TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu về côn trùng bộ Coleoptera trên thế giới
Hội côn trùng học đầu tiên được thành lập ở Anh vào năm 1745, trong khi ở Nga, hội này được thành lập vào năm 1859 Nhà khoa học Nga Keppen đã xuất bản một bộ ba tập sách về côn trùng lâm nghiệp từ năm 1882 đến 1883, trong đó ông nhấn mạnh nhiều đến nhóm côn trùng bộ Coleoptera Các chuyến nghiên cứu của các nhà khoa học Nga như Potarin vào năm 1899 cũng đã góp phần quan trọng vào sự phát triển của ngành côn trùng học.
Năm 1976, Provorovski (1895-1979) và Kozlov (1883-1921) đã công bố các tài liệu quan trọng về côn trùng thuộc bộ Coleoptera Carl von Linne, nhà khoa học vĩ đại người Thụy Điển, được xem là người đầu tiên đề xuất hệ thống phân loại và xây dựng bảng phân loại cho động và thực vật, bao gồm cả các loài côn trùng Cuốn sách phân loại thiên nhiên của ông đã được tái bản tới 10 lần.
Các tác giả như Lamarck (thế kỷ 19), Handrich (thế kỷ 20), Krepton (1904) và Weber (1938) đã đóng góp vào việc xây dựng các bảng phân loại côn trùng, đặc biệt là liên quan đến Mọt, Xén tóc và nhiều loại côn trùng cánh cứng khác.
Năm 1965, Viện hàn lâm khoa học Nga đã phát hành 11 tập phân loại côn trùng ở Châu Âu, trong đó tập thứ 5 tập trung vào bộ Coleoptera, đã xác định được 1350 giống thuộc họ cánh cứng ăn lá (Chrysomeliae) Tại Mỹ, tài liệu "Sách hướng dẫn về lĩnh vực côn trùng ở Bắc Mỹ thuộc Mexico" của Donal J Borror và Richard E White (1970-1978) cũng đã đề cập đến đặc điểm phân loại của 9 họ phụ Chrysomelidae.
Các nhà nghiên cứu sinh học từ Đại học Northern British Columbia và Đại học Alberta đã thành công trong việc giải mã bộ gen của bọ cánh cứng đục gỗ thông, hay còn gọi là Mountain pine beetle (Dendroctonus ponderosae), loài gây hại cho rừng thông tại British Columbia, Canada Đây là loài bọ cánh cứng thứ hai được giải mã gen, sau loài bọ "Red flour beetle" (Tribolium confusum).
Tác giả J.L Gressitt, J.A Rondon và S.von Breuning (1970) đã cung cấp mô tả chi tiết về đặc điểm hình thái của một giống côn trùng thuộc họ Xén tóc (Cerambycidae) tại khu vực Lào, Trung Quốc và một phần Việt Nam.
Tình hình nghiên cứu trong nước
Năm 1879 đoàn nghiên cứu tổng hợp người Pháp tên là Mission Parie đã điều tra côn trùng Đông Dương, đến năm 1904 kết quả đã được công bố
Đã phát hiện 1020 loài côn trùng, trong đó có 541 loài thuộc bộ Cánh cứng (Coleoptera), 168 loài bộ Cánh vảy, 139 loài chuồn chuồn, 59 loài mối, 55 loài bộ Cánh màng, 9 loài bộ hai cánh và 49 loài thuộc các bộ khác.
1921 Vitalis de Salvza chủ biên tập “Faune Entomologi que de Lindochine” đã công bố thu thập 3612 loài côn trùng Trong đó 1196 loài ở miền Bắc Việt Nam
Năm 1968, Medvedev công bố nghiên cứu về họ bọ lá Chrysomelidae tại Việt Nam, giới thiệu 8 loài mới cho khoa học Cuốn sách "Sâu hại rừng và cách phòng trừ" của tác giả Đặng Vũ Cẩn cũng đề cập đến vấn đề này.
Năm 1973, một số loại sâu họ bọ hung gây hại cho lá bạch đàn đã được giới thiệu, bao gồm Bọ hung nâu lớn (Holotrichia sauteri Mauser) và Bọ hung nâu nhỏ (Maladera sp.) Sâu trưởng thành của nhóm này thường xuất hiện trên tất cả các loại bạch đàn Kết quả điều tra tại trại Long Phú Hải, Đông Triều, Quảng Ninh cho thấy sự hiện diện của chúng.
Maladera sp gây hại nhiều hơn trên bạch đàn trắng so với bạch đàn đỏ, chủ yếu tấn công lá và ngọn non Hình thức hại lá chủ yếu là gặm lá, nhưng hiếm khi ăn hết toàn bộ lá, do đó các rừng bạch đàn vẫn giữ được sự xanh tươi ngay cả khi có dịch sâu Nguyên nhân có thể là do hiện tượng ăn bổ sung của sâu mẹ.
Năm 2014, Lê Hà Nguyên đã thực hiện nghiên cứu về tính đa dạng và đề xuất biện pháp quản lý côn trùng bộ Coleoptera tại khu bảo tồn thiên nhiên Xuân Nha, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La trong luận văn tốt nghiệp thạc sỹ Đại học Lâm Nghiệp Việt Nam Nghiên cứu xác định được 129 loài côn trùng thuộc bộ cánh cứng, phân bố trong 11 họ, với 94 loài (73%) thuộc nhóm ít gặp, 27 loài (21%) thuộc nhóm thường gặp và 8 loài (6%) thuộc nhóm ngẫu nhiên Tác giả cũng đã đề xuất ba biện pháp chính để quản lý côn trùng Coleoptera tại khu bảo tồn này.
Năm 2014, Nông Hoàng Mẫn đã tiến hành nghiên cứu về thành phần loài côn trùng bộ cánh cứng Coleoptera tại khu bảo tồn thiên nhiên Vượn cao vít Trùng Khánh - Cao Bằng Trong nghiên cứu này, tác giả đã đề xuất một số biện pháp quản lý nhằm bảo vệ và duy trì sự đa dạng sinh học của khu vực.
Tại khu bảo tồn thiên nhiên Vượn cao vít Trùng Khánh - Cao Bằng, có 50 loài côn trùng thuộc bộ cánh cứng Coleoptera, phân chia thành 18 họ Trong số đó, 43 loài là ngẫu nhiên, 3 loài thường gặp và 4 loài ít gặp.
Nghiên cứu côn trùng tại Vườn Quốc gia và Khu Bảo tồn thiên nhiên Miền Bắc Việt Nam từ năm 2010 đến 2014 của Vũ Văn Liên và cộng sự đã phát hiện 180 loài cánh cứng thuộc 25 giống, trong đó có họ cặp kìm Lucanidae Các loài cặp kìm chủ yếu được thu thập bằng bẫy đèn, nhưng một số loài như cá thể đực của Odontolabis cuvera cũng được quan sát vào ban ngày tại Tam Đảo Nhiều loài phổ biến trong khu hệ nam Trung Hoa, bao gồm Lucanus planeti, L kraatzi giangae và L nobilis.
Gần đây, nhiều loài côn trùng cánh cứng mới thuộc các họ Bọ hung Scarabaeidae, Cặp kìm Lucanidae, và Cánh cộc Staphylinidae đã được mô tả từ Việt Nam Các nghiên cứu quan trọng trong lĩnh vực này bao gồm các công trình của Do M C (2013), Ikeda (1997, 2000), Nagai (1996), và KATSURA & GIANG (2002).
(2009, 2010, 2012) [33, 34, 35], Nagai (1996) [36], Nagai & Maeda (2010) [37], Quang Thai (2013) [38], Quang Thai & Schenk (2013) [39]
Trong khuôn khổ dự án điều tra và lập danh mục hệ động thực vật rừng tại Khu Bảo tồn Thiên nhiên Pù Luông, tỉnh Thanh Hóa, từ tháng 3 năm 2012 đến tháng 8 năm 2013, Viện Sinh thái và Bảo vệ Công trình đã thống kê được 67 loài cá thuộc 49 giống, 21 họ và 6 bộ; cùng với 347 loài côn trùng.
237 giống, 80 họ của 17 bộ; trong đó đã thông kê được 49 loài thuộc 43 giống
Trong nghiên cứu về đa dạng sinh học, lớp côn trùng Cánh cứng ghi nhận 17 họ, trong khi lớp chim có 117 loài thuộc 91 giống, 43 họ và 13 bộ Lớp thú được ghi nhận với 79 loài thuộc 47 giống, 24 họ và 9 bộ Đối với lớp bò sát, có 40 loài thuộc 30 giống, 14 họ và 2 bộ, trong khi lớp lưỡng cư có 26 loài thuộc 18 giống, 7 họ và 1 bộ.
MỤC TIÊU, ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Mục tiêu nghiên cứu
- Xác định được thành phần loài thuộc bộ Cánh cứng (Coleoptera) và đặc điểm sinh học, sinh thái của một số loài chủ yếu tại khu vực nghiên cứu
- Đề xuất được một số biện pháp quản lý các loài côn trùng thuộc bộ Cánh cứng tại khu vực nghiên cứu.
Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng: Côn trùng thuộc bộ Cánh cứng (Coleoptera) tại khu bảo tồn thiên nhiên Pù Luông
+ Địa điểm: Khu bảo tồn thiên nhiên Pù luông, tỉnh Thanh Hóa
+ Thời gian: từ tháng 4 năm 2015 đến tháng 9 năm 2015.
Nôi dung nghiên cứu
Nhằm đáp ứng các mục tiêu nghiên cứu trên đề tài tập trung vào các nội dung chính sau:
- Xác định thành phần loài côn trùng thuộc bộ Cánh cứng (Coleoptera) tại KBTTN Pù Luông
- Đánh giá tình tính đa dạng và đặc điểm phân bố của các loài thuộc bộ Cánh cứng (Coleoptera) tại khu vực nghiên cứu
- Đặc điểm sinh học, sinh thái của một số loài của các họ côn trùng thuộc bộ Cánh cứng tại khu vực nghiên cứu
- Xác định các mối đe dọa tới tài nguyên côn trùng thuộc bộ Cánh cứng (Coleoptera) tại khu vực nghiên cứu
- Đề xuất một số biện pháp quản lý các loài côn trùng thuộc bộ Cánh cứng tại khu vực nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu
2.4.1 Phương pháp kế thừa tài liệu nghiên cứu
Khu bảo tồn thiên nhiên Pù Luông, tỉnh Thanh Hóa, là nơi có điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội đặc biệt, nơi tập trung nhiều nghiên cứu về côn trùng Tài liệu được kế thừa chọn lọc giúp làm nổi bật các yếu tố này.
Phương pháp này được áp dụng lần đầu khi khảo sát khu vực Tại mỗi xã, chúng tôi phỏng vấn một số người dân, chú trọng vào các thợ rừng có kinh nghiệm Thông tin từ các cuộc phỏng vấn sẽ giúp định hướng kế hoạch điều tra thực địa và lựa chọn người dân làm hướng dẫn viên.
Các cuộc phỏng vấn với cán bộ quản lý rừng và cán bộ xã đã được thực hiện nhằm thu thập thông tin ban đầu về tình trạng và hoạt động thu bắt côn trùng, đặc biệt là côn trùng bộ Cánh cứng, tại khu bảo tồn thiên nhiên Pù Luông.
Trong quá trình điều tra thực địa, các cuộc phỏng vấn đã được thực hiện với người dân địa phương và hướng dẫn viên nhằm thu thập thông tin về số lượng và phân bố của các loài côn trùng thuộc bộ Cánh cứng Để nâng cao độ chính xác, ảnh màu sẽ được sử dụng khi cần thiết để xác định sự hiểu biết của người được phỏng vấn Dự kiến, sẽ có 20 cán bộ ở các cấp và 100 người dân địa phương tham gia phỏng vấn để thu thập thông tin về côn trùng thuộc bộ Cánh cứng.
Các câu hỏi phỏng vấn:
1) Ông bà đã từng quan sát những loài bọ cánh cứng nào tại KBTTN
Pù Luông? Mô tả từng loài
2) Ông (bà) có khai thác bọ Cánh cứng không? Mục đích khai thác? Phương pháp khai thác? Khu vực nào?
3) Cá c loài côn trùng Cánh cứng mà Ông (bà) biết thường quan sát được vào thời điểm nào trong năm?
4) Ông (bà) có thu lượm gỗ, củi, lấy thuốc trong Khu Bảo tồn thiên nhiên Pù Luông không? Mùa vụ khai thác? Phương thức khai thác?
Sau mỗi cuộc phỏng vấn, tất cả các thông tin được ghi vào sổ nhật ký
2.4.3 Công tác điều tra ngoại nghiệp
Để thực hiện công tác điều tra rừng hiệu quả, cần chuẩn bị bản đồ hiện trạng rừng nhằm xác định các tuyến điều tra điển hình Các phương tiện cần thiết bao gồm mẫu biểu, dụng cụ thu mẫu, vợt côn trùng, hộp và lọ chứa mẫu, dụng cụ đào đất, máy ảnh và GPS.
Điều tra sơ thám là quá trình sử dụng các phương pháp đơn giản dựa trên đặc tính sinh vật học để nắm bắt tổng quan về khu vực nghiên cứu và hoạt động của đối tượng Trong môi trường rừng tự nhiên, điều tra sơ bộ được thực hiện theo các lối mòn có sẵn, từ đó giúp đánh giá hiện trạng rừng và xác định các dạng sinh cảnh chính.
Điều tra côn trùng bộ cánh cứng tại KBTTN Pù Luông được thực hiện trên ba kiểu rừng chính và ba kiểu rừng phụ sinh nhân tác, nhằm đánh giá sự đa dạng và phân bố của chúng trong các môi trường khác nhau.
Rừng lá rộng đất thấp trên đá vôi phân bố ở độ cao dưới 700m, chủ yếu tại các sườn và đỉnh núi đá vôi bị bào mòn mạnh, đặc biệt tập trung ở khu vực xã Phú Lệ.
+ Rừng lá rộng núi thấp trên đá vôi: Điều tra tập trung tại xã Phú Lệ từ độ cao 700- 950m
+ Rừng lá rộng núi thấp trên đá bazan tại các sườn núi và đường đỉnh: Điều tra tại dãy núi Pù Luông, ở độ cao trên 900 m
Rừng phục hồi sau khai thác là kiểu phụ thứ sinh nhân tác, phân bố rải rác trong khu bảo tồn và là sản phẩm của hình thức khai thác chọn Kiểu phụ này bao gồm các trạng thái rừng IIIA1 và IIIA2, được điều tra tại khu vực Thành Sơn (Bá Thước).
Rừng phục hồi sau nương rẫy là kiểu phụ thứ sinh nhân tác, thường phân bố gần các khu dân cư Trước đây, những khu vực này từng là nương rẫy nhưng hiện đã được khoanh nuôi bảo vệ Rừng phục hồi bao gồm các trạng thái rừng IIA và IIB Khu vực điều tra được thực hiện tại Ving Quang - Phú Nghiêm (Quan Hóa).
+ Rừng tre nứa: Điều tra tại khu vực xã Phú Lệ (Quan Hóa); Vinh
Quang - Phú Nghiêm (Quan Hóa)
Sau khi phân tích bản đồ hiện trạng rừng và thảo luận với cán bộ KBTTN Pù Luông, chúng tôi đã chọn ra 6 khu vực đại diện cho hầu hết các sinh cảnh, bao gồm xã Phú Nghiêm, Phú Lệ (Huyện Quan Hóa) và xã Lũng Cao, Lũng Niêm, Cổ Lũng, Thành Sơn (Huyện Bá Thước) Tại mỗi khu vực, chúng tôi thiết lập các tuyến khảo sát đi qua các sinh cảnh chính, và tại mỗi sinh cảnh đặc trưng, chúng tôi chọn một điểm điều tra có bán kính 10m.
Sử dụng máy định vị GPS Magellan Triton 2000 để xác định tọa độ điểm điều tra và chiều dài tuyến khảo sát Bên cạnh đó, chúng tôi còn áp dụng địa bàn cầm tay để đo lường các đặc điểm khác như hướng dốc, độ dốc và độ cao của điểm điều tra và tuyến khảo sát.
Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi đã tiến hành 07 tuyến khảo sát với 49 điểm điều tra tại 6 khu vực khác nhau Dưới đây là bảng mô tả chi tiết về các đặc điểm của tuyến khảo sát và các điểm điều tra.
Bảng 2.1: Đặc điểm các tuyến khảo sát, điểm điều tra tại khu vực nghiên cứu
Khu vực/tuyến/ điểm điều tra Đặc điểm
Tuyến LC_1 bao gồm nhiều điểm quan trọng liên quan đến sinh cảnh nông nghiệp và rừng phục hồi Cụ thể, điểm LC_1.1 và LC_1.2 tập trung vào sinh cảnh cây nông nghiệp ven làng bản, trong khi các điểm từ LC_1.3 đến LC_1.9 đều đề cập đến sinh cảnh rừng phục hồi sau nương rẫy và khai thác Những điểm này thể hiện sự đa dạng của hệ sinh thái và tầm quan trọng của việc bảo tồn và phục hồi các khu vực rừng.
Tuyến BK_2 bao gồm các điểm quan trọng như BK_2.1 (0524757/2266503), BK_2.2 (0524479/2265914), BK_2.3 (0523709/2265264), và BK_2.5 (0523021/2263417), tất cả đều là sinh cảnh rừng lá rộng đất thấp trên đá vôi Ngoài ra, điểm BK_2.4 (0523626/2264116) đại diện cho sinh cảnh rừng phục hồi sau khai thác.
Khu vực/tuyến/ điểm điều tra Đặc điểm
ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN, NHÂN SINH, KINH TẾ, XÃ HỘI
Vị trí KBTTN Pù Luông
Khu BTTN Pù Luông nằm ở tọa độ 20°21’ - 20°34’ vĩ độ Bắc và 105°02’ - 105°20’ kinh độ Đông, trải dài qua hai huyện Quan Hoá và Bá Thước thuộc tỉnh Thanh Hoá Khu vực này bao gồm các xã Phú Lệ, Phú Xuân, Thanh Xuân, Hồi Xuân, Phú Nghiêm của huyện Quan Hoá và các xã Thành Sơn, Thành Lâm, Cổ Lũng, Lũng Cao, Lâm Xa của huyện Bá Thước.
- Phía Đông giáp huyện Lạc Sơn, tỉnh Hoà Bình;
- Phía Bắc giáp huyện Mai Châu, Tân Lạc; tỉnh Hoà Bình;
- Phía Tây giáp với phần đất còn lại của các xã Phú Lệ, Phú Xuân, Thanh Xuân, Hồi Xuân;
- Phía Nam giáp với phần đất còn lại của các xã Thành Lâm, Phú Nghiêm
Hình 3.1: Bản đồ thể hiện vị trí của KBTTN Pù Luông trong tỉnh Thanh Hóa
Điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của KBTTN Pù Luông
3.2.1 Đặc điểm địa hình, địa chất, thổ nhưỡng
Dãy núi có địa hình tương phản rõ rệt do sự khác biệt về nền địa chất Phía Tây Nam, dãy núi nhỏ hơn chủ yếu được hình thành từ đá lửa và đá biến chất, với các đồi bát úp rừng che phủ và thung lũng nông Trong khi đó, phía Đông Bắc có dãy núi lớn hơn, được tạo ra từ những vùng đá vôi bị chia cắt mạnh, kéo dài từ tỉnh Sơn La đến Khu BTTN Pù Luông Độ cao của khu vực dao động từ 60m đến 1667m, với đỉnh cao nhất là núi Pù Luông.
Khu Bảo tồn Thiên nhiên Pù Luông sở hữu nhiều dạng địa hình karst và karst-xâm thực đa dạng, bao gồm cao nguyên karst, thung lũng karst-xâm thực và cánh đồng karst, nhờ vào sự hiện diện của nhiều loại đá vôi khác nhau Đặc biệt, các dạng địa hình xâm thực và kiến tạo như sườn xâm thực, bề mặt san bằng, pediment và rãnh xói phát triển trên đá macma và đá lục nguyên tạo nên sự khác biệt rõ rệt giữa KBTTN Pù Luông và các VQG, Khu BTTN lân cận Cụ thể, 60% diện tích của khu vực này là đá vôi, 37% là đá macma, và chỉ 3% là đá lục nguyên (Trần Tân Văn và các cộng sự, 2003).
Khu BTTN Pù Luông có lớp đất phủ phong phú nhờ vào đặc điểm địa chất và địa mạo đa dạng Theo phân loại của FAO, UNESCO, WRB và Việt Nam, lớp đất phủ trong khu vực này được chia thành các kiểu loại chính như sau: (1) Đất Renzit với màu nâu vàng và màu đen, phát triển trên đá vôi; (2) Đất Luvisol màu vàng xám, cũng phát triển trên đá vôi; (3) Đất Leptosol màu vàng xám, hình thành trên các sườn đá vôi; (4) Đất Cabisol màu xám đen và màu vàng xám, phát triển trên đá macma.
Đất Acrisol có màu xám nâu, thường phát triển trên đá macma, trong khi Acrisol màu vàng xám và xám nâu phát triển trên đá lục nguyên Ngoài ra, đất Fluvisol và Gleysol có màu vàng xẫm đến nâu xẫm, thường xuất hiện dọc theo các thung lũng (Trần Tân Văn và các cộng sự, 2003).
3.2.2 Đặc điểm khí hậu thuỷ văn
Khu BTTN Pù Luông có khí hậu nhiệt đới gió mùa, chịu ảnh hưởng rõ rệt từ khí hậu vùng Tây Bắc và gió Lào.
Chế độ nhiệt: Nhiệt độ trung bình năm 23 0 C; nhiệt độ trung bình cao nhất 38 0 C; nhiệt độ tối thấp trung bình: 0 0 C
Lượng mưa bình quân năm biến động từ 1.500 mm đến 1.600 mm
Gió ở khu vực này chủ yếu bao gồm gió mùa Đông Nam và gió mùa Đông Bắc, cùng với sự xuất hiện của gió Lào Mùa Hè có gió Đông Nam và Tây Nam từ tháng 5 đến tháng 10, trong khi gió mùa Đông Bắc kéo dài từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau Mùa khô có lượng mưa thấp và bốc hơi cao, dẫn đến thời tiết khô nóng kéo dài, dễ gây ra cháy rừng Thiếu nước trong mùa khô cũng ảnh hưởng nghiêm trọng đến các loài thú lớn.
Hệ thống thuỷ văn Khu BTTN Pù Luông nổi bật với đường yên ngựa tại thung lũng giữa các xã Phú Lệ và Thành Sơn, tạo thành đường phân thủy giữa hai phụ lưu Pung và Cham trước khi hợp dòng vào sông Mã Sông Mã bao quanh vùng đệm của Khu BTTN Pù Luông ở phía Tây, Nam và Đông Nam, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển giao thông đường thủy và du lịch Du khách có thể trải nghiệm du thuyền trên sông Mã, khám phá rừng Pù Luông ven sông.
Hệ thống nước ở vùng lõi đá vôi rất phức tạp, không thể xác định mối quan hệ trực tiếp giữa nước bề mặt và nước ngầm Nghiên cứu gần đây đã phát hiện hai hệ thống sông ngầm quy mô lớn (Trần Tân Văn và cộng sự, 2003) cùng với nhiều hệ thống khác Các dòng sông ngầm này cho thấy sự liên kết giữa nhiều hệ thống nước trong và xung quanh Khu BTTN Pù Luông.
Hệ thống nước của vùng lõi đá vôi rất phức tạp, không có mối quan hệ trực tiếp giữa nước bề mặt và nước dưới lòng đất Nghiên cứu gần đây cho thấy sự tồn tại của hai hệ thống sông ngầm quy mô lớn, điều này có ý nghĩa quan trọng trong việc quản lý nguồn nước, phòng chống cháy rừng và bảo vệ môi trường.
Đặc điểm thảm thực vật rừng
3.3.1 Các kiểu thảm thực vật rừng đặc trưng
Kết quả điều tra sơ bộ cho thấy Khu BTTN Pù Luông có quần xã thực vật nguyên sinh điển hình, chủ yếu là rừng kín thường xanh mưa mùa nhiệt đới Các kiểu rừng nguyên sinh chính được quan sát tại đây bao gồm nhiều loại đặc trưng.
Rừng nguyên sinh rậm thường xanh mưa mùa nhiệt đới với cây lá rộng, nằm trên đất thấp trên đá vôi, có diện tích khoảng 4.800 ha Loại rừng này phân bố ở độ cao khoảng 700 m, chủ yếu tại các tiểu khu 73 xã Thành Sơn và tiểu khu 74, 250.
Xã Lũng Cao và một phần tiểu khu 262 thuộc xã Cổ Lũng được chia thành 6 tầng chính Tầng 1 chủ yếu có các loài cây ưu thế như Nghiến (Burretiodendron hsienmu) và các loài cây thuộc chi Ficus.
The article discusses various tree species, including Cui lá to (Heritiera macrophylla), Chò nhai (Anogeissus acuminata), Nhãn rừng (Dimocarpus longan), and Thị núi (Diospiros bangoiensis) It highlights the regeneration species such as Ôrô (Streblus ilicifolia), Nghiến (Burretiodendron hsienmu), Thầu dầu (Acer tongkinensis), and Chò nhai (Anogeissus acuminata) Additionally, it mentions other common species found in moist and shaded areas, including Kim giao (Nageia wallichiana) and Bằng lăng (Lagerstroemia balance).
Rừng nguyên sinh rậm thường xanh mưa mùa nhiệt đới có diện tích khoảng 650 ha, nằm ở độ cao 60-100m tại tiểu khu 262, 265, dưới chân dãy núi đá vôi phía Đông thôn Khuyn, xã Cổ Lũng Đây là kiểu rừng duy nhất trong Khu BTTN, được chia thành 6 tầng chính Tầng 1 chủ yếu có các loài cây ưu thế như Gội (Agaila sp) và Phay (Duabaga grandifora), trong khi các loài cây tái sinh chủ yếu bao gồm Chò nhai (Anogeissus acuminata), Dẻ gai Ấn Độ (Castanopsis indica) và Mát (Millettia ichtyochotona).
Rừng nguyên sinh rậm thường xanh mưa mùa nhiệt đới ở độ cao 700-950m, với diện tích khoảng 4.900 ha, chủ yếu phân bố tại các tiểu khu 256, 257, 260 xã Lũng Cao; tiểu khu 262, 265, 268 xã Cổ Lũng; tiểu khu 27, 30, 52 xã Phú Lệ Kiểu rừng này phát triển trên sườn núi đá vôi cao và ít bị tác động, với cấu trúc đa dạng nhất xuất hiện trên các sườn dốc và đỉnh núi Rừng được chia thành 6 tầng chính, trong đó tầng 1 có chiều cao lên tới 40 m, với các loài cây ưu thế như Nghiến (Burretiodendron hsienmu), Thông lớn (Dacrycarpus imbricatus), và Cui lá to (Heritiera macrophylla) Các loài cây tái sinh chủ yếu bao gồm Chân chim (Schefflera sp), Thông tre (Podocarpus neriifolius), và các loài cây Gội (Aglaia sp), De (Cinnamomum sp), Duối (Streblus macrophylus).
Rừng nguyên sinh rậm thường xanh mưa mùa nhiệt đới trên đá vôi ở độ cao 700-850m, với diện tích khoảng 1.000 ha, chủ yếu phân bố tại tiểu khu 270 và một phần tiểu khu 265 thuộc xã Cổ Lũng, là một trong những kiểu rừng hiếm hoi còn sót lại tại khu vực này Kiểu rừng này được chia thành 5 tầng chính, trong đó tầng 1 chủ yếu là Thông Pà Cò (Pinus kwantungensis), kèm theo một số loài cây lá rộng như Sơn trà (Eriobotrya bengalensis).
Chẹo (Platycarya strobilifera) Các loài cây tái sinh chủ yếu là Đại cúc phương (Pistachia cucphuongensis), Thông đỏ (Taxus chinensis), Mailai (Sinosideroxilon wightianum)
Rừng nguyên sinh rậm thường xanh mưa mùa nhiệt đới, với diện tích khoảng 4.500 ha, phân bố ở các tiểu khu 269, 271 thuộc xã Thành Lâm, tiểu khu 75, 258, 264 thuộc xã Thành Sơn, tiểu khu 41 thuộc xã Phú Lệ, tiểu khu 65, 84 thuộc xã Phú Xuân, tiểu khu 115, 136, 145 thuộc xã Hồi Xuân, và tiểu khu 156, 158, 96 thuộc xã Thanh Xuân Rừng này có sương mù, tạo ra độ ẩm cao ngay cả trong mùa khô, dẫn đến sự hình thành thảm thực vật ẩm ướt khác biệt so với rừng trên núi đá vôi Rừng được chia thành 6 tầng chính, trong đó tầng 1 chủ yếu gồm các loài cây họ Dẻ như Dẻ giáp (Castannopsis armata), Dẻ xanh (Lithocarpus pseudosundaicus), và các loài Mộc lan như Dổi lá láng (Michelia foveolata), cùng với những loài Hạt trần quý hiếm như Đỉnh tùng (Cephalotaxus mannii), Dẻ tùng Vân Nam (Amentotaxus yunnamnensis), Dẻ tùng sọc trắng (Amentotaxus argotaenia), và Kim giao.
Nageia wallichiana is a prominent species alongside other broadleaf trees such as Aglaia sp and Cinamomum sp The main regenerating species include Cephalotaxus mannii, Nageia wallichiana, Aglaia sp., Cinamomum sp., and Anneslea fragrans.
Một số loại rừng phát triển không phân tầng có cấu trúc và thành phần loài đặc biệt, với sự phong phú về các loài cây hiếm và đặc hữu, chiếm diện tích khoảng 800 ha Thảm thực vật không phân tầng đặc trưng cho khu vực này bao gồm nhiều loại cây quý hiếm.
- Rừng nguyên sinh rậm thường xanh mưa mùa nhiệt đới cây lá rộng núi thấp cây lùn dạng bụi trên những đỉnh núi đá vôi riêng lẻ
- Quần xã thực vật mọc trên các vách đá dựng đứng
- Rừng nguyên sinh rậm thường xanh mưa mùa nhiệt đới cây lá rộng núi thấp cây lùn dạng bụi trên những đỉnh núi đá bazan riêng lẻ
Tất cả các loại thảm thực vật tại Việt Nam vẫn giữ được những đặc tính nguyên sinh với sự đa dạng của các loài điển hình và môi trường sống Tuy nhiên, hiện nay, những kiểu thảm thực vật này đang trở nên hiếm hoi và đóng vai trò quan trọng trong việc bảo tồn hệ sinh thái nguyên sinh đặc trưng của khu vực Đông Dương.
3.3.2 Những đặc trưng cơ bản hệ thực vật rừng
- Đa dạng về các taxon thực vật
Kết quả điều tra về thành phần loài thực vật Khu BTTN Pù Luông, bước đầu đã xác định được 1.109 loài, thuộc 447 chi, 152 họ
Bảng 3.1: Số lượng các nhóm thực vật rừng ghi nhận được tại Khu BTTN Pù Luông
TT Tên khoa học Tên tiếng Việt
(Nguồn: Điều tra thực vật rừng Khu BTTN Pù Luông, tổ chức FFI,
Dự án lập danh lục động thực vật rừng, 2012)
Trong đó, lớp Ngọc lan (Magnoliopsida) có số lượng loài nhiều nhất với
Hệ thực vật Pù Luông thể hiện sự đa dạng phong phú với 10 họ thực vật đa dạng nhất, chiếm 6,57% tổng số họ nhưng lại bao gồm 255 loài, tương đương 22,9% tổng số loài Trong đó, họ Cà phê (Rubiaceae) có 46 loài, họ Đậu (Fabaceae) với 35 loài, họ Long não (Lauraceae) có 27 loài và họ Ba mảnh vỏ (Euphorbiaceae) cũng có 27 loài.
Bảng 3.2: Đa dạng các họ của hệ thực vật tại Khu BTTN Pù Luông
TT Tên khoa học Tên Việt Nam Số loài Tỷ lệ (%)
4 Euphorbiaceae Họ Ba mảnh vỏ 27 2,43
10 họ đa dạng nhất (6,57% tổng số họ) 255 22,9
Theo bảng 3.2, trong số 10 họ thực vật đa dạng nhất tại Khu BTTN Pù Luông, mỗi họ đều có ít nhất 15 loài Dù chỉ chiếm 6,57% tổng số họ của toàn bộ hệ thực vật, nhưng chúng lại đóng góp tới 22,9% tổng số loài của Khu BTTN.
- Đa dạng về chi thực vật
Với 10 chi đa dạng nhất của hệ thực vật (từ 9 - 21 loài) chiếm 2,23%, tổng số chi nhưng chiếm 13% tổng số loài, được thể hiện qua bảng 3.3
Bảng 3.3: Đa dạng các chi của hệ thực vật rừng tại Khu BTTN Pù Luông
STT Tên khoa học Số loài Tỷ lệ (%)
10 chi đa dạng nhất (2,23% tổng số chi)
-Các loài thực vật quý hiếm
Dựa vào Sách Đỏ Việt Nam (2007, phần Thực vật), IUCN 2009, NĐ 32-
Khu BTTN Pù Luông có 28 loài thực vật quý hiếm, chiếm 2,52% tổng số loài, trong đó nhiều loài đang đối mặt với nguy cơ tuyệt chủng cao Những loài này thường được khai thác để làm thuốc và lấy gỗ, dẫn đến tình trạng cạn kiệt trong tự nhiên Do đó, việc thiết lập các chính sách hợp lý nhằm bảo vệ và nhân giống các loài thực vật này là vô cùng cần thiết.
Đặc điểm khu hệ động thực vật
Hệ động vật hiện nay bao gồm 598 loài, phân bố trong 130 họ và 31 bộ, với sự đa dạng như 162 loài chim, 55 loài cá, 28 loài bò sát, 13 loài lưỡng cư, 24 loài dơi, 62 loài thú, 158 loài côn trùng và 96 loài ốc cạn Đặc biệt, có 51 loài động vật quý hiếm và đặc hữu được ghi nhận trong Sách Đỏ Việt Nam (2000) và Sách Đỏ Thế giới (2003), trong đó có Voọc mông trắng.
The article highlights several remarkable species found in the region, including the Delacour's langur (Trachypithecus delacouri), the gray langur (Trachypithecus phayrei), and the clouded leopard (Pardofelis nebulosa) Additionally, it mentions the bay cat (Catopuma temminckii), the Sumatran serow (Capricornis sumatraensis), and the Asian black bear (Ursus thibetanus) Smaller wildlife such as the northern spotted civet (Hemigalus owstoni) and the short-tailed porcupine (Hystrix brachyura) are also noted, emphasizing the rich biodiversity of the area.
Bảng 3.4: Khu động hệ vật ở Khu BTTN Pù Luông
TT Taxon Số bộ Số họ Loài
Đặc điểm kinh tế xã hội
Dân cư tại Khu Bảo tồn Thiên nhiên Pù Luông chủ yếu sống tập trung trong các thôn bản, với 48 thôn/bản thuộc vùng đệm giáp ranh, tổng cộng có 4.201 hộ và 18.309 khẩu, trong đó có 10.067 khẩu trong độ tuổi lao động Huyện Bá Thước bao gồm 39 thôn/bản từ 4 xã, với 3.385 hộ và 14.650 khẩu, trong đó 8.010 khẩu trong độ tuổi lao động Huyện Quan Hóa có 10 thôn/bản, 816 hộ, 3.659 khẩu và 2.057 khẩu trong độ tuổi lao động.
Trong bản thuộc vùng đệm cho thấy tỷ lệ nam là 48%, nữ là 52%, số người đang trong độ tuổi lao động chiếm 40%
Kết quả điều tra cho thấy nguồn thu chính của các hộ dân trong Khu BTTN Pù Luông chủ yếu đến từ chăn nuôi và trồng trọt, nhưng hiệu quả sản xuất còn hạn chế với giá trị sản phẩm thấp, trung bình chỉ khoảng 500.000 đồng/tháng, dưới mức nghèo theo tiêu chí mới Để duy trì cuộc sống, người dân địa phương thường vào rừng để phát nương làm rẫy, khai thác lâm sản và săn bắn động vật rừng trái phép, gây ảnh hưởng tiêu cực đến công tác bảo tồn đa dạng sinh học tại khu vực này.
Bảng 3.5: Hiện trạng dân số, lao động tại các thôn bản của các xã vùng đệm
TT Huyện Tổng số thôn/bản Hộ (hộ) Khẩu
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
Thành phần loài côn trùng cánh cứng tại khu vực nghiên cứu
Đến nay, đã thống kê và ghi nhận được 67 loài bọ cánh cứng thuộc 20 họ tại KBTTN Pù Luông Kết quả được thể hiện trong bảng 4.1
Bảng 4.1: Thành phần loài côn trùng Cánh cứng tại KBTTN Pù Luông
Tên khoa học Tên phổ thông Nguồn
2 Hypomeces squamosus (Fabricius, 1792) Câu cấu xanh hại cam M
Buprestidae Họ Bổ củi giả
Ban miêu khoang vàng nhỏ
23 Cicindela chinensis Degeer Sâu đậu TL
24 Cicindela sexpunctata Fabricius Hổ trùng 6 chấm M
Chrysomelidae Họ Cánh cứng ăn lá
12 Teenebrionidae Họ Chân bò giả
41 Cybister tripunctatus Olivier, 1795 Bọ nước M
Chú thích: TL: trích dẫn tài liệu; M: Mẫu vật
Tại Khu Bảo tồn Thiên nhiên Phù Luông, không có loài cánh cứng nào được ghi nhận trong danh sách Sách đỏ Việt Nam, Nghị định 32 hay Danh lục CITES.
Trong khuôn khổ dự án điều tra và lập danh lục hệ động thực vật rừng tại Khu Bảo tồn Thiên nhiên Pù Luông, tỉnh Thanh Hóa, từ tháng 3 năm 2012 đến tháng 8 năm 2013, Viện Sinh thái và Bảo vệ Công trình đã thống kê được 49 loài côn trùng Cánh cứng thuộc 43 giống và 17 họ Đề tài này đã góp phần bổ sung 18 loài mới vào danh lục côn trùng bọ Cánh cứng tại khu vực Pù Luông.
57 Macroeubria luei (Lee, Yang & Sato,
18 Tenebrionidae Họ Cánh cứng bóng tối
67 Megalodacne sp.2 M loài 14 giống và 3 họ thuộc nhóm côn trùng bộ Cánh cứng Danh sách các loài côn trùng Cánh cứng bổ sung được thể hiện trong bảng 4.2
Bảng 4.2: Danh sách các loài côn trùng Cánh cứng bổ sung mới cho KBT
Họ Cánh cứng ăn lá Chrysomelidae
Ba họ mới được bổ sung cho danh lục bọ Cánh cứng ở KBTTN Pù Luông là Tenebrionidae, Passalidae, Erotylidae.
Đánh giá tính đa dạng loài và đặc điểm phân bố các loài bọ Cánh cứng tại
4.2.1 Đa dạng loài côn trùng Cánh cứng
Tính đa dạng các loài côn trùng Cánh cứng theo họ và giống ở khu vực nghiên cứu được thể hiện trong bảng 4.3
Bảng 4.3: Thống kê loài theo họ và giống côn trùng Cánh cứng tại KVNC
STT Tên họ Số giống
Theo bảng 4.3, khu vực nghiên cứu ghi nhận 67 loài côn trùng bọ Cánh cứng thuộc 57 giống và 20 họ Trong đó, họ xén tóc (Cerambycidae) chiếm ưu thế với 13 loài (19,40% tổng số loài) và 10 giống (17,54% tổng số giống) Họ vòi voi (Curculionidae) đứng thứ hai với 10 loài (14,93% tổng số loài) và 10 giống (17,54% tổng số giống) Họ ăn phân (Histeridae) xếp thứ ba với 8 loài (11,94%) và 7 giống (12,28%) Họ Bọ hung (Scarabaeidae) có 6 loài (8,96%) và 5 giống (8,77%), trong khi họ Cánh cứng ăn lá (Chrysomelidae) có 5 loài (7,46%) và 4 giống (7,02%) Các họ còn lại có số lượng loài và giống tương đối thấp, từ 1-3 loài và 1-2 giống Để đánh giá mức độ đa dạng của côn trùng cánh cứng tại KBTTN Phù Luông, số liệu được so sánh với các khu bảo tồn khác như KBTTN Xuân Nha, KBTTN Ha Hang và VQG Bạch Mã, như thể hiện trong bảng 4.4.
Bảng 4.4: So sánh độ đa dạng côn trùng cánh cứng tại khu cực nghiên cứu với các khu vực khác
STT KBTTN Số họ Số giống Số loài
Nguồn: Số liệu ở các khu vực khác theo tài liệu tham khảo [7, 8]
Tại KBTTN Pù Luông, bảng 4.4 cho thấy số họ thuộc bộ cánh cứng lớn nhất với 20 họ, tuy nhiên số loài và giống lại ít hơn.
KBTTN Xuân Nha và VQG Bạch Mã có sự khác biệt về đa dạng sinh học so với KBTTN Na Hang, có thể do thời gian nghiên cứu và sự khác biệt về sinh cảnh, độ cao và kiểu rừng Hiện tại, nghiên cứu về côn trùng cánh cứng ở Pù Luông còn hạn chế, với chỉ hai nghiên cứu được thực hiện, dẫn đến việc chưa phát hiện nhiều loài Tuy nhiên, việc tiến hành thêm nhiều nghiên cứu sẽ giúp ghi nhận thêm nhiều loài cánh cứng tại Pù Luông.
4.2.2 Đa dạng về sinh cảnh của côn trùng bọ cánh cứng tại Pù Luông Ở các dạng sinh cảnh khác nhau thường có thành phần loài khác nhau, kiểu sinh cảnh là một trong những nhân tố quan trọng quyết định đến thành phần loài côn trùng Cánh cứng nói riêng, các loài côn trùng nói chung Sự đa dạng của các loài côn trùng Cánh cứng theo các dạng sinh cảnh ở khu vực nghiên cứu được thể hiện ở bảng 4.5 và hình 4.1
Bảng 4.5: Thành phần loài côn trùng cánh cứng theo các dạng sinh cảnh
STT Sinh Cảnh Số loài Phần trăm
2 Rừng phục hồi sau nương rẫy 56 89,15
3 Rừng phục hồi sau khai thác 43 68,54
4 Rừng lá rộng trên núi đá 20 31,25
5 Rừng lá rộng trên núi đất 52 82,30
Hình 4.1: Thành phần loài côn trùng cánh cứng theo các dạng sinh cảnh
Theo bảng 4.5 và hình 4.1, số lượng các loài cánh cứng giữa các dạng sinh cảnh có sự khác biệt rõ rệt Rừng phục hồi sau nương rẫy dẫn đầu với 56 loài, chiếm 89,15% tổng số loài Tiếp theo là rừng lá rộng trên núi đất với 52 loài, tương đương 82,30% tổng số loài Sinh cảnh nông nghiệp làng bản có 44 loài, chiếm 70,45% Rừng lá rộng trên núi đá có 20 loài, chiếm 31,25%, trong khi rừng tre nứa có số lượng loài ít nhất với 14 loài, chiếm 22,30% tổng số loài.
Hai loại sinh cảnh chính tại Pù Luông là rừng phục hồi sau nương rẫy và rừng lá rộng trên núi đất, chiếm lần lượt 89,15% và 82,30% tổng số loài được ghi nhận Ngược lại, rừng lá rộng trên núi đá và rừng tre nứa có thành phần loài thấp nhất, với tỷ lệ 31,25% và 22,30% Điều này cho thấy sự đa dạng sinh học ở Pù Luông rất phong phú trong các sinh cảnh rừng phục hồi và rừng lá rộng, trong khi hai loại rừng còn lại lại khá nghèo nàn về thành phần loài.
Đặc điểm hình thái của một số loài côn trùng Cánh cứng
4.3.1 Các loài trong họ Bọ hung Scarabaeidae Đặc điểm: Là họ rất đa dạng, các loài trong họ khác nhiều về màu sắc, hình thái, kích thước cơ thể, đặc tính sinh học và sinh thái Tuy vậy, họ Bọ hung thường có màu đen bóng, mỗi loài trong họ có chiều dài khác nhau Mép tấm trước môi lượn tròn và bị lẹm ở chính giữa Trên đầu thường có từ 1 đến 2 sừng Tấm lưng ngực trước thường nhô cao ở giữa và lõm ở gần mép trước
Bọ hung không có mảnh tam giác cánh ở mặt lưng, thường có rãnh dọc ở cánh Cánh cứng có thể phủ kín đốt bụng hoặc để lộ một phần đốt sinh dục, trong khi mặt bụng của các đốt bụng thắt lại ở giữa Đốt ống chân trước có từ 3 đến 4 gai Dưới đây là hình ảnh một số loài thuộc họ bọ hung được chụp tại khu vực nghiên cứu, trong đó có bọ hung nâu lớn (Holotrichia sauteri Mauser, 1912).
Cá thể trưởng thành có thân dài khoảng 30-35 mm, với màu sắc toàn thân nâu hoặc nâu sẫm Râu đầu hình đầu gối lá lợp, trong khi cánh cứng không phủ hết đốt bụng cuối Nhộng trần màu trắng ngà nằm trong đất, và sâu non 3 tuổi có màu trắng sữa, với hình dạng thân cong như chữ C.
Sâu non trưởng thành sống trong đất ở độ sâu 20-25 cm và gây hại không đáng kể cho rễ cây con bằng cách ăn phân và chất mục Sau khi vũ hóa, sâu trưởng thành có tính ăn bổ sung và bắt đầu bay lên mặt đất vào khoảng chập tối, gây hại cho lá cây ở vườn ươm hoặc rừng trồng Chúng thường trở lại đất vào gần sáng và đẻ trứng gần các đống phân trâu bò.
Bọ hung nâu lớn là loài phổ biến nhất, phá hoại nhiều loại cây trồng Cả sâu non và sâu trưởng thành đều thích phân trâu bò
Hình 4.2: Bọ hung nâu lớn: Holotrichia sauteri Mauser b Kiến vương hai sừng (Xylotropes gideon Guérin-Méneville, 1830)
Cá thể trưởng thành có màu sắc đa dạng từ đen, màu mận chín đến màu cánh gián, với chiều dài cơ thể từ 35 đến 60 mm Con đực nổi bật với hai chiếc sừng cong về phía trước, một sừng cong xuống và một sừng cong lên, đầu mỗi sừng có hình dạng giống chữ Y So với con cái, con đực có kích thước lớn hơn và lưng bóng láng hơn.
Hình 4.3: Xylotropes gideon Guérin-Méneville, 1830
4.3.2 Các loài trong họ Xén tóc Cerambycidae Đặc điểm: sâu trưởng thành có râu đầu hình sợi chỉ , có 11 hay 12 đốt, đốt gốc râu to dài, đốt thân ngắn, các đốt roi râu nhỏ và dài Mắt kép thường bao lấy chân râu Miệng gặm nhai, có hai hàm trên phát triển dài dùng để gặm vỏ cây Bàn chân có 4 đốt, đốt thứ 3 chẻ ra
Hình 4.4: Xén tóc gỗ khô (Stromatium longicorne Newman)
(Nguồn: https://en.wikipedia.org/wiki/Stromatium_longicorne)
Hình thái của loài này có toàn thân màu đen đến nâu tối, được bao phủ bởi lớp lông tơ màu vàng nâu Phần đỉnh có nhiều lông tơ màu xám vàng và một gờ dọc nhỏ ở giữa Con đực có lớp lông tơ che khuất gờ này, trong khi cánh cứng tròn ở góc cuối được phủ kín lông tơ xám, với mỗi cánh có 2-3 hàng gân chìm chạy dọc hơi chéo Râu của con đực dài gần gấp đôi cơ thể, còn râu con cái dài hơn một chút Đốt đầu tiên của râu to và phủ đầy lông tơ màu xám vàng, dưới là phần kitin có nhiều nốt chấm nhỏ Các đốt râu từ số 2 đến số 8 phình to, đặc biệt ở con đực, và được phủ bởi lông tơ xám dày, với 2-3 hàng lông dài và cứng ở phía quay vào cơ thể Các đốt 8, 9 và các đốt cuối ít lông tơ dài hơn.
Con cái trưởng thành sau khi giao phối sẽ đẻ trứng vào các kẽ nứt của gỗ hoặc đồ gỗ đã khô, với độ ẩm từ 12-20% Đến nay, chưa có ghi nhận nào về việc loài này đẻ trứng vào gỗ tươi.
Hình ảnh một số loài khác thuộc họ xén tóc Cerambycidae
Họ Vòi voi Curculionidae, được mô tả bởi Fabricius vào năm 1801, có đặc điểm nổi bật là đầu kéo dài giống như vòi Miệng của chúng nằm ở cuối vòi, và hình dạng cũng như kích thước vòi thay đổi tùy theo từng loài Râu đầu thường ở giữa chiều dài vòi, có hình dạng bầu dục với ba đốt cuối phình to, thường cong như đầu gối và có từ 3 đến 12 đốt Mặc dù cánh sau phát triển bình thường, nhưng một số loài chủ yếu di chuyển bằng cách bò trên mặt đất.
Đuông dừa Rhynchophorus ferrugineus (Olivier, 1790) là loài côn trùng trưởng thành có màu nâu đỏ với vòi cong dài chiếm 1/3 chiều dài cơ thể Đầu và vòi của đực có lông ngắn màu vàng nâu, trong khi vòi cái mảnh hơn, dài hơn và không có lông Vòi tạo thành một góc 30 độ với đầu Cánh cứng có 6 sọc lõm dọc và 3 sọc mờ, trong đó sọc thứ 6 có thể là các chấm lõm nhỏ Cánh không che phủ hoàn toàn bụng, và kích thước cơ thể trưởng thành dao động từ 2,3 x 0,9 cm đến 3,1 x 1,5 cm.
Sâu trưởng thành có thể dài tới 50 mm, với đầu màu nâu đỏ và cơ thể màu trắng Khi tiến gần đến giai đoạn hóa nhộng, cơ thể chuyển sang màu vàng và có 13 đốt Miệng của sâu rất cứng và phát triển, trong khi cơ thể mập mạp, không có chân, và phần đuôi dẹp có lông trắng.
Kén dài 50 - 95 mm và rộng 25 - 40mm Đầu tiên nhộng có màu trắng sữa sau biến thành nâu, có chiều dài trung bình 35mm và chiều ngang trung bình 15 mm
Hình ảnh một số loài trong họ vòi voi trong khu vực nghiên cứu
Hình 4.8: Scyphophorus sp Hình 4.9: Mesalcidodes sp
Hình 4.10: Tetratopos sp Hình 4.11: Alcides porosus Faust, 1894
4.3.4 Các loài trong họ Bọ rùa Coccinellidae Đặc điểm: thân dài từ 0,8 đến 10 mm, có hình bán cầu hoặc hình trái xoan Mặt lưng cong lên, mặt bụng phẳng hình dạng giống rùa nên được gọi là bọ rùa Màu sắc cơ thể rất đa dạng, thường có màu vàng, màu da cam hoặc hơi đỏ có nhiều chấm đen hoặc vàng đến đỏ Râu đầu hình chùy hay hình dùi đục, ngắn có từ 7-11 đốt Mảnh lưng ngực trước phủ hết đầu hoặc gần hết đầu Bàn chân có 4 đốt, đốt thứ 3 nhỏ Hỉnh ảnh một số loài trong khu vực nghiên cứu
4.3.5 Các loài trong họ Bọ cánh cứng ăn lá Chrysomelidae
Râu của sâu đầu ngắn hơn chiều dài thân, với chiều dài thân ớt khi vượt quá 12mm và có hình ô van Mép thân khép tròn hoặc hình bầu dục, trong khi bàn chân có 4 đốt rõ ràng, nhưng thực tế có 5 đốt do đốt thứ 4 rất nhỏ Sâu trưởng thành thường xuất hiện trên các tán lá và hoa, trong khi sâu non ăn lá và rễ cây Hình dạng chung của sâu non bao gồm đầu phát triển và 3 đôi chân ngực phát triển, với mặt bụng phẳng và mặt lưng cong lên hoặc có nhiều gai và u nhỏ Nhộng thường nằm trong tầng đất xốp và là nhộng trần.
Kích thước cơ thể của ban miêu có thể từ nhỏ đến lớn, với thân và cánh tương đối mềm Màu sắc chủ yếu là tối xám, nhưng cũng có một số loài có màu sáng tươi óng ánh kim loại Một số loài có cánh ngắn và đầu thường cúi xuống, lộ rõ cổ Bề ngang của manh lưng ngực trước hẹp hơn bề ngang giữa hai vai cánh Nhóm này còn được gọi là bọ Thầy tu, do hình dáng dài, cánh màu đen và đầu màu đỏ giống như ông thầy tu mặc áo choàng Sâu trưởng thành của nhóm này có khả năng gây hại cho cây trồng, đặc biệt là các loài cây họ đậu và họ bầu bí.
Hình 4.15: Ban miêu khoang vàng nhỏ Mylabris cichorii Linnaeus, 1785 Ảnh: Phùng Mỹ Trung
Ban Miêu khang vàng nhỏ Mylabris cichorii Linnaeus, 1785
Hình thái của loài này có chiều dài khoảng 10-15 mm, với thân hơi khum màu đen và có các điểm hoặc dải ngang màu vàng hoặc đỏ nhạt Đôi khi, thân có thể có màu vàng với các điểm hoặc dải ngang màu đen Đầu của chúng có hình dạng tròn tam giác, và râu đen hình sợi.
11 đốt, đót cuối phình lớn lên, có đốt nền và đốt trước giống nhau
Sinh học: là loài côn trùng thường gây hại trên lúa, khoai, sắn, đậu, lạc, mía, cam, và các loại cây rừng từ khoảng tháng 5 đến tháng 11
Các mối đe dọa đến tài nguyên côn trùng Cánh cứng trong khu vực nghiên cứu
4.4.1 Đốt rừng làm nương rẫy
Khu vực KBTTN Pù Luông và xung quanh có sự hiện diện đông đảo của các dân tộc thiểu số với nhiều phương thức canh tác đa dạng, dẫn đến những thay đổi lớn về tài nguyên rừng và đặc biệt là tài nguyên côn trùng Cánh cứng.
Phương thức canh tác du canh, du cư ngày càng hiếm gặp, nhưng đốt rừng để làm nương rẫy lại gia tăng trong những năm gần đây Hành động này là nguyên nhân chính dẫn đến suy giảm đa dạng sinh học của côn trùng Các loài côn trùng đất như bọ hung, hổ trùng, hành trùng và những loài di chuyển chậm như bọ rùa, bọ xít đều giảm số lượng đáng kể ở những khu vực bị đốt thực bì.
Hình 4.16: Đốt nương tại bản
Hình 4.17: Đốt nương tại bản Nghèo xã Hồi xuân
4.4.2 Sử dụng phân bón, thuốc trừ sâu
Phân bón và thuốc trừ sâu là yếu tố quan trọng trong canh tác hiện đại, ảnh hưởng đến sự phong phú của quần thể động vật đất Chất lượng và số lượng phân bón có thể tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến sự đa dạng của động vật đất trung bình Những thay đổi trong cấu trúc quần xã sẽ ảnh hưởng đến chức năng của hệ sinh thái Việc sử dụng phân bón tại các xã vùng đệm xung quanh Khu bảo tồn, đặc biệt là ở các xã có diện tích đất nông nghiệp lớn như Hồi Xuân, Phú Nghiêm, Phú Lệ huyện Quan Hóa, và Thành Sơn, Lũng Cao, cần được quản lý cẩn thận để bảo vệ sự đa dạng sinh học.
Cổ Lũng huyện Bá Thước đã có những tác động sâu sắc đến hệ côn trùng, đặc biệt là sự thay đổi trong thành phần loài Tại khu vực sử dụng phân bón vô cơ như đạm, lân, kali, số lượng côn trùng rất thấp, đặc biệt là các loài bọ cánh cứng dưới đất như hổ trùng, hành trùng và bọ hung Ngược lại, ở những nơi sử dụng phân xanh, phân chuồng và rác thải làm phân bón, số lượng loài cánh cứng, đặc biệt là bọ hung, tăng lên đáng kể với các loài như Maladera orientalis Most, Maladera castanea Arrow, Onthophagus funebris Boucomont, Onthophagus magicolis Gebler và Onthophagus rectecornutus.
Lansberge, Onthophagus seniculus Fabricius, Copris iris Sharp
Việc sử dụng hóa chất bảo vệ thực vật (BVTV) trong sản xuất nông lâm nghiệp đã dẫn đến sự tiêu diệt nhiều loài côn trùng có ích, như ký sinh và bắt mồi ăn thịt, cùng với sâu hại Sự lạm dụng thuốc trừ sâu khiến sâu hại dần quen thuộc với hóa chất, gây ra hiện tượng kháng thuốc Khu vực vùng đệm quanh Khu Bảo tồn Thiên nhiên Pù Luông có diện tích rừng trồng lớn, chủ yếu là thông và keo, dẫn đến sự xuất hiện thường xuyên của sâu hại Việc phun thuốc trừ sâu với hàm lượng cao tại các khu vực dịch hại đã làm mất cân bằng sinh thái, biến đổi gen các loài gây hại, và gia tăng khả năng kháng thuốc, khiến các đợt dịch xảy ra thường xuyên hơn, sức phá hoại mạnh hơn và ngày càng khó kiểm soát, trong khi số lượng loài thiên địch ngày càng giảm.
Hình 4.18: thuốc diệt cỏ cháy tại xã
Hình 4.19: thuốc diệt cỏ cháy tại xã Hồi Xuân
4.4.3 Khai Thác gỗ và lâm sản ngoài gỗ
4.4.3.1 Khai thác gỗ trái phép
Trước đây, hoạt động khai thác gỗ diễn ra rộng rãi, gây tác động lớn đến tài nguyên rừng, khi người dân cần gỗ để xây dựng nhà sàn, chế tạo đồ dùng sinh hoạt và kiếm thu nhập Các loài gỗ như Giổi, Thị rừng (gỗ da báo), Nghiến, Trai lý, và Re gừng thường được khai thác để đáp ứng nhu cầu thị trường Đặc biệt, Nghiến, Trai lý và Chò chỉ là những loài chủ yếu được sử dụng để xây dựng nhà và làm đồ nội thất Dù mục đích khai thác là thương mại hay cá nhân, phương thức chính vẫn là khai thác chọn lọc, do trong rừng vẫn còn nhiều cây gỗ lớn.
Khu bảo tồn KBTTN Pù Luông đã tăng cường kiểm tra và kiểm soát hoạt động khai thác gỗ, nhưng tình trạng này vẫn diễn ra và ảnh hưởng đến tài nguyên rừng Mặc dù khai thác gỗ thương mại đã giảm, nhu cầu khai thác gỗ cho mục đích sử dụng tại chỗ vẫn tồn tại, đặc biệt do tập quán xây dựng nhà sàn của cộng đồng người Thái và người Mường, dẫn đến việc cần gỗ để sửa chữa hoặc thay thế các bộ phận bị hư hỏng.
Hình 4.20: Khai thác gỗ ở núi Khầm khìa, xã Lũng Cao
Hình 4.21: Sử dụng cưa xăng khai thác gỗ ở bản Tân Sơn, xã Thanh Xuân
Hình 4.22: Khai thác gỗ ở núi Chầu Ngậu, xã Hồi Xuân
Hoạt động khai thác gỗ diễn ra suốt cả năm, nhưng chủ yếu tập trung vào mùa khô và do nam giới thực hiện Việc khai thác và vận chuyển gỗ được thuận lợi nhờ vào hệ thống giao thông phát triển, bao gồm các tuyến đường như 15C, 15A, và tuyến đường từ trung tâm xã Lũng Cao đi Son, Bá, Mười, cũng như tuyến đường mới đang được xây dựng từ xã Lũng Cao đến thôn Kịt.
Việc chặt hạ cây gỗ lớn không chỉ làm đổ theo nhiều cây nhỏ khác, mà còn gây ra tiếng ồn lớn từ việc sử dụng cưa xăng để dựng lán trại Bên cạnh đó, khai thác gỗ còn đi kèm với các hoạt động bẫy bắt động vật để làm thực phẩm.
4.4.3.2 Khai thác lâm sản ngoài gỗ quá mức
Người dân địa phương chủ yếu khai thác lâm sản ngoài gỗ để bán, bao gồm các sản phẩm như măng, đót, mật ong, song mây, phong lan, lá dong và một số cây thuốc Một phần nhỏ được sử dụng cho nhu cầu sinh hoạt như củi và rau ăn Tuy nhiên, lợi nhuận từ việc bán lâm sản này rất thấp do phải thông qua tư thương và bị ép giá Việc gây trồng và phát triển lâm sản ngoài gỗ chưa được chú trọng, cùng với kỹ thuật thu hái không hợp lý, dẫn đến tình trạng khai thác cạn kiệt mà không để lại nguồn tài nguyên tái tạo.
Hình 4.23 Rau quả thu hái từ KBT được bày bán tại chợ phố Dòn
Hình 4.24: Mật ong rừng, hạt Sẻn gai (Mắc khén) được bày bán tại chợ phố Dòn
Người dân mong muốn được khai thác hợp lý nguồn tài nguyên rừng để phục vụ nhu cầu sinh hoạt và thương mại, đồng thời khu bảo tồn cần triển khai chương trình tuyên truyền nhằm nâng cao ý thức cộng đồng trong việc thu hái các sản phẩm rừng.
Hoạt động khai thác lâm sản ngoài gỗ chủ yếu do phụ nữ và trẻ em thực hiện quanh năm để đáp ứng nhu cầu sinh hoạt Trong mùa vụ nông nhàn, nam giới thường tham gia vào việc khai thác lâm sản ngoài gỗ để bán.
4.4.4 Xây dựng cơ sở hạ tầng và định cư
Tuyến đường tỉnh lộ 15C cắt ngang thung lũng trung tâm KBTTN Pù Luông đã gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính đa dạng sinh học của khu bảo tồn Việc mở đường đã tạo điều kiện cho người dân dễ dàng tiếp cận, dẫn đến tác động tiêu cực đến tài nguyên rừng và gia tăng tình trạng vận chuyển lâm sản trái phép, gây khó khăn cho công tác bảo vệ rừng Hơn nữa, công trình thuỷ điện Hồi Xuân đang xây dựng cũng đã và sẽ tiếp tục gây ra nhiều tác động tiêu cực đến đa dạng sinh học trong khu vực.
Hình 4.25: Đường 15C (khu vực xã
Phú Lệ) nhìn từ trên cao
Hình 4.26: Cảnh quan công trường thi công nhà máy thuỷ điện Hồi Xuân
Hai vùng lõi của khu bảo tồn được ngăn cách bởi một vùng đệm lớn, khiến ban quản lý khu bảo tồn chỉ là một trong nhiều cơ quan nhà nước có trách nhiệm quản lý khu vực này Hệ thống quản lý phức tạp và mâu thuẫn trong ưu tiên giữa ban quản lý khu bảo tồn và các cơ quan phát triển nông thôn đã tạo ra nguy cơ xung đột quản lý thực tế.
Hiện tại, có 10 bản làng sinh sống trong vùng lõi của Khu Bảo tồn Thiên nhiên Pù Luông, bao gồm Kịt, Thành Công, Pốn, Cao Hoong, Son, Mười, Bá, Khuyn, Ấm, và Hiêu Cuộc sống của người dân nơi đây vẫn còn nghèo nàn và phụ thuộc nhiều vào việc khai thác tài nguyên rừng Mặc dù diện tích nương rẫy đã được quản lý, người dân vẫn tiếp tục phát đốt rừng để lấy đất sản xuất, không mở rộng ra các vùng rừng khác.
Giải pháp quản lý côn trùng bọ Cánh cứng tại Khu bảo tồn thiên nhiên Pù Luông tỉnh Thanh Hóa
4.5.1.1 Giải pháp về phát triển KT-XH, nâng cao đời sống người dân
Sự suy giảm diện tích rừng do phát triển nông nghiệp và dịch vụ, cùng với việc khai thác quá mức lâm sản, đã ảnh hưởng tiêu cực đến tài nguyên đa dạng sinh học (ĐDSH) côn trùng trong khu vực Nguyên nhân chính của tình trạng này là đói nghèo, gia tăng dân số và nhận thức yếu kém của cộng đồng về ĐDSH Để bảo tồn ĐDSH nói chung và ĐDSH côn trùng nói riêng, cần triển khai các giải pháp phát triển kinh tế - xã hội nhằm nâng cao đời sống và hiểu biết cho người dân trong vùng đệm khu bảo tồn thiên nhiên (KBTTN).
Theo khảo sát, nhiều hộ dân trong Khu Bảo tồn và vùng đệm có thu nhập thấp, với tỷ lệ hộ đói nghèo vẫn cao Để giảm áp lực lên rừng, cần thực hiện ngay các giải pháp nâng cao đời sống cộng đồng.
Cần khẩn trương thực hiện quy hoạch sử dụng đất tại các xã vùng đệm quanh khu bảo tồn thiên nhiên (KBTTN) và sớm hoàn tất việc giao đất, giao rừng cho người dân Điều này sẽ giúp họ yên tâm đầu tư công sức vào việc phát triển kinh tế gia đình.
Các thôn, bản xung quanh Khu Bảo tồn thường xa đường giao thông, trình độ thấp, đi lại khó khăn và thiếu thông tin Sau khi giao đất, chính quyền không hướng dẫn cách đầu tư và sử dụng đất, chỉ quy định cách thức sử dụng, dẫn đến việc kiểm soát sử dụng đất mà không quan tâm đến phương thức truyền thống của người dân Người dân địa phương ưa chuộng các loại cây có chu kỳ quay vòng vốn ngắn, trong khi chính quyền khuyến khích trồng cây cải thiện độ màu của đất và tăng độ che phủ rừng, khiến họ không chăm sóc các diện tích rừng trồng do thời gian quay vòng quá lâu Việc bỏ mặc đất lâm nghiệp sau khi giao đang trở nên phổ biến, và nhiều người dân coi giao đất không có quy hoạch là cách hợp pháp hóa di canh hay phá rừng Sự không thống nhất giữa chính quyền và người sử dụng đất dẫn đến tình trạng đất để không hoặc sử dụng cho các mục đích khác, với chỉ 20 - 30% diện tích đất đã giao được phát triển theo kế hoạch sử dụng đất của Chính phủ.
Để phát triển bền vững vùng đệm sau khi giao đất, giao rừng, cần phổ biến kiến thức khoa học kỹ thuật trong sản xuất nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đất Việc xây dựng các mô hình kinh tế là thiết yếu, kết hợp với các chương trình quốc gia để phát triển kinh tế nông thôn Cộng đồng dân cư cần được tạo điều kiện để đáp ứng nhu cầu về lương thực, thực phẩm, chất đốt, đồng cỏ, và thu nhập Tiếp tục thực hiện các chương trình nghiên cứu và khuyến nông lâm, phát triển các dự án nhỏ và xin tài trợ cho các dự án mới sẽ đảm bảo an toàn lương thực, ổn định việc làm và nâng cao nhận thức của người dân Đề xuất cụ thể hóa chính sách để xây dựng cơ cấu sản xuất hợp lý, bao gồm cơ cấu nông nghiệp, lâm nghiệp, tín dụng ưu đãi và nâng cao dân trí tại vùng đệm.
Tạo cơ hội cho cộng đồng tham gia bảo tồn tài nguyên thiên nhiên là rất quan trọng Cần lồng ghép các vấn đề bảo tồn vào các dự án phát triển kinh tế - xã hội Xây dựng mô hình trồng rừng, phát triển rừng và phục hồi hệ sinh thái sẽ giúp nâng cao ý thức bảo vệ môi trường Việc thu hút cộng đồng vào bảo tồn đa dạng sinh học thông qua quản lý tham gia, hợp đồng trồng và chăm sóc rừng, cũng như khoán bảo vệ rừng dài hạn, sẽ mang lại hiệu quả bền vững cho công tác bảo tồn.
Phát triển cây trồng có năng suất cao và giá trị thương phẩm tốt, phù hợp với nhu cầu thị trường và thời gian thu hoạch ngắn, là một yếu tố quan trọng trong nông nghiệp Các loại cây này cần được trồng trên đất của vùng và phù hợp với phong tục tập quán của các cộng đồng dân tộc địa phương Đồng thời, việc phát triển canh tác nông lâm kết hợp bền vững và khoanh nuôi tái sinh cũng đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ môi trường và nâng cao hiệu quả sản xuất Ngoài ra, phát triển chăn nuôi cũng cần được chú trọng để đảm bảo nguồn thực phẩm phong phú và an toàn.
Phát triển dịch vụ tín dụng là yếu tố quan trọng để cung cấp vốn cho các hộ gia đình chưa có hoặc chưa đủ vốn đầu tư vào các mô hình kinh doanh Điều này không chỉ giúp nâng cao khả năng sản xuất mà còn thúc đẩy sự phát triển kinh tế địa phương.
4.5.1.2 Nâng cao nhận thức cho cộng đồng và các hình thức hỗ trợ khác
Kết quả điều tra cho thấy nhận thức chưa đầy đủ là nguyên nhân chính khiến người dân không tích cực tham gia bảo vệ và phát triển rừng, từ đó làm giảm hiệu quả quản lý tài nguyên rừng Do đó, tuyên truyền giáo dục nhằm nâng cao nhận thức và kiến thức về giá trị to lớn của rừng và giải pháp khai thác bền vững là rất quan trọng Hơn nữa, việc này cũng giúp bù đắp những thiếu hụt về kiến thức liên quan đến quản lý rừng Để thực hiện hiệu quả công tác tuyên truyền, cần chú ý đến một số điểm quan trọng.
Xây dựng đội ngũ cán bộ truyền thông có năng lực trong công tác tuyên truyền và giáo dục bảo tồn tài nguyên thiên nhiên cho cộng đồng là rất quan trọng Cần nâng cao nhận thức và tăng cường giáo dục về đa dạng sinh học (ĐDSH) và khai thác bền vững tài nguyên thiên nhiên (KBTTN) trong chương trình giáo dục môi trường tại các trường phổ thông Đồng thời, cần soạn thảo và ban hành tài liệu giáo dục bảo tồn, triển khai thí điểm chương trình giáo dục bảo tồn tại các trường phổ thông để nâng cao hiệu quả công tác này.
Để xây dựng các quy ước bảo vệ rừng hiệu quả, cần nghiên cứu sâu về phong tục tập quán của các cộng đồng và dân tộc, đồng thời đảm bảo các quy ước này phù hợp với chính sách và quy định pháp luật Điều này giúp người dân nhận thức rõ quyền lợi và trách nhiệm của họ, từ đó tự nguyện tham gia, ký kết và tôn trọng lợi ích chung của khu bảo tồn thiên nhiên.
Hình thành mạng lưới cộng đồng trong bảo tồn tài nguyên thiên nhiên cần sự tham gia tích cực của cộng đồng, thiết lập mối quan hệ chặt chẽ giữa các tổ chức truyền thông Cần xây dựng quy chế, điều lệ và mô hình hoạt động rõ ràng, đồng thời vận động sự tham gia của xã hội vào công tác bảo tồn Việc giám sát và đánh giá các hoạt động của mạng lưới truyền thông cũng rất quan trọng để đảm bảo hiệu quả.
- Trang bị kiến thức và huấn luyện kỹ năng cần thiết, phát huy kiến thức bản địa phục vụ công tác bảo tồn tài nguyên thiên nhiên
- Lập kế hoạch hỗ trợ trang thiết bị: xây dựng bản tin, tuyên truyền, hệ thống truyền thanh cho các cộng đồng dân cư
- Xây dựng cơ sở hạ tầng và thay đổi tập quán của người dân: hỗ trợ địa phương tu bổ, xây dựng, phát triển cơ sở hạ tầng
4.5.2 Các giải pháp cụ thể
Trong quá trình điều tra, đã ghi nhận được 63 loài côn trùng Cánh cứng tại khu vực nghiên cứu Mặc dù các loài côn trùng gây hại chiếm tỷ lệ lớn, chúng không phổ biến và số lượng chưa đủ để gây ra dịch hại Tuy nhiên, việc áp dụng các biện pháp quản lý côn trùng gây hại và bảo vệ các loài thiên địch là rất cần thiết.
Để nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp, cần áp dụng các biện pháp kỹ thuật lâm sinh như chọn giống cây trồng có khả năng chống chịu sâu bệnh, đặc biệt là các loài như Xén tóc, Vòi voi, Bọ hung Đồng thời, giống cây trồng cũng phải phù hợp với điều kiện đất đai, khí hậu, nhiệt độ và lượng mưa để đảm bảo sự sinh trưởng và phát triển tốt nhất.
4.5.2.1 Quản lý các loài sâu hại
Thường xuyên tiến hành điều tra để thu thập thông tin về côn trùng gây hại và thiên địch của chúng là cần thiết để hỗ trợ dự báo dịch hại Việc thống kê dữ liệu qua nhiều năm giúp phát hiện quy luật phát dịch và thiên địch, từ đó xây dựng kế hoạch phòng trừ côn trùng gây hại một cách chính xác và hiệu quả.
Với các loài trong họ Bọ hung và họ Cánh cứng ăn lá:
- Cần sử dụng chất dẫn dụ sinh học để bắt sâu trưởng thành
- Chặt toàn bộ cây bị bệnh, ngâm nước, đốt hoặc phun thuốc sinh học để tiêu diệt toàn bộ sâu non, sâu trưởng thành
- Thu thập, bắt tiêu hủy
- Tỉa thưa cây trồng, thường xuyên dọn vệ sinh và đốt để tiêu diệt mầm bệnh
Với các loài họ Vòi voi
- Kết hợp việc chăm sóc rừng trồng kết hợp với việc tiêu diệt nhộng bằng cách cuốc đất quanh gốc bán kính 1m
- Lấp kín vị trí đẻ trứng của chúng và tiêu diệt sâu trưởng thành, bọc măng bằng túi ni lông khi chúng mới nhú lên mặt đất
- Tập chung bắt ở pha sâu non và sâu trưởng thành
- Sử dụng kết hợp các loài thiên địch như bọ xít, bọ ngựa
4.5.2 2.Quản lý bảo tồn các loài thiên địch