CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ QUYỀN CỦA NGƯỜI SỬ DỤNG ĐẤT
Cơ sở lý luận về quyền của người sử dụng đất
Theo Điều 158 Bộ Luật Dân sự 2015, quyền sở hữu bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản theo quy định của pháp luật Sở hữu phản ánh mối quan hệ giữa các chủ thể trong việc tạo ra và phân phối tài sản, với đối tượng quyền sở hữu là tài sản cụ thể và chủ sở hữu có thể là cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình hoặc cộng đồng.
Quyền sở hữu bao gồm 3 quyền năng [17]
Quyền chiếm hữu là quyền của chủ sở hữu trong việc nắm giữ và quản lý tài sản của mình Theo quy định pháp luật, trong một số trường hợp, người không phải là chủ sở hữu vẫn có quyền sở hữu tài sản.
Quyền sử dụng tài sản là quyền của chủ sở hữu trong việc khai thác công dụng, hưởng lợi nhuận và lợi tức từ tài sản Chủ sở hữu có quyền tự do khai thác giá trị tài sản theo ý muốn thông qua nhiều hình thức khác nhau Ngoài ra, những người không phải là chủ sở hữu cũng có thể được quyền sử dụng tài sản nếu được chủ sở hữu giao quyền, điều này được thể hiện rõ trong việc Nhà nước giao quyền sử dụng đất cho các tổ chức, hộ gia đình và cá nhân.
Quyền định đoạt là quyền của chủ sở hữu trong việc chuyển nhượng hoặc từ bỏ quyền sở hữu tài sản Chủ sở hữu có thể thực hiện quyền này thông qua hai phương thức khác nhau.
Định đoạt số phận pháp lý của tài sản là quá trình chuyển quyền sở hữu tài sản cho người khác thông qua các giao dịch dân sự như bán, đổi, tặng cho hoặc thừa kế.
+ Định đoạt số phận thực tế của tài sản, tức là làm cho tài sản không còn trong thực tế
1.1.1.1 Quyền sở hữu toàn dân về đất đai
Quan hệ sở hữu đất đai ở mỗi quốc gia phụ thuộc vào quan hệ sản xuất và chính trị trong từng giai đoạn lịch sử Việc biến đất đai thành sở hữu toàn dân là quy luật khách quan thúc đẩy sự phát triển xã hội Sự phát triển của lực lượng sản xuất yêu cầu tập trung hóa tư liệu sản xuất Karl Marx đã chỉ ra rằng sự phát triển kinh tế xã hội, mức độ tập trung dân cư, và sự xuất hiện của máy móc nông nghiệp dẫn đến quốc hữu hóa đất đai trở thành một quy luật tất yếu Tại Việt Nam, chế độ sở hữu đất đai cũng hình thành và phát triển theo các tiến trình lịch sử nhất định, chịu ảnh hưởng của các hình thái kinh tế - xã hội trong quá khứ.
Theo Hiến pháp 1992 và các Luật Đất đai từ 1993 đến 2013, đất đai thuộc sở hữu toàn dân và Nhà nước là đại diện chủ sở hữu, thực hiện quản lý thống nhất về đất đai nhằm đảm bảo sử dụng theo quy hoạch, lợi ích của Nhà nước và người sử dụng Nhà nước không trực tiếp sử dụng đất mà trao quyền sử dụng cho tổ chức, hộ gia đình và cá nhân thông qua giao đất, cho thuê đất và công nhận quyền sử dụng Quyền sử dụng đất (QSDĐ) trở thành một quyền độc lập trong nền kinh tế thị trường, nơi chuyển dịch đất đai là nhu cầu thiết yếu, ảnh hưởng đến cơ cấu kinh tế và phân bổ nguồn lực Mối quan hệ giữa quyền sở hữu đất đai và QSDĐ được thể hiện qua các đặc điểm chủ yếu, phản ánh sự quản lý và sử dụng đất hiệu quả trong xã hội.
Chế độ sở hữu toàn dân về đất đai ở Việt Nam dẫn đến việc quyền sử dụng đất (QSDĐ) được hình thành dựa trên quyền sở hữu chung của toàn dân Cá nhân chỉ có QSDĐ khi được nhà nước giao đất, cho thuê đất, hoặc công nhận quyền sử dụng đất với thời hạn cụ thể hoặc ổn định lâu dài Quyền sử dụng đất này được xác định theo mục đích sử dụng đất đã được giao và công nhận, đồng thời cho phép người sử dụng đất chuyển nhượng QSDĐ, tạo nên một loại quyền tương đối độc lập so với quyền sở hữu đất đai.
Mặc dù quyền sử dụng đất (QSDĐ) tham gia vào các giao dịch chuyển nhượng trên thị trường, nhưng giữa quyền sở hữu toàn dân về đất đai và QSDĐ vẫn có sự khác biệt rõ rệt Quyền sở hữu đất đai là quyền ban đầu, trong khi QSDĐ là quyền phát sinh khi được nhà nước giao đất, cho thuê đất hoặc công nhận Quyền sở hữu đất đai là quyền trọn vẹn và đầy đủ, còn QSDĐ là quyền không trọn vẹn, không đầy đủ Sự không trọn vẹn của QSDĐ thể hiện qua nhiều khía cạnh khác nhau.
+ Người sử dụng đất không có đầy đủ quyền năng như nhà nước với tính cách là đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai;
Không phải mọi người sở hữu Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (QSDĐ) hợp pháp đều có quyền chuyển đổi, tặng cho, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, thế chấp hay góp vốn bằng QSDĐ Quyền này phụ thuộc vào đối tượng và chính sách giao đất, thuê đất hoặc công nhận QSDĐ Chỉ những người được giao đất và đã trả tiền sử dụng đất một lần cho toàn bộ thời gian thuê, với nguồn tiền không từ ngân sách nhà nước, mới được hưởng đầy đủ 8 quyền năng liên quan đến chuyển nhượng QSDĐ.
Quyền sở hữu đất đai là quyền độc lập, trong khi quyền sử dụng đất (QSDĐ) là quyền phụ thuộc Tính chất phụ thuộc của QSDĐ thể hiện ở việc người sử dụng đất không thể tự quyết định mọi vấn đề liên quan đến việc sử dụng đất, mà chỉ có thể hành động trong phạm vi quyền hạn của mình.
Theo Điều 18 Hiến pháp năm 1992, Nhà nước quản lý toàn bộ đất đai theo quy hoạch và pháp luật, đảm bảo sử dụng đất đúng mục đích và hiệu quả Luật Đất đai năm 1993 đã đưa ra khái niệm “quyền sử dụng đất” và quy định việc giao đất cho tổ chức, cá nhân để sử dụng ổn định lâu dài.
Quyền sử dụng đất (QSDĐ) là khái niệm quan trọng trong Luật Đất đai, được quy định tại Điều 4 của Luật Đất đai năm 2013 Theo đó, đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu, nhưng thực tế, Nhà nước không trực tiếp chiếm hữu mà giao đất, cho thuê hoặc công nhận quyền sử dụng đất cho tổ chức và cá nhân có nhu cầu sử dụng lâu dài Quyền sử dụng đất có thể được hiểu trên hai phương diện khác nhau, phản ánh sự ổn định và lâu dài trong việc sử dụng tài nguyên đất.
Quyền sử dụng đất được hiểu là quyền năng của người sử dụng đất trong việc khai thác và sử dụng các thuộc tính có ích của đất nhằm mang lại lợi ích vật chất nhất định Quyền này được pháp luật công nhận và bảo vệ, đảm bảo sự hợp pháp trong việc sử dụng tài nguyên đất.
Quyền sử dụng đất là một chế định quan trọng trong pháp luật đất đai, bao gồm các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình sử dụng đất.
Sơ đồ các quyền của người sử dụng đất ( ngưồn tác giả)
QSDĐ của người sử dụng QSDĐ của các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân đƣợc Nhà nước giao đất
Quyền sử dụng (khai thác lợi ích từ đất…)
Một số quyền năng đặc biệt khác
Quyền chuyển đổi, chuyển nhƣợng, cho thuê,cho thuê lại, thừa kế, tặng cho QSDĐ
Quyền thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng QSDĐ
Quyền đƣợc bồi thường khi nhà nước thu hồi đất
Cơ sở thực tiễn về thực hiện quyền của người sử dụng đất
1.2.1 Sự hình thành và phát triển các quyền của người sử dụng đất ở Việt Nam
Luật đất đai của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được khởi đầu với Luật cải cách ruộng đất năm 1953 Ngày 29/12/1987, Quốc hội thông qua Luật Đất đai đầu tiên nhằm điều chỉnh quan hệ quản lý và sử dụng đất Luật này thể chế hoá chính sách của Đại hội VI của Đảng và Hiến pháp 1980, khẳng định đất đai thuộc sở hữu toàn dân và do Nhà nước quản lý thống nhất Việc ban hành Luật Đất đai diễn ra trong bối cảnh đất nước bắt đầu giai đoạn đổi mới kinh tế và thực hiện nhiều chính sách mở cửa.
Theo Luật Đất đai 1987, Nhà nước cấp đất miễn phí cho mọi loại đất, người nhận đất chỉ được hưởng lợi từ kết quả đầu tư mà không có quyền chuyển nhượng quyền sử dụng đất dưới bất kỳ hình thức nào Luật cũng nghiêm cấm các hành vi như mua bán, lấn chiếm đất, thu lợi từ việc phát canh, nhận đất mà không sử dụng, sử dụng không đúng mục đích, và tự ý chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp hoặc đất rừng, dẫn đến huỷ hoại đất đai.
Sau hơn 4 năm thực hiện Luật Đất đai năm 1987, đã bộc lộ nhiều bất cập, khiến người sử dụng đất không thực sự có quyền sở hữu mảnh đất của mình, bao gồm quyền thừa kế và chuyển nhượng Họ chỉ được chuyển quyền sử dụng đất trong một số trường hợp nhất định, như khi hộ nông dân tham gia hoặc rời khỏi hợp tác xã, hoặc khi có sự thỏa thuận giữa các bên để tổ chức lại sản xuất Luật chỉ cho phép thừa kế nhà ở và quyền sử dụng đất kèm theo, nhưng chỉ sau khi được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận quyền sở hữu.
Luật hiện hành chưa đáp ứng nhu cầu sử dụng đất của người dân, dẫn đến tình trạng mua bán đất đai trá hình, như xây dựng túp lều trên đất để bán thực chất là bán đất Hệ thống pháp luật chỉ điều chỉnh các quan hệ đất đai ở trạng thái tĩnh, cho thấy sự quản lý của Nhà nước chủ yếu tập trung vào mặt pháp lý hành chính, chưa thể hiện đầy đủ quản lý kinh tế đối với đất đai.
Nhà nước đã triển khai nhiều chính sách mở cửa nhằm thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước, đặc biệt thông qua việc Quốc hội thông qua Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam Nghị quyết số 05-NQ/HNTW ngày 10/06/1993 của Ban chấp hành Trung ương khóa VII nhấn mạnh việc tiếp tục đổi mới và phát triển kinh tế - xã hội nông thôn, đồng thời khẳng định quyền của người sử dụng đất trong việc chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế và thế chấp quyền sử dụng đất.
Hiến pháp 1992 quy định rằng tổ chức, hộ gia đình và cá nhân có quyền chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo quy định pháp luật Do đó, Quốc hội đã đưa việc sửa đổi Luật Đất đai vào chương trình xây dựng pháp luật năm 1993.
Luật Đất đai năm 1993, được Quốc hội thông qua vào ngày 14/7/1993 và có hiệu lực từ 15/10/1993, kế thừa Luật Đất đai 1988 và bổ sung quyền cho người sử dụng đất Cụ thể, luật cho phép người sử dụng đất thực hiện năm quyền: chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế và thế chấp quyền sử dụng đất Những quy định này nhằm mở rộng quyền hạn của người sử dụng đất, cho phép họ có quyền quyết định đối với quyền sử dụng đất của mình, nhưng vẫn phải tuân theo các điều kiện và quy định của Bộ luật dân sự cũng như pháp luật về đất đai.
Sự phát triển nhanh chóng của kinh tế và xã hội đã làm cho quan hệ đất đai trở nên phức tạp, với nhiều vấn đề lịch sử chưa được giải quyết và các vấn đề mới phát sinh mà Luật Đất đai 1993 chưa quy định Do đó, năm 1998, Luật Đất đai đã được sửa đổi, bổ sung để mở rộng quyền của người sử dụng đất, như quyền góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất (QSDĐ) và quyền cho thuê lại QSDĐ Những tổ chức, hộ gia đình, cá nhân được Nhà nước cho thuê đất đã trả tiền sử dụng đất cho toàn bộ thời gian đầu tư hoặc tiền thuê đất đã trả trước còn lại 5 năm cũng được thực hiện các quyền như chuyển nhượng, thế chấp, góp vốn Tuy nhiên, những tổ chức, hộ gia đình, cá nhân mới trả tiền thuê đất hàng năm chỉ được chuyển nhượng, thế chấp tài sản gắn liền với QSDĐ Để thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về cải cách hành chính và đồng bộ với các luật mới như Luật khuyến khích đầu tư trong nước và Luật Đầu tư nước ngoài, Luật Đất đai cần được sửa đổi, bổ sung Trong chương trình xây dựng luật của Quốc hội năm 2000, Luật Đất đai lại được đưa vào chương trình sửa đổi, và vào ngày 29/6/2001, Quốc hội khóa X đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đất đai.
Tuy nhiên để quản lý và sử dụng đất đai đƣợc tốt hơn, ngày 29 tháng 11 năm
Năm 2013, Quốc hội Khóa XIII đã thông qua Luật Đất đai với 14 chương và 212 điều, tăng 7 chương và 66 điều so với Luật Đất đai năm 2003 Luật này đã thể chế hóa đầy đủ các quan điểm trong Nghị quyết số 19-NQ/TW và khắc phục những tồn tại của Luật Đất đai 2003 Luật Đất đai năm 2013 quy định rõ ràng quyền và nghĩa vụ của các đối tượng sử dụng đất, bao gồm cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, hộ gia đình và cá nhân, phù hợp với các hình thức giao đất, thuê đất và công nhận quyền sử dụng đất.
Luật Đất đai năm 2013 có một số những điểm mới sau đây:
Theo quy định tại khoản 2 Điều 167, nhóm người sử dụng đất có chung quyền sử dụng đất, bao gồm hộ gia đình và cá nhân, sẽ có quyền và nghĩa vụ tương tự như của hộ gia đình và cá nhân Nếu trong nhóm có thành viên là tổ chức kinh tế, quyền và nghĩa vụ sẽ tương ứng với tổ chức kinh tế Trong trường hợp QSDĐ được phân chia theo phần cho từng thành viên, mỗi thành viên muốn thực hiện quyền đối với phần đất của mình cần thực hiện thủ tục tách thửa và cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất Nếu không thể chia theo phần, nhóm phải ủy quyền cho người đại diện để thực hiện quyền lợi.
Quyền và nghĩa vụ của hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất được quy định tại Điều 179, kế thừa nội dung của Điều 113 trong Luật đất đai năm 2003, với các sửa đổi và bổ sung quan trọng.
Hộ gia đình và cá nhân sử dụng đất nông nghiệp được Nhà nước giao có quyền và nghĩa vụ theo quy định pháp luật, bao gồm đất trong hạn mức, đất chuyển đổi, nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho, và thừa kế Họ cũng có quyền sử dụng đất đã giao có thu tiền sử dụng, công nhận quyền sử dụng đất, và đất thuê trả tiền một lần cho toàn bộ thời gian thuê Đặc biệt, trong trường hợp đất bị thu hồi để đầu tư cho dự án sản xuất, kinh doanh hoặc xây dựng nhà ở, người sử dụng đất có quyền tự đầu tư trên đất hoặc cho thuê quyền sử dụng đất, cũng như góp vốn bằng quyền sử dụng đất.
Theo quy định, hộ gia đình và cá nhân được Nhà nước cho thuê đất trả tiền hàng năm có quyền bán tài sản gắn liền với đất thuê khi đáp ứng đủ điều kiện pháp luật Đồng thời, họ cũng có quyền cho thuê tài sản thuộc sở hữu của mình gắn liền với đất thuê theo quy định của pháp luật dân sự (Điều 179) Ngoài ra, quy định cũng bổ sung quyền cho hộ gia đình và cá nhân thuê lại đất trong khu công nghiệp, cụm công nghiệp, khu chế xuất (khoản 3 Điều 179).
Người Việt Nam định cư ở nước ngoài có quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật, bao gồm việc tham gia vào các hoạt động cộng đồng và giữ gìn bản sắc văn hóa Các tổ chức nước ngoài có chức năng ngoại giao cần tuân thủ các quy định liên quan đến quan hệ quốc tế và hợp tác phát triển Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sử dụng đất phải đảm bảo tuân thủ các quy định về quản lý và sử dụng đất đai tại Việt Nam, đồng thời góp phần vào sự phát triển kinh tế địa phương.
Điều kiện thực hiện các quyền của người sử dụng đất là một nội dung mới được quy định, nhằm đảm bảo quyền lợi hợp pháp của người sử dụng đất trong việc thực hiện các quyền liên quan đến tài sản của mình.
Đặc điểm cơ bản huyện Thạch Thất, Thành phố Hà Nội
Thạch Thất là huyện thuộc vùng bán sơn địa nằm ở phía Tây Bắc thành phố
Hà Nội, cách trung tâm thành phố Hà Nội khoảng 35 km, có tọa độ địa lý từ
20 O 58 ’ 23 ’’ đến 21 O 06 ’ 10 ’’ vĩ độ bắc từ 105 O 27 ’ 54 ’’ đến 105 O 38 ’ 22 ’’ kinh độ đông Đường ranh giới:
Phía Bắc giáp huyện Phúc Thọ
Phía Đông giáp huyện Phúc Thọ, Quốc Oai
Phía đông nam và nam giáp huyện Quốc Oai, phía tây nam và nam giáp tỉnh Hòa Bình.
Phía Tây giáp huyện Ba Vì và thị xã Sơn Tây
(Nguồn: Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện Thạch Thất)
Huyện Thạch Thất, thành phố Hà Nội, là vùng bán sơn địa với núi đá vôi và đồng bằng, nổi tiếng với chùa Tây Phương ở xã Thạch Xá Đây cũng là nơi có nhiều làng nghề truyền thống như xã Chàng Sơn chuyên làm quạt và đồ mộc, dệt Hữu Bằng, đan lát Bình Phú, và sắt Phùng Xá Huyện còn gìn giữ nghệ thuật múa rối nước và là quê hương của nhiều danh nhân như Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan, nhà viết kịch Tào Mạt, nhà thơ Bằng Việt, và võ sư Nguyễn Lộc.
Từ ngày 01/8/2008, tỉnh Hà Tây chính thức sáp nhập vào Hà Nội theo Nghị quyết của Quốc hội khóa XII, trong đó Thạch Thất trở thành một huyện thuộc thành phố Hà Nội Cùng ngày, Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội đã ban hành quyết định số 19/QĐ-UBND, giao toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của ba xã Tiến Xuân, Yên Bình, Yên Trung (trước đây thuộc huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình) cho huyện Thạch Thất quản lý.
Sau khi xác lập địa giới hành chính huyện Thạch Thất có 23 đơn vị hành chính trực thuộc gồm 01 thị trấn và 22 xã
Tổng diện tích của huyện là 187,44 km 2
Huyện Thạch Thất nằm ở vị trí chuyển tiếp giữa vùng núi và trung du phía Bắc với đồng bằng, có địa hình thấp dần từ Tây sang Đông Các dạng địa hình chính tại đây rất đa dạng, góp phần tạo nên cảnh quan đặc sắc của khu vực.
Địa hình đồng bằng tại 11 xã ven bờ trái sông Tích có độ cao trung bình từ 3 đến 10m so với mặt biển, với nền địa chất đồng nhất và tầng đất dày trên 1m Khu vực này còn có nhiều điểm trũng tạo thành các hồ đầm nhỏ, góp phần làm phong phú thêm cảnh quan tự nhiên.
Khu vực địa hình bán sơn địa và đồi gò trải dài trên 9 xã, với độ cao trung bình từ 10m đến hơn 15m so với mặt biển Nơi đây có nhiều đồi thấp, thoải với độ dốc trung bình từ 3-8 độ, tạo điều kiện hình thành nhiều hồ thủy lợi nhỏ và vừa, nổi bật là hồ Tân Xã Đất ở khu vực này phát triển trên nền đá phong hóa, với lớp đá ong xuất hiện ở độ sâu từ 20-50cm.
Huyện Thạch Thất thuộc vùng đồng bằng Bắc Bộ, có đặc điểm khí hậu nhiệt đới gió mùa với mùa đông lạnh và mùa hè nóng ẩm, mưa nhiều.
Nhiệt độ trung bình hàng năm dao động khoảng 24°C, với mức cao nhất có thể vượt quá 39°C và thấp nhất là 7°C Trung bình, khu vực này nhận được khoảng 1.680 giờ nắng mỗi năm, trong đó năm có số giờ nắng cao nhất đạt 1.700 giờ và năm thấp nhất là 1.460 giờ.
Lượng mưa trung bình hàng năm đạt 1.628mm, với mức cao nhất là 2.163mm và thấp nhất là 1.519mm Sự phân bố lượng mưa trong năm không đồng đều, chủ yếu tập trung vào các tháng nhất định.
5 đến tháng 10, chiếm 85% tổng lƣợng mƣa cả năm, lƣợng mƣa ngày lớn nhất có thể lên tới 336mm
Nước mặt trong khu vực chủ yếu đến từ sông Tích, kênh dẫn nước Đồng Mô - Ngài Sơn và Phù Sa, cùng với nước mưa được lưu trữ trong các ao hồ, chủ yếu là các hồ thủy lợi nhỏ và vừa.
Nước ngầm tại khu vực sông Tích được chia thành hai vùng: vùng gò đồi phía bên phải có mực nước ngầm sâu từ 70 - 80m với chất lượng tốt, trong khi vùng đồng bằng phía bên trái có mực nước ngầm nông và dồi dào, với hầu hết các giếng khơi sâu trên 8m đều có nước, nhiều giếng có nước ở độ sâu chỉ 5m.
Nằm trong khu vực đồng bằng sông Hồng, huyện Thạch Thất có các loại đất chính sau:
Nhóm đất phù sa chiếm 19,58% tổng diện tích tự nhiên với diện tích lên đến 3.670,82ha Loại đất này được hình thành từ các trầm tích của các con sông.
Đất phù sa của hệ thống sông Hồng có diện tích 3.138,87ha, chiếm 16,75% tổng diện tích tự nhiên của huyện Loại đất này chủ yếu phân bố ở các xã Cẩm Yên, Đại Đồng, Hương Ngải, Canh Nậu, Cần Kiệm và Thạch Xá.
TT Liên Quan,…Đây là loại đất tốt, có phản ứng ít chua đến trung bình, hàm lƣợng hữu cơ và đạm tổng số ở lớp mặt khá cao
Đất phù sa gơlây có tổng diện tích 531,95ha, chiếm 2,84% tổng diện tích đất tự nhiên của huyện Loại đất này chủ yếu phân bố tại các xã Bình Phú, Thạch Xá, Phú Kim và Đại Đồng.
Nhóm đất đỏ vàng là loại đất chiếm diện tích lớn nhất trong huyện, với tổng diện tích lên đến 6.033,71ha, tương đương 32,19% diện tích tự nhiên Loại đất này phân bố chủ yếu ở các vùng địa hình dốc và đồi gò, được hình thành từ nhiều loại đất mẹ khác nhau Sự hình thành của nhóm đất này chịu ảnh hưởng của quá trình feralit, dẫn đến đặc điểm màu sắc đỏ vàng đặc trưng.
Đất nâu vàng trên đá vôi có diện tích 107,11ha, chiếm 0,57% tổng diện tích đất tự nhiên của huyện, chủ yếu phân bố tại xã Yên Bình và có hàm lượng hữu cơ trung bình.