TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CHI TRẢ DỊCH VỤ MÔI TRƯỜNG RỪNG VÀ SINH KẾ CỦA HỘ
Tổng quan nghiên cứu
1.1.1 Tổng quan nghiên cứu trên thế giới
1.1.1.1 Chi trả Dịch vụ môi trường trên thế giới
Từ giữa những năm 1990, chi trả Dịch vụ Môi trường (PES) đã trở thành một công cụ chính sách quan trọng toàn cầu, tạo ra khuyến khích tài chính cho quản lý rừng hiệu quả (Jack và cộng sự, 2008; Bửrner và cộng sự, 2010) PES khác biệt với các công cụ tài chính bảo tồn khác nhờ vào tính điều kiện và bổ sung, trong đó người sử dụng dịch vụ chỉ thanh toán khi các bên cung cấp dịch vụ đã thực hiện đúng cam kết trong hợp đồng PES (Ezzine-de-Blas và cộng sự, 2012).
Trong hai thập kỷ qua, hàng trăm sáng kiến chi trả dịch vụ môi trường đã được triển khai trên toàn cầu ở nhiều quy mô khác nhau (Bửrner và cộng sự, 2017) Nghiên cứu của Phạm Thu Thủy và cộng sự (2018a) về hơn 60 chương trình chi trả dịch vụ môi trường ở các khu vực như châu Mỹ Latin, châu Đại Dương, Bắc Mỹ, châu Âu, châu Á và châu Phi cho thấy có 5 loại dịch vụ chính được chi trả, bao gồm bảo vệ nguồn nước, bảo vệ đa dạng sinh học, dịch vụ hệ sinh thái rừng ngập mặn, hấp thụ carbon và vẻ đẹp cảnh quan Trong đó, dịch vụ bảo vệ nguồn nước chiếm tỷ lệ cao nhất với 51%, do sự quan trọng của việc duy trì và cung cấp nguồn nước.
Nhu cầu về lượng nước, điều hòa dòng chảy và chống xói mòn là rất quan trọng đối với các công ty thủy điện, cơ sở sản xuất nước sạch, doanh nghiệp công nghiệp và người dân.
Châu Âu và Châu Mỹ Latin đã có nhiều kinh nghiệm trong việc thực hiện PES từ sớm, trong khi các nước châu Á mới bắt đầu áp dụng PES vào chính sách từ đầu thế kỷ 20, còn châu Phi vẫn coi PES là khái niệm mới mẻ Việt Nam và Indonesia nổi bật là hai quốc gia tiên phong trong lĩnh vực PES tại châu Á.
Châu Mỹ Latin là khu vực phát triển mạnh mẽ cơ chế chi trả dịch vụ môi trường, đặc biệt sau cơn bão Mitch năm 1998, đã chỉ ra sự phụ thuộc của người dân, nhất là người nghèo, vào các dịch vụ môi trường từ hệ sinh thái rừng tự nhiên.
Chương trình Chi trả Dịch vụ Môi trường (PES) tại Costa Rica, được thành lập vào năm 1997, là một trong những chương trình đầu tiên trên thế giới và ở Mỹ Latinh nhằm nâng cao cung cấp dịch vụ môi trường trong lĩnh vực lâm nghiệp Năm 2003, Mexico đã triển khai chương trình Chi trả cho các dịch vụ môi trường thủy văn (PSAH), nhằm bảo tồn rừng trong các lưu vực thủy văn quan trọng thông qua phí sử dụng nước Tại Colombia, người sử dụng nước ở Thung lũng Cauca đã chi trả cho các hoạt động bảo tồn ở đầu nguồn Ở Ecuador, thành phố Quito đã thành lập Quỹ nước (FONAG) với sự đóng góp từ các công ty cấp nước và điện lực để tài trợ cho việc bảo tồn tại các khu vực bảo vệ nguồn nước.
Châu Âu đã triển khai nhiều mô hình tiền thân của Chương trình Dịch vụ Hệ sinh thái (PES) sau cải cách nông nghiệp năm 2001 Nhiều chương trình trong Chính sách nông nghiệp đã chi trả cho nông dân thực hiện các biện pháp bảo tồn tại trang trại, bao gồm việc giảm mức độ sử dụng chất gây ô nhiễm nhằm bảo vệ môi trường sống tự nhiên (Baylis và cộng sự, 2008).
Với sự phát triển nhanh chóng của PES toàn cầu, số lượng nghiên cứu về chủ đề này cũng gia tăng đáng kể Theo thống kê từ Google Scholar, chỉ trong 0.1 giây có hàng triệu nghiên cứu liên quan đến PES Từ năm 2010-2015, trung bình mỗi năm có 1715 bài viết được xuất bản về PES (Bửrner và cộng sự, 2017) Mặc dù có nhiều chương trình, chính sách và dự án liên quan đến PES, nhưng rất ít nghiên cứu sử dụng phương pháp tin cậy và toàn diện để đánh giá hiệu quả của PES (Phạm và cộng sự, 2014; Loft và cộng sự, 2019) Các nhà khoa học và nhà hoạch định chính sách đã nhấn mạnh sự cần thiết phải tiến hành các nghiên cứu chính xác để giải quyết khoảng trống kiến thức này tại các diễn đàn quốc tế về biến đổi khí hậu Luận văn thạc sĩ này nhằm đóng góp vào việc giải quyết thực trạng này.
1.1.1.2 Một số công trình nghiên cứu về mối tương quan giữa chi trả Dịch vụ môi trường và sinh kế trên thế giới Đánh giá tác động của PES đối với cải thiện sinh kế luôn là mối quan tâm trọng điểm của các nhà hoạch định chính sách, các nhà tài trợ và các chương trình dự án Tuy nhiên, việc đánh giá tác động kinh tế xã hội của PES rất phức tạp và đòi hỏi phải đánh giá theo không gian và thời gian; đa chiều và có sự tham gia đa bên (Hegde và Bull, 2011) Đã có nhiều nghiên cứu nhằm xác định mối liên kết giữa PES và cải thiện sinh kế cho hộ gia đình trên toàn cầu (ví dụ, Pagiola và cộng sự, 2005; Wunder, 2008; Tallis và cộng sự, 2008) Các nghiên cứu trên toàn cầu này chỉ ra tác động phức tạp của PES đối với sinh kế của người dân Cụ thể hơn, PES có thể giúp cải thiện sinh kế tại một số nơi và một số lĩnh vực nhưng lại có thể tạo ra các tác động tiêu cực ở một số địa phương và lĩnh vực khác Ví dụ, một số tác động tích cực của PES trên toàn cầu bao gồm đảm bảo quyền sử dụng đất (Lawlor và cộng sự, 2013), tăng lợi nhuận, nâng cao và đa dạng hóa thu nhập (Pagiola và cộng sự, 2005; Wunder,
Chương trình PES (Payment for Ecosystem Services) mang lại nhiều lợi ích sức khỏe và kinh tế cho cộng đồng, đặc biệt là thông qua việc cải thiện và ổn định nguồn nước uống (Wunder, 2008) Nghiên cứu của Clements & Milner-Gulland (2015) cho thấy những người tham gia PES ở Campuchia đã tăng thu nhập và năng suất nông nghiệp, đồng thời đảm bảo an ninh lương thực Ngoài ra, PES còn cung cấp các lợi ích về giải trí, văn hóa, gắn kết xã hội và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế (Tacconi và cộng sự, 2013; Blundo-Canto và cộng sự, 2018) Lợi ích trực tiếp của PES là gia tăng nguồn thu nhập cho người dân, trong khi lợi ích gián tiếp giúp người nghèo tiếp cận công cụ và nguồn lực, tạo ra tiềm năng lớn hơn và những tác động lâu dài cho họ (Kiss, 2004).
Blundo-Canto và cộng sự (2018) đã ghi nhận sự giảm sút thu nhập của hộ gia đình khi thực hiện PES tại Trung Quốc, Kenya và Indonesia Pham và cộng sự (2013a) chỉ ra rằng việc áp dụng PES với khái niệm tiền tệ hóa các dịch vụ môi trường đã làm suy giảm gắn kết xã hội truyền thống trong bảo vệ rừng, khi chỉ những người nhận tiền PES mới tham gia Việc thay thế thu nhập từ các loại hình sử dụng đất có lợi nhuận cao bằng việc tham gia PES với mức chi trả thấp đã dẫn đến giảm thu nhập của nhiều hộ dân toàn cầu Tác động của PES đến sinh kế hộ gia đình phụ thuộc vào nhiều yếu tố như thể chế, chính sách, bối cảnh kinh tế, chính trị, xã hội, chi phí cơ hội và tài nguyên Do đó, cần có khung đánh giá tác động của chi trả DVMTR một cách toàn diện để giúp các nhà hoạch định chính sách cải thiện hiệu quả của chương trình này.
1.1.2 Tổng quan nghiên cứu tại Việt Nam về các yếu tố ảnh hưởng tới sinh kế hộ gia đình và tác động của chi trả DVMTR đối với sinh kế hộ gia đình
Nhiều báo cáo đã phân tích tác động của chi trả DVMTR đến sinh kế hộ gia đình tại Việt Nam, nhưng chủ yếu là các nghiên cứu ngắn hạn với mẫu nhỏ, không đại diện và thiếu phương pháp khoa học Nghiên cứu của Nguyễn Việt Dũng (2015) tại Lào Cai, Quảng Nam và Kon Tum cho thấy mức chi trả trung bình 250,000 VNĐ/ha đã bổ sung thu nhập từ 1.8 – 2 triệu VNĐ/hộ/năm cho gần 349,000 hộ gia đình, góp phần bảo vệ gần 5 triệu ha rừng Tuy nhiên, nghiên cứu của Hoàng Thị Thu Thương (2011) tại Sơn La chỉ ra rằng số tiền chi trả DVMTR không đủ để cải thiện đời sống người dân, mà chỉ đủ cho một bữa ăn hoặc mua sắm nhỏ Hơn nữa, các nghiên cứu này chưa tính đến chi phí giao dịch và tác động tiêu cực đến hộ gia đình, đồng thời chỉ nhìn nhận vai trò tích cực của chi trả DVMTR đối với tổ chức nhà nước mà bỏ qua những ảnh hưởng tiêu cực từ việc chậm trễ chuyển giao đất cho cộng đồng.
Theo nghiên cứu của Đỗ Đăng Tèo và Anchana NaRanong (2019), các yếu tố như tuổi, giới tính và mức thu nhập ảnh hưởng đến tác động của chi trả DVMTR đối với sinh kế hộ gia đình tại Quảng Nam và Thừa Thiên Huế Mặc dù hộ nghèo tham gia chi trả DVMTR có thu nhập cao hơn so với hộ nghèo không tham gia, sự khác biệt này không đáng kể về mặt thống kê Nghiên cứu chỉ tập trung vào quy mô hộ mà chưa xem xét các yếu tố thể chế khác có thể ảnh hưởng đến sinh kế, như hiệu quả quản trị, số lượng dự án hỗ trợ và mạng lưới xã hội Tác động của chi trả DVMTR đối với sinh kế hộ dân rất đa dạng và phụ thuộc vào điều kiện bối cảnh của từng địa phương.
Các nghiên cứu tại Việt Nam chỉ ra rằng nhiều yếu tố ảnh hưởng đến tác động của chi trả dịch vụ môi trường rừng (DVMTR) đối với sinh kế hộ gia đình Tại đồng bằng sông Cửu Long và Hà Nội, các yếu tố như tài sản vật chất, nguồn tài chính, chất lượng lao động, sự đa dạng trong nguồn thu nhập, giá thành và thị trường nông sản, thiên tai, trình độ học vấn, cơ sở hạ tầng, và mạng lưới giao thông đều có vai trò quan trọng Ở Kiên Giang, diện tích đất canh tác và tỷ lệ lao động cũng là những yếu tố quyết định sinh kế của người dân.
KHUNG PHÂN TÍCH VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 28 2.1 Khung phân tích đánh giá tác động của DVMTR đối với sinh kế hộ
Phương pháp thu thập thông tin, số liệu
2.2.1 Lựa chọn năm cơ sở Để có thể đánh giá tác động của chi trả DVMTR bằng cách so sánh trước và sau khi có chi trả DVMTR, xác định năm cơ sở để so sánh đóng vai trò quan trọng VQG Cát Tiên nằm trên địa giới của tỉnh Lâm Đồng, Đồng Nai và Bình Phước Do mỗi tỉnh lại thực hiện chi trả DVMTR ở các thời điểm khác nhau nên năm cơ sở tại mỗi tỉnh cũng có sự khác biệt DVMTR được thực hiện tại Lâm Đồng vào năm 2010 và Đồng Nai và Bình Phước vào năm 2014 nên ở Lâm Đồng sẽ chọn 2010 và Đồng Nai và Bình Phước chọn 2014 làm mốc để so sánh trước và sau khi có DVMTR tại VQG Cát Tiên
2.2.2 Lựa chọn địa bàn nghiên cứu Để có thể so sánh được tác động rõ rệt của DVMTR, học viên cùng nhóm nghiên cứu tiến hành việc chọn lựa các cặp thôn bản có điều kiện có tương đối giống nhau nhưng có thôn ấp có DVMTR và thôn ấp không có DVMTR Áp dụng phương pháp đã được phát triển bởi Sunderlin & Sill (2016), nghiên cứu này đã lựa chọn 4 cặp thôn (thôn có DVMTR – thôn không có DVMTR), so sánh trước và sau khi có DVMTR (Bảng 2.2) để có thể so sánh được tác động rõ rệt của DVMTR Việc lựa chọn 4 cặp với 30 hộ phỏng vấn mỗi thôn theo hướng dẫn chung của Sunderlin và cộng sự (2016) nhằm đảm bảo sự chính xác của các phân tích thống kê Việc lựa chọn các cặp nghiên cứu này này được tiến hành qua các bước như sau:
Nhóm nghiên cứu tiến hành rà soát dữ liệu thứ cấp và tham vấn với chính quyền địa phương để hiểu rõ về điều kiện kinh tế xã hội, nguyên nhân phá rừng, các nhóm chủ rừng và đối tượng nhận khoán, cũng như tình hình tài nguyên rừng qua từng năm Họ đánh giá khả năng tiếp cận tới các thôn, xác định các cặp thôn bản có điều kiện kinh tế, chính trị xã hội tương đồng, trong đó một thôn có DVMTR và một thôn không có DVMTR Mặc dù không có cặp thôn nào hoàn toàn giống nhau, nhóm nghiên cứu lựa chọn các điểm nghiên cứu có độ tương đồng cao nhất để tiến hành nghiên cứu.
- Bước 2: Tiến hành điều tra trên thực địa để đảm bảo các cặp thôn bản được lựa chọn thể hiện đúng tiêu chí nghiên cứu
Bước 3 trong quy trình nghiên cứu liên quan đến việc dựa vào sự đồng thuận giữa người dân và chính quyền địa phương để tiến hành nghiên cứu trên địa bàn Sau khi rà soát kết quả từ bước 2, nhóm nghiên cứu sẽ ghép lại các cặp bản và lựa chọn ra 4 cặp bản giống nhau nhằm thu thập số liệu Kết quả lựa chọn 4 cặp thôn bản được trình bày trong Bảng 2.2.
Bảng 2.2 Tên các thôn ấp đƣợc lựa chọn để tiến hành nghiên cứu
STT Tên thôn ấp Tỉnh Có
1 Ấp A, xã Đắc Lua Đồng Nai x
Thôn B, xã Đăng Hà Bình Phước x
Thôn C, xã Gia Viễn Lâm Đồng x Ấp D, xã Tài Lài Đồng Nai x
Thôn E, xã Tiên Hoàng Lâm Đồng x Ấp F, xã Đắc Lua Đồng Nai x
Thôn G, xã Phước Cát 2 Lâm Đồng x
Thôn H, xã Phước Sơn Bình Phước x
* Các thôn trong nghiên cứu đã được ẩn tên
Nghiên cứu này lựa chọn các cặp thôn bản không cùng tỉnh dựa trên phương pháp quy mô cảnh quan rừng do VQG Cát Tiên quản lý Kết quả kiểm chứng thực địa cho thấy phần lớn các điều kiện của các cặp này tương đồng với nhau.
2.2.3 Nghiên cứu dữ liệu thứ cấp
Học viên tiến hành nghiên cứu dữ liệu thứ cấp về chính sách DVMTR trên toàn cầu và tại Việt Nam, bao gồm các báo cáo từ VQG Cát Tiên, Quỹ BVPTR tỉnh, các sở ban ngành, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, huyện, xã, thôn ấp, cùng với các báo cáo khoa học và nghiên cứu đánh giá tác động của chính sách chi trả DVMTR.
2.2.4 Thu thập dữ liệu sơ cấp Đề tài thạc sĩ này là một phần trong dự án tổng thể “Đánh giá tác động của dịch vụ môi trường rừng tại Cát Tiên” do CIFOR tiến hành Tất cả phương pháp tiến hành và số liệu thu thập được đều là tài sản trí tuệ của CIFOR Số liệu được sử dụng trong đề tài này do một nhóm chuyên gia thực hiện, trong đó học viên là thành viên của nhóm nghiên cứu và là người trực tiếp thu thập dữ liệu ở VQG Cát Tiên tại 8 điểm nghiên cứu CIFOR đã đồng ý cho phép học viên được sử dụng số liệu và bản
34 quyền của dự án để phân tích trong đề tài thạc sĩ này do học viên là đồng sở hữu về tài sản trí tuệ
Tại mỗi bản, thảo luận nhóm được tổ chức với sự tham gia của 149 người, bao gồm 70 nam và 79 nữ, dựa trên tiêu chí đại diện về lứa tuổi, giới tính, thu nhập, dân tộc và kinh nghiệm trong DVMTR Các cuộc thảo luận này tập trung vào lịch sử hình thành thôn bản, nguyên nhân phá rừng, phân loại kinh tế hộ, cũng như điểm mạnh, điểm yếu và tác động của DVMTR đối với đời sống người dân Đồng thời, người dân cũng bày tỏ mong muốn về việc thực hiện các chương trình hỗ trợ phát triển hiệu quả hơn tại địa phương.
Bảng 2.3 Tổng hợp số người tham gia họp nhóm thôn/ấp
Phỏng vấn sâu hộ gia đình
Cặp 1 Ấp A, xã Đắc Lua, huyện Tân
Thôn B, xã Đăng Hà, huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước x 9 8
Thôn C, xã Gia Viễn, huyện Cát
Tiên, tỉnh Lâm Đồng x 8 9 Ấp D, xã Tà Lài, huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai x 7 9
Thôn E, xã Tiên Hoàng, huyện
Cát Tiên, tỉnh Lâm Đồng x 9 10 Ấp F, xã Đắc Lua, huyện Tân
Thôn G, xã Phước Cát 2, huyện
Cát Tiên, tỉnh Lâm Đồng x 8 10
Thôn H, xã Phước Sơn, huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước x 11 9
Theo yêu cầu của dự án nhằm đảm bảo đạo đức nghiên cứu, danh tính của nhóm phỏng vấn và tên thật của các bản nghiên cứu sẽ được giữ kín.
Phỏng vấn các bên có liên quan
Học viên và nhóm nghiên cứu đã thực hiện 37 cuộc phỏng vấn với các bên liên quan đến DVMTR từ cấp tỉnh đến cấp xã Mục đích của các cuộc phỏng vấn này là để hiểu rõ quan điểm của các bên liên quan về tác động của DVMTR cũng như những khó khăn và thuận lợi trong quá trình thực hiện trên địa bàn.
Phỏng vấn hộ gia đình
Học viên cùng nhóm nghiên cứu của Trung tâm nghiên cứu lâm nghiệp quốc tế CIFOR và cán bộ VQG Cát Tiên đã thực hiện phỏng vấn sâu 244 hộ gia đình tại 8 thôn bản, trong đó có 123 hộ thuộc thôn có DVMTR và 121 hộ từ thôn không có DVMTR Số hộ tham gia DVMTR trong số 123 hộ tại thôn có DVMTR là
Trong một cuộc khảo sát với 46 hộ gia đình, chiếm 37% tổng số, chúng tôi đã tiến hành phỏng vấn để tìm hiểu về sinh kế và điều kiện sống của người dân Mục tiêu là nắm bắt quan điểm của họ về tác động của DVMTR cũng như những thuận lợi mà họ trải nghiệm.
36 và khó khăn khi tham gia DVMTR, cũng như những đề xuất để thực hiện DVMTR hiệu quả hơn trong tương lai
Bảng 2.4 Thông tin về phỏng vấn sâu hộ gia đình
Tổng số hộ phỏng vấn
Tổng số hộ trong toàn thôn Ấp A, xã Đắc Lua, huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai X 30 219
Thôn B, xã Đăng Hà, huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước X 30 189
Thôn C, xã Gia Viễn, huyện Cát
Tiên, tỉnh Lâm Đồng X 30 178 Ấp D, xã Tà Lài, huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai X 30 393
Thôn E, xã Tiên Hoàng, huyện Cát
Tiên, tỉnh Lâm Đồng X 30 189 Ấp F, xã Đắc Lua, huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai X 30 303
Thôn G, xã Phước Cát 2, huyện Cát
Thôn H, xã Phước Sơn, huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước X 31 302
Kết quả nghiên cứu đã được trình bày tại hội thảo tham vấn ở VQG Cát Tiên, thu hút sự tham gia của 20 đại biểu đại diện cho các bên liên quan Sự kiện này nhằm xác nhận kết quả nghiên cứu và góp phần hoàn thiện luận văn.
Phương pháp xử lý số liệu
Trong luận văn này, học viên sử dụng phương pháp thống kê mô tả để xử lý số liệu thông qua phần mềm Excel Việc phân tích số liệu nhằm mục đích mô tả các đặc tính cơ bản của dữ liệu thu thập từ nghiên cứu thực nghiệm Dữ liệu được biểu diễn bằng đồ thị và hình vẽ, giúp so sánh và trực quan hóa thông tin, đồng thời được tổ chức thành các bảng số liệu tổng hợp.
ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA CHÍNH SÁCH CHI TRẢ DỊCH VỤ MÔI TRƯỜNG RỪNG ĐẾN SINH KẾ HỘ GIA ĐÌNH TẠI VƯỜN QUỐC GIA CÁT TIÊN VÀ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC THI CỦA CHÍNH SÁCH CHI TRẢ DỊCH VỤ MÔI TRƯỜNG RỪNG 38 3.1 Đánh giá tác động của chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng đến sinh kế hộ gia đình tại Vườn Quốc Gia Cát Tiên
Khái quát chung về các hộ tham gia nghiên cứu
Bảng 3.1 chỉ ra rằng phần lớn các hộ tham gia nghiên cứu là hộ di cư từ vùng khác, với chỉ 18-19% hộ dân là người bản địa ở cả những bản có và không có DVMTR Trong số các hộ khảo sát, hộ người Kinh chiếm hơn 60%, tiếp theo là các hộ dân tộc Tày, Nùng, S’Tiêng và Châu Mạ.
Bảng 3.1 Nguồn gốc gia đình, thành phần dân tộc của hộ
Tự bảo vệ Khoán bảo vệ
Tự bảo vệ Khoán bảo vệ
Tự bảo vệ Khoán bảo vệ
Phân loại nguồn gốc gia đình
Chuyển từ tỉnh khác đến 82% 80% 2%
Phân loại theo dân tộc
Nguồn: Số liệu phỏng vấn hộ gia đình
Chủ hộ đóng vai trò quan trọng trong sinh kế và ảnh hưởng lớn đến thu nhập của hộ gia đình Thông tin cơ bản về chủ hộ, bao gồm giới tính, nghề nghiệp và độ tuổi, được trình bày chi tiết trong Bảng 3.2.
Bảng 3.2 Thông tin cơ bản về chủ hộ
Lao động có lương ổn định 5.7% 9.1% -3.4%
Lao động không có lương ổn định 3.3% 2.5% 0.8%
Nguồn: Số liệu phỏng vấn hộ gia đình
Khi so sánh giữa hai nhóm hộ tham gia và không tham gia DVMTR, tỷ lệ chủ hộ nam ở thôn có DVMTR cao hơn 7.2% Tỷ lệ chủ hộ làm nông ở nhóm DVMTR cao hơn 1.9% so với nhóm không DVMTR, trong khi tỷ lệ chủ hộ có nghề nghiệp ổn định ở nhóm DVMTR thấp hơn 3.4% Độ tuổi của chủ hộ cũng ảnh hưởng đến quyết định gia đình; nhóm tham gia DVMTR chủ yếu là người từ 30 đến 50 tuổi, trong khi nhóm không tham gia có đa số chủ hộ trên 50 tuổi Trung bình, chủ hộ tham gia DVMTR trẻ hơn khoảng 4 tuổi so với nhóm không tham gia.
Phân tích tác động của chính sách chi trả DVMTR đối với sinh kế hộ
3.1.3.1 Tác động đến nguồn vốn xã hội
Trong các thôn không có DVMTR, không có hộ dân tộc thiểu số nào nhận được tiền hỗ trợ từ khoán bảo vệ rừng Ngược lại, tại những thôn có DVMTR, mặc dù số hộ dân tộc thiểu số nhận tiền DVMTR vào năm 2019 không cao, nhưng tỷ lệ này lại chiếm phần lớn trong tổng số hộ dân tộc tham gia DVMTR, như tại Ấp A, xã Đắc Lua, huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai với 66.7% và thôn G, xã Phước Cát 2, huyện Cát Tiên, tỉnh Lâm Đồng với 92.1%.
Trước năm 2019, không có thống kê chính xác về số hộ dân tộc thiểu số nhận tiền khoán bảo vệ rừng tại các thôn nghiên cứu, cả trước và sau khi có chính sách DVMTR Điều này khiến việc đánh giá tác động của DVMTR trong việc nâng cao thu nhập cho các hộ gia đình dân tộc thiểu số từ việc bảo vệ rừng trở nên khó khăn.
Bảng 3.3 Tỷ lệ số hộ dân tộc thiểu số nhận đƣợc tiền DVMTR 2019
Tên thôn đƣợc triển khai
Tổng số hộ dân tộc nhận đƣợc tiền
Tổng số hộ dân tộc trong toàn thôn
Tỷ lệ Ấp A, xã Đắc Lua, huyện Tân
Thôn C, xã Gia Viễn, huyện Cát
Thôn E, xã Tiên Hoàng, huyện
Cát Tiên, tỉnh Lâm Đồng 8 15 53%
Thôn G, xã Phước Cát 2, huyện
Cát Tiên, tỉnh Lâm Đồng 35 38 92.1%
Nguồn: Số liệu VQG Cát Tiên cung cấp
Tại các thôn không có DVMTR, chưa từng có hộ nghèo nào nhận được hỗ trợ tài chính từ chương trình khoán bảo vệ rừng.
Bảng 3.4 cho thấy tỷ lệ hộ nghèo tham gia DVMTR tại 4 thôn ấp trong nghiên cứu Tỷ lệ hộ nghèo tham gia DVMTR chiếm từ 45% đến 88% tổng số hộ nghèo trong từng thôn, cho thấy sự tham gia đáng kể trong chương trình khoán BVR.
Bảng 3.4 Tỷ lệ hộ nghèo nhận đƣợc DVMTR trong các thôn ấp
Tên thôn đƣợc triển khai
Tổng số hộ nghèo nhận đƣợc tiền DVMTR
Tổng số hộ nghèo trong toàn thôn
Tỷ lệ Ấp A, xã Đắc Lua, huyện Tân
Thôn C, xã Gia Viễn, huyện Cát
Thôn E, xã Tiên Hoàng, huyện 10 15 67%
Cát Tiên, tỉnh Lâm Đồng
Thôn G, xã Phước Cát 2, huyện
Cát Tiên, tỉnh Lâm Đồng 22 25 88%
Nguồn: Số liệu VQG Cát Tiên cung cấp
Trước năm 2019, không có thống kê chính xác về số hộ nghèo nhận tiền khoán bảo vệ rừng và tiền DVMTR tại các thôn tham gia và không tham gia DVMTR, gây khó khăn trong việc đánh giá tác động của DVMTR đối với việc nâng cao thu nhập của các hộ nghèo từ việc nhận khoán bảo vệ rừng qua các năm.
3.1.3.1.3 Số lượng hộ nhận khoán BVR thoát nghèo hàng năm
So sánh thu nhập của các hộ dân với tiêu chí phân loại kinh tế hộ theo từng thôn cho thấy tỷ lệ hộ nghèo, trung bình và khá ở các thôn nghiên cứu có sự khác biệt rõ rệt Kết quả này dựa trên những nhận định và phân loại của người dân trong bối cảnh cụ thể của từng thôn (Bảng 3.5).
Bảng 3.5 Tỷ lệ hộ nghèo, trung bình và khá tại các thôn ấp
Thôn có chi trả DVMTR
Thôn không chi trả DVMTR Chênh lệch
Nguồn: Số liệu thảo luận nhóm tập trung và phỏng vấn sâu hộ gia đình
Bảng 3.6 chỉ ra rằng, khi xem xét thu nhập thực tế của các hộ dân mà không tính đến thu nhập từ tiền khoán bảo vệ rừng, tỷ lệ hộ nghèo tại các thôn có DVMTR lại cao hơn so với các thôn khác.
Tại 50 thôn không có DVMTR, tỷ lệ hộ gia đình khá chiếm 18%, trong khi ở các thôn có DVMTR, tỷ lệ này tương đương Đối với các hộ có mức thu nhập trung bình, tỷ lệ tại các thôn có DVMTR là 24%, trong khi ở các thôn không có DVMTR, con số này lên tới 41%.
Bảng 3.6 Tỷ lệ hộ nghèo, trung bình và khá trong 46 hộ tham gia DVMTR đƣợc phỏng vấn
Nguồn: Số liệu thảo luận nhóm tập trung và phỏng vấn sâu hộ gia đình
Trong số 46 hộ tham gia DVMTR, 59% là hộ nghèo, 22% là hộ trung bình và 20% là hộ có thu nhập khá giả Cụ thể, tại thôn G Phước Cát 2 có 3 hộ với thu nhập từ 70-90 triệu VND/năm và 1 hộ tại thôn C, Gia Viễn với thu nhập 180 triệu/năm Chương trình DVMTR chủ yếu ưu tiên cho các hộ nghèo, nhưng cũng mở cửa cho các hộ không thuộc diện nghèo tham gia.
Trong số 27 hộ nghèo tham gia DVMTR, 6 hộ không có nguồn thu nhập nào khác ngoài tiền khoán bảo vệ rừng Đáng chú ý, 17 hộ đã thoát nghèo nhờ tiền khoán này, và 4 hộ thậm chí đã chuyển từ hộ nghèo thành hộ có thu nhập khá so với tiêu chí phân loại kinh tế tại thôn.
3.1.3.1.4 Tham gia chương trình DVMTR tại thôn/ấp
Nguồn vốn xã hội phản ánh sự tham gia của người dân trong chương trình bảo vệ và phát triển rừng tại các thôn có DVMTR Ngược lại, ở những thôn không tham gia chương trình chi trả DVMTR, người dân sẽ không có cơ hội tham gia vào bất kỳ hoạt động nào liên quan.
Tại các thôn có DVMTR, người dân không chỉ tham gia vào chương trình khoán bảo vệ rừng mà còn nhận được nhiều hỗ trợ từ nhà nước như cây giống, con giống, vay vốn học tập, xây nhà vệ sinh, điện nước, thẻ bảo hiểm y tế và đào tạo nghề Theo nghiên cứu, 72% hộ dân tham gia chương trình khoán bảo vệ rừng và có sự tham gia đáng kể vào quyết định sử dụng tiền (67%), triển khai DVMTR (62%), ký cam kết bảo vệ rừng (71%) và thực hiện DVMTR tại thôn (70%).
Hình 3.7 Tham gia chương trình DVMTR tại thôn/ấp
Nguồn: Số liệu phỏng vấn hộ gia đình
0% 10% 20% 30% 40% 50% 60% 70% 80% 90% 100% Nhận được tiền từ DVMTR
Tham gia bảo vệ rừng
Tham gia vào việc quyết định có nên triển khai chi trả
Tham gia vào việc triển khai chi trả DVMTR
Ký cam kết bảo vệ rừng Tham gia quyết định sử dụng tiền DVMTR
Tham gia chương trình DVMTR tại thôn/ấp
Có Không Không trả lời
Tại thôn G, Phước Cát 2, việc giao đất rừng và các lợi ích liên quan chỉ được ưu tiên cho người dân tộc bản địa theo quy định của nhà nước, khiến người Kinh không được tham gia họp hoặc hưởng lợi từ chi trả DVMTR, dẫn đến mâu thuẫn xã hội.
3.1.3.2 Tác động đến nguồn vốn tài chính
3.1.3.2.1 Số HGD nhận khoán BVR/Số HGD được nhận tiền chi trả DVMTR
Cán bộ VQG Cát Tiên cho biết tiền thân của chương trình DVMTR là chương trình
Từ năm 2010, chương trình DVMTR đã được chọn thay thế cho các chương trình khoán bảo vệ rừng trước đó tại VQG Cát Tiên, cho phép các cộng đồng đã tham gia tiếp tục nhận khoán Số lượng cộng đồng tham gia khoán bảo vệ rừng không thay đổi đáng kể trước và sau khi áp dụng DVMTR, với sự biến động nhỏ chủ yếu do việc nhập và tách cộng đồng theo chính sách nhà nước Tuy nhiên, số hộ dân tham gia khoán bảo vệ rừng đã giảm rõ rệt kể từ khi có DVMTR so với trước đó.
1 Dự án trồng mới 5 triệu ha rừng
2 Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 61 huyện nghèo
Chương trình thí điểm giao rừng và khoán bảo vệ rừng cho hộ gia đình và cộng đồng tại các buôn, làng của đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên đang được triển khai Mục tiêu của chương trình là bảo vệ và phát triển rừng, đồng thời nâng cao đời sống của người dân địa phương thông qua việc giao quyền quản lý rừng cho họ Việc này không chỉ giúp bảo tồn tài nguyên thiên nhiên mà còn tạo cơ hội cho cộng đồng tham gia vào các hoạt động kinh tế bền vững.
Hình 3.8 Số cộng đồng và số hộ nhận khoán bảo vệ rừng tại VQG Cát Tiên
Nguồn: Số liệu VQG Cát Tiên cung cấp
Đánh giá chung về tác động của chính sách chi trả DVMTR đối với
3.1.4.1 Những thành công của chính sách chi trả DVMTR đối với sinh kế hộ gia đình tại VQG Cát Tiên
VQG Cát Tiên là khu rừng nổi bật với tiềm năng đa dạng sinh học, đã được công nhận với nhiều danh hiệu quan trọng như Khu dự trữ sinh quyển Thế giới (2001), Khu đất ngập nước - Ramsar (2005) và Khu di tích Quốc gia đặc biệt (2012) Sự quan tâm từ các tổ chức trong và ngoài nước đối với việc bảo vệ và phát triển nguồn tài nguyên quý giá này là rất lớn.
Sau hơn 10 năm thực hiện chính sách chi trả DVMTR, Vườn quốc gia Cát Tiên đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, duy trì các danh hiệu và mục tiêu về kinh tế, xã hội và môi trường bền vững Đặc biệt, chính sách chi trả DVMTR đã có những tác động tích cực đến sinh kế hộ gia đình, góp phần nâng cao đời sống và phát triển bền vững trong khu vực.
Chính sách chi trả DVMTR đã tạo ra nhiều cơ hội việc làm và tăng thu nhập cho các hộ gia đình tham gia, với 70% hộ phỏng vấn cho biết họ được hưởng lợi Đồng thời, đời sống của người dân vùng đệm cũng được cải thiện, với 89% hộ phỏng vấn xác nhận điều này Chính sách này giúp giảm áp lực sinh kế lên rừng, và 80% hộ gia đình khẳng định rằng chi trả DVMTR không gây tác động tiêu cực đến cuộc sống của họ.
Công tác dân vận của cán bộ kiểm lâm đã được thể hiện rõ ràng, giúp họ tiếp xúc và làm việc hiệu quả với người dân trong khu vực quản lý Điều này góp phần nâng cao hiệu quả quản lý và bảo vệ rừng thông qua sự hợp tác chặt chẽ giữa cán bộ kiểm lâm và các hộ gia đình.
Hình thành mối quan hệ tốt giữa chính quyền địa phương, các trạm Kiểm lâm và hộ gia đình tham gia khoán bảo vệ rừng là rất quan trọng để bảo vệ tài nguyên rừng Sự hợp tác này không chỉ giúp nâng cao nhận thức về bảo vệ rừng mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện các chính sách bảo vệ môi trường hiệu quả.
Chính sách chi trả DVMTR đã nâng cao vai trò của cá nhân trong cộng đồng trong việc nhận thức về quyền lợi, nghĩa vụ và giá trị của tài nguyên rừng Ý thức bảo vệ và phát triển rừng của các hộ gia đình ngày càng được cải thiện, với 76% hộ dân tham gia phỏng vấn cho rằng họ có hiểu biết và ý thức tốt hơn trong công tác này.
3.1.4.2 Những hạn chế của chính sách chi trả DVMTR đối với sinh kế hộ gia đình tại VQG Cát Tiên
Nghiên cứu đánh giá luận văn chỉ ra rằng, mặc dù đã đạt được nhiều thành công trong chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng (DVMTR) tại VQG Cát Tiên, nhưng vẫn còn tồn tại nhiều khó khăn, đặc biệt là ảnh hưởng đến sinh kế của các hộ gia đình.
Hoạt động giám sát và đánh giá chi trả DVMTR tại VQG Cát Tiên chưa đạt hiệu quả cao, gây thiếu niềm tin từ người dân trong việc tham gia giám sát và thông báo với lực lượng kiểm lâm Theo ý kiến cán bộ, lực lượng kiểm lâm tại đây không đủ số lượng để thực hiện nhiệm vụ giám sát và thi hành pháp luật Hơn nữa, chế độ đãi ngộ hiện tại đã khiến nhiều kiểm lâm viên rời bỏ ngành, dẫn đến tình trạng thiếu hụt trong bộ máy quản lý và thực thi pháp luật của Vườn.
Theo phỏng vấn tại VQG Cát Tiên, để nhận tiền chi trả DVMTR, cộng đồng cần nộp kế hoạch thu chi thống nhất Tuy nhiên, nghiên cứu cho thấy hơn 30% hộ được phỏng vấn không có tiếng nói hoặc không biết về quy trình này.
VQG đề xuất khoán trực tiếp cho hộ gia đình để nâng cao hiệu quả quản lý rừng, tuy nhiên, nhiều hộ dân tại Đắc Lua cho rằng chi trả DVMTR chỉ hỗ trợ một nhóm hộ nhất định, dẫn đến việc bảo vệ rừng không hiệu quả do thiếu sự tham gia của toàn cộng đồng.
Vấn đề lưu trữ thông tin phục vụ theo dõi và đánh giá chính sách chi trả DVMTR tại VQG Cát Tiên chưa đạt hiệu quả cao do số liệu thống kê trước khi thực hiện chính sách không được lưu trữ đầy đủ và thống nhất Việc sắp xếp và lưu trữ thông tin chưa khoa học, cùng với sự thay đổi nhân sự thường xuyên, đã dẫn đến tình trạng không bàn giao số liệu nghiêm túc Điều này gây khó khăn trong việc thu thập lại số liệu cũ và không cho phép đánh giá toàn diện tác động của chính sách.
Hiện nay, một số địa phương chỉ giao đất rừng và lợi ích liên quan đến rừng cho người nghèo là người dân tộc bản địa, theo quy định của nhà nước Tuy nhiên, thực tế cho thấy nhiều kinh tế di dân tham gia bảo vệ rừng tại khu vực nghiên cứu lại không được tham gia họp hoặc hưởng lợi từ chi trả dịch vụ môi trường rừng (DVMTR), dẫn đến mâu thuẫn xã hội.
Nghiên cứu cho thấy rằng nguồn thu nhập chính của người dân chủ yếu dựa vào sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là một số loại hình canh tác như điều và cao su Sự phụ thuộc vào nông nghiệp, vốn chịu nhiều rủi ro từ thời tiết và biến động giá cả thị trường, đã dẫn đến những cú sốc kinh tế lớn khi người dân gặp phải mất mùa hoặc khi thị trường đóng cửa Hơn nữa, trình độ học vấn, khả năng tiếp cận thông tin và rào cản ngôn ngữ được xác định là những yếu tố cản trở các hộ gia đình dân tộc thiểu số trong việc tham gia vào các mô hình sinh kế phi nông nghiệp.
Mức chi trả thấp của chi trả DVMTR được các bên tham gia phỏng vấn xác định là nguyên nhân chính hạn chế hiệu quả của chương trình trong việc cải thiện sinh kế Kết quả từ các cuộc phỏng vấn hộ gia đình tại các thôn có chi trả DVMTR cho thấy 52% hộ gia đình mong muốn tăng diện tích và đơn giá chi trả DVMTR.
Nghiên cứu cho thấy người dân gặp khó khăn trong việc tiếp cận thông tin về các chương trình chính sách và giá cả thị trường, đặc biệt là người dân tộc thiểu số Thông tin thường được truyền đạt qua ngôn ngữ Kinh và các cuộc họp thôn, nhưng người dân tộc thiểu số gặp trở ngại do không hiểu tiếng Kinh và không thường xuyên tham gia các buổi họp thôn vì phần lớn họ làm nông nghiệp ở vùng xa.
Giải pháp thể chế và chính sách
Để tăng cường thực thi pháp luật, cần sự phối hợp chặt chẽ giữa cán bộ kiểm lâm và cộng đồng địa phương Việc hỗ trợ và tạo cơ chế thu hút nguồn lực cho các hạt kiểm lâm là rất quan trọng, giúp cán bộ kiểm lâm an tâm trong công việc Do đó, cần thiết lập các cơ chế đồng bộ nhằm thu hút nguồn nhân lực cho VQG Cát Tiên.
Cơ chế chia sẻ lợi ích cần phải phù hợp và dựa trên sự đồng thuận của người dân, yêu cầu các cơ chế giám sát và đánh giá hiệu quả Sự tham gia của người dân là rất quan trọng trong quá trình này Việc rà soát và điều chỉnh cơ chế chia sẻ lợi ích hiện tại, xác định các tồn tại và thách thức từ góc nhìn của người dân, sẽ góp phần hoàn thiện và nâng cao hiệu quả cũng như tính công bằng của chính sách.
Cần hoàn thiện cơ chế khoán bảo vệ rừng để khuyến khích sự tham gia của người dân vào công tác bảo tồn và phát triển rừng, như đã được quy định trong Luật Lâm Nghiệp 2017 và Chiến lược phát triển lâm nghiệp giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn 2050 Tuy nhiên, hiện tại, phần lớn diện tích rừng vẫn do VQG tự quản lý, điều này chưa phản ánh đầy đủ quan điểm của Chính phủ về việc bảo vệ và phát triển rừng, mặc dù các diện tích này là vùng trọng yếu có giá trị đa dạng sinh học cao.
Việc quản lý 80 dạng sinh học cao hiện nay không hiệu quả do thiếu hụt nguồn nhân lực, ảnh hưởng đến dược tính của công tác bảo tồn Do đó, việc xây dựng các mô hình đồng quản lý giữa VQG và người dân là cần thiết cho tương lai.
Xây dựng cơ chế giám sát và đánh giá có sự tham gia của người dân là yếu tố cốt lõi trong chi trả DVMTR, nhằm đảm bảo tính điều kiện, bổ sung và hiệu quả của chính sách Tuy nhiên, hiện nay, nguồn lực và năng lực của VQG trong việc thu thập, lưu trữ và phân tích số liệu đánh giá tác động của chi trả DVMTR đối với sinh kế của người dân còn hạn chế, đòi hỏi sự thay đổi trong chính sách ưu tiên và đầu tư cho cơ sở dữ liệu Cần đẩy mạnh các hoạt động giám sát và đánh giá quá trình thực hiện chi trả, vì nhiều hộ dân đã phản ánh sự bất cập trong việc theo dõi và minh bạch trong chấm công Kết quả phỏng vấn tại Tà Lài cho thấy cần thiết phải giám sát để đảm bảo chương trình thực hiện đúng đối tượng chính sách Xây dựng hệ thống phản hồi ý kiến như hotline, hòm thư góp ý và thuê giám sát độc lập sẽ nâng cao hiệu quả và tác động của chi trả DVMTR.
Thiết lập quy định lưu trữ thông tin và số liệu là cần thiết, với mỗi đơn vị bầu ra một đầu mối chuyên trách để đảm bảo việc lưu trữ diễn ra hiệu quả Cần có quy định rõ ràng về việc chuyển giao số liệu một cách bài bản, đồng thời xây dựng quy chế phối hợp trong việc trao đổi thông tin và dữ liệu giữa các đơn vị.
Giải pháp hỗ trợ nguồn vốn xã hội
Hài hòa giữa chính sách hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số và chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng (DVMTR) là cần thiết để nâng cao hiệu quả bảo vệ và phát triển rừng Việc kết hợp chính sách xã hội với chính sách chi trả DVMTR sẽ thúc đẩy hoạt động bảo vệ rừng một cách bền vững.
Để phát triển rừng hiệu quả, cần huy động sự tham gia của tất cả các thành viên trong cộng đồng Việc chỉ tập trung vào một nhóm người yếu thế có thể làm giảm động lực của các nhóm xã hội khác trong việc tham gia vào chương trình chi trả dịch vụ môi trường rừng (DVMTR).
Kết hợp chi trả DVMTR với các chính sách hỗ trợ người nghèo là một giải pháp hiệu quả, vì tiêu chí hộ nghèo được xem là một trong những yếu tố quan trọng trong việc lựa chọn cộng đồng tham gia hưởng lợi từ chương trình này Tại địa bàn nghiên cứu, nhiều chương trình xóa đói giảm nghèo đang hoạt động, do đó, việc kết hợp chi trả DVMTR với các chương trình hỗ trợ khác sẽ giúp tránh đầu tư dàn trải và nâng cao hiệu quả Điều này không chỉ tạo động lực lớn hơn cho người nghèo tham gia vào công tác bảo vệ rừng mà còn góp phần vào sự phát triển bền vững của cộng đồng.
Giải pháp hỗ trợ nguồn vốn tài chính
Đa dạng hóa sinh kế cho người dân là cần thiết để mở rộng các nguồn thu phi nông nghiệp tại địa bàn này Nguồn thu từ chi trả DVMTR có thể được xem xét để xây dựng các mô hình sản xuất hiệu quả Việc kết nối thông tin và chia sẻ kinh nghiệm giữa các vùng đệm về các mô hình phát triển kinh tế sẽ giúp tổ chức đào tạo những kỹ năng cần thiết cho người dân.
Nâng cao mức chi trả của chi trả DVMTR Với cơ chế thị trường mà chi trả
DVMTR đang tập trung vào việc người mua trả tiền cho dịch vụ cần thiết, theo quy định của Luật Lâm Nghiệp 2017 Mặc dù việc nâng cao mức chi trả DVMTR không thể diễn ra trong tương lai gần, nhưng việc mở rộng và kết hợp nguồn thu từ DVMTR với các dịch vụ môi trường khác sẽ gia tăng nguồn thu cho người dân Hiện tại, DVMTR chủ yếu chi trả cho dịch vụ rừng đầu nguồn và cung cấp nước sạch tại Cát Tiên Tuy nhiên, nhiều dịch vụ môi trường như hấp thụ carbon và đa dạng sinh học vẫn chưa được chi trả, cho thấy tiềm năng lớn để khai thác và mở rộng nguồn thu, góp phần nâng cao mức chi trả cho người dân tham gia.
BVR nên tăng cường nghiên cứu và đề xuất các dự án mới cho các DVMTR, như hấp thụ và lưu trữ carbon, du lịch, nhằm nâng cao nguồn thu ngân sách.
Việc sử dụng chi trả DVMTR để tạo ra các quỹ tín dụng quy mô nhỏ đã được triển khai tại nhiều địa phương, như Sơn La và Quảng Nam, nhằm hỗ trợ cộng đồng vay vốn Những mô hình tài chính này không chỉ thúc đẩy sự tham gia của người dân mà còn nâng cao hiệu quả chính sách trong việc cải thiện sinh kế Tại VQG Cát Tiên, việc chia đều tiền chi trả DVMTR cho người dân đã tạo cơ hội để xây dựng phương án sử dụng hợp lý, từ đó phát triển các quỹ tín dụng quy mô nhỏ, góp phần nâng cao đời sống của cộng đồng.
Lồng ghép chi trả DVMTR với bảo hiểm nông nghiệp có thể giúp phòng tránh và giảm thiểu rủi ro cho người dân địa phương, những người đang phải đối mặt với thiên tai, mất mùa và thị trường bấp bênh Các mô hình bảo hiểm nông nghiệp hiện nay, cả trên thế giới và tại Việt Nam, đã hỗ trợ đáng kể cho người dân trong việc giảm thiểu rủi ro (Baoviet, 2020; Tổng công ty cổ phần tái bảo hiểm quốc gia Việt Nam, 2020; BaohiemBaoMinh, 2020) Việc cung cấp thông tin và khả năng sử dụng tiền từ chi trả DVMTR để tiếp cận các mô hình bảo hiểm này sẽ góp phần đảm bảo nguồn sinh kế bền vững cho cộng đồng.
Kết hợp giữa chi trả bằng tiền mặt và phi tiền mặt trong chương trình chi trả dịch vụ môi trường rừng (DVMTR) đang được thực hiện chủ yếu tại Cát Tiên Nghiên cứu của Pham và cộng sự (2013) cho thấy sự kết hợp này mang lại hiệu quả kinh tế và sinh kế lớn nhất Các hộ dân ở Tiên Hoàng cho biết mức chi trả DVMTR hiện tại rất thấp, không đủ tạo động lực kinh tế để họ tham gia bảo vệ và phát triển rừng Tuy nhiên, họ tin rằng việc nhận chi trả DVMTR qua hình thức cung cấp cây giống chất lượng cao sẽ tạo ra động lực lớn hơn, nhờ vào việc cải thiện điều kiện tiếp cận thông tin và nguồn lực.
83 lực tài chính, người dân hiện khó có thể mua được các loại giống cây trồng đảm bảo.
Giải pháp hỗ trợ nguồn vốn con người
Để đảm bảo người dân nhận được thông tin đầy đủ và kịp thời về chính sách và giá cả thị trường, cần thúc đẩy chuyển giao thông tin hiệu quả Theo Nghị định 99, các thông tin liên quan đến chi trả DVMTR phải được công khai và niêm yết tại các cơ quan nhà nước cũng như nhà văn hóa thôn bản Đồng thời, việc đa dạng hóa các kênh tiếp cận thông tin bằng ngôn ngữ của các dân tộc là rất quan trọng, giúp người dân dễ dàng tiếp cận các chính sách, chương trình và dự án liên quan.
Để nâng cao năng lực tiếp cận thông tin khoa học công nghệ cho người dân trong việc chi trả DVMTR qua tài khoản ngân hàng, VQG Cát Tiên đã triển khai các phương thức chi trả minh bạch như ngân hàng điện tử và Viettel Pay Nhiều hoạt động đào tạo đã được tổ chức nhằm hỗ trợ người dân, tuy nhiên, cần thiết phải có thêm các khóa đào tạo chuyên sâu để người dân có thể thực hiện việc chi trả này một cách hiệu quả hơn.
Để nâng cao năng lực giám sát tài nguyên rừng cho người dân địa phương, cần có sự hỗ trợ thường xuyên và mở rộng, giúp tất cả các cộng đồng tiếp cận kỹ năng này Hiện nay, nhiều hộ dân ngần ngại tham gia bảo vệ rừng do lo sợ bị trả thù Việc đào tạo và hỗ trợ người dân sử dụng công nghệ thông tin qua điện thoại thông minh để theo dõi và báo cáo với lực lượng kiểm lâm có thể giúp giảm thiểu những rủi ro này.
Giải pháp hỗ trợ nguồn vốn tự nhiên
Để thúc đẩy chính sách của Nhà nước trong việc khuyến khích giao đất, giao rừng, VQG nên xem xét việc tăng diện tích nhận khoán rừng cho người dân, nhằm mở rộng diện tích lâm nghiệp và nâng cao sinh kế cho cộng đồng.
Để nâng cao thu nhập và khuyến khích người dân tham gia quản lý bảo vệ rừng, cần tăng diện tích rừng nhận khoán, đồng thời đảm bảo các dịch vụ môi trường rừng Việc áp dụng mô hình nông lâm kết hợp tại các vùng đất suy thoái sẽ giúp cải thiện chất lượng đất và rừng Hỗ trợ và chuyển giao kiến thức cho người dân về mô hình này không chỉ giúp họ tăng thu nhập từ sản phẩm nông lâm kết hợp mà còn nâng cao giá trị và chất lượng tài nguyên đất.
Quản lý cảnh quan bền vững là yếu tố quan trọng để bảo vệ nguồn nước Cần nghiên cứu và quy hoạch các mô hình trồng rừng bổ sung, khoanh nuôi tái sinh rừng, đồng thời kết hợp với các loại cây tiêu thụ ít nước nhằm đảm bảo nguồn nước cho cộng đồng địa phương.
Giải pháp hỗ trợ nguồn vốn vật chất
Để cải thiện sinh kế của người dân, cần kết hợp các chương trình hỗ trợ cơ sở hạ tầng với nguồn tài chính từ chi trả DVMTR, Chương trình xóa đói giảm nghèo và các dự án hỗ trợ từ tổ chức nước ngoài Mặc dù Quyết định 24 đã tạo ra chính sách hỗ trợ phát triển cơ sở hạ tầng, nhưng ngân sách hạn chế đã khiến chỉ một số cộng đồng được hưởng lợi Các báo cáo cho thấy nguồn thu từ chi trả DVMTR có tiềm năng lớn để hỗ trợ mục tiêu phát triển chung của cộng đồng.
Cải thiện quy trình hướng dẫn sử dụng tiền chi trả DVMTR là cần thiết để phát triển bền vững và đầu tư lâu dài vào khoa học kỹ thuật, nhằm tăng giá trị sản phẩm nông sản Các hoạt động khuyến nông khuyến lâm và hỗ trợ đầu tư cho các hộ gia đình vào hệ thống máy móc sẽ tạo ra giá trị gia tăng cho nông sản, góp phần vào sự phát triển kinh tế bền vững.
85 tăng cho sản phẩm (ví dụ máy sấy khô hạt điều) có thể giúp cải thiện sinh kế cho người dân hiệu quả hơn