội vong nhân, là dịp để tưởng nhớ và cúng bái những linh hồn không có người thân thờ cúng khi mất Sự kiện này thể hiện tính nhân văn và lòng yêu thương con người sâu sắc của cộng đồng.
Tết cơm mới, diễn ra vào rằm tháng Tám, là lễ hội nông nghiệp nhằm chào mừng vụ mùa bội thu Trong dịp này, các món ăn truyền thống như thịt lợn, gà và vịt được chuẩn bị, cùng với việc tổ chức hát mừng nàng Hai để tôn vinh thành quả lao động của người nông dân.
Tết Trùng Cửu (9/9 Â L) đánh dấu sự chuyển giao sang mùa đông, là dịp để mọi người thu hoạch những bông lúa nếp non Việc chế biến cốm hoặc bánh dầy từ lúa nếp non không chỉ thể hiện nét văn hóa độc đáo mà còn tạo nên những hoạt động sinh hoạt truyền thống phong phú.
Tết mùng 10/10 là lễ hội cuối cùng trong năm được tổ chức riêng tại mỗi gia đình Trong dịp Tết này, người dân thường làm bánh trôi hoặc bánh cóong phù, loại bánh được chan với nước đường mía và thêm chút gừng.
Lễ tết hội hè đóng vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần, thể hiện ước mơ và mong muốn của con người về một cuộc sống ấm no và hạnh phúc.
Tục lệ c−ới xin
Cưới xin là một trong những sự kiện quan trọng nhất trong cuộc đời mỗi người Mặc dù trai gái có thể tự do tìm hiểu và yêu thương nhau, nhưng để tiến đến hôn nhân, cần có sự đồng ý từ bố mẹ của cả hai bên.
Lễ cưới của người Tày bao gồm nhiều nghi lễ quan trọng, bắt đầu với lễ dạm hỏi (kin tháp), tiếp theo là lễ nhận câu trả lời, lễ báo lá số hợp nhau, lễ đính hôn, và cuối cùng là lễ cưới (kin lảu).
Lễ cưới kết thúc bằng lễ lại mặt, diễn ra tại nhà cô dâu với mâm cơm mời họ hàng thân thiết để chú rể nhận diện Đây là dịp vui lớn của gia đình, họ hàng và bạn bè, nơi mọi người cùng chúc phúc cho đôi vợ chồng mới, mong họ luôn hạnh phúc và sớm có con.
Bước đầu tiên trong việc chuẩn bị cho lễ cưới là chuẩn bị vật chất, bao gồm đồ hồi môn và thực phẩm Thịt lợn là phần quan trọng nhất, với yêu cầu mang sang nhà gái bốn con lợn, mỗi con nặng từ 60kg trở lên, và mổ từ 4 đến 5 con tại nhà Trong lễ dạm hỏi, nhà trai mang một đôi gà và một chai rượu sang nhà gái để thể hiện phép lịch sự Nếu nhà gái đồng ý, sẽ mổ đôi gà và cùng ăn Tại bữa ăn, hai bên sẽ thảo luận về ngày tổ chức lễ Vào ngày đã chọn, nhà trai cử đại diện sang bàn việc thách cưới, cùng với hai cô gái trẻ mang lễ vật như 10 cân thịt lợn, đôi gà trống thiến, gạo và rượu Trong lễ ăn hỏi, các lễ vật thách cưới như tiền mặt, lợn, bánh, gạo và rượu sẽ được bàn bạc, cùng với ngày giao nhận.
Sau lễ ăn hỏi, lễ cưới chính thức được tổ chức với sự tham gia của hai bên gia đình Lễ cưới thường diễn ra trong ba ngày với các bữa tiệc ăn uống linh đình Trong văn hóa của người Tày, việc tham dự đám cưới được gọi là "đi uống rượu" (p©y kin lÈu), thể hiện sự quan trọng của rượu trong các buổi lễ này.
Hiên nay, những lễ vật trong cưới xin đã được giảm dần, những nghi lễ phức tạp cũng đã đ−ợc đơn giản để phù hợp với đời sống mới
Cưới xin là một nghi thức quan trọng giúp hai người yêu nhau gắn kết với nhau, hình thành một gia đình mới Qua hôn nhân, các thành viên mới được ra đời, từ đó dẫn đến sự phát triển của thế hệ tiếp theo.
Tục làm ma, chay
Việc tổ chức tang ma đ−ợc tổ chức rất nghiêm ngặt, thể hiện nhiêu nghi lễ, quan niệm liên quan đến tín ng−ỡng dân gian
Làm tang ma không chỉ là việc lo liệu chu đáo cho lễ liệm và chôn cất xác chết một cách cẩn thận, mà còn là cách đưa tiễn phần hồn về với tổ tiên, đảm bảo mồ yên mả đẹp.
Trong làng có hội hiếu, chuyên lo giúp việc tang ma cho gia đình, để gia đình yên tâm ở bên vong linh người thân
Các nghi lễ tang ma được thực hiện bởi ông thầy cúng do gia đình mời, với thời gian tổ chức có thể kéo dài hàng tuần nếu người mất vào ngày xấu Tuy nhiên, hiện nay, các nghi lễ đã được rút gọn và chỉ diễn ra trong 2 ngày.
Sau khi chôn cất, vào sáng ngày thứ 3, gia chủ sẽ đem các đồ vật của người mất ra mộ đốt và rao xung quanh mộ Bàn thờ người mất được đặt dưới bàn thờ tổ tiên và chỉ được nâng lên sau khi đoạn tang từ 1 đến 3 năm Trong vòng 100 ngày, gia đình phải thắp hương và đèn vào buổi tối Người Tày quan niệm rằng phần mộ sẽ ở nguyên vị trí suốt đời, không được động đến mạch đất đã xem Ngày xá tội vong nhân (14/7 ÂL) thường được tổ chức để thay quần áo mới cho người quá cố, đánh dấu lễ bỏ tang và kết thúc các công việc liên quan đến người đã mất Việc làm ma, chay rất quan trọng trong cộng đồng, vì nếu không thực hiện đúng, gia đình có thể gặp rắc rối và bệnh tật, đặc biệt là bà mẹ và trẻ em.
Tập quán sinh đẻ và nuôi dạy con cái
Sinh đẻ và nuôi dạy con cái là một phần quan trọng trong văn hóa của người Tày, với sự quan tâm đặc biệt dành cho bà mẹ và trẻ em Những kinh nghiệm dân gian, bao gồm luật tục và bài thuốc, được lưu giữ bởi các bà mế, bà đỡ, mang lại giá trị quý báu cho y học hiện đại Trong bối cảnh y học hiện đại còn nhiều hạn chế, việc nghiên cứu và bảo tồn những giá trị văn hóa này là cần thiết, nhằm kết hợp hiệu quả với y học hiện đại để nâng cao sức khỏe cộng đồng.
Ch−ơng 2 tri thức dân gian của ng−ời tμy về chăm sóc sức khỏe bμ mẹ vμ trẻ em ở huyện Hμ quảng, tỉnh cao bằng.
Quan niệm chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em của ng−ời Tày huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng
Quan niệm về chăm sóc ăn uống hàng ngày cho bà mẹ và trẻ em 31
Người Tày rất chú trọng đến việc chăm sóc dinh dưỡng cho bà mẹ và trẻ em, coi ăn uống là yếu tố quan trọng để duy trì sức khỏe và phát triển Với nguồn lương thực phong phú, họ chế biến nhiều món ăn bổ dưỡng nhằm đảm bảo sức khỏe cho phụ nữ mang thai và trẻ nhỏ Chế độ ăn uống tốt không chỉ giúp mẹ khỏe mạnh mà còn hỗ trợ sự phát triển của thai nhi, đảm bảo cho việc sinh nở an toàn Sau khi sinh, dinh dưỡng đầy đủ giúp mẹ hồi phục sức khỏe và nuôi con khỏe mạnh Trẻ em cũng nhận được sự chăm sóc đặc biệt từ chế độ ăn uống phù hợp với từng giai đoạn phát triển, với niềm tin rằng trẻ lớn lên khỏe mạnh và thông minh nhờ vào nguồn sữa mẹ dồi dào.
Quan niệm về bệnh ở bà mẹ và trẻ em
Trong quan niệm dân gian của người Tày, bệnh tật thường được hiểu một cách đơn giản và xuất phát từ kinh nghiệm thực tiễn Bệnh tật ở bà mẹ và trẻ em được xem là những căn bệnh nghiêm trọng, có thể làm suy yếu sức khỏe của cả mẹ và con Các bệnh ở phụ nữ mang thai có thể gây nguy hiểm cho cả hai, trong khi trẻ em có thể gặp phải những vấn đề phát triển nếu không được chăm sóc đúng cách Để phục hồi sức khỏe cho bà mẹ và trẻ em, việc chăm sóc đặc biệt là rất cần thiết, đóng vai trò quan trọng trong quá trình điều trị bệnh.
Quan niệm về bệnh tật và nguyên nhân gây bệnh là một phần thiết yếu trong hệ thống kiến thức chăm sóc sức khỏe và văn hóa Các nguyên nhân gây bệnh không tồn tại độc lập mà liên kết chặt chẽ với nhau trong những hoàn cảnh cụ thể.
Theo quan niệm của người Tày, bệnh tật ở bà mẹ và trẻ em xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau Đối với trẻ nhỏ, các bệnh thường gặp liên quan đến việc người mẹ trong thời kỳ mang thai không chú ý đến sức khỏe của bản thân và thai nhi, dẫn đến những đứa trẻ sinh ra phải chịu ảnh hưởng từ những suy nghĩ hạn chế này.
Một nguyên nhân quan trọng khác là sự thiếu chú ý trong việc chăm sóc của cha mẹ đối với con cái Đặc biệt, sau khi sinh, người mẹ có thể gặp phải nhiều vấn đề sức khỏe như băng huyết, mất sữa và các biến chứng hậu sản, ảnh hưởng đến khả năng chăm sóc trẻ.
Ngoài những lý do trên còn những lý do khác cũng có thể gây ra bệnh đối với bà mẹ và trẻ em nh− :
Do điều kiện khí hậu thay đổi thất thường làm cho cơ thể chưa kịp biến đổi mà gây ra bệnh Đặc biệt là những thời điểm giao mùa
Cuộc sống nghèo khổ với điều kiện sinh hoạt thiếu thốn và lối sống lạc hậu dẫn đến tình trạng con người lao động vất vả, ăn uống không đầy đủ và thiếu vệ sinh, tất cả đều là nguyên nhân gây ra nhiều bệnh tật.
Điều kiện tự nhiên với rừng núi rậm rạp và đường dốc trơn trượt có thể gây ra nguy cơ ngã, cùng với khí hậu ẩm thấp làm gia tăng các bệnh như rắn cắn, rết cắn và dị ứng.
Sự thiếu cẩn thận có thể dẫn đến nhiều tai nạn như va chạm giao thông hoặc ngã khi trèo cây, gây ra các vấn đề sức khỏe nghiêm trọng Đối với bà mẹ, những tai nạn này có thể dẫn đến tình trạng như sảy thai hoặc động thai Trong khi đó, trẻ nhỏ có nguy cơ gặp phải chấn thương như gãy xương, bong gân và sây sát.
Người Tày tin vào tôn giáo đa thần, cho rằng thế giới xung quanh có sự hiện diện của các thần linh và ma quái Do đó, khi gặp bệnh tật, họ thường lý giải nguyên nhân từ góc độ tâm linh.
Theo quan niệm của người Tày, có hai loại ma là ma lành và ma dữ, cả hai đều có khả năng gây hại cho con người Ma tổ tiên được coi là ma lành, nhưng nếu vi phạm những điều kiêng kỵ hoặc không thường xuyên cúng bái, sẽ khiến ma tổ tiên giận dữ, gây hại cho bà mẹ và trẻ em Các gia đình có tổ tiên làm Pụt hoặc làm then cần tuân thủ những kiêng kị riêng, vì nếu không thực hiện đúng, sẽ bị ma tổ tiên phạt.
Ma chài là một loại ma dữ được nuôi dưỡng bởi một dòng họ với mục đích trả thù, gây hại cho những người thù oán hoặc ghen ghét Loại ma này có thể khiến bà mẹ hoặc trẻ nhỏ trở nên mệt mỏi, yếu ớt, và nếu không được phát hiện kịp thời, có thể dẫn đến cái chết.
Ma gà là một loại ma ác, thường được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác trong một dòng họ cụ thể Loại ma này có khả năng gây bệnh cho người, đặc biệt là trẻ nhỏ, và có thể dẫn đến cái chết hàng loạt của gia súc, gia cầm Ma gà có thể gây hại chỉ qua một lời khen từ chủ nhân Những ngôi nhà có ma gà thường rất sạch sẽ, không có mạng nhện và không sử dụng chổi.
Ngoài các loại ma như ma đói, ma núi, ma rừng, những linh hồn này cũng có thể gây hại đến sức khỏe con người Đặc biệt, phụ nữ mang thai cần cẩn trọng khi vào rừng, vì việc kêu gọi có thể thu hút những nguy hiểm tiềm ẩn.
Tri thức dân gian về chăm sóc bà mẹ
Chăm sóc bà mẹ khi mang thai
Khi phụ nữ mang thai, đặc biệt là lần đầu, gia đình thường rất phấn khởi Đây là niềm vui và mong đợi không chỉ của bên nội mà còn của bên ngoại, vì vậy mọi người thường đến thăm và chúc mừng.
Người phụ nữ mang thai trải qua nhiều triệu chứng như nặng chân, nặng tay, buồn ngủ và buồn nôn trong giai đoạn ốm nghén Họ có thể thèm đồ ngọt, chua hoặc chát Trong thời gian này, thai phụ thường kiêng làm việc nặng, chạy nhảy, ra ngoài và ăn cơm nguội vì lo ngại ảnh hưởng đến quá trình sinh nở Một thói quen tốt là uống một cốc nước lọc mỗi sáng, giúp hỗ trợ việc dễ sinh.
Trước đây, khi nền kinh tế còn gặp nhiều khó khăn và mức sống của người dân chưa cao, phụ nữ vẫn phải làm việc và ăn uống như những thành viên khác trong gia đình.
Theo quan niệm của đồng bào, những người phụ nữ lấy chồng nhiều năm mà không có con thường được cho là do cơ thể lạnh Để khắc phục tình trạng này, họ sử dụng “phiắc khẩu mẩu” pha với nước chè và ăn các loại thực phẩm như rễ cây ích mẫu, gừng, địa liền, tim lợn chưng để ấm cơ thể, hy vọng có thai Nếu vẫn không thành công, họ sẽ mời thầy cúng làm lễ “Bắc cầu xin Hoa” để cầu xin mẹ Bioóc ban phước cho đôi vợ chồng.
Trong khúc hát “ Thằng cu Vỉnh” cuốn “Then Tày những khúc hát, NXB
Văn hóa dân tộc, Hà Nội.2000, Triều Ân( chủ biên) có viết:
“Mang đến tháng thứ bẩy
Chồng biết điều biết nghĩ
Chồng biết quý biết khôn Đón then về giải buồn
Người mẹ cảm thấy nhẹ nhõm và vui vẻ khi đến tháng thứ bảy của thai kỳ Gia đình tổ chức lễ cúng gọi là “cúng hồn bảy tháng” (khoăn chất b−ơn) để cầu mong tổ tiên phù hộ cho thai phụ, giúp mẹ tròn con vuông và dễ dàng sinh nở.
Nghi lễ được tổ chức vào ngày đẹp do ông Tào lựa chọn Trong buổi lễ này, chỉ có ông Tào tham gia mà không mời bà Bụt, vì ông Tào là người mới viết chữ Nôm.
Lễ vật trong nghi thức cúng tổ tiên bao gồm một con gà, rượu, cơm nếp và hoa quả Ông Tào sẽ viết những tờ giấy sớ ghi rõ tên, tuổi, nơi ở của người thai phụ cùng những điều cầu mong cho họ vượt cạn dễ dàng, cầu cho mẹ tròn con vuông.
Nghi lễ diễn ra đơn giản với việc gia đình chuẩn bị hai bát mẻ chứa nước nghệ Ông Tào nhúng một nửa mét vải vào nước nghệ và đặt lên mẹt hỏng, vì theo quan niệm, mẹt hỏng sẽ giúp dễ đẻ trong tương lai Sau đó, ông thông báo cho tổ tiên và đốt những tờ giấy sớ Cuối cùng, tấm vải và mẹt hỏng được mang ra đường, dùng cọc tre hoặc gỗ để cố định tại chỗ.
Trong nghi lễ hoàn thành, gia đình thai phụ thường tặng ông Tào một con gà và một con vịt Nếu có điều kiện, gia đình cũng có thể biếu thêm tiền để thể hiện lòng biết ơn đối với ông Tào.
Từ tháng bảy, phụ nữ nên nặn đầu vú bằng cách sử dụng nước ấm để làm mềm vú, giúp cho việc cho con bú sau khi sinh trở nên dễ dàng hơn.
Khi một người phụ nữ mang thai qua đời, gia đình sẽ chôn cất và chọn một cây chuối sắp ra hoa Theo quan niệm của họ, khi cây chuối nở hoa, gia đình sẽ chặt ngang cây chuối, biểu thị rằng thai phụ đã sinh con và không còn gây hại cho người khác.
Nếu người phụ nữ đã mang thai nhưng không muốn sinh thì họ sẽ lấy cây
“kíp thất” ( cây cỏ sước), cùng lá cây đu đủ về đun nước uống là sẽ phá được thai
Trong thời gian mang thai, việc chăm sóc sức khỏe cho phụ nữ là rất quan trọng, đặc biệt khi họ bị ốm Gia đình thường tìm kiếm các bài thuốc từ thiên nhiên để đảm bảo không gây ảnh hưởng đến sức khỏe của mẹ và thai nhi Dưới đây là một số bài thuốc truyền thống của người Tày dành cho phụ nữ mang thai.
*Một số bài thuốc chăm sóc thai phụ
1-Bài thuốc chữa cảm cúm cho phụ nữ khi mang thai
Để chữa bệnh, bạn có thể sử dụng cây “thang ma” kết hợp với cây “thắp bút” và rễ cây “khoác mù”, rửa sạch và đun uống Ngoài ra, cây địa liền cũng có thể được đun nước để rửa chân giúp khỏi bệnh Một phương pháp khác là đun nước từ rễ cây vừng để uống.
Hoặc lấy củ tỏi về bóc ngâm uống là khỏi
2-Bài thuốc chữa sốt cao, kèm theo nhức đầu
Cây nhọ nhồi có thể được dã nát, cho vào khăn và xoa lên người để giảm sốt Ngoài ra, cây ngải cứu cũng nên được dã nát, vắt lấy nước cho thai phụ ốm uống để nhanh khỏi bệnh.
3-Bài thuốc chữa động thai
Khi mang thai, người nhà thường sử dụng rễ cây gai (co lác pán) và cây nhọ nhồi để nấu nước cho bà bầu uống, hoặc dùng cây ngải để nấu nước uống nhằm giúp cải thiện tình trạng sức khỏe.
4- Bài thuốc chữa bệnh chân tay đau nhức các khớp
Lấy cây “ kíp thất” và cây “ ích mẫu”đem về rửa sạch ngâm r−ợu uống là khái
5-Bài thuốc chữa đứt dây vú ở phụ nữ có thai
Chăm sóc bà mẹ khi sinh
* Chuẩn bị cho ngày sinh
Sau lễ “khoăn chất bươn” - lễ cúng hồn bẩy tháng, gia đình và vợ chồng thai phụ chuẩn bị các vật dụng như chiếu, tã lót, ống nứa, và vải thắt lưng Trước đây, tã lót cho trẻ thường được cắt từ quần áo cũ của bố mẹ, đã được giặt sạch và chọn loại vải mềm để phù hợp với làn da nhạy cảm của trẻ Chồng thai phụ cũng chuẩn bị củi, gạo nếp, gà và nghệ đỏ cho lễ cúng.
Cả hai bên gia đình nội ngoại cùng giúp đỡ vợ chồng thai phụ chuẩn bị đầy đủ những thứ cho ngày v−ợt cạn
* Khi ng − ời thai phụ trở dạ
Trước đây, khi nền kinh tế còn thấp, y tế chưa được trang bị đầy đủ, bệnh viện ch−a có, thì việc sinh đẻ đều đ−ợc thực hiện ở nhà
Cũng trong khúc hát “ Thằng cu Vỉnh” cuốn “Then Tày những khúc hát,
NXB Văn hóa dân tộc, Hà Nội.2000, Triều Ân( chủ biên) có viết nói về sự chuẩn bị khi thai phụ sắp sinh:
“Đến lúc đẻ là may Đến lúc sinh là quý Đẻ đứa con của ta
Chồng biết điều biết nghĩ
Chồng biết quý biết khôn Đun n−ớc nóng trên kiềng
Bắt con gà về mổ.”[10, tr304]
Khi người thai phụ bắt đầu đau bụng, người chồng sẽ nhóm lửa đun nước và mọi công việc trong gia đình tạm dừng để cùng nhau hỗ trợ sản phụ Nếu mẹ và các dì biết đỡ đẻ, họ sẽ tham gia, còn nếu không, người chồng sẽ mời bà đỡ về và thông báo cho gia đình hai bên Khi hai bên nội ngoại đến, họ sẽ giúp đỡ để sản phụ sinh con khỏe mạnh Trong quá trình sinh, những người hỗ trợ sẽ dìu sản phụ đi lại và cho ngồi vào ống tre với hai chân dang rộng, hai tay cầm vải thắt lưng Việc sinh đẻ diễn ra ngay trong phòng của đôi vợ chồng, không được chuyển đến nơi khác Người chồng chuẩn bị một viên than hồng và tiệt trùng con dao bằng nước nóng để cắt rốn cho đứa trẻ sau khi sinh.
Để hỗ trợ thai phụ trong quá trình sinh nở, những người xung quanh có thể dùng tay nhẹ nhàng đẩy vào bụng và xoa xuôi xuống Khi thai phụ rặn đẻ, việc cùng nhau rặn sẽ giúp giảm đau và tăng cường sức lực, từ đó giúp quá trình sinh diễn ra dễ dàng hơn.
Nếu sản phụ gặp khó khăn trong việc sinh nở, hãy sử dụng một con dao để cắt vào cây chuối non mới nhú lên từ mặt đất Sau đó, pha nhựa cây với nước nóng và cho sản phụ uống để giúp quá trình sinh nở diễn ra dễ dàng hơn.
Để giúp gà dễ đẻ, có thể lấy con gà mới nở được 3 ngày, đem đốt trên than Sau đó, nghiền nhỏ than và trộn với bánh “coóc mò” (bánh sừng bò), pha với nước để cho gà uống.
Nếu sau hai đến ba ngày mà vẫn chưa sinh, bạn có thể sử dụng cây thầu dầu tía, giã nát và gói vào khăn để đặt lên đầu Đồng thời, khắc chữ "đẻ" vào chân hoặc dùng cây "sa khương" để nhai và thổi vào tai người sản phụ sẽ giúp kích thích quá trình sinh nở.
Khi phát hiện thai ngược, hãy lấy cây đu đủ giã nhuyễn cùng nước gạo nếp, sau đó gói hỗn hợp này trong lá chuối và đặt vào bếp có tro nóng Tiếp theo, bó hỗn hợp vào lưng sản phụ và dùng cây kim đâm vào chân sản phụ để giúp quá trình sinh nở thuận lợi hơn.
Khi sản phụ kiệt sức và khát nước, không nên cho uống nước mà thay vào đó nên cho uống rượu để tránh tình trạng phù nề Nếu trong quá trình sinh nở, người phụ nữ gặp phải băng huyết, gia đình cần nhanh chóng lấy cây nhọ nhồi, rửa sạch và đun nước cho sản phụ uống để cầm máu Ngoài ra, cây "ràng pâu" cũng có thể được sử dụng bằng cách rửa sạch, phơi khô và đun nước uống để hỗ trợ trong trường hợp này.
Nhau thai của phụ nữ được sử dụng bởi những người gầy để tăng cân nhanh chóng Nếu không, nó thường được nấu cho chó, mèo, lợn ăn nhằm giúp chúng phát triển nhanh Ngoài ra, những người bị ho lao cũng sử dụng nhau thai bằng cách sấy khô, tán nhỏ và ăn kèm với cháo để cải thiện sức khỏe.
2.2.3 Chăm sóc sản phụ trong thời gian ở cữ và cho con bú
Sau khi sinh, người chồng chuẩn bị canh gà nấu với nghệ, cơm nếp và canh ngải cứu cho sản phụ Trong món canh gà, chỉ lấy thịt ở sườn và tránh thịt ở xương sống vì theo quan niệm của đồng bào, ăn thịt xương sống có thể dẫn đến đau lưng Nội dung này cũng được nhắc đến trong khúc hát “Thằng cu Vỉnh” trong cuốn “Then Tày những khúc hát.”
NXB Văn hóa dân tộc, Hà Nội.2000, Triều Ân( chủ biên) có viết về cách ch¨m sãc phô n÷ khi sinh xong:
Bốn hòn x−ơng không căng
Bốn cai găn không mỏi không mệt
Chồng không biết điều biết nghĩ
Không biết quý biết khôn
Mẹ đẻ đứa con ra
Cho uống bát n−ớc lã
Bốn hòn c−ơng phải căng
Bốn cái gân phải mỏi.”[10,tr304]
Sau khi đỡ đẻ, gia đình sản phụ thường mời bà mụ ở lại dùng bữa cơm để cảm ơn và tặng bà một bộ quần áo, đôi dép cùng với tiền Vào dịp Tết, gia đình cũng mang đến nhà bà đỡ một con gà trống thiến và bánh chưng để chúc Tết.
Khi đứa bé chào đời, người chồng thường che bàn thờ tổ tiên bằng miếng vải sạch để giữ sự tôn nghiêm, đồng thời đặt cành bưởi trước cửa nhà để thông báo tin vui và xua đuổi tà ma có thể gây hại cho sản phụ và trẻ sơ sinh Phụ nữ đang hành kinh và những người nuôi ma gà không được phép vào nhà, vì theo quan niệm dân gian, điều này có thể gây nguy hiểm cho mẹ và bé Nếu họ cố tình vào, gia đình sẽ nín thở và đặt cành dâu lên đầu gối đứa trẻ, hoặc rắc tro bếp sau lưng họ khi ra về để bảo vệ sự bình an cho đứa trẻ.
Khi tin vui về việc sinh nở được lan truyền, hàng xóm và họ hàng hai bên nội ngoại thường đến thăm hỏi và chia sẻ niềm vui Bà ngoại thường mang theo 10 con gà trống, gạo nếp và rượu trắng để chăm sóc con gái và cháu Họ hàng cũng góp mặt với 1 con gà và 1 cân gạo nếp Phong tục này có nguồn gốc từ xa xưa, khi cuộc sống còn khó khăn và nguồn thực phẩm hạn chế, nên cả hai bên nội ngoại và hàng xóm cùng nhau góp gạo, gà để hỗ trợ người phụ nữ sau sinh.
Sau khi sinh, trong thời gian ở cữ một tháng, người phụ nữ cần nghỉ ngơi để phục hồi sức khỏe và chăm sóc con tốt hơn Trong thời gian này, chế độ ăn uống chủ yếu bao gồm canh gà nấu nghệ, cơm nếp, canh rau ngót và canh ngải cứu.
Trong một tháng sau sinh, phụ nữ nên tránh tắm nước lạnh và chỉ dùng nước ấm hoặc nước lá cây để giữ gìn sức khỏe Vào mùa đông, có thể đốt củi trong phòng để sưởi ấm cho cả mẹ và trẻ.
Sau thời gian ở cữ, người phụ nữ ăn uống đầy đủ để bồi dưỡng sức khỏe cho cả mẹ và con