1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hiệu quả công tác quản lý làng nghề sơn điêu khắc mỹ nghệ truyền thống sơn đồng hoài đức hà nội

73 17 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Giải Pháp Nhằm Nâng Cao Chất Lượng, Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Làng Nghề Sơn Điêu Khắc Mỹ Nghệ Truyền Thống Sơn Đồng, Hoài Đức, Hà Nội
Tác giả Nguyễn Thị Hoa
Trường học Trường Đại học Văn hoá Hà Nội
Chuyên ngành Quản lý văn hóa – nghệ thuật
Thể loại Khoá luận tốt nghiệp
Năm xuất bản 2010
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 73
Dung lượng 2,32 MB

Cấu trúc

  • MỤC LỤC

  • PH ẦN MỞ ĐẦU

  • Chương I : Khái quát chung về Làng nghề sơn điêu khắc mỹ nghệ truyền thống Sơn Đồng, Hoài Đức, Hà Nội

  • Ch ươ ng II: Thực trạng phát triển của làng nghề và những hạn chế trong công tác quản lý

  • Chương III : Những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác quản lý làng nghề sơn điêu khắc mỹ nghệ trong thời gian tới

  • PHẦN KẾT LUẬN PHẦN KẾT LUẬN PHẦN KẾT LUẬN PHẦN KẾT LUẬN PHẦN KẾT LUẬN PHẦN KẾT LUẬN PHẦN KẾT LUẬN PHẦN

Nội dung

Mục tiêu nghiên cứu

Đề tài được viết nhằm hướng tới nhiều mục tiêu, trong đó bao gồm các mục tiêu cơ bản sau:

Bài viết cung cấp cái nhìn sâu sắc về sự hình thành và phát triển của làng nghề sơn điêu khắc mỹ nghệ truyền thống Sơn Đồng, Hoài Đức, Hà Nội, đồng thời nêu bật những truyền thống và đặc trưng độc đáo của làng nghề này.

Bài viết phân tích hiện trạng phát triển của làng nghề, nêu rõ nguyên nhân dẫn đến thực trạng này và đặc biệt nhấn mạnh những bất cập, hạn chế trong công tác quản lý hiện tại Từ đó, bài viết đề xuất các biện pháp và giải pháp nhằm thúc đẩy sự phát triển bền vững của làng nghề trong thời gian tới.

- Qua bài viết, người đọc cũng nhận thấy được những cơ hội và khó khăn, thách thức mà làng nghề Sơn Đồng đang phải đối mặt

Bài viết này không chỉ đề cập đến các mục tiêu cụ thể mà còn cung cấp cái nhìn tổng quát về đặc điểm và vai trò quan trọng của làng nghề, đặc biệt là làng nghề truyền thống, trong sự phát triển kinh tế xã hội.

Phương pháp nghiên cứu

Để hoàn thành bài viết này, tôi đã áp dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau nhằm hỗ trợ lẫn nhau trong quá trình nghiên cứu Các phương pháp bao gồm: nghiên cứu tài liệu có sẵn từ sách báo và internet, xem xét các đề tài liên quan đến làng nghề, và nghiên cứu các văn bản, chính sách của Nhà nước về lĩnh vực này Tôi cũng sử dụng phương pháp thống kê số liệu thực tế, bao gồm cả việc xin số liệu và thống kê trực tiếp Cuối cùng, phương pháp khảo sát và phỏng vấn đã giúp tôi mô tả thực tế một cách chi tiết hơn.

Đóng góp của đề tài

Nghiên cứu về làng nghề Sơn Đồng cung cấp cho các nhà quản lý cái nhìn tổng quan về những điểm mạnh và tồn tại trong công tác quản lý, đồng thời nhận diện tiềm năng và thách thức Từ đó, bài viết đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả quản lý làng nghề Sơn Đồng trong tương lai.

Cấu trúc của đề tài

Cấu trúc của đề tài bao gồm 3 chương:

Chương I: Khái quát chung về làng nghề sơn điêu khắc mỹ nghệ truyền thống Sơn Đồng, Hoài Đức, Hà Nội

Chương II: Thực trạng phát triển của làng nghề và những hạn chế trong công tác quản lý

Chương III: Để nâng cao chất lượng và hiệu quả trong công tác quản lý làng nghề sơn điêu khắc mỹ nghệ Sơn Đồng, cần triển khai các giải pháp đồng bộ, bao gồm việc tăng cường đào tạo kỹ năng cho nghệ nhân, phát triển thương hiệu sản phẩm, ứng dụng công nghệ mới trong sản xuất, và xây dựng các chính sách hỗ trợ từ chính quyền địa phương Những biện pháp này sẽ góp phần nâng cao giá trị sản phẩm, mở rộng thị trường tiêu thụ, và bảo tồn nghề truyền thống của làng.

Khái quát chung về Làng nghề sơn điêu khắc mỹ nghệ

Giới thiệu chung về làng nghề truyền thống Việt Nam

1.1.1 Khái niệm và tiêu chí để xác định làng nghề truyền thống

Làng xã Việt Nam đóng vai trò quan trọng trong sản xuất và đời sống của cư dân nông thôn Qua thời gian và những biến động lịch sử, các lệ làng, phép nước cùng phong tục, tập quán ở nông thôn vẫn được duy trì và phát triển cho đến ngày nay.

Làng xã Việt Nam có lịch sử phát triển lâu dài, gắn liền với nông nghiệp và kinh tế nông thôn Mỗi công xã bao gồm nhiều gia đình sống trong một khu vực địa lý nhất định, tạo nên sự gắn bó chặt chẽ giữa các thành viên Làng không chỉ là quê hương mà còn là nơi kết nối cộng đồng thông qua các khế ước sinh hoạt, tín ngưỡng, lễ hội, tập tục và luật lệ riêng, từ đó thúc đẩy sự liên kết trong sản xuất và đời sống.

Từ những ngày đầu, nông nghiệp là nghề chính của người dân trong làng, nhưng theo thời gian, nhiều nghề khác đã xuất hiện và hình thành các tổ chức như Phường dệt vải, Phường nhuộm, Phường đúc đồng, và Phường gốm Những nghề này đã phát triển thành làng nghề, phố nghề, và xã nghề, trong khi phần lớn người dân vẫn kết hợp sản xuất nông nghiệp với nghề phụ Xu hướng lao động dần chuyển từ đồng ruộng sang nghề thủ công ngày càng gia tăng, dẫn đến sự phát triển mạnh mẽ của các ngành nghề tại nông thôn Làng xã Việt Nam không chỉ là nơi sản sinh ra nghề thủ công truyền thống mà còn là biểu trưng văn hóa đặc sắc, thể hiện tinh hoa của nền văn hóa và văn minh dân tộc Việt.

Quá trình phát triển của làng nghề ở Việt Nam bắt nguồn từ những gia đình nhỏ lẻ, sau đó lan rộng ra cả họ và toàn bộ làng Các quy ước của làng nghề như không truyền nghề cho người ngoài, chỉ truyền cho con trai trong dòng họ, và giữ bí mật nghề nghiệp đã hình thành Trải qua thời gian, làng nghề Việt Nam đã có những giai đoạn thịnh vượng và suy thoái, với nhiều nghề được gìn giữ và phát triển, trong khi một số nghề khác đã mai một hoặc biến mất Tuy nhiên, nhìn chung, các làng nghề vẫn duy trì được sự tinh xảo trong thủ công, với nhiều nghề đạt trình độ cao và chuyên môn hóa ngày càng sâu Nhiều quan điểm về làng nghề và làng nghề truyền thống đã được đưa ra, trong đó có những quan điểm được giới khoa học và các chuyên gia công nhận là đầy đủ và chính xác nhất.

Theo Trần Minh Yến trong cuốn “Làng nghề truyền thống trong quá trình CNH – HĐH”, nghề truyền thống là nghề tiểu thủ công nghiệp có nguồn gốc lâu đời, tập trung tại các vùng hoặc làng nhất định, dẫn đến sự hình thành của các làng nghề, phố nghề và xã nghề Đặc trưng nổi bật của nghề truyền thống là kỹ thuật và công nghệ truyền thống, cùng với sự hiện diện của nghệ nhân và thợ lành nghề Sản phẩm của nghề truyền thống không chỉ mang tính hàng hóa mà còn chứa đựng giá trị nghệ thuật và bản sắc dân tộc Trong các làng có nghề truyền thống, hầu hết người dân đều tham gia vào nghề này, mặc dù họ có thể phát triển thêm các nghề khác nhưng với tỷ trọng nhỏ hơn.

Ngày nay, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật và công nghệ đã cải tiến quy trình sản xuất sản phẩm, dẫn đến việc mở rộng khái niệm nghề truyền thống Theo Tiến Sĩ Đỗ Quang Dũng trong Luận án “Phát triển làng nghề trong quá trình CNH – HĐH nông nghiệp, nông thôn”, nghề truyền thống được định nghĩa là các làng ở nông thôn có một hoặc một số nghề thủ công tách biệt khỏi nông nghiệp, hoạt động độc lập và có tỷ lệ lao động cũng như thu nhập từ nghề đạt mức đáng kể so với tổng thể lao động và thu nhập của làng.

Theo Tiến sĩ kinh tế Mai Thế Hởn, làng nghề là một cộng đồng dân cư trong một thôn, nơi có một hoặc một số nghề được tách ra khỏi nông nghiệp để hoạt động sản xuất và kinh doanh độc lập Thu nhập từ các nghề này đóng góp một tỉ trọng đáng kể vào tổng giá trị sản phẩm của toàn làng.

Theo Tiến sĩ Mai Thế Hởn, làng nghề truyền thống là những thôn làng chuyên sản xuất các nghề thủ công, được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác Qua thời gian, các làng nghề này đã phát triển thành những nghề nổi bật, với đội ngũ thợ thủ công chuyên nghiệp và bán chuyên nghiệp, tập trung vào quy trình sản xuất nhất định Sản phẩm từ các làng nghề không chỉ mang tính mỹ nghệ cao mà còn trở thành hàng hóa có giá trị trên thị trường.

Không phải mọi làng có nghề thủ công đều được công nhận là làng nghề hay làng nghề truyền thống; điều này phụ thuộc vào các tiêu chí cụ thể Các tiêu chí này bao gồm quy mô số hộ gia đình tham gia nghề, sản lượng sản xuất và tổng thu nhập từ nghề đạt một mức độ nhất định.

Từ năm 2008, làng nghề được phân chia thành làng nghề mới và làng nghề truyền thống, mỗi loại có tiêu chí riêng Làng nghề mới, như làng dệt kim La Phù và làng chế biến lâm sản Đồng Nhân, yêu cầu tối thiểu 70% số hộ có nghề khác nông nghiệp và dịch vụ, với nghề tiêu biểu chiếm hơn 50% tổng số nghề, và giá trị sản phẩm của tất cả các nghề phải đạt trên 70% Trong khi đó, làng nghề truyền thống có tiêu chí thấp hơn, yêu cầu ít nhất 50% số hộ làm nghề khác nông nghiệp, trong đó 30% làm nghề truyền thống và giá trị sản lượng nghề đạt từ 30% trở lên Để được công nhận là làng nghề truyền thống, làng phải có Cụ tổ nghề và nghề đó phải tồn tại ít nhất 100 năm.

Sự phân biệt và ưu tiên trong tiêu chí công nhận làng nghề truyền thống xuất phát từ đặc trưng độc đáo và tinh xảo của nghề, trong khi đó, nhiều nghề đang dần mai một Việc công nhận làng nghề truyền thống không chỉ giúp nghề được Nhà nước quan tâm mà còn tạo cơ hội khôi phục và phát triển, góp phần vào quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn Để được công nhận, cả làng nghề mới và cũ cần đạt các tiêu chí như làng văn hóa, với trên 70% hộ đạt danh hiệu “Gia đình văn hóa” và tuân thủ các chính sách pháp luật của Nhà nước.

Hiện nay, cả nước có 2017 làng nghề, trong đó hơn 15% làng nghề truyền thống đã được Nhà nước công nhận, thể hiện sự quan tâm đối với việc khôi phục và phát triển các làng nghề Hà Nội dẫn đầu cả nước với 1270 làng nghề, chiếm 62% tổng số làng nghề, trong đó có 244 làng nghề truyền thống (số liệu đến cuối 2009) Điều này nhấn mạnh tầm quan trọng của các làng nghề truyền thống đối với sự phát triển của đất nước trong bối cảnh hội nhập toàn cầu, đặc biệt sau khi Việt Nam gia nhập WTO.

1.1.2 Đặc điểm của làng nghề truyền thống trong thời đại hiện nay

Làng nghề truyền thống là những cộng đồng sản xuất tiểu thủ công nghiệp có lịch sử lâu dài, thường từ 100 năm trở lên, với những nghệ nhân tài ba và kỹ thuật tinh xảo Các làng nghề này chủ yếu hoạt động theo phương thức hộ gia đình, tận dụng không gian và lao động của gia đình, do đó việc truyền nghề thường diễn ra trong quy mô gia đình với các quy định riêng, như không truyền nghề cho người ngoài làng hay không truyền cho con gái Trong bối cảnh công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước hiện nay, làng nghề truyền thống vẫn giữ được những đặc điểm văn hóa và kỹ thuật độc đáo, góp phần vào sự phát triển kinh tế và bảo tồn di sản văn hóa dân tộc.

1.1.2.1 Làng nghề truyền thống có quan hệ gắn bó với nông nghiệp nhƣng ngày càng ít phụ thuộc vào nông nghiệp

Làng nghề có nguồn gốc từ làng nông nghiệp, tạo ra mối liên hệ chặt chẽ giữa nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp Sự phát triển của ngành tiểu thủ công nghiệp phụ thuộc vào nông nghiệp, với phần lớn nguyên liệu được cung cấp từ lĩnh vực này Nguồn vốn ban đầu của làng nghề thường xuất phát từ tích lũy nông nghiệp Sản phẩm của làng nghề chủ yếu phục vụ cho nông nghiệp và cư dân nông thôn, như nón Chuông, quạt Vác, gốm Bát Tràng Nhiều hộ dân trong làng vừa làm nông nghiệp vừa tham gia vào tiểu thủ công nghiệp, do đó lao động trong nghề thường được huy động nhiều nhất vào mùa nông nhàn.

Sự phát triển kinh tế xã hội đã làm rõ sự độc lập giữa làng nghề và nông nghiệp Trước đây, sản phẩm thủ công truyền thống chủ yếu phục vụ đời sống hàng ngày, nhưng hiện nay, nguyên liệu sản xuất ngày càng phong phú và đa dạng, không chỉ từ nông nghiệp mà còn từ nhiều nguồn khác Sản phẩm không chỉ phục vụ nhu cầu trong làng mà còn được tiêu thụ ra ngoài tỉnh và xuất khẩu Sự phát triển của làng nghề đã góp phần đầu tư trở lại cho nông nghiệp, nâng cao kỹ thuật và cơ giới hóa, giúp nông nghiệp chuyên môn hóa hơn Lao động trong làng nghề cũng trở nên chủ động hơn nhờ phân công lao động và sự tham gia của lao động từ nơi khác, làm giảm tỷ lệ lao động địa phương và tăng số lao động ngoại tình, bao gồm cả những chuyên gia tay nghề cao.

1.1.2.2 Lao động trong làng nghề là sự kết hợp giữa kỹ năng, kỹ thuật cao với sự khéo léo, tinh xảo của người nghệ nhân

Vai trò của làng nghề truyền thống đối với sự phát triển kinh tế xã hội

Làng nghề truyền thống đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế xã hội thời kỳ mới, không chỉ giới hạn trong phạm vi một làng mà còn mở rộng ra quy mô lớn hơn.

Hiện nay, 2000 làng nghề đóng góp đáng kể vào tổng thu nhập quốc dân, tạo việc làm cho hàng ngàn lao động và cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của người dân Bên cạnh đó, các làng nghề còn chuẩn bị cho đội ngũ lao động nước ta tiến vào thời kỳ công nghiệp hóa – hiện đại hóa.

Vai trò của làng nghề được thể hiện ở một số mặt chủ yếu sau đây:

1.2.1 Đẩy mạnh phân công lao động, tạo việc làm, thu hút lao động dƣ thừa từ nông thôn

Kinh tế xã hội phát triển đã dẫn đến việc một số công đoạn trong nghề thủ công được thay thế bằng máy móc hiện đại, nâng cao năng suất lao động và trình độ chuyên môn Trong ngành thủ công mỹ nghệ, các công đoạn đã được chuyên môn hóa với sự xuất hiện của các xưởng gia công và hoàn thiện riêng biệt, cùng với khâu giới thiệu và bán hàng độc lập Trước đây, tất cả các công đoạn chế tác đều thực hiện bằng tay, nhưng hiện nay, máy cưa, máy bào, máy xẻ gỗ, máy phun sơn và công nghệ dát vàng, bạc đã hỗ trợ tạo ra những sản phẩm bóng bẩy, tinh xảo hơn, đồng thời giảm bớt công lao động nặng nhọc và hạ giá thành sản phẩm.

Năm 2008, các làng nghề ở Đồng bằng sông Hồng thu hút hơn 600.000 lao động từ khắp nơi, trong đó làng gốm Bát Tràng có từ 3.000 đến 5.000 lao động và làng gỗ mỹ nghệ Đồng Kỵ thu hút trên 1.500 lao động.

Năm 2006, tỉnh Hà Tây có 219 làng nghề được Nhà nước công nhận, thu hút hơn 82.000 hộ gia đình tham gia, chiếm gần 80% tổng số hộ trong các làng Số lao động thường xuyên đạt khoảng 197.000 người, tương đương 72% lực lượng lao động nông thôn, cho thấy sự phát triển đáng mừng của ngành nghề truyền thống tại địa phương.

Hiện nay, vấn đề lao động tại Việt Nam đang rất cấp bách và được Nhà nước chú trọng Tính đến năm 2008, tỷ lệ thất nghiệp toàn quốc vẫn cao, khoảng 17%, chủ yếu ở khu vực nông thôn Phát triển làng nghề được xem là giải pháp hiệu quả để tạo việc làm và thu hút lao động dư thừa từ nông thôn Ngoài việc tạo ra nhiều ngành dịch vụ mới và sản phẩm mới, phát triển làng nghề còn giúp hình thành các công việc bán thời gian cho lao động Quá trình này cũng thúc đẩy phân công lao động, nâng cao kỹ thuật và kiến thức, đồng thời rèn luyện tác phong công nghiệp, giúp lao động Việt Nam tiến vào thời kỳ công nghiệp hóa – hiện đại hóa.

1.2.2 Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nông thôn, tăng thu nhập, cải thiện đời sống văn hoá - tinh thần, thu hẹp dần khoảng cách giữa thành thị và nông thôn

Từ những làng chuyên làm nông, giờ đây đã chuyển mình thành các làng nghề thủ công, với nhiều hộ gia đình tham gia sản xuất Sự phát triển của làng nghề không chỉ giúp tích lũy kinh tế mà còn tạo cơ hội cho người dân đầu tư trở lại nông nghiệp với công nghệ và cơ giới hoá hiện đại Điều này dẫn đến sự ra đời của nhiều ngành dịch vụ, như cơ khí, máy móc, và các dịch vụ phục vụ du lịch như quán cà phê, nhà hàng, và khách sạn Cơ cấu kinh tế đã có sự chuyển đổi rõ rệt, đa dạng hóa ngành nghề và thu hút lao động từ nhiều nơi khác.

Thu nhập từ nghề thủ công cao hơn nhiều so với nông nghiệp, thường gấp 3,5 đến 7 lần, dẫn đến cải thiện đời sống nhân dân Nhiều hộ gia đình có thu nhập cao, tích lũy hàng năm lên tới hàng trăm triệu đồng, trở thành hộ giàu Tỷ lệ hộ nghèo ở các làng nghề đã giảm đáng kể, với nhiều nhà kiên cố được xây dựng và gần như 100% gia đình sở hữu thiết bị vô tuyến, truyền hình, đầu đĩa So với làng thuần nông, làng nghề có mức thu nhập bình quân đầu người cao hơn, giúp người dân tiếp cận nhiều loại hình văn hóa và giải trí, làm phong phú thêm đời sống Sự ổn định kinh tế này góp phần thu hẹp khoảng cách giữa thành thị và nông thôn, tạo sự đồng đều trong nền kinh tế xã hội giữa các vùng và toàn quốc.

1.2.3 Thúc đẩy phát triển kết cấu cơ sở hạ tầng, làm thay đổi bộ mặt nông thôn mới

CNH – HĐH là con đường tất yếu mà các nước sản xuất lớn phải trải qua, đặc biệt đối với Việt Nam, một quốc gia nông nghiệp lạc hậu Việc CNH – HĐH nông nghiệp nông thôn mang ý nghĩa chiến lược, trong đó khôi phục và phát triển làng nghề truyền thống là một trong những chiến lược quan trọng Đây là chủ trương đúng đắn của Nhà nước, nhận được sự ủng hộ nhiệt tình từ chính quyền và người dân Để phát triển làng nghề, cần xây dựng cơ sở hạ tầng như nhà xưởng, hệ thống điện và giao thông Sự phát triển của làng nghề sẽ thúc đẩy đầu tư vào cơ sở hạ tầng, cải thiện điều kiện làm việc và giao thông Hệ thống thông tin liên lạc, bao gồm Internet, cũng ngày càng phát triển, góp phần làm đẹp bộ mặt nông thôn mới.

Kinh tế phát triển không chỉ mang lại lợi ích cho người dân mà còn tạo ra nguồn thu lớn cho ngân sách Nhà nước và địa phương Nhờ vào nguồn thu này, các địa phương có thể đầu tư vào các công trình công cộng, giáo dục, y tế, cơ sở hạ tầng như điện, đường, trường, trạm, từ đó cải thiện đời sống và bộ mặt nông thôn, đồng thời xây dựng nông thôn mới theo chiến lược phát triển quốc gia.

1.2.4 Góp phần giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc và phát triển du lịch

Sản phẩm truyền thống của làng nghề Việt Nam, được tạo ra bởi bàn tay khéo léo của các nghệ nhân, mang tính nghệ thuật cao và thể hiện đặc trưng văn hóa độc đáo Những sản phẩm này không chỉ là biểu tượng của cái đẹp mà còn là di sản văn hóa của dân tộc Chúng góp phần làm nổi bật nét đặc sắc của nền văn hóa cộng đồng và giúp người nước ngoài biết đến Việt Nam qua các mặt hàng thủ công truyền thống.

Nghề truyền thống là di sản quý giá mà cha ông để lại, do đó, phát triển làng nghề, đặc biệt là làng nghề truyền thống, là cách giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc Điều này rất quan trọng vì nền văn hóa mỗi dân tộc quyết định sự tồn tại của họ Qua làng nghề, người ta có thể hiểu thêm về văn hóa nghề, con người và sắc thái văn hóa của quê hương, đất nước Tuy nhiên, việc phát triển làng nghề cần gắn với hiện đại hóa để tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm, giúp sản phẩm đứng vững trên thị trường.

Du lịch làng nghề đang phát triển mạnh mẽ và trở thành thế mạnh của nhiều vùng miền trước đây chủ yếu dựa vào nông nghiệp.

Hà Tây (cũ), hiện nay thuộc Hà Nội, là vùng đất nổi bật với truyền thống văn hóa và lịch sử phong phú, sở hữu hơn 200 làng nghề truyền thống, nhiều nhất cả nước Nơi đây còn nổi tiếng với các di tích lịch sử như chùa Thầy, chùa Tây Phương, chùa Trăm Gian và Thành cổ, tạo nên một bức tranh văn hóa đa dạng và sâu sắc.

Làng nghề sơn điêu khắc gỗ mỹ nghệ truyền thống Sơn Đồng

1.3.1 Cơ sở hình thành làng nghề

1.3.1.1 Điều kiện tự nhiên, kinh tế

Hoài Đức là huyện nằm ở phía Tây Bắc Hà Tây cũ, bao gồm 20 xã và thị trấn Huyện này giáp với Đan Phượng ở phía Bắc, Thanh Oai và Hà Đông ở phía Nam, Quốc Oai ở phía Tây, và Từ Liêm ở phía Đông Là cửa ngõ quan trọng của Thủ đô, Hoài Đức kết nối văn hóa xứ Đoài với kinh thành Thăng Long Vùng đất này không chỉ giàu tài nguyên mà còn lưu giữ nhiều giá trị văn hóa truyền thống Đặc biệt, huyện có hai làng Khoa bảng nổi tiếng là Sơn Đồng và An Hội, nằm trong số 13 làng khoa bảng của Hà Tây.

Hoài Đức, mặc dù không nổi tiếng với nhiều điểm di tích hay du lịch như Sơn Tây hay Thạch Thất, lại là huyện có số lượng di tích lịch sử văn hóa được Nhà nước công nhận lớn nhất với 57 di tích xếp hạng Tính đến nay, huyện có gần 200 di tích lớn nhỏ, đứng đầu tỉnh Điều này xuất phát từ phong tục thôn làng, mỗi làng đều có đình, chùa và các lễ hội riêng, tạo nên sự đa dạng văn hóa đặc sắc Chẳng hạn, xã Vân Côn có 7 thôn, mỗi thôn đều sở hữu di tích lịch sử và lễ hội riêng, góp phần làm phong phú thêm bản sắc văn hóa của Hoài Đức.

Hoài Đức nổi tiếng với nhiều làng nghề thủ công truyền thống, đặc biệt là làng điêu khắc gỗ mỹ nghệ Sơn Đồng và làng nhiếp ảnh Lai Xá Làng nhiếp ảnh Lai Xá là quê hương của cụ Nguyễn Đình Khánh, người được coi là Tổ nghề nhiếp ảnh Việt Nam Cụ đã truyền dạy nghệ thuật chụp ảnh cho nhiều thế hệ nhiếp ảnh gia, bao gồm cả Bác Hồ Hầu hết các cửa hàng nhiếp ảnh trên toàn quốc đều có người xuất thân từ làng Lai Xá.

Xã Sơn Đồng, nằm ở phía tây bắc huyện Hoài Đức, bao gồm hai thôn: Nội và Ngoại Theo tài liệu lịch sử, vào đầu thời Nguyễn, Sơn Đồng thuộc tổng Sơn Đồng, huyện Đan Phượng, phủ Quốc Oai, trấn Sơn Tây Sau khi thực dân Pháp xâm lược, xã này đã trải qua nhiều lần điều chỉnh địa giới hành chính, chuyển từ huyện Đan Phượng sang tỉnh Hà Đông Đến tháng 10 năm 1948, Sơn Đồng hợp nhất với ba xã khác thành xã Phương Sơn, huyện Liên Bắc Tháng 4 năm 1954, huyện Liên Bắc được chia thành huyện Đan Phượng và Hoài Đức, và Sơn Đồng được tái lập Hiện nay, xã Sơn Đồng có diện tích tự nhiên 328 ha, trong đó đất canh tác chiếm 209,35 ha, giáp ranh với xã Kim Chung ở phía Đông, Cát Quế và Yên Sở ở phía Tây, và các xã lân cận khác.

Lại Yên, Song Phương, phía Bắc là Đức Giang Dân số của Sơn Đồng nếu tính ở thời điểm trước cách mạng là khoảng 700 hộ với khoảng 3000 nhân khẩu

Sơn Đồng, thuộc huyện Hoài Đức, là vùng đất có nền văn minh lúa nước tại đồng bằng châu thổ sông Hồng, với cư dân sinh sống từ sớm Gần Sơn Đồng là xã Cát Quế, nơi vào năm 1966, các nhà khảo cổ đã phát hiện nhiều di vật bằng đá và đồng, như rừu hình thang, bàn mài, khuyên tai, mũi giáo, mũi tên và mũi lao, ở độ sâu 1,7m – 1,8m Những hiện vật này thuộc văn hóa Gò Mun, có niên đại khoảng 3500 năm, chứng minh bề dày văn hóa của vùng đất này.

Vùng đất Sơn Đồng, cách Hà Nội 18 km về phía Tây và thị xã Hà Đông 15 km về phía Bắc, trước đây không gần các tuyến giao thông quan trọng Con đường duy nhất từ đê sông Đáy lên Sơn Đồng qua Kim Chung và Đức Giang tới Trạm Trôi chỉ là một con đường nhỏ hẹp, trong khi con đường từ An Hội (Cát Quế) qua Sơn Đồng đi ngã tư Canh vẫn là đường đất liên thôn Trước giải phóng, Sơn Đồng gặp nhiều khó khăn trong giao thông và giao lưu buôn bán với bên ngoài.

Từ những năm 60 của thế kỷ XX, con đường nhỏ hẹp đã được cải tạo và mở rộng, trở thành tuyến giao thông liên xã, liên huyện nhờ vào các dự án thủy lợi và phát triển giao thông nông thôn Hiện nay, con đường đã được trải nhựa, kết nối từ chân đê Đáy lên Trạm Trôi và gặp đường 32, hoặc qua Lại Yên để nối với đường cao tốc Láng – Hòa Lạc Sự phát triển này đã tạo ra một ngã tư Sơn Đồng sầm uất, làm cho chợ chiều Đức Giang trở nên náo nhiệt hơn.

Xã Sơn Đồng, giống như nhiều làng xã khác ở đồng bằng châu thổ sông Hồng, đã trải qua thời kỳ khó khăn với đời sống chủ yếu dựa vào nông nghiệp Đến năm 1992, đất canh tác bình quân mỗi nhân khẩu chưa đến một sào bắc bộ, buộc người dân phải tìm thêm nghề phụ như dệt vải và làm ghế mây Trong bối cảnh khó khăn, người dân đã phát triển nghề làm đồ mỹ nghệ và đồ thờ tượng Phật, từ những hộ gia đình đầu tiên cho đến khi lan rộng khắp làng Sự cần cù và sáng tạo của người dân đã giúp họ vượt qua thử thách, tạo ra kho tàng sản phẩm thủ công nổi tiếng, đặc biệt là làng sơn điêu khắc mỹ nghệ truyền thống Sơn Đồng.

1.3.1.2 Điều kiện văn hoá, xã hội

Sơn Đồng có diện tích 328ha, bao gồm đất canh tác và đất thổ cư, với dân số hiện tại là 8,550 người, trong đó 4,159 người trong độ tuổi lao động, chiếm 48.5% tổng dân số (Nguồn: Phòng Thống kê huyện Hoài Đức, tháng 12/2009) Cơ cấu dân số trẻ tạo ra thách thức trong việc giải quyết việc làm, nhưng cũng là cơ hội lớn để Sơn Đồng phát triển nguồn lao động tại chỗ cho sản xuất làng nghề.

Làng Sơn Đồng nổi tiếng với truyền thống cần cù hiếu học, là một trong 13 làng khoa bảng của Hà Tây, với tám người đỗ tiến sĩ, bao gồm 1 Thám hoa, 2 Hoàng giáp và 5 Tam giáp, phục vụ trong các triều đại từ Lý - Trần, Lê Sơ đến Lê Trịnh và Nguyễn Đặc biệt, tiến sĩ Nguyễn Viết Thứ đã đạt chức Tể tướng và làm quan ở nhiều vị trí quan trọng, trong khi cha ông, Nguyễn Viết Quảng, cũng là một trong bốn người trong dòng họ Nguyễn đỗ tiến sĩ.

Dòng họ Nguyễn tại làng có truyền thống văn hóa lâu đời, nổi bật với nhiều tiến sĩ như Nguyễn Trí Cung (đỗ năm 1703), Nguyễn Trí Lợi (đỗ năm 1712) và Nguyễn Trung Khuyến (đỗ năm 1889) Niềm tự hào này không chỉ phản ánh sự học vấn mà còn thể hiện những đóng góp quan trọng của họ trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước suốt hàng ngàn năm lịch sử.

Nối tiếp truyền thống hiếu học, thế hệ thanh niên Sơn Đồng hiện nay đang nỗ lực học tập và đạt nhiều thành tích xuất sắc trong các kỳ thi tuyển sinh đại học, cao đẳng, với nhiều người đã trưởng thành và trở thành những doanh nhân thành đạt.

Sơn Đồng là vùng đất nổi tiếng với nhiều di tích lịch sử được Nhà nước công nhận, trong đó có 6 di tích cấp Quốc gia, bao gồm Đình Sơn Đồng, Chùa Diên Phúc, Chùa Kỳ Đà, Đền Thượng và nhà thờ.

Đình Sơn Đồng, tọa lạc trên trục đường phân định hai thôn Nội và Ngoại của xã Sơn Đồng, là đình chung của cả hai thôn, thường được gọi là đình Hát Đình nhìn về phía Tây Nam, được bao quanh bởi nhiều cây cổ thụ, là nơi tụ tập của người dân trong làng Mặc dù bề ngoài có vẻ mới, nhưng đình có bề dày lịch sử, với truyền thuyết về vị thế như hình con rồng Tấm bia ghi lại lời nguyền của cư dân hai thôn vào năm 1913 nhấn mạnh sự tôn trọng đối với long mạch Đình được xây dựng từ năm 1695 và tu sửa vào năm 1817 Đền Thượng, nằm sau chùa Diên Phúc, ban đầu chỉ là miếu thờ được xây dựng vào năm 1485, sau đó được vua Lê Thái Tổ ban cho vàng bạc để xây dựng thành đền lớn Đền có kiến trúc kiểu chữ Nôm với 6 mái, rất hiếm gặp ở Việt Nam, và chứa nhiều hiện vật quý giá như tượng thờ đá và cuốn “Ngọc phả” do Nguyễn Bính soạn năm 1572 Đền Thượng thờ quan Thái phi Đào Trực, người đã giúp vua Lê Đại Hành đánh bại quân Tống và mở trường dạy học cho dân làng.

“Danh lam cổ tích tự Thượng đẳng tối linh từ”

Dịch là: ( Danh lam còn ghi sự tích cổ

Chùa Kỳ Đà, được xây dựng trước chùa Diên Phúc, mang kiến trúc cổ hình chữ Đinh và tọa lạc trên khu đất cao, có thế Tam bảo giống như trên lưng con kỳ đà, nên được người dân địa phương đặt tên là chùa Kỳ Đà Chùa Diên Phúc cũng có ý nghĩa đặc biệt trong văn hóa địa phương.

Thực trạng phát triển của làng nghề và

Thực trạng phát triển của làng nghề

2.1.1 Những thành tựu đạt đƣợc

 Thứ nhất, về sản phẩm:

Làng nghề Sơn Đồng hiện nay nổi bật với các sản phẩm tâm linh như đồ thờ, tượng Phật, hoành phi, câu đối, cuốn thư, ban thờ và các biểu tượng như ông Hạc, ông Ngựa Những sản phẩm này được chế tác bằng kỹ thuật sơn thếp vàng truyền thống kết hợp với công nghệ phun sơn hiện đại, mang lại độ bền cao và sự đồng đều, đáp ứng nhu cầu trùng tu và tu bổ các di tích văn hóa.

Trong quá trình phát triển, nhiều cơ sở sản xuất vẫn duy trì công nghệ chế tác sản phẩm từ A – Z Tuy nhiên, trong bối cảnh hội nhập, các doanh nghiệp và hộ làm nghề đang chuyển dần sang công nghệ chuyên môn hóa, tập trung vào từng công đoạn Đây là sự phát triển tất yếu của công nghệ hiện đại, đồng thời vẫn phù hợp với triết lý truyền thống “trăm hay không bằng tay quen”.

Đầu tư công nghệ vào sản xuất giúp giảm lao động nặng nhọc, giảm nguy hiểm và độc hại, đồng thời rút ngắn thời gian gia công và nâng cao năng suất lao động Tại Sơn Đồng, có những cơ sở chuyên môn hóa như xưởng của bà Lộc chuyên làm phần mộc gia công và xưởng của anh Hạ chuyên hoàn thiện sản phẩm Công đoạn hoàn thiện yêu cầu sự tỉ mỉ, khéo léo và khả năng thẩm mỹ cao để dán vàng, bạc mỏng lên gỗ, tạo vẻ linh thiêng và huyền bí cho sản phẩm đồ thờ.

Anh Nguyễn Chí Quang đã mở xưởng pha chế sơn tượng Phật và đồ thờ với công thức phù hợp, tạo ra sản phẩm chất lượng tốt và giá cả phải chăng, thuận lợi cho các xưởng chế tác trong làng Anh Nguyễn Viết Thạnh không chỉ chế tác mà còn nhận trùng tu, tu bổ di tích và nghiên cứu mẫu mã mới, có giá trị thương mại cao gấp 3 đến 4 lần so với mẫu cũ Sản phẩm của Sơn Đồng đã vươn ra thị trường Thái Lan và nhiều nước châu Âu, châu Mỹ Tuy nhiên, việc thay đổi mẫu mã mới chưa phổ biến do tâm lý ngại thay đổi của người thợ và mức độ nghiên cứu còn hạn chế, vì vậy cần sự quan tâm và khuyến khích từ chính quyền.

Anh Nguyễn Trung Thành, chủ công ty TNHH Hợp Phát tại ngã tư Sơn Đồng, vừa hoàn thành bức tượng Phật Bà cao 3.5m cho một ngôi chùa ở Tây Nguyên và bức tượng Di-đà cao 4.5m, kỷ lục ở làng tự, cho một ngôi chùa ở Hải Dương Anh cho biết, giá trị của những bức tượng này lên tới hàng trăm triệu đồng Xưởng của anh có 13 thợ, thường xuyên đảm bảo có việc làm cho tất cả.

Theo số liệu từ Phòng Thống kê huyện Hoài Đức cuối năm 2009, sản lượng sản phẩm của làng nghề mỹ nghệ Sơn Đồng hàng năm đều tăng trưởng.

Câu đối (đôi) 645 703 760 790 Đồ thờ khác 2240 2291 2366 2503

Bảng sản lượng sản phẩm hàng năm của làng nghề đối với một số sản phẩm

( Tính đến 31/12/2009, Nguồn: Phòng Thống Kê huyện Hoài Đức)

Bảng số liệu cho thấy sản phẩm sản xuất qua các năm có sự tăng trưởng, nhưng mức độ tăng không đáng kể, điều này cho thấy mức tiêu thụ sản phẩm vẫn còn hạn chế.

 Thứ hai, về quy mô sản xuất:

Quy mô sản xuất nhỏ là đặc điểm chung của các làng nghề truyền thống, bao gồm làng nghề sơn điêu khắc mỹ nghệ Sơn Đồng Hầu hết sản xuất diễn ra theo phương thức hộ gia đình, với quy mô và số lượng thợ khác nhau tùy thuộc vào điều kiện từng hộ Theo thống kê đến cuối năm 2009, trong tổng số 2032 hộ, có 879 hộ làm nghề thủ công, chiếm 43.2% Các hộ sản xuất chủ yếu theo kiểu tự phát, tận dụng không gian gia đình, với chỉ hơn 10% có xưởng sản xuất riêng và khoảng 30% sở hữu từ 10 thợ lành nghề trở lên.

Thực trạng quản lý làng nghề gặp nhiều khó khăn, đặc biệt trong việc áp dụng công nghệ vào sản xuất và chuyên môn hóa quy mô lớn Mặc dù một số xưởng như của bà Lộc và anh Hạ đã bắt đầu chuyên môn hóa, nhưng quy mô sản xuất vẫn còn nhỏ Điều này dẫn đến khó khăn trong việc xử lý rác thải và nước thải theo tiêu chuẩn, do các hộ không đủ kinh phí và điều kiện để đầu tư vào công nghệ xử lý tiên tiến.

 Thứ ba, về thị trường:

Thị trường hiện nay đang là thách thức lớn đối với các làng nghề, đặc biệt là làng nghề Sơn Đồng Người dân chủ yếu tự tìm kiếm nguồn nguyên liệu và thị trường tiêu thụ sản phẩm, thường chỉ chờ đợi đơn đặt hàng mà không chủ động Sản phẩm đồ thờ yêu cầu phải liên tục tìm kiếm thị trường mới, vì vậy sự năng động trong việc phát triển thị trường là rất quan trọng Mặc dù làng Sơn Đồng là nơi duy nhất ở miền Bắc chế tác đồ thờ, tượng Phật và sơn thếp vàng truyền thống, nhưng lợi thế này vẫn chưa được khai thác hiệu quả.

Sản phẩm của làng nghề Sơn Đồng đã đạt được nhiều thành công, không chỉ có mặt trong nước mà còn xuất khẩu sang nhiều quốc gia châu Á, châu Âu và châu Mỹ Các nước như Hàn Quốc, Nhật Bản, Thái Lan và Pháp là những thị trường tiêu biểu nhập khẩu đồ thờ và tượng Phật từ Sơn Đồng Trong nước, sản phẩm của làng nghề thường được sử dụng trong các dự án phục dựng, trùng tu di tích và làm mới tượng Phật, với sự góp mặt của những nghệ nhân tài hoa từ Sơn Đồng Hầu hết các tỉnh miền Bắc như Hải Dương, Hưng Yên, Phú Thọ, Hải Phòng, Yên Bái, Bắc Giang, Bắc Ninh đều có sản phẩm của làng nghề này.

Trong làng, anh Nguyễn Bính Hiệp, 28 tuổi, là kỹ sư tin học với trình độ tiếng Anh xuất sắc Anh làm việc tại công ty Hợp Phát và nhờ lợi thế ngôn ngữ, anh đã nhận được lô hàng đồ thờ, hoành phi, câu đối từ Đại sứ quán Việt Nam tại Hoa Kỳ Lô hàng này được gửi để giới thiệu với các doanh nghiệp và bạn hàng trong dịp Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết thăm Mỹ.

Mỹ là một thị trường tiềm năng rộng lớn, và đây là cơ hội hiếm có để hàng thủ công mỹ nghệ Sơn Đồng được giới thiệu và quảng bá thương hiệu, từng bước thâm nhập vào thị trường này.

 Thứ tư, về lao động và thu nhập:

Tính đến cuối năm 2009, Sơn Đồng có 2.032 hộ với 8.551 nhân khẩu, dự kiến đến cuối 2010 sẽ có 2.232 hộ và đến năm 2020 là 1.506 hộ với 14.051 nhân khẩu Trong số đó, có 879 hộ chuyên làm nghề thủ công mỹ nghệ, 485 hộ sản xuất nông nghiệp thuần nông, và 385 hộ làm dịch vụ thương mại, tổng số hộ làm nghề truyền thống chiếm 43,3% tổng số hộ trong làng.

Sơn Đồng sở hữu nguồn lao động trẻ dồi dào, chiếm 48.6% tổng dân số trong làng và từ các khu vực lân cận Sự gia tăng số lao động trong lĩnh vực thủ công mỹ nghệ, dịch vụ và thương mại đang diễn ra, trong khi số lao động thuần nông ngày càng giảm.

Bảng phân bổ lao động trong các ngành nghề ở Sơn Đồng

( Tính đến 31/12/2009, Nguồn: Phòng Thống Kê huyện Hoài Đức)

Nguyên nhân của thực trạng trên

2.2.1 Nguyên nhân chủ quan: Công tác quản lý

2.2.1.1 Những điều đã làm đƣợc

Quản lý làng nghề không chỉ là trách nhiệm của chính quyền địa phương mà còn là quyền lợi của các hộ gia đình và doanh nghiệp trong làng nghề Để đảm bảo nguồn nguyên liệu ổn định, đào tạo tay nghề cao và tạo ra sản phẩm chất lượng, cần sự chung tay của mọi cá nhân, tập thể và chính quyền Sự quan tâm của Nhà nước và chính quyền địa phương đã mang lại những kết quả tích cực, như chính sách khuyến khích đầu tư cơ sở hạ tầng và ưu đãi cho nghệ nhân, góp phần nâng cao đời sống người dân Sự ra đời của Hiệp hội làng nghề Việt Nam, đặc biệt là Hiệp hội làng nghề Thành phố, đã định hướng phát triển hợp lý cho làng nghề với sự hỗ trợ từ Hội nghệ nhân và thợ giỏi.

Thành phố được thành lập cũng là một thuận lợi lớn để làng nghề Sơn Đồng đạt được những thành tựu như ngày hôm nay

Nhà nước đã triển khai nhiều chính sách hỗ trợ phát triển làng nghề, bao gồm các quyết định và chỉ thị như QĐ 132/2000/QĐ – TTg khuyến khích phát triển ngành nghề nông thôn, NĐ 66/2006/NĐ – CP về phát triển ngành nghề nông thôn, và đề án “Mỗi làng một sản phẩm” giai đoạn 2006 – 2015 nhằm phát huy tiềm năng địa phương và tạo mối liên kết giữa các nhà sản xuất, kinh doanh, văn hóa, thiết kế và du lịch Gần đây, vào tháng 1/2009, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 131/2009/QĐ – TTg về các gói kích thích phát triển làng nghề trong bối cảnh nền kinh tế hồi phục.

1 Hỗ trợ lãi suất 4% cho các tổ chức, cá nhân vay vốn ngân hàng để sản xuất kinh doanh (tức là vốn lưu động), là gói kích cầu thứ nhất

2 Gói kích cầu thứ hai: Cho các tổ chức cá nhân vay vốn trung và dài hạn của ngân hàng để đầu tư mới sản xuất kinh doanh, xây dựng kết cấu hạ tầng trong thời gian tối đa là 24 tháng

3 Chính phủ đã có quyết định hỗ trợ lãi suất vay vốn mua máy móc, thiết bị, vật tư phục vụ sản xuất nhiều loại được hỗ trợ 100%, thời hạn từ 12 – 24 tháng

4 Việc bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa vay vốn của các ngân hàng thương mại được giao cho Ngân hàng Phát triển Thương mại Việt Nam (VDB) thực hiện và VDB cũng đang tiếp tục ký thoả thuận với các ngân hàng thương mại để mở rộng tiếp nhận và bảo lãnh cho doanh nghiệp vay vốn

Các cuộc hội thảo và hội nghị do các bộ, ban ngành cùng tổ chức nước ngoài diễn ra liên tục nhằm tìm kiếm hướng phát triển cho làng nghề Tại đây, các thợ làm nghề và người quản lý có cơ hội chia sẻ suy nghĩ, khó khăn và vướng mắc của mình để cùng nhau tìm giải pháp Qua mỗi buổi làm việc, họ tích lũy được những kinh nghiệm quý báu cho sự phát triển của làng nghề.

Để phát triển bền vững các làng nghề truyền thống và bảo tồn bản sắc văn hóa Thủ đô, Hà Nội đang triển khai đề án “Bảo tồn và phát triển nghề, làng nghề Hà Nội” giai đoạn 2010 – 2015 với tổng vốn đầu tư 3620 tỷ đồng Đề án nhấn mạnh sự hài hòa giữa sản xuất và bảo vệ môi trường, nhằm tăng thu nhập và giảm nghèo ở khu vực nông thôn theo phương châm “ly nông bất ly hương” Đồng thời, đề án cũng tập trung vào việc giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống của từng địa phương, nâng cao lòng tự hào và ý thức bồi dưỡng nghề cho thế hệ trẻ Thủ đô.

2.2.1.2 Những hạn chế trong công tác quản lý

Mặc dù đã đạt được một số thành tựu, nhưng chính sách quan tâm của chính quyền vẫn còn thiếu sót, yếu kém và thiếu trọng tâm cụ thể, dẫn đến hiệu quả chưa cao.

Công tác quản lý làng nghề hiện nay còn nhiều chồng chéo, khi mà ở cấp tỉnh, làng nghề chịu sự quản lý trực tiếp của UBND tỉnh với hai cơ quan tham mưu là Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cùng Sở Công thương, nhưng lại thiếu sự liên kết và phân cấp quản lý rõ ràng Hệ quả là thường xảy ra tình trạng đổ lỗi và đùn đẩy trách nhiệm giữa các cơ quan Ở cấp cơ sở, UBND xã gánh vác hầu hết các chức năng quản lý, trong khi các phòng chức năng chỉ thực hiện việc thu thập và khảo sát mà không có hành động cụ thể nào để phát triển làng nghề.

Làng nghề Sơn Đồng đang gặp khó khăn do thiếu một tiểu ban quản lý riêng, dẫn đến sự thiếu liên kết và hợp tác giữa các hộ sản xuất kinh doanh Điều này khiến cho họ không thể bảo vệ quyền lợi của nhau, trái ngược với các phố nghề của người Hoa ở Thái Lan, nơi giá cả được duy trì ổn định nhờ sự hợp tác Khi phải đối mặt với thị trường quốc tế, sức cạnh tranh của làng nghề Sơn Đồng càng giảm sút do không có sự hỗ trợ lẫn nhau giữa các hộ sản xuất.

Giữa các cấp có thẩm quyền, tình trạng "cha chung không ai khóc" diễn ra phổ biến trong việc giải quyết các vấn đề của làng nghề, khiến cho nhiều dự án chỉ tồn tại trên giấy tờ Các nhà quản lý thường chỉ khuyến khích bằng lời nói, trong khi người dân và doanh nghiệp vẫn phải tự tìm lối thoát cho mình Theo thống kê từ cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản, điều này đã được nêu rõ trong buổi tọa đàm.

“Mỗi làng một sản phẩm” thì có tới 80% các làng nghề tồn tại và và đứng vững được trên thị trường là nhờ tự mình, tự lực cánh sinh

Công tác quản lý làng nghề ở nước ta nói riêng và ở Sơn Đồng nói chung có thể minh hoạ bằng sơ đồ sau:

Bảng sơ đồ cho thấy sự thiếu liên kết giữa các cơ quan tham mưu quản lý làng nghề, điều này cho thấy cần có sự kết nối và hợp tác chặt chẽ hơn giữa các đơn vị để nâng cao hiệu quả quản lý.

Hiệp hội làng nghề tại các tỉnh thành trên cả nước đang gặp khó khăn trong việc đánh giá chung về thực trạng, cơ hội và thách thức của làng nghề, dẫn đến mâu thuẫn trong sản xuất, xuất khẩu, thông tin thị trường và kế hoạch phát triển Quyền công nhận làng nghề, cấp bằng nghệ nhân và các chính sách phát triển hiện nay vẫn thuộc về UBND cấp tỉnh, gây ra sự chồng chéo trong quản lý giữa Hiệp hội làng nghề và chính quyền địa phương Sự không đồng nhất trong các chính sách cũng tạo ra nhiều khó khăn cho sự phát triển bền vững của làng nghề.

Sở NN&PTNT Sở Công Thương

Hội LN cấp tỉnh chưa tiếp cận được nhiều đối tượng làm nghề, đặc biệt là các hộ gia đình và doanh nghiệp vừa và nhỏ Đây là một hạn chế lớn mà các nhà quản lý làng nghề cần khắc phục trong thời gian tới để nâng cao hiệu quả hoạt động.

Những tiềm năng, cơ hội và thách thức của làng nghề mỹ nghệ truyền thống Sơn Đồng trước thời hội nhập

2.3.1 Những tiềm năng và cơ hội mới

Lợi thế sản phẩm của các làng nghề truyền thống trong thời kỳ hội nhập là những sản phẩm thủ công độc đáo, mang đậm bản sắc dân tộc và tâm hồn của cư dân Việt Nam, giúp cạnh tranh với sản phẩm quốc tế dù cơ sở vật chất và công nghệ chưa phát triển Làng nghề Sơn Đồng nổi bật với sản phẩm tâm linh, như tượng Phật Bà Quan Âm và Di Lặc, mang tính linh thiêng và huyền bí Mỗi tác phẩm đều có nét riêng, phản ánh sự khéo léo và tinh tế của nghệ nhân, tạo nên những sản phẩm mang bản sắc và tính cách độc đáo không thể nhầm lẫn.

Cơ hội mở rộng và chiếm lĩnh thị trường cho sản phẩm của làng nghề rất lớn, cả trong và ngoài nước Trong thời kỳ hội nhập, sản phẩm làng nghề có thể xâm nhập vào thị trường toàn cầu mà không gặp rào cản nào Kinh tế phát triển đã làm tăng nhu cầu sử dụng sản phẩm đồ thờ và tượng Phật không chỉ trong các đình, đền, chùa mà còn trong các hộ gia đình Tại Việt Nam và nhiều quốc gia khác, tỷ lệ dân theo đạo Phật đang gia tăng, cùng với đó là nhu cầu thờ cúng tổ tiên trong mỗi gia đình Điều này tạo ra một thị trường tiềm năng khổng lồ cho làng nghề mỹ nghệ Sơn Đồng.

Huyện Hoài Đức và các huyện lân cận sở hữu nguồn nhân lực trẻ dồi dào và có kỹ thuật cao, mặc dù kinh tế chủ yếu vẫn dựa vào nông nghiệp Trong bối cảnh kinh tế ngày càng phát triển và nông nghiệp được cơ giới hóa, số lao động dư thừa ngày càng gia tăng Cùng với cơ cấu dân số trẻ và chất lượng đào tạo ngày càng cao, đây chính là tiềm năng lớn để các làng nghề phát triển mạnh mẽ trong tương lai.

Nhà nước Việt Nam ngày càng nhận thức rõ vai trò quan trọng của làng nghề truyền thống trong phát triển kinh tế xã hội, dẫn đến việc triển khai nhiều chính sách khuyến khích và hỗ trợ đầu tư cho các làng nghề Những chính sách này sẽ tạo ra ưu thế pháp lý, giúp các làng nghề được bảo vệ trước sự cạnh tranh khốc liệt từ thị trường trong nước và quốc tế.

Sự giao lưu kinh tế và văn hóa giữa các quốc gia mang lại cơ hội học hỏi kinh nghiệm từ những nước đi trước trong phát triển làng nghề Nhật Bản đã hỗ trợ Việt Nam thông qua quỹ “Mỗi làng một sản phẩm” nhờ thành công của họ trong chương trình này, cũng như quỹ “Hỗ trợ Việt Nam vì sự phát triển bền vững” với ưu tiên phát triển làng nghề truyền thống.

Trong bối cảnh hội nhập toàn cầu và công nghiệp hóa, hiện đại hóa, làng nghề Sơn Đồng không chỉ có cơ hội phát triển mà còn phải đối mặt với nhiều thách thức lớn.

Làng nghề hiện đang phải đối mặt với sự cạnh tranh khốc liệt và tuân thủ các quy luật của thị trường toàn cầu Công nghệ sản xuất ngày càng tiên tiến đã tạo ra nhiều sản phẩm tiện lợi với giá cả hợp lý Đặc biệt, tại nhiều địa phương như Hải Dương và Bắc Ninh, đã xuất hiện nhiều xưởng sản xuất đồ thờ và tượng Phật, làm gia tăng sự cạnh tranh trong ngành.

Ninh Làng nghề Sơn Đồng cần phát huy sự độc đáo và tinh xảo của sản phẩm, đồng thời nâng cao quy trình công nghệ, cải thiện năng suất lao động và giảm giá thành sản phẩm.

Nguy cơ thất truyền và mất nghề đang gia tăng do việc truyền nghề chủ yếu chỉ diễn ra trong gia đình, trong khi nhu cầu tăng thu nhập ngày càng cao Nhiều lao động đã rời bỏ nghề truyền thống để tìm kiếm cơ hội việc làm khác Hơn nữa, môi trường làm việc tại các làng nghề hiện nay còn nhiều hạn chế như lương thấp, không có bảo hiểm xã hội, và điều kiện bảo hộ lao động kém, khiến việc thu hút nhân tài trở nên khó khăn.

Ô nhiễm môi trường là một thách thức lớn không chỉ riêng ở làng nghề Sơn Đồng mà còn trên toàn cầu Tại đây, do đặc thù sản xuất nhỏ lẻ, việc áp dụng công nghệ và quy trình xử lý môi trường tiên tiến gặp nhiều khó khăn Ý thức bảo vệ môi trường của người dân vẫn còn hạn chế, dẫn đến tình trạng xả rác bừa bãi mà chưa có biện pháp can thiệp hoặc chế tài xử lý từ chính quyền địa phương.

Các nhà quản lý làng nghề đang đối mặt với những thách thức lớn, yêu cầu họ phải tìm tòi và đổi mới không ngừng Họ cần có tầm nhìn chiến lược, am hiểu đặc thù sản phẩm và nắm bắt nhu cầu của khách hàng để đưa ra các chiến lược cụ thể, thay vì chỉ chờ đợi vận may Việc học hỏi kinh nghiệm từ các quốc gia đi trước là một nghệ thuật, cần được áp dụng phù hợp với điều kiện riêng của từng làng nghề Mỗi chủ cơ sở sản xuất hay doanh nghiệp trong làng cũng cần trở thành nhà quản lý để tự vươn lên, tồn tại và phát triển.

Những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả

Ngày đăng: 25/06/2021, 17:21

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Bảng sản lượng sản phẩm hàng năm của làng nghề đối với một số sản phẩm - Giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hiệu quả công tác quản lý làng nghề sơn điêu khắc mỹ nghệ truyền thống sơn đồng hoài đức hà nội
Bảng s ản lượng sản phẩm hàng năm của làng nghề đối với một số sản phẩm (Trang 32)
Nhìn vảo bảng sơ đồ, chúng ta có thể nhận thấy giữa các cơ quan tham mưu quản lý làng nghề hầu như không có liên kết với nhau, cũng như là sự kiên kết với  Hiệp hội làng nghề cả nước và của riêng mỗi tỉnh thành - Giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hiệu quả công tác quản lý làng nghề sơn điêu khắc mỹ nghệ truyền thống sơn đồng hoài đức hà nội
h ìn vảo bảng sơ đồ, chúng ta có thể nhận thấy giữa các cơ quan tham mưu quản lý làng nghề hầu như không có liên kết với nhau, cũng như là sự kiên kết với Hiệp hội làng nghề cả nước và của riêng mỗi tỉnh thành (Trang 44)

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w