Tính cấp thiết của đề tài
Kiểm toán hoạt động (KTHĐ) đã được phát triển từ những năm 1960 và được thực hiện bởi Kiểm toán Nhà nước (KTNN) nhằm đáp ứng nhu cầu quản trị khu vực công của các nghị sĩ tại các quốc gia phát triển như Mỹ, Canada, Thụy Điển và Đức Các cơ quan dân cử yêu cầu thông tin về hiệu quả và tính hữu hiệu của chi tiêu công quỹ quốc gia, do đó, các cơ quan kiểm toán tối cao (SAIs) và kiểm toán viên (KTV) đã mở rộng phạm vi kiểm toán để đảm bảo "giá trị của đồng tiền" trong việc sử dụng công quỹ Điều này đã được nhấn mạnh tại các Đại hội ASOSAI, với mục tiêu thúc đẩy hiệu lực và hiệu quả quản trị khu vực công thông qua KTHĐ.
Thông qua hoạt động kiểm toán, Kiểm toán Nhà nước (KTNN) đã nâng cao hiệu quả quản lý tài chính và tài sản công bằng cách so sánh chi phí đầu vào với kết quả đầu ra KTNN không chỉ đánh giá và tư vấn chính sách mà còn phòng ngừa rủi ro và ngăn chặn sai phạm thông qua kiểm toán trước (tiền kiểm) và sau (hậu kiểm) các khoản chi tiêu công Tiền kiểm giúp ngăn chặn thiệt hại và lãng phí nguồn lực, trong khi hậu kiểm xác định trách nhiệm của các cơ quan và cá nhân vi phạm Bên cạnh đó, KTNN còn có vai trò giải toả trách nhiệm cho Chính phủ và các cơ quan liên quan trước Quốc hội và Nhân dân.
KTNN Việt Nam đã trải qua hơn 25 năm phát triển, với những bài học quý báu và kinh nghiệm quốc tế cho thấy rằng kiểm toán hoạt động (KTHĐ) là loại hình kiểm toán quan trọng nhằm đánh giá tính kinh tế, hiệu quả và hiệu lực trong quản lý tài chính công Mặc dù đã đạt được nhiều thành tựu, KTNN vẫn tồn tại một số hạn chế, đặc biệt trong tổ chức KTHĐ Trong những năm gần đây, KTNN đã chú trọng hơn đến cả ba loại hình kiểm toán, nhưng các cuộc KTHĐ vẫn chưa được thực hiện nhiều và mục tiêu của chúng chưa đúng với bản chất của KTHĐ Kết quả kiểm toán chủ yếu tập trung vào việc đánh giá tính tuân thủ pháp luật và phát hiện sai sót tài chính, trong khi việc đánh giá tính kinh tế và hiệu quả trong quản lý tài sản công vẫn chưa được chú trọng, ảnh hưởng đến vai trò và hiệu quả của hoạt động kiểm toán tài chính công.
Vào ngày 16 tháng 9 năm 2020, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã xác định mục tiêu phát triển Kiểm toán Nhà nước (KTNN) giai đoạn 2021-2030, coi đây là công cụ quan trọng trong việc kiểm tra và kiểm soát quản lý tài chính, tài sản công theo Nghị quyết số 999/2020/UBTVQH14 Quốc hội cũng đặt ra mục tiêu tăng cường hiệu quả hoạt động kiểm toán, phấn đấu đạt tỷ lệ khoảng 30% đến 40% cho số lượng các cuộc kiểm toán hàng năm, phù hợp với định hướng của ASOSAI Trong bối cảnh này, tác giả luận án đã chọn đề tài “Kiểm toán hoạt động nâng cao vai trò” để nghiên cứu.
Kiểm toán Nhà nước trong quản lý tài chính và tài sản công ở Việt Nam là một vấn đề cấp thiết, mang lại ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng trong bối cảnh hiện tại.
Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu chung của nghiên cứu là phân tích các thuộc tính lý thuyết nhằm phát triển và ứng dụng các mô hình quan hệ giữa kiểm toán nhà nước (KTHĐ) với vai trò của kiểm toán nội bộ (KTNN) và hệ thống quản lý tài chính công (QLTC), tài sản công Nghiên cứu sẽ dựa trên mô hình Logic (3Es) để đánh giá và phân tích thực trạng tổ chức KTHĐ cũng như các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển của KTHĐ trong KTNN Từ đó, tác giả luận án sẽ đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao vai trò của KTNN trong quản lý tài chính công và tài sản công.
Nghiên cứu các yếu tố (3Es) là cần thiết để đánh giá mục tiêu KTHĐ (kinh tế, hiệu quả, hiệu lực) trong quản lý và sử dụng nguồn lực tài chính công, nhằm phát triển các chính sách, chương trình và dự án tạo ra tài sản công.
Th ứ hai, phát triển các phương thức tổ chức KTHĐ (tiền, hiện và hậu kiểm) góp phần nâng cao vai trò KTNN trong QLTC, tài sản công
Phát triển vai trò của Kiểm toán Nhà nước (KTNN) cần gắn liền với sự phối hợp của các chủ thể quản lý trong các hoạt động kiểm tra, giám sát và kiểm soát Điều này sẽ giúp nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng tài chính, tài sản công thông qua việc thực hiện các mục tiêu và phương thức tổ chức kiểm toán hoạt động (KTHĐ).
Đánh giá và phân tích các nhân tố như năng lực, tổ chức, chuẩn mực kiểm toán, hệ thống kiểm soát nội bộ, cải cách hành chính, chính sách pháp luật và chế tài pháp luật là cần thiết để hiểu rõ thực trạng kiểm toán hiện đại Những yếu tố này ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của kiểm toán và vai trò của Kiểm toán Nhà nước trong quản lý tài chính và tài sản công.
Câu hỏi nghiên cứu
Để nâng cao hiệu quả và hiệu lực trong quản lý cũng như sử dụng tài chính công, việc đánh giá mục tiêu KTHĐ cần tập trung vào các tiêu chí 3Es, bao gồm tính hiệu quả, tính hiệu lực và tính kinh tế Những nội dung này sẽ giúp xác định rõ ràng các mục tiêu cần đạt được và cải thiện quy trình quản lý tài chính công.
Th ứ hai, phát triển phương thức tổ chức KTHĐ cần nghiên cứu những nội dung gì
(tiền, hiện và hậu kiểm) góp phần nâng cao vai trò KTNN trong QLTC, tài sản công?
Để nâng cao vai trò của Kiểm toán Nhà nước (KTNN) trong mối quan hệ với hệ thống quản lý tài chính công (QLTC) và tài sản công, cần xác định các nhân tố trung gian và vận dụng mô hình kiểm toán hoạt động (KTHĐ) Việc này sẽ giúp bộ máy Nhà nước tăng cường khả năng giám sát và kiểm soát quản lý tài chính công một cách hiệu quả hơn.
Nghiên cứu các nhân tố như chuẩn mực, pháp chế thi hành pháp luật, năng lực tổ chức và các yếu tố khác có ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế hợp tác xã (KTHĐ) và vai trò của kiểm toán nhà nước (KTNN) là rất quan trọng Những yếu tố này không chỉ định hình môi trường hoạt động của KTHĐ mà còn quyết định hiệu quả và tính bền vững của các tổ chức này trong nền kinh tế Việc hiểu rõ các nhân tố này sẽ giúp tối ưu hóa sự phát triển của KTHĐ và nâng cao vai trò của KTNN trong việc giám sát và đảm bảo tính minh bạch, hiệu quả trong hoạt động kinh tế.
Nghiên cứu mới của luận án
Luận án này nghiên cứu mối quan hệ giữa các đối tượng kiểm toán, nhằm làm rõ vai trò của kiểm toán trong việc đạt được các mục tiêu kinh tế, hiệu quả và hiệu lực Tác giả phân tích các tiêu chí quan hệ 3Es, bao gồm đầu vào, đầu ra và kết quả, cùng với các phương thức tổ chức kiểm toán như tiền, hiện và hậu kiểm Nghiên cứu cũng nhấn mạnh vai trò độc lập của kiểm toán trong giám sát và kiểm soát hoạt động quản lý tài chính công, đồng thời cung cấp các mô hình thuộc tính và mối quan hệ giữa kiểm toán và vai trò của Kiểm toán Nhà nước trong quản lý tài chính công và tài sản công.
Luận án nghiên cứu mối quan hệ giữa tài chính công và tài sản công thông qua mô hình Logic (3Es), nhằm xác định các tiêu chí kiểm toán để đánh giá mục tiêu KTHĐ (kinh tế, hiệu quả, hiệu lực) trong quản lý và sử dụng nguồn lực công cho việc đầu tư phát triển các chính sách, chương trình và dự án liên quan đến tài sản công.
Luận án nghiên cứu các thuộc tính lý thuyết của kiểm toán nội bộ (KTHĐ) và thiết lập mối quan hệ giữa mô hình KTHĐ với vai trò của Kiểm toán Nhà nước (KTNN) trong quản lý tài chính công và tài sản công, thông qua việc phát triển các phương thức tổ chức KTHĐ, bao gồm kiểm toán trước, kiểm toán hiện tại và kiểm toán sau.
Th ứ ba, Luận án xây dựng được mối quan hệ giữa vai trò KTNN với hệ thống
QLTC là tài sản công được xây dựng dựa trên các yếu tố trung gian, bao gồm vai trò giám sát, kiểm soát và tham vấn quản lý của KTNN cùng các chủ thể quản lý Các hoạt động này nhằm thực hiện các mục tiêu 3Es và tổ chức KTHĐ hiệu quả.
Luận án nghiên cứu mối quan hệ giữa các yếu tố phụ tác động đến sự phát triển kinh tế hộ gia đình (KTHĐ) và vai trò của kinh tế nhà nước (KTNN), bao gồm pháp chế thi hành pháp luật và các chuẩn mực hoạt động trong hệ thống quản lý tài chính (QLTC) cũng như trong hoạt động kinh tế (HĐKT).
Kết cấu của luận án
Ngoài phần giới thiệu và kết luận, kết cấu của luận án gồm 4 chương
Chương 1: Tổng quan nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu
Chương 2: Lý luận về kiểm toán hoạt động nâng cao vai trò Kiểm toán nhà nước trong quản lý tài chính, tài sản công
Chương 3: Thực trạng kiểm toán hoạt động nâng cao vai trò Kiểm toán nhà nước trong quản lý tài chính, tài sản công ở Việt Nam
Chương 4 trình bày định hướng và giải pháp nhằm nâng cao vai trò của Kiểm toán nhà nước trong quản lý tài chính và tài sản công ở Việt Nam Việc cải thiện quy trình kiểm toán hoạt động sẽ góp phần tăng cường tính minh bạch và hiệu quả trong sử dụng ngân sách nhà nước Đề xuất các biện pháp cụ thể nhằm nâng cao năng lực của Kiểm toán nhà nước là cần thiết để đáp ứng yêu cầu quản lý tài chính hiện đại Hơn nữa, việc áp dụng công nghệ thông tin trong kiểm toán sẽ giúp tối ưu hóa quy trình và nâng cao chất lượng kiểm toán.
TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Tổng quan các công trình nghiên cứu
Sự hình thành và phát triển của KTHĐ có ảnh hưởng đáng kể đến vai trò của KTNN trong quản lý tài chính công và tài sản công Nhiều tài liệu đã nghiên cứu về KTHĐ và vai trò của KTNN từ những góc nhìn khác nhau, tập trung vào các khía cạnh chính liên quan đến vấn đề này.
Th ứ nh ấ t, nghiên c ứ u ki ể m toán ho ạ t độ ng nh ằ m ki ể m toán đ ánh giá tính kinh t ế , hi ệ u l ự c và hi ệ u qu ả trong qu ả n lý, s ử d ụ ng tài chính, tài s ả n công
Những công trình tiêu biểu được các Tác giả nghiên cứu sau đây:
Việc thiết lập các nhân tố cấu thành vai trò của kiểm toán hoạt động (KTHĐ) và hệ thống hóa quy định của Kiểm toán Nhà nước (KTNN) trong phân cấp, phân quyền giữa các bộ phận có ảnh hưởng lớn đến tổ chức KTHĐ tại Việt Nam Tác giả Vũ Văn Họa đã chỉ ra rằng công trình “Tăng cường vai trò của kiểm toán hoạt động ở Việt Nam do Kiểm toán Nhà nước thực hiện” vào năm 2010 có giá trị cốt lõi trong việc phát triển vai trò KTHĐ Tuy nhiên, vào thời điểm đó, KTNN chủ yếu thực hiện KTHĐ dưới dạng kiểm toán chuyên đề Từ năm 2014, KTNN đã bắt đầu tổ chức các cuộc KTHĐ độc lập cho một số chương trình và dự án, tách biệt khỏi kiểm toán chuyên đề Điều này đã tạo ra những khoảng trống trong việc cụ thể hóa vai trò của KTHĐ gắn liền với KTNN, nhằm tăng cường công cụ kiểm soát tài chính và giám sát hoạt động quản lý tài chính công Bên cạnh đó, các nhân tố ảnh hưởng đến vai trò KTHĐ qua phương thức tổ chức cũng cần được đánh giá để đảm bảo tính kinh tế, hiệu quả và hiệu lực trong quản lý các chương trình, dự án đầu tư phát triển, điều này luôn gây bức xúc trong công chúng và dư luận xã hội.
Chuẩn mực hoạt động đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện kiểm toán hoạt động (KTHĐ), như được chỉ dẫn trong “Giáo trình kiểm toán hoạt động” của Nguyễn Quang Quynh (2009), với hệ thống tiêu chí và công cụ đánh giá tính kinh tế, hiệu quả, hiệu lực và hiệu năng quản lý ngân sách nhà nước Tác giả Nguyễn Đình Hựu cũng nhấn mạnh tính chuẩn mực trong hoạt động kinh tế và vai trò của con người, năng lực, đạo đức và bản lĩnh nghề nghiệp trong tác phẩm “Kiểm toán căn bản” (2004) và “Cẩm nang kiểm toán viên” (2012) Ông đề xuất phương pháp kiểm toán và giải pháp nâng cao vai trò KTHĐ, đồng thời nhấn mạnh quy trình kiểm toán như công cụ hỗ trợ cho kiểm toán viên Tác giả cũng gợi ý các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển của KTHĐ và bộ tiêu chí cần thiết để áp dụng trong thực tiễn.
Nghiên cứu của Nguyễn Lương Thuyết (2020) về tổ chức kiểm toán hoạt động đối với chi ngân sách Nhà nước đã phát triển ba nội dung cốt yếu: phương thức tổ chức, quy trình thực hiện và mục tiêu kiểm toán hoạt động Công trình xây dựng hệ thống tiêu chí kiểm toán không chỉ áp dụng cho chi ngân sách Nhà nước mà còn cho các chương trình, dự án và chính sách đầu tư phát triển Giá trị của nghiên cứu nằm ở việc chỉ ra rằng mục tiêu kiểm toán hoạt động cần được phát triển gắn liền với phương thức tổ chức kiểm toán (tiền, hiện và hậu kiểm) để nâng cao vai trò của Kiểm toán Nhà nước trong quản lý và sử dụng tài chính, tài sản công.
KTHĐ đóng vai trò quan trọng trong việc đánh giá hiệu quả hoạt động của các công trình, dựa trên ba tiêu chí chính: tính kinh tế, tính hiệu quả và tính hiệu lực Giáo trình “Sổ tay kiểm toán hoạt động - Lý thuyết và thực tiễn” năm 1999 đã nhấn mạnh những tiêu chí này, phù hợp với định hướng phát triển KTHĐ năm 2004 của INTOSAI và Dự án GTZ Những khái niệm chuẩn về KTHĐ cùng nghiệp vụ và kỹ thuật kiểm toán của kiểm toán viên (KTV) cần được áp dụng một cách hiệu quả để đảm bảo chất lượng và tính chính xác trong quá trình kiểm toán.
Lựa chọn vấn đề kiểm toán là quá trình quan trọng, bao gồm xác định, hệ thống hóa và lập kế hoạch chương trình kiểm toán Theo chỉ dẫn của INTOSAI và Dự án GTZ, việc kế thừa và vận dụng thành quả kiểm toán NSNN vào phát triển KTHĐ là mục tiêu mà KTNN Việt Nam cần hướng tới để đánh giá các vấn đề trong KTHĐ Một khoảng trống cần nghiên cứu là kế hoạch chương trình kiểm toán và phương thức tổ chức KTHĐ, đặc biệt là việc kết hợp kiểm toán liên tục nhằm nâng cao vai trò của KTNN Điều này yêu cầu thiết chế độc lập về quyền lực công trong hoạt động kiểm soát, quản lý và giám sát tài chính công, đảm bảo đạt được mục tiêu kinh tế, hiệu quả và hiệu lực của các chương trình, dự án khi đưa vào hoạt động.
TCKT liên tục là quá trình mà các KTV lập báo cáo kịp thời, cung cấp xác nhận bằng văn bản về kết quả kiểm toán theo nghiên cứu của AICPA/CICA năm 1999 Sự khác biệt giữa TCKT liên tục và kiểm toán truyền thống nằm ở tính liên tục và kịp thời, cung cấp thông tin hữu ích cho người sử dụng, nâng cao hiệu quả và hiệu lực của kiểm toán Thời gian lập báo cáo kiểm toán liên tục được rút ngắn, với việc theo dõi và đánh giá các vấn đề trong suốt quá trình hoạt động của đối tượng kiểm toán Báo cáo này được phát hành qua mạng lưới thông tin, cho phép người sử dụng truy cập khi cần thiết Việc thực hiện TCKT liên tục giúp phát hiện và ngăn chặn kịp thời các rủi ro tiềm ẩn như rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm soát, rủi ro phát hiện và rủi ro kiểm toán Tuy nhiên, cần nghiên cứu cách thực hiện TCKT liên tục để gắn liền với vai trò của chủ thể KTNN trong việc kiểm soát và giám sát hoạt động của đối tượng kiểm toán, đảm bảo thông tin được cung cấp kịp thời ở tất cả các khâu đầu vào, đầu ra trong tổ chức tiền kiểm, hiện kiểm và hậu kiểm.
Nhân tố ảnh hưởng đến KTHĐ và quyết định hiệu quả trong việc tổ chức KTHĐ được nghiên cứu bởi Tác giả Đặng Anh Tuấn năm 2015, trong công trình
Bài viết "Nhân tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển kiểm toán hoạt động trong lĩnh vực công ở Việt Nam" chỉ ra 33 nhân tố ảnh hưởng, được phân thành bốn nhóm chính: nhân tố chính trị, khả năng của Kiểm toán Nhà nước (KTNN), kỹ năng của kiểm toán viên (KTV) và nhân tố kinh tế Trong đó, khả năng của KTNN và kỹ năng của KTV được xác định là hai nhóm quan trọng nhất quyết định đến sự phát triển của kiểm toán hoạt động Tác giả cũng nhấn mạnh các khoảng trống nghiên cứu cần được khai thác, bao gồm bản chất và mối quan hệ giữa các nhân tố tác động đến sự phát triển của kiểm toán hoạt động, ảnh hưởng đến vai trò của KTNN trong tổ chức kiểm toán trong lĩnh vực công, cũng như nguyên nhân của những hạn chế trong hệ thống pháp luật Nhà nước và pháp luật kiểm toán.
Trong nghiên cứu của Hà Thị Mỹ Dung (2016) về "Chất lượng đội ngũ kiểm toán viên của Kiểm toán Nhà nước", nhân tố con người được xác định là yếu tố quyết định cho sự phát triển của Kiểm toán Nhà nước Do đó, cần tiếp tục nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển của kiểm toán nhà nước, đặc biệt là tính chuẩn mực trong hoạt động công vụ và hoạt động kiểm toán Hệ thống pháp luật Nhà nước và pháp luật kiểm toán cần được củng cố bằng các chế tài mạnh mẽ hơn nhằm nâng cao vai trò pháp chế Các vấn đề cụ thể hóa từ những nhân tố đã nghiên cứu sẽ giúp xác định nguyên tắc hình thành và giải quyết các vấn đề trong lĩnh vực này.
Trong một cuộc kiểm toán, việc thực hiện các loại hình kiểm toán đa dạng là rất quan trọng, và sự lựa chọn loại hình kiểm toán phù hợp phụ thuộc vào kỹ năng và nghề nghiệp của kiểm toán viên.
Lý thuyết và thực tiễn chỉ rõ ba loại hình kiểm toán và được Tác giả Nguyễn Văn Kỷ,
Bài viết năm 2003 “Sự kết hợp kiểm toán báo cáo tài chính, kiểm toán tuân thủ và kiểm toán hoạt động trong một cuộc kiểm toán của Kiểm toán Nhà nước” trình bày về tầm quan trọng của việc tích hợp các loại hình kiểm toán khác nhau Sự kết hợp này không chỉ nâng cao tính hiệu quả của quá trình kiểm toán mà còn đảm bảo sự tuân thủ các quy định pháp luật và cải thiện hoạt động quản lý tài chính Kiểm toán Nhà nước cần áp dụng phương pháp này để tăng cường tính minh bạch và trách nhiệm trong việc sử dụng ngân sách nhà nước.
Công trình nghiên cứu này đóng góp quan trọng vào việc hiểu rõ lý thuyết và loại hình kiểm toán, đặc biệt là kiểm toán hoạt động (KTHĐ), trong bối cảnh còn hạn chế nghiên cứu Dựa trên nền tảng lý thuyết và thực tiễn từ năm 1999, tác giả đã làm rõ giá trị của KTHĐ trong hệ thống kiểm toán và đề xuất sự kết hợp giữa các loại hình kiểm toán để hình thành kiểm toán liên kết Tuy nhiên, hiện tại, việc phân cấp quản lý nhà nước chưa đồng bộ và cải cách hành chính còn nhiều bất cập, dẫn đến việc phát triển KTHĐ chưa mạnh mẽ Công trình cũng chưa chỉ rõ các đối tượng áp dụng KTHĐ hiệu quả gắn liền với quản lý tài chính công, cũng như chưa phân loại rõ ràng các đối tượng cần áp dụng kiểm toán liên kết hay kiểm toán độc lập Do đó, nghiên cứu cần tập trung vào các vấn đề liên quan đến tài chính kế toán liên kết, kiểm toán liên tục, và đánh giá hiệu quả quản lý đối với các chương trình, dự án, chính sách an sinh xã hội đang được xã hội quan tâm.
Các nghiên cứu về KTHĐ đã chỉ ra những khoảng trống trong quản lý và sử dụng tài chính, tài sản công, bao gồm: (1) Phát triển vai trò của KTHĐ thông qua nghiên cứu các phương thức tổ chức như tiền kiểm, hiện kiểm và kiểm toán liên tục, đồng thời đánh giá mục tiêu theo tiêu chí 3Es; (2) Tăng cường chuẩn mực hoạt động công vụ và đạo đức công vụ, củng cố thể chế và chính sách pháp luật của Nhà nước để đảm bảo tính pháp chế và chế tài mạnh mẽ trong xử lý vi phạm pháp luật trong quản lý tài chính và tài sản công; (3) Tập trung vào đánh giá tính kinh tế, hiệu quả, hiệu lực và hiệu năng quản lý trong KTHĐ dựa trên các tiêu chí đầu vào, đầu ra và kết quả của mô hình 3Es, áp dụng trong các cuộc KTHĐ độc lập do Kiểm toán Nhà nước thực hiện.
Th ứ hai, nghiên c ứ u nâng cao vai trò Ki ể m toán Nhà n ướ c trong qu ả n lý tài chính, tài s ả n công qua ki ể m toán ho ạ t độ ng
Mục tiêu của Kiểm toán Nhà nước (KTNN) là hiện đại hóa hoạt động, phù hợp với các thông lệ quốc tế Để đạt được điều này, cần nâng cao vai trò của Kiểm toán hoạt động, như tác giả Đoàn Xuân Tiên đã đề cập.
Trong bài viết năm 2012, tác giả nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tăng cường kiểm toán hoạt động để nâng cao vai trò và hiệu quả của Kiểm toán Nhà nước (KTNN) Để đạt được điều này, cần thực hiện kiểm toán các dự án và chương trình được công chúng quan tâm, xây dựng khung chương trình kiểm toán liên tục, và tăng cường chức năng đánh giá tính chính xác của các báo cáo tài chính Đồng thời, cần kiến nghị cải cách các thể chế và chính sách pháp luật, cũng như kiểm tra thường xuyên để đánh giá hiệu quả hoạt động Nghiên cứu này không chỉ mang tính lý luận mà còn có giá trị thực tiễn, nhằm nâng cao vai trò độc lập của KTNN trong việc kiểm soát và giám sát tài chính công, đồng thời thực hiện vai trò tư vấn và định hướng chiến lược cho Nhà nước.
Phương pháp nghiên cứu
1.2.1 Khái quát chung ph ươ ng pháp nghiên c ứ u
Luận án áp dụng phương pháp nghiên cứu định tính để thống kê, mô tả, tổng hợp và phân tích các mối quan hệ Bằng cách thiết kế các mô hình liên kết dựa trên các thuộc tính, nghiên cứu này nhằm vận dụng hiệu quả trong thực hiện KTHĐ với định hướng cụ thể.
Nghiên cứu về KTHĐ (kiểm toán hoạt động) cần phát triển các tiêu chí đánh giá mục tiêu như kinh tế, hiệu quả và hiệu lực, đồng thời xem xét các yếu tố ảnh hưởng và vai trò của KTNN (kiểm toán nhà nước) trong việc thiết lập chuẩn mực hoạt động và đạo đức của kiểm toán viên Tác giả luận án tiến hành khảo sát các cấp quản lý nhà nước và kiểm toán viên để đánh giá tính cấp thiết của việc nghiên cứu các mối quan hệ trong ngành, nhằm nâng cao hiệu quả và hiệu lực của KTNN Việc tổng hợp và phân tích các mối quan hệ sẽ hỗ trợ hoàn thiện thiết kế các mô hình lý thuyết, từ đó đánh giá thực trạng và vận dụng mô hình KTHĐ để nâng cao vai trò của KTNN trong kiểm soát quản lý tài chính công và tài sản công, đồng thời đề xuất các giải pháp cải tiến.
Nghiên cứu của Nguyễn Thị Thanh Diệp (2016) nhấn mạnh rằng việc phát triển lý thuyết hàn lâm cần được kiểm định qua khảo sát thực nghiệm với cỡ mẫu hợp lý Tác giả cho rằng phương pháp Likert phù hợp với mục tiêu nghiên cứu Để thực hiện nghiên cứu, tác giả đã phỏng vấn các chuyên gia có kinh nghiệm trong lĩnh vực kiểm toán, bao gồm 30 thành viên, trong đó có 15 cán bộ quản lý nhà nước và 15 kiểm toán viên (KTV) có trên 10 năm kinh nghiệm Các câu hỏi được thiết kế dưới dạng câu hỏi đóng và mở nhằm thu thập thông tin chi tiết từ đối tượng nghiên cứu.
Bảng hỏi được thiết kế nhằm nghiên cứu ba đối tượng chính: (1) Kiểm toán hoạt động do Kiểm toán Nhà nước Việt Nam thực hiện; (2) Vai trò của Kiểm toán Nhà nước; và (3) Các chính sách, chương trình, dự án đầu tư sử dụng vốn, nguồn lực và tài chính công để hình thành tài sản công và quản lý hiệu quả Tác dụng của bảng hỏi là cung cấp cái nhìn sâu sắc về các vấn đề này.
Bảng 3.1: Tổng hợp kết quả khảo sát, điều tra đối tượng 1 và 2 với các nội dung [I1], [I3] phục vụ cho câu hỏi và đối tượng nghiên cứu thứ (2) và thứ (3)
[I2], [I4] phục vụ cho câu hỏi và đối tượng nghiên cứu thứ (2)
Bảng 3.2: Tổng hợp kết quả khảo sát, điều tra đối tượng 2 với các nội dung
[F3], [F4], [F5], [F7] phục vụ cho câu hỏi nghiên cứu gắn với đối tượng nghiên cứu thứ (1), (2), (3)
[F1], [F2], [F6], [F8] phục vụ cho câu hỏi nghiên cứu gắn với đối tượng nghiên cứu thứ (1), (2)
[F9] phục vụ cho câu hỏi và đối tượng nghiên cứu thứ (2)
Dữ liệu thứ cấp được thu thập từ nhiều nguồn khác nhau, bao gồm báo cáo kiểm toán hàng năm, luận án và luận văn, cũng như các bài viết trên báo chí và tạp chí chuyên ngành Ngoài ra, thông tin còn được khai thác từ các công trình nghiên cứu khoa học về kiểm toán và các kết quả nghiên cứu từ phương thức tổ chức kiểm toán của Kiểm toán Nhà nước tại một số quốc gia trên thế giới, nhằm áp dụng vào thực tiễn tại Việt Nam.
Tác giả luận án đã tiến hành khảo sát và phát phiếu điều tra để thu thập ý kiến từ các chuyên gia KTHĐ, bao gồm các kỹ thuật viên có nhiều năm kinh nghiệm và các chuyên gia quản lý nhà nước từ nhiều khu vực khác nhau như KTNN khu vực I, III, V, IX và XI, cùng với các cơ quan quản lý nhà nước từng tham gia KTHĐ như Sở Tài chính Thanh Hóa, Cần Thơ, Ninh Bình, Thái Bình, và Kho bạc Nhà nước Cần Thơ, Thanh Hóa, Hậu Giang.
Tác giả luận án đã áp dụng phương pháp tổng hợp và thống kê mô tả để phân tích số liệu KTHĐ từ giai đoạn 2014-2020, nhằm làm rõ vai trò của KTNN trong quản lý tài chính công và tài sản công Kết quả khảo sát ý kiến chuyên gia được tổng hợp và phân tích để giải quyết các mâu thuẫn trong dữ liệu Số liệu tài chính và tài sản công được trình bày trong Bảng 3.3, lấy từ Báo cáo kiểm toán năm 2014-2019, cùng với thông tin từ các cuộc KTHĐ độc lập trong Bảng 3.4 Tất cả dữ liệu này sẽ được sử dụng để phân tích thực trạng KTHĐ và nâng cao vai trò của KTNN trong quản lý tài chính công Ngoài ra, tác giả cũng đã tổng hợp và phân tích thông tin từ các cuộc KTHĐ liên quan đến hai chương trình phát triển y tế và nhà ở xã hội (Bảng 3.5, 3.6) để đánh giá và áp dụng các mô hình lý thuyết đã thiết lập.
Tác giả luận án sử dụng các công cụ dữ liệu nền cơ bản như biểu bảng, sơ đồ, mô hình và phụ lục để tổng hợp, phân tích, so sánh, đánh giá và bình giải các vấn đề liên quan đến mối quan hệ qua các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước Phân tích số liệu được thực hiện tại các bảng 3.3, 3.4, 3.5, 3.6 và 3.8 dựa trên dữ liệu từ Phụ lục số 01 cùng với các báo cáo kiểm toán công bố.
Trong phân tích dữ liệu sơ cấp, tác giả luận án đã thực hiện việc tổng hợp lưới câu hỏi và chuẩn hóa thông tin Qua đó, dữ liệu được phân tích và đánh giá một cách hệ thống, từ đó đưa ra các phương hướng, giải pháp và kiến nghị cụ thể nhằm cải thiện tình hình nghiên cứu.
Các yếu tố trong mối quan hệ giữa KTHĐ và vai trò của KTNN trong quản lý tài chính công được phân tích thông qua dữ liệu thứ cấp Việc hoàn thiện các mô hình liên kết này giúp ứng dụng hiệu quả trong thực tiễn quản lý tài sản công.
Dựa trên các nghiên cứu tổng quan trong và ngoài nước, tác giả luận án xác định những khoảng trống lý thuyết liên quan đến các nhân tố có đặc tính so sánh, từ đó hình thành các mô hình thuộc tính Những mô hình này tạo cơ sở lý thuyết để liên kết các mối quan hệ giữa các đối tượng nghiên cứu mà các tác giả trước đây đã khám phá một cách độc lập Kết quả nghiên cứu được kiểm chứng thông qua khảo sát, điều tra, thu thập và phân tích dữ liệu, cũng như ứng dụng các mô hình vào thực tiễn trong hai lĩnh vực chính sách phát triển y tế và nhà ở xã hội Từ đó, tác giả đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện và phát triển các mô hình này.
Sơ đồ 1.1: Quy trình nghiên cứu của Luận án
Phát triển các mô hình lý thuyết về KTHĐ nâng cao vài trò
KTNN trong QLTC, tài sản công
Khảo sát, điều tra, thu thập dữ liệu và kiểm định
Tổng hợp, phân tích thực trạng
Bình giải và ứng dụng mô hình Đề xuất giải pháp hoàn thiện và phát triển
1.2.5.2 Cơ sở nghiên cứu phát triển lý thuyết
Nghiên cứu của tác giả Pollite và cộng sự trên nền tảng KTHĐ đã giới thiệu mô hình Logic (3Es), tập trung vào ba yếu tố quan trọng: tính kinh tế, hiệu quả và hiệu lực, được phân tích qua các giai đoạn đầu vào, đầu ra và kết quả.
Sơ đồ 1.2: Mô hình Logic
Nguồn: Nền nghiên cứu Pollite & cộng sự
Mô hình Đầu vào - Đầu ra - Kết quả cho thấy rằng tính kinh tế được đánh giá với mục tiêu ngắn hạn trong luân chuyển nguồn lực đầu vào, trong khi tính hiệu quả được xem xét với mục tiêu trung hạn trong hoạt động và thi công Tính hiệu lực lại được đánh giá với mục tiêu dài hạn đối với luân chuyển nguồn lực tại đầu ra và kết quả tương lai Đặc biệt, tính hiệu năng của chương trình và chính sách được đánh giá cả trong trung hạn và dài hạn, khác với tính kinh tế chỉ tập trung vào kiểm soát hoạt động đầu vào trong giai đoạn đầu của quá trình đầu tư Dựa trên thành tựu phát triển KTHĐ giai đoạn 2014-2020, tác giả đánh giá những hạn chế và khó khăn trong việc thực hiện vai trò KTNN Mô hình khung lý thuyết Logic là nền tảng để xây dựng các mô hình phát triển phương thức tổ chức và mục tiêu KTHĐ trong quản lý và sử dụng tài chính, tài sản công, nhằm trả lời các câu hỏi và mục tiêu nghiên cứu.
Tác giả luận án trình bày sơ đồ khung lý thuyết nghiên cứu vai trò của Kiểm toán Nhà nước (KTNN) trong mối quan hệ với hệ thống Quản lý Tài chính công (QLTC) và tài sản công Khung lý thuyết này thể hiện rõ vai trò, chức năng và vị trí của KTNN, được xây dựng dựa trên lý thuyết từ từ điển Oxford (2007) của Đại học Oxford và từ điển Tiếng Việt của Giáo sư Hoàng Phê tại Trung tâm Từ điển học.
Sơ đồ 1.3: Vai trò của KTNN trong quan hệ QLTC, tài sản công
Nguồn: Nền lý thuyết của từ điển Oxford, 2007
Hộp số (1), (2), (3) thể hiện mối quan hệ báo cáo và công khai kết quả kiểm toán giữa các chủ thể trong hệ thống quản lý tài chính công và tài sản công Vị trí pháp lý của Kiểm toán Nhà nước (KTNN) được quy định tại hộp số (4) trong Hiến pháp, với hoạt động độc lập theo pháp luật Vai trò của KTNN được thể hiện qua thẩm quyền, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn tại hộp số (5), bao gồm kiểm tra, đánh giá, xác nhận báo cáo kiểm toán hàng năm, công khai kết quả kiểm toán, và tư vấn về quản lý tài chính công và tài sản công.
Quản lý và sử dụng tài chính, tài sản công với yêu cầu kiểm toán hoạt động
2.1.1 N ộ i dung tài chính, tài s ả n công
Tài chính và tài sản công bao gồm toàn bộ hệ thống ngân sách nhà nước (NSNN), vốn đầu tư, nguồn lực công và các quỹ ngoài NSNN NSNN là khái niệm lịch sử gắn liền với đặc điểm chính trị và sự xuất hiện của Nhà nước Quản lý NSNN trong hệ thống quản lý tài chính công vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau Nhà nước ban hành các luật để điều phối và sử dụng tài chính công một cách hiệu quả, phù hợp với sự điều chỉnh của các mối quan hệ xã hội Do đó, nguồn lực và tài chính công thường xuyên được điều chỉnh sau mỗi chu kỳ phát triển Quản lý tài chính và tài sản công có vai trò điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế và tăng cường thực thi pháp luật, giúp Quốc hội kiểm soát nền kinh tế, an sinh xã hội và điều chỉnh luật pháp (Nguyễn Thị Thanh Diệp, 2016).
Tài chính công và tài sản công đều liên quan đến ngân sách nhà nước (NSNN), nhưng tài sản công có phạm vi rộng hơn, bao gồm cả tài sản hữu hình và vô hình như cơ sở hạ tầng, công nghệ và sở hữu trí tuệ Kiểm toán tài sản công không chỉ tập trung vào tài sản và thiết bị mà còn bao gồm tài nguyên thiên nhiên và khoáng sản, thể hiện trách nhiệm của cả nhà nước và cộng đồng trong quản lý và sử dụng tài sản công Để quản lý tài chính công hiệu quả, cần có sự giám sát chặt chẽ và đánh giá các nguồn lực đầu vào nhằm đảm bảo tính kinh tế, hiệu quả và hiệu lực trong đầu tư Xu hướng hiện nay cho thấy vai trò kiểm soát hoạt động tài chính công đang được các cơ quan công quyền thực hiện nhằm đảm bảo tính minh bạch và hiệu quả trong quản lý.
2.1.2 Qu ả n lý và s ử d ụ ng tài chính, tài s ả n công
Quản lý tài sản công là một quá trình phức tạp hơn so với quản lý tài chính công và ngân sách nhà nước Tại các cơ quan kiểm toán nhà nước (SAIs), sự phân cấp trong quản lý nhà nước, quản lý tài chính công và tài sản công phụ thuộc vào thể chế chính trị khác nhau, dẫn đến việc phân cấp chủ thể quản lý như Quốc hội và Chính phủ cũng khác nhau.
Uỷ ban ngân sách, Nghị viện, Kiểm toán Nhà nước (KTNN) và Ban kiểm tra Đảng đóng vai trò quan trọng trong việc phòng chống tham nhũng tại các Cơ quan Kiểm toán Nhà nước (SAIs) như SAI Trung Quốc Trong đó, KTNN và Ban kiểm tra Đảng đảm nhận chức năng quản lý tài chính quốc gia một cách đồng bộ và hiệu quả.
Chức năng của các cơ quan đang bị chồng chéo, với nhiệm vụ đan xen và có sự phối hợp trong việc phân cấp kiểm soát quản lý (Vũ Văn Họa, 2010).
Chủ thể quản lý tài chính công (QLTC) bao gồm các cơ quan đại diện như Quốc hội, Chính phủ và các Ủy ban Nhân dân, có trách nhiệm quản lý nguồn thu thuế do dân đóng góp Người dân cũng đóng vai trò giám sát việc chi tiêu và sử dụng nguồn lực xã hội thông qua các kênh báo cáo công khai Tổ chức Kiểm toán Nhà nước (KTNN) thực hiện các cuộc kiểm toán và đóng vai trò trung gian giữa các chủ thể QLTC, đảm bảo giám sát và quản lý ngân sách công KTNN, với vai trò được quy định bởi Hiến pháp, thực hiện kiểm soát việc sử dụng nguồn lực công, bao gồm cả kiểm tra và giám sát Theo nghiên cứu của Nguyễn Lương Thuyết (2020), hoạt động kiểm toán là phần không thể thiếu trong quản lý nhà nước, kết hợp chặt chẽ với các hoạt động kiểm tra và kiểm soát.
Phân cấp quản lý tài chính công (QLTC) yêu cầu phân giao trách nhiệm từ Trung ương đến chính quyền địa phương, tùy theo mô hình tổ chức của từng quốc gia Một số nước xem ngân sách trung ương là ngân sách liên bang, trong khi ngân sách địa phương là ngân sách bang Cơ chế phân cấp quản lý cần gắn liền với cấp hành chính để đảm bảo hiệu quả Phân cấp QLNN về tài chính công giúp duy trì ngân khố, sử dụng hiệu quả, công khai minh bạch và tập trung quyền lực Sự phân cấp này cũng ảnh hưởng đến bộ máy kiểm toán nhà nước (KTNN), yêu cầu phân giao quyền lực và nghĩa vụ cho từng bộ phận KTNN độc lập theo vùng lãnh thổ Phân cấp QLNN trong tài chính và tài sản công là phương thức quản lý hiệu quả mà nhiều nước phát triển đã áp dụng, nhằm đảm bảo tính kinh tế, hiệu quả và hiệu lực trong quản lý tài sản công.
Theo Cơ quan Tổng kiểm toán Cộng hòa Kosovo (2009), yêu cầu kiểm toán tài chính và tài sản công hiệu quả cần được thực hiện bởi Kiểm toán nhà nước (KTNN) thông qua quy trình kiểm toán chặt chẽ Các kiểm toán viên phải dành thời gian khảo sát và thu thập thông tin để đảm bảo tính kinh tế, hiệu quả và hiệu lực trong quản lý tài chính công Trong quản lý tài chính, mối quan hệ giữa kiểm toán và tổ chức Bảo mật kế toán rất quan trọng, với sự thể hiện qua phương pháp, quy trình và tiêu chuẩn nghề nghiệp Yêu cầu kiểm toán phải linh hoạt theo từng nội dung và tính chất hoạt động của đối tượng kiểm toán, đồng thời thiết lập hệ thống tiêu chí kiểm toán riêng cho kiểm toán hoạt động.
TCKT đối với các công trình, dự án hoàn thành và đưa vào hoạt động là giai đoạn quyết toán hoàn thành, được gọi là hậu kiểm báo cáo quyết toán Giai đoạn này đánh giá tính hiệu lực và hiệu năng của chương trình, khi tài sản công được đưa vào sử dụng và quản lý dài hạn Giá trị báo cáo KTHĐ được công khai minh bạch, tính toán dựa trên giá trị quyết toán x (vốn đầu tư ban đầu) sau khi loại trừ các sai phạm b trong quản lý tài chính công, với công thức y = x - b Nguồn lực công đầu tư của năm đầu tiên (o) được chuyển tiếp sang năm o+n và quyết toán, trong đó b là giá trị lãng phí, y là giá trị quản lý tài chính công cuối cùng của năm (o+n) Tài sản công cần được khai thác và quản lý hiệu quả để tạo ra giá trị lớn cho cộng đồng và xã hội, trong suốt quá trình quản lý, sử dụng và tái đầu tư.
Lý luận chung về kiểm toán hoạt động trong hệ thống kiểm toán
2.2.1 Ki ể m toán ho ạ t độ ng và s ự phát tri ể n trong ho ạ t độ ng Ki ể m toán Nhà n ướ c 2.2.1.1 Khái niệm về kiểm toán hoạt động
Khái niệm Kiểm toán Hệ thống đã được thảo luận và định nghĩa một cách đa dạng, nhưng vẫn chưa có sự thống nhất giữa các Cơ quan Kiểm toán Tối cao (SAIs) và các Chuẩn mực Kiểm toán Quốc tế (ISSAIs).
Thứ nhất, khái niệm của SAI Hoa Kỳ: Theo CQKT Chính phủ Hoa Kỳ (GAO)
The United States Government Accountability Office highlights that performance audits focus on economic efficiency, program effectiveness, and value-for-money assessments, as outlined in the 2015 State Audit report.
Kiểm toán tính kinh tế và hiệu quả là quá trình đánh giá hoạt động quản lý nguồn lực, tập trung vào hiệu quả đầu vào và hiệu lực đầu ra Mục tiêu của kiểm toán là xác định nguyên nhân không đạt được các mục tiêu đã đề ra Việc kiểm toán các chương trình, dự án và chính sách đầu tư giúp đánh giá hiệu quả đạt được và giá trị lợi ích do các cơ quan có thẩm quyền hoặc cơ quan lập pháp thực hiện.
Khái niệm của Kiểm toán Nhà nước Canada (CQKT Canada) định nghĩa Kiểm toán Hoạt động (KTHĐ) là một quá trình kiểm tra hệ thống, có mục tiêu, tổ chức và khách quan các hoạt động quản lý tài chính và ngân sách của Chính phủ, nhằm đảm bảo giá trị tiền (Kiểm toán VFM).
Kiểm toán giá trị đồng tiền và kiểm toán chương trình đều tập trung vào kết quả đầu ra, đảm bảo rằng chính sách của chương trình phù hợp với mục tiêu đã đề ra Trong lĩnh vực kiểm toán khu vực công, hai định nghĩa này đều nhấn mạnh khái niệm kiểm toán hiệu quả về giá trị đồng tiền Đối với kiểm toán khu vực tư, Hiệp hội KTV nội bộ (IIA) định nghĩa kiểm toán hoạt động là quá trình đánh giá hệ thống về hiệu quả, tính hiệu quả và tính kinh tế của các hoạt động do nhà quản lý kiểm soát, đồng thời báo cáo kết quả đánh giá và đưa ra kiến nghị cải tiến.
Khái niệm kiểm toán nhà nước (KTNN) tại Malaysia nhấn mạnh sự tổng hòa giữa kiểm toán tài chính, kiểm toán tuân thủ và kiểm toán tính phù hợp Kiểm toán tuân thủ và kiểm toán tài chính đều có điểm chung là kiểm tra, xác nhận và công khai thông tin, trong khi kiểm toán tính phù hợp tập trung vào việc đạt được hiệu suất trong quản lý các chương trình, dự án, chính sách hoặc hoạt động hiện hữu Đặc biệt, KTNN Malaysia cho rằng việc kiểm soát hiệu quả nên hướng tới các mục tiêu chưa thực hiện hoặc đang thực hiện, thay vì chỉ kiểm toán những gì đã hoàn thành Loại hình KTNN này thể hiện vai trò quan trọng trong việc giám sát và kiểm soát các hoạt động quản lý thông qua các chương trình, dự án do cơ quan kiểm toán có thẩm quyền thực hiện.
Chuẩn mực KTNN Số 300 của KTNN Việt Nam xác định các nguyên tắc cơ bản của kiểm toán hoạt động, với mục tiêu đánh giá tính kinh tế, hiệu quả và hiệu lực trong quản lý tài chính và tài sản công Kiểm toán hoạt động tập trung vào các chủ đề, chương trình, dự án hoặc chính sách cụ thể nhằm đảm bảo đạt được các tiêu chí này Qua việc xác định các tiêu chí đánh giá, kiểm toán có thể phân tích nguyên nhân không đạt mục tiêu và đưa ra kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả quản lý và điều hành các chương trình, dự án.
Theo khái niệm của INTOSAI trong ISSAI 300, việc đánh giá phải được thực hiện một cách khách quan, độc lập và đủ độ tin cậy để đo lường các hoạt động của Chính phủ Điều này đảm bảo rằng các hoạt động này tuân thủ các tiêu chí về tính kinh tế, hiệu quả và hiệu lực, đồng thời cũng cần có sự điều chỉnh cho những tồn tại hiện có (INTOSAI, 2004).
2.2.1.2 Sự phát triển kiểm toán hoạt động
Cuối những năm 60 của thế kỷ XX, Kiểm toán Hoạt động (KTHĐ) đã ra đời và phát triển mạnh mẽ tại các quốc gia tiên tiến như Mỹ, Canada, Thụy Điển và Đức, đóng vai trò quan trọng trong quản lý công và hiệu quả đầu tư ngân sách quốc gia Thời điểm này, KTHĐ chủ yếu được các cơ quan kiểm toán nhà nước (SAIs) phát triển dựa trên nền tảng pháp luật, với yêu cầu từ Quốc hội về việc mở rộng quy mô hoạt động kiểm toán Tại Nhật Bản, KTHĐ được xác định với năm mục tiêu chính: tính đúng đắn, tuân thủ pháp luật, kinh tế, hiệu quả và hiệu lực Ở Úc, Cơ quan Kiểm toán Quốc gia (ANAO) đã đầu tư 50% nhân lực và ngân sách cho KTHĐ trong suốt hơn 30 năm qua, nhằm cung cấp thông tin cho Quốc hội về quản lý của các cơ quan Chính phủ và hỗ trợ các nhà quản lý trong khu vực công Mục tiêu cụ thể của ANAO trong KTHĐ là đánh giá tính kinh tế, hiệu quả, hiệu lực và tuân thủ pháp luật, đồng thời coi lập kế hoạch chiến lược KTHĐ là ưu tiên hàng đầu trong tổ chức thực hiện.
Theo nghiên cứu của Tác giả Woodall,J & Winstanley,D (1998), và Hoffmann,T
Vào năm 1999, việc xác định hành vi, đạo đức và chuẩn mực của kiểm toán viên (KTV) trong thực hiện kiểm toán hoạt động (KTHĐ) tại các nước đang phát triển đã nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tuân thủ pháp luật Nghiên cứu hiện nay cho thấy rằng KTV chưa hoàn toàn nhận thức đúng đắn về chuẩn mực hoạt động và vai trò pháp chế trong việc thi hành pháp luật KTHĐ đóng vai trò quan trọng như một công cụ giúp Kiểm toán Nhà nước (KTNN) thực hiện chức năng tham mưu và tư vấn cho hoạt động quản lý công, từ đó hỗ trợ bộ máy Nhà nước trong việc quản lý tài chính và tài sản công hiệu quả hơn.
Phát triển vai trò của KTHĐ nhằm đánh giá tính kinh tế, hiệu quả, hiệu lực và hiệu năng trong quản lý trung hạn và dài hạn Mục tiêu của KTHĐ là cung cấp thông tin hữu ích cho công chúng và người sử dụng, đồng thời thể hiện vai trò quan trọng trong quản lý tài chính công KTHĐ hỗ trợ các nhà quản lý và cơ quan có thẩm quyền hoàn thiện thể chế hoạt động, điều chỉnh chính sách quản lý cho các chương trình, dự án, và cải cách tổ chức bộ máy hoạt động, từ đó cải tiến quy trình và định hướng chiến lược hiệu quả.
2.2.2 M ụ c tiêu ki ể m toán ho ạ t độ ng
Mục tiêu và vai trò của Kiểm toán Hoạt động (KTHĐ) rất đa dạng, thể hiện qua vai trò kiểm soát và giám sát các hoạt động quản lý như Kiểm toán Nhà nước (KTNN) và kiểm toán nội bộ KTHĐ nhằm đánh giá tính kinh tế, hiệu quả và hiệu lực (3Es), được nghiên cứu bởi nhiều tác giả như Shan, D & Anand, P (1996) và Trodden, S.A (1996) Mối quan hệ giữa các vai trò này vẫn còn nhiều khoảng trống để nghiên cứu, đặc biệt khi so sánh với các loại hình kiểm toán khác KTHĐ không chỉ có một vai trò mà còn hai chức năng: chức năng của chủ thể và chức năng đánh giá Quyền quyết định trong giám sát và kiểm soát chủ yếu thuộc về KTNN, trong khi mục tiêu đánh giá trong KTHĐ tập trung vào tính kinh tế, hiệu quả và hiệu lực của KTNN.
Tính kinh tế, theo Quỹ kiểm toán toàn diện Canada (CCAF) năm 2013, được hiểu là việc đạt được mục tiêu với mức hao phí nguồn lực tối thiểu nhưng vẫn đảm bảo chất lượng và số lượng sản phẩm Các cơ quan kiểm toán nhà nước (SAIs) cần dựa vào tiêu chí nguồn lực đầu vào để đánh giá tính kinh tế, đồng thời sử dụng tư liệu và bằng chứng đầy đủ để xem xét các yếu tố ảnh hưởng đến giá cả và giá trị Trong khu vực ASOSAI, các nước đang phát triển có chi phí đầu vào hợp lý, tạo cơ hội cho đầu tư mạnh mẽ nhờ vào nguyên vật liệu phong phú và nhân công giá rẻ Vai trò của kiểm toán nhà nước trong quản lý nguồn lực công là giám sát chi phí tối thiểu cho các chương trình và dự án, đồng thời đảm bảo chất lượng để đánh giá hiệu lực, hiệu quả và hiệu năng quản lý, đây là vấn đề cốt lõi mà các SAIs hiện nay đang quan tâm.
Th ứ hai, tính hiệu quả (Efficiency)
Cũng theo hướng dẫn kiểm toán hoạt động của Cơ quan Tổng kiểm toán Canada
Nghiên cứu của Jean Rattegeau và Fermand Dubois (1984) chỉ ra rằng tính hiệu quả trong tổ chức KTHĐ được định nghĩa là việc tối thiểu hóa nguồn lực đầu vào trong khi tối đa hóa đầu ra Các SAIs đánh giá mục tiêu KTHĐ về tính hiệu quả thông qua việc kiểm toán và đánh giá hiệu quả sử dụng các nguồn lực tài chính công, nhân lực và vật lực trong quá trình giám sát và quản lý, đồng thời xem xét hiệu quả đầu tư công đối với các chương trình, dự án và chính sách phát triển (Kiểm toán Nhà nước, 2013).
Các kiểm toán viên (KTV) thực hiện kiểm toán hiệu quả (KTHĐ) cần dựa vào các tiêu chí đầu ra từ nguồn lực công, đảm bảo rằng mức độ đạt được mục tiêu hợp lý với tính kinh tế và rủi ro kỳ vọng thấp nhất Giá trị nguồn lực đầu vào thường được xác định dựa trên dự báo hoặc dữ liệu so sánh trong khu vực hoặc ngành nghề tương tự Hệ thống kiểm soát nội bộ mạnh mẽ giúp KTV có thông tin đầy đủ để đánh giá mục tiêu KTHĐ Trong các trường hợp phức tạp, KTV thường áp dụng công cụ từ hệ thống pháp luật và các tiêu chuẩn để đánh giá tuân thủ, nhưng thường chỉ trong phạm vi hẹp liên quan đến quản lý tài chính, thay vì đánh giá hiệu quả hoạt động Điều này có thể dẫn đến sự nhầm lẫn giữa phương pháp kiểm toán KTHĐ và kiểm toán tuân thủ, theo cảnh báo của các cơ quan kiểm toán tối cao (SAIs).
Th ứ ba, tính hiệu lực (Effectiveness): Sổ tay hướng dẫn kiểm toán hoạt động của
Lý luận chung về vai trò Kiểm toán Nhà nước trong quản lý tài chính, tài sản công qua kiểm toán hoạt động
2.3.1 S ự hình thành và phát tri ể n Ki ể m toán Nhà n ướ c
"Audit" có nguồn gốc từ tiếng Latinh, mang nghĩa kiểm toán và xuất hiện từ thời La Mã trước Công nguyên, cụ thể vào thế kỷ III Trong lịch sử, vào năm 1914, Đức thành lập phòng Thẩm kế tối cao, còn tại Pháp, cơ quan này được gọi là Tòa Thẩm kế.
Cour des comptes được thành lập vào năm 1807, đánh dấu sự ra đời của Kiểm toán Nhà nước (KTNN) gắn liền với hoạt động kinh tế tại thời điểm đó Sự kiện này đã giúp Nhà nước kiểm tra và giám sát các hoạt động tài chính quốc gia, đồng thời công bố thông tin tài chính hữu ích cho người sử dụng (Jean Rattegeau và Fermand Dubois, 1984).
Vào đầu thế kỷ XX, sau cuộc cách mạng cải cách kinh tế và công nghiệp hóa, HĐKT đã trở thành yếu tố quan trọng trong việc minh bạch hóa tài chính công Ở mỗi quốc gia, KTNN được gọi bằng nhiều tên khác nhau như “Toà Thẩm kế Cộng hoà Pháp”, “Cơ quan Tổng Kế toán Hoa Kỳ” hay “Cục Kiểm toán Liên bang Nga”.
Uỷ ban Kiểm toán và Thanh tra Hàn Quốc, Uỷ ban Kiểm toán và Kiểm soát Ấn Độ;
The Japanese Audit Commission and several other countries have joined together to form the International Organization of Supreme Audit Institutions (INTOSAI), which serves as a regional network for supreme audit agencies.
Tính đến nay, Kiểm toán Nhà nước (KTNN) đã có hơn 200 năm hình thành và phát triển, gắn liền với sự phát triển của nền tài chính công KTNN đóng vai trò quan trọng trong việc quản lý và chi tiêu ngân sách quốc gia, đồng thời hoạch định chính sách và thiết lập kỷ cương tài chính Sự ra đời của KTNN giúp Nhà nước kiểm soát hoạt động chi tiêu ngân quỹ, phát hiện và ngăn chặn tham nhũng, tiêu cực, từ đó hỗ trợ cải cách hành chính công và quản lý tài chính công quốc gia (Kjell Storlokken, 2007) Chức năng và vị trí pháp lý của KTNN thể hiện rõ vai trò cơ bản trong hoạt động kiểm toán.
Th ứ nh ấ t, chức năng của Kiểm toán Nhà nước trong QLTC, tài sản công qua thực hiện kiểm toán hoạt động
INTOSAI định nghĩa "Kiểm toán" là quá trình mà các chuyên gia độc lập, có thẩm quyền và kỹ năng nghiệp vụ, thu thập và đánh giá các bằng chứng về thông tin định lượng của một đơn vị Mục đích của quá trình này là xác nhận và báo cáo mức độ phù hợp giữa thông tin và các chuẩn mực đã được thiết lập Theo Luật Kiểm toán Nhà nước, các chức năng cơ bản của Kiểm toán Nhà nước được nêu rõ (INTOSAI, 2007).
Chức năng bày tỏ ý kiến trong báo cáo KTHĐ đóng vai trò quan trọng trong quản lý tài chính công và tài sản công, giúp đưa ra quan điểm hợp lý và thích ứng với các hoạt động đa dạng Qua việc sàng lọc rủi ro và tách biệt mâu thuẫn, chức năng này góp phần hoàn chỉnh thông tin, đảm bảo tính hiệu quả và hiệu lực trong quản lý KTNN cần dựa trên luật pháp, chính sách và thông lệ thực hiện để thực hiện chức năng này một cách hiệu quả.
Báo cáo tài chính và báo cáo quyết toán cung cấp thông tin đa chiều về quản lý tài chính, tài sản công và hoạt động của một tổ chức, cho thấy tầm quan trọng của việc đánh giá và xác minh thông tin Để thông tin trở nên hữu ích và đáng tin cậy, cần phải được đánh giá một cách hợp pháp và trung thực bởi cơ quan có thẩm quyền độc lập Theo CMKT quốc tế INTOSAI, chức năng xác minh không chỉ đơn thuần là "Xác nhận hoặc chứng thực" mà còn có ý nghĩa quan trọng trong việc phát hiện sai phạm nghiêm trọng trong thông tin tài chính và tài sản công, từ đó yêu cầu các cấp có thẩm quyền tiến hành xác minh.
Ba là, chức năng trọng tài của Kiểm toán Nhà nước (KTNN) không chỉ bao gồm các nhiệm vụ truyền thống mà còn tích hợp các chức năng quốc tế tương tự như ở Pháp, Hy Lạp, và Tây Ban Nha KTNN, được gọi là Toà Thẩm kế, thực hiện vai trò này tùy thuộc vào đặc điểm chính trị của từng quốc gia, có thể hoạt động như một quan tòa hoặc một cơ quan điều tra nhằm chống tham nhũng và tội phạm kinh tế, tương tự như mô hình tại Mỹ.
INTOSAI nhấn mạnh rằng các SAIs cần thực hiện kiểm toán hoạt động (KTHĐ) liên quan đến quản lý và sử dụng tài chính, tài sản công, đặc biệt trong các lĩnh vực nhạy cảm và có rủi ro cao Việc KTHĐ này giúp các nhà hoạch định chiến lược và chính sách có thể báo cáo với Chính phủ và Quốc hội, từ đó kiểm soát và điều hành quỹ công hiệu quả hơn, đặc biệt trong các chương trình và dự án đầu tư phát triển Thêm vào đó, thông qua báo cáo KTHĐ, Kiểm toán nhà nước (KTNN) có quyền tham vấn và kiến nghị các cơ quan quản lý điều chỉnh chính sách, nhằm xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội phù hợp với thực tiễn.
Kiến nghị và công khai kết quả kiểm toán hoạt động (KTHĐ) về quản lý và sử dụng tài chính công là rất quan trọng Qua các hoạt động kiểm toán, các vấn đề được nêu lên giúp làm rõ mối quan hệ và nguyên nhân dẫn đến sai phạm nghiêm trọng Đánh giá dựa trên cơ sở pháp lý vững chắc và sự kết thúc có chứng kiến sẽ đảm bảo trách nhiệm đối với báo cáo KTHĐ Điều này nhằm đưa ra các kiến nghị hợp lý, giúp các cấp quản lý tài chính công và nhà cầm quyền sử dụng thông tin hữu ích để xây dựng chiến lược và hoạch định chính sách trong tương lai.
Theo “Performance Audits Manual of the European Court of Auditors” năm
Năm 2014, với vai trò quan trọng của Kiểm toán Nhà nước (KTNN), cơ quan này đã tham gia tích cực vào các cuộc họp của Quốc hội, đề xuất và thảo luận các chính sách liên quan đến ngân sách nhà nước, tài chính và tài sản công Điều này góp phần vào việc ban hành các văn bản pháp luật và nghị quyết tại các cấp quản lý nhà nước Tương tự như các quốc gia phát triển như Mỹ, Áo, Pháp và Đức, các kiến nghị của KTNN đã giúp điều chỉnh mối quan hệ giữa chính sách quản lý tài chính công và chính sách tiền tệ Những kiến nghị này cũng làm rõ trách nhiệm và vai trò của người đứng đầu tổ chức cũng như các bên liên quan trong việc phát triển kinh tế và đảm bảo an sinh xã hội.
Theo chỉ dẫn của ASOSAI 14 và INTOSAI, các cơ quan kiểm toán (CQKT) phải công khai báo cáo kết quả kiểm toán hoạt động (KTHĐ) về tình hình chi tiêu quỹ công quốc gia, nhằm đảm bảo minh bạch và đáng tin cậy cho người sử dụng thông tin Việc này không chỉ hỗ trợ các nhà đầu tư và tổ chức quốc tế như IMF trong việc ra quyết định đầu tư, mà còn giúp công chúng và các tổ chức phi Chính phủ đánh giá tình hình hoạt động của các chủ thể nắm giữ quyền lực công trong suốt nhiệm kỳ của họ.
Th ứ hai, vị trí pháp lý của Kiểm toán Nhà nước
Theo các SAIs, Kiểm toán Nhà nước (KTNN) giữ vị trí cao nhất trong các cơ quan công quyền, liên quan đến kiểm tra và giám sát chi tiêu công Tùy thuộc vào đặc điểm chính trị và phân cấp quản lý nhà nước, KTNN có thể trực thuộc Quốc hội, Chính phủ hoặc hoạt động độc lập Vai trò của KTNN trong cả lập pháp và hành pháp bị ảnh hưởng bởi cấu trúc tổ chức của các bộ máy kiểm toán tại nhiều quốc gia Vị trí pháp lý của KTNN luôn gắn liền với các quy định của pháp luật và thể chế chính trị, thể hiện quyền năng qua việc ban hành bộ luật và văn bản hướng dẫn Trong quá trình thực hiện kiểm toán hoạt động, KTNN đóng vai trò quan trọng như một tổ chức công quyền độc lập, có nhiệm vụ kiểm soát và báo cáo kết quả hoạt động, từ đó nâng cao vai trò của KTNN trong quản lý tài chính công và tài sản công.
Cuộc họp vào tháng 10/1977 tại Lima, Peru, trong Đại hội IX của INTOSAI đã nhấn mạnh tầm quan trọng của việc thiết lập bộ máy tổ chức cho các cơ quan kiểm toán tối cao theo các đạo luật và hiến pháp rõ ràng Đại hội khẳng định rằng tính độc lập của các cơ quan kiểm toán tối cao cần được đảm bảo trong hiến pháp và các đạo luật khác, với vai trò quan trọng trong quản lý tài chính công Kiểm toán Nhà nước (KTNN) phải hoạt động độc lập, chỉ tuân theo pháp luật, và là một trong những cơ quan công quyền cao nhất do Quốc hội thành lập KTNN, thường do Tổng Kiểm toán Nhà nước đứng đầu và được Quốc hội bầu, bổ nhiệm, có trách nhiệm báo cáo kết quả kiểm toán đến Nghị viện và công khai thông tin cho công chúng Kết quả kiểm toán cần phải xác nhận tính hữu ích và độ tin cậy, thể hiện vai trò và hiệu quả của KTNN trong báo cáo kiểm toán hàng năm, nhằm đáp ứng yêu cầu của các cơ quan và công chúng.
2.3.2 Vai trò c ủ a Ki ể m toán Nhà n ướ c trong qu ả n lý tài chính, tài s ả n công qua ki ể m toán ho ạ t độ ng
Mô hình nghiên cứu mối quan hệ về vai trò kiểm toán trong hệ thống quản lý tài chính, tài sản công
lý tài chính, tài sản công
2.4.1 Các nhân t ố ả nh h ưở ng đế n s ự phát tri ể n vai trò ki ể m toán
Nghiên cứu của tác giả Vũ Văn Họa (2010) về "Tăng cường vai trò của kiểm toán hoạt động ở Việt Nam do Kiểm toán Nhà nước thực hiện" đã chỉ ra sáu nhóm nhân tố quan trọng: (1) môi trường pháp lý; (2) tổ chức bộ máy và chế độ đãi ngộ cho kiểm toán viên; (3) cơ sở vật chất phục vụ cho đoàn kiểm toán hoạt động; (4) nhận thức của các cấp, các ngành, cũng như công chúng và xã hội về vai trò của Kiểm toán Nhà nước; (5) cơ chế phối hợp giữa các cơ quan kiểm tra, thanh tra và kiểm toán; (6) hợp tác quốc tế Nghiên cứu này cho thấy các cơ quan kiểm toán nhà nước đều có những đặc điểm chung ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển vai trò của kiểm toán hoạt động.
Kết quả nghiên cứu của Tác giả Pollite & cộng sự (1999), trong công trình
In the book "Performance Audit and Public Management in Five Countries," published by Oxford University Press, author Đặng Anh Tuấn (2015) identifies key factors influencing the establishment and development of performance auditing.
Hai nhóm nhân tố chính ảnh hưởng đến nghiên cứu bao gồm khả năng của KTNN và kỹ năng của KTV Trong tổng số 33 nhân tố, có 15 nhân tố có tác động mạnh, được phân chia thành bốn nhóm: (1) Chính trị; (2) Kinh tế; (3) Khả năng triển khai của KTNN; (4) Kỹ năng của KTV Tác giả tập trung nghiên cứu vào hai nhóm nhân tố thứ ba và thứ tư, nhấn mạnh vai trò quan trọng của khả năng triển khai và kỹ năng chuyên môn trong quá trình thực hiện.
Năng lực của KTV, bao gồm kỹ năng nghề nghiệp, được hình thành qua giáo dục, đào tạo và huấn luyện, là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến khả năng triển khai KTHĐ Các SAIs đều thống nhất rằng năng lực KTV có tác động lớn đến việc hoàn thành nghĩa vụ nghề nghiệp, tuy nhiên, nhiều SAIs vẫn đang gặp khó khăn trong việc phát triển yếu tố này trong BMKT, đặc biệt là trong các lĩnh vực đặc thù và mới lạ khi thực hiện KTHĐ.
Tác giả chỉ ra rằng bên cạnh yếu tố con người, sự thay đổi của Luật Kiểm toán Nhà nước (KTNN) và Luật Ngân sách Nhà nước (NSNN) qua các thời kỳ đã ảnh hưởng lớn đến tài chính công, hoạt động kinh tế và địa vị pháp lý của KTNN Gần đây, Quốc hội đã ban hành nhiều nghị quyết về tiết kiệm vốn trong đầu tư công và chi tiêu công Tuy nhiên, tính pháp chế trong việc thi hành pháp luật vẫn chưa rõ ràng, chủ yếu mang tính khẩu hiệu, thiếu chế tài mạnh mẽ để xử lý các hành vi vi phạm Luật KTNN cũng chưa có quy định chính thức để xử phạt hoặc truy cứu trách nhiệm đối với những cá nhân không tuân thủ kiến nghị của KTNN, dẫn đến sự thiếu hợp tác trong kiểm toán, đặc biệt trong lĩnh vực kiểm toán hoạt động.
Nghiên cứu cho thấy hai yếu tố quyết định chính ảnh hưởng lớn đến sự hình thành và phát triển của KTHĐ là chuẩn mực hoạt động và yếu tố con người, trong đó vai trò của chủ thể thực hiện KTHĐ là rất quan trọng.
Yếu tố "nhân" đóng vai trò quyết định đến chất lượng hợp đồng kinh tế và tài chính Pháp chế thi hành pháp luật là yếu tố then chốt hình thành khuôn khổ an ninh tài chính, trật tự phép tắc trong hoạt động, tạo thành thông lệ chung với tính chế tài rõ ràng Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến đối tượng thi hành pháp luật, không có ngoại lệ cho bất kỳ trường hợp nào đối với chủ thể kiểm toán nhà nước và khách thể kiểm toán.
Nghiên cứu đã kiểm định và phát triển các nhóm nhân tố, tạo nền tảng lý thuyết cho việc áp dụng vào thực tiễn tại các quốc gia đang phát triển Tác giả luận án đã bổ sung hai nhân tố phụ và làm rõ mối quan hệ giữa các nhân tố trong việc áp dụng KTHĐ trong tổ chức kiểm toán của KTNN.
2.4.1.1 Pháp chế thi hành pháp luật
Tính pháp chế trong thi hành pháp luật thể hiện quyền năng của hệ thống pháp luật, đặc biệt trong tổ chức kiểm tra, kiểm soát (KTHĐ) thông qua các phương thức tiền kiểm và hiện kiểm Vai trò của Kiểm toán nhà nước (KTNN) là quan trọng trong việc quy định các thể chế và chính sách, ngăn chặn hành vi che dấu, biển thủ tài chính, tài sản công, gây thiệt hại cho quỹ công quốc gia Đồng thời, việc xây dựng và tăng cường pháp chế giúp rời bỏ quyền lực khi có vi phạm trong KTHĐ, đảm bảo bồi thường thiệt hại theo quy định của các cơ quan kiểm toán và luật pháp, đồng thời thúc đẩy biện pháp truy cứu trách nhiệm nghiêm khắc hơn so với giáo dục thông thường.
Theo nghiên cứu của Kjell Storlokken (2007), pháp chế pháp quyền tồn tại trong mọi lĩnh vực và hoàn cảnh của Luật, đạo Luật, thể chế chính trị và chính sách của Nhà nước Pháp chế không chỉ là quyền năng mà còn là nguyên tắc pháp lệnh, thể hiện tính tự nguyện trong tổ chức kiểm toán nhà nước (KTNN) Tính pháp chế gắn liền với các quy chuẩn và quy định của luật pháp, đảm bảo rằng các đối tượng được điều chỉnh luôn tuân thủ định hướng trong các mối quan hệ kinh tế, xã hội, như thể hiện qua báo cáo KTHĐ Trong vai trò của KTNN, tính pháp chế khẳng định nguyên tắc độc lập và khách quan khi tác động đến các đối tượng mà INTOSAI đã chỉ ra.
Nhân tố pháp chế trong kiểm toán độc lập (KTHĐ) và quyền năng pháp luật trong hoạt động kinh tế (HĐKT) cần được củng cố mạnh mẽ hơn so với chuẩn mực kiểm toán hiện hành Tính pháp chế thể hiện sức mạnh của luật pháp và quy trình KTHĐ, đồng thời thúc đẩy hoạt động thể chế Để nâng cao vai trò của Kiểm toán Nhà nước (KTNN) trong KTHĐ, cần tăng cường tính nghiêm minh trong việc thực thi pháp luật kiểm toán, đảm bảo tính dân chủ cho các đối tượng bị điều chỉnh, qua đó nâng cao trách nhiệm và nhận thức trong việc thực hiện Luật Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh truyền thông và đa dạng hóa thông tin minh bạch trong báo cáo KTHĐ thông qua các kênh thông tin đại chúng và sách báo điện tử, đồng thời khẳng định vai trò của các chủ thể thực hiện KTHĐ gắn liền với pháp chế trong hệ thống pháp luật liên quan đến HĐKT của KTNN.
Nghiên cứu của Woodall và Winstanley (1998) nhấn mạnh vai trò chuẩn mực của kiểm toán viên (KTV) thông qua các hành vi, đạo đức và thái độ đúng đắn Chuẩn mực hoạt động không chỉ khác biệt với chuẩn mực trong kế toán và kiểm toán, mà còn thể hiện hành động ý thức để thực thi các chuẩn mực tự giác Trong thực tế, chuẩn mực này được hình thành trong tổ chức kiểm toán hành động (KTHĐ), mang tính chất quy chuẩn và chấp hành các quy định đạo đức nghề nghiệp Các tiêu chí chuẩn mực này không chỉ giúp tăng cường hiệu lực của các quy tắc trong quá trình hoạt động mà còn hỗ trợ đánh giá hiệu năng trong quản lý tài chính và tài sản công.
Nhân tố chuẩn mực hoạt động trong kiểm toán đóng vai trò quan trọng, yêu cầu KTV tuân thủ quy định và điều lệ của hoạt động kiểm toán Việc nâng cao chuẩn mực đạo đức và tư duy nghề nghiệp giúp phát huy hiệu quả kiểm toán thông qua tinh thần sáng kiến và trách nhiệm công vụ KTV cần giữ vững lập trường và đạo đức nghề nghiệp, đồng thời cảnh giác với những rủi ro có thể ảnh hưởng đến uy tín và sự nghiệp của mình Chuẩn mực của KTV không chỉ góp phần phát triển kinh tế xã hội mà còn giúp Nhà nước chống tiêu cực, bảo vệ nguồn lực công và mang lại lợi ích cho cộng đồng.
Để đánh giá hiệu lực và hiệu năng trong KTHĐ, cần hình thành chuẩn mực hoạt động dựa trên các nguyên tắc đã được xác định Việc áp dụng tiêu chí chuẩn mực hỗ trợ đánh giá này cần làm rõ các mối quan hệ nhân quả phức tạp, đặc biệt là khi nhà cầm quyền ban hành các chế độ và chính sách pháp luật không phù hợp Giải quyết mối quan hệ này sẽ giúp đạt được tính hiệu năng bền vững Các định hướng chiến lược và chính sách cần có tính khả thi và thực tiễn, đồng thời phải thể hiện rõ tính hiệu năng quản lý và tính chuẩn mực thi hành, là những yếu tố quan trọng trong việc hình thành điều kiện pháp lý và ý thức của chủ thể quản lý tài chính công và tài sản công.
Nghiên cứu của Peter Carey và Roger Simnett (2006) chỉ ra rằng năng lực của kiểm toán viên (KTV) trong việc thực hiện kiểm toán hợp đồng (KTHĐ) liên quan chặt chẽ đến chuẩn mực và đạo đức nghề nghiệp, ảnh hưởng đến việc KTV có thể đảm nhiệm trách nhiệm hay cần thuê chuyên gia Để hình thành tiêu chí chuẩn mực cho KTHĐ, cần có một quá trình nhất định, trong đó chuẩn mực hoạt động phụ thuộc vào nhiều yếu tố, bao gồm cả yếu tố con người và môi trường Các yếu tố này bao gồm: đảm bảo cơ sở vật chất và điều kiện thiết yếu cho hoạt động kinh tế; chính sách tiền lương, như ở SAI Nhật Bản, nâng cao thu nhập cho KTV trong bộ máy nhà nước; phát triển tri thức đa lĩnh vực cho KTV theo hướng phát triển của các nước tiên tiến; xây dựng môi trường pháp luật đồng bộ, minh bạch và đổi mới trong kiểm toán và cải cách hành chính; và ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại trong cải cách hành chính và hoạt động kinh tế.