CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN
CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1.1 Cơ sở lý luận doanh nghiệp nhỏ và vừa
Khái niệm doanh nghiệp nhỏ và vừa
Khái niệm doanh nghiệp nhỏ và vừa trên thế giới:
Hiện nay, các quốc gia trên thế giới có quan niệm đa dạng về doanh nghiệp vừa và nhỏ, điều này chủ yếu do tiêu chí phân loại quy mô doanh nghiệp khác nhau Ngoài ra, việc lượng hóa các tiêu chí này còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau.
Trình độ phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia ảnh hưởng đến các quy định cụ thể được áp dụng, phù hợp với từng giai đoạn phát triển Những quy định này cần được điều chỉnh linh hoạt để phản ánh thực tế phát triển của xã hội và kinh tế trong từng thời kỳ.
- Trong ngành nghề khác nhau thì chỉ tiêu độ lớn của các tiêu thức cũng khác nhau
Nhìn chung, các tiêu chí để phân loại doanh nghiệp có hai nhóm: tiêu chí định tính và tiêu chí định lƣợng
Nhóm tiêu chí định tính dựa trên các đặc trƣng cơ bản của doanh nghiệp như chuyên môn hóa thấp, số đầu mối quản lý ít và mức độ phức tạp của quản lý thấp Mặc dù các tiêu chí này phản ánh đúng bản chất của vấn đề, nhưng việc xác định chúng trên thực tế thường gặp khó khăn Vì vậy, chúng thường chỉ được sử dụng như cơ sở tham khảo và kiểm chứng, chứ không phải để phân loại doanh nghiệp trong thực tế Do đó, nhóm tiêu chí này chủ yếu được dùng để tham khảo và kiểm chứng, mà ít được áp dụng để xác định quy mô doanh nghiệp.
Tiêu chí định lượng để xác định doanh nghiệp nhà nước (DNNN) thường bao gồm các chỉ tiêu như số lao động, tổng giá trị tài sản, doanh thu và lợi nhuận, trong đó vốn và số lao động là hai tiêu chí phổ biến nhất.
Số lao động có thể lao động trung bình trong danh sách, lao động thường xuyên, l lao động thực tế;
Tài sản hay vốn: có thể là tổng giá trị tài sản(hay vốn), tài sản(vốn) cố đinh, giá trị tài sản còn lại;
Doanh thu: có thể là tổng doanh thu/năm, tổng giá trị gia tăng/năm
Tuy nhiên sự phân loại doanh nghiệp theo quy mô lại thường chỉ mang tính tương đối và phụ thuộc vào nhiều yếu tố như:
Trình độ phát triển kinh tế của một quốc gia ảnh hưởng trực tiếp đến các chỉ số phân loại doanh nghiệp Cụ thể, doanh nghiệp có 400 lao động tại Việt Nam không được coi là doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNN&V), trong khi ở CHLB Đức, doanh nghiệp này lại được phân loại là SME Ở các quốc gia có nền kinh tế kém phát triển, các tiêu chí về lao động và vốn để phân loại DNN&V thường thấp hơn so với các nước phát triển.
Tính chất ngành nghề rất đa dạng, với một số ngành như dệt và may sử dụng nhiều lao động, trong khi các ngành khác như hóa chất và điện lại yêu cầu vốn đầu tư lớn nhưng ít lao động Việc hiểu rõ đặc điểm này giúp so sánh và đối chiếu các SME giữa các ngành khác nhau Thực tế, nhiều quốc gia thường phân loại ngành nghề thành hai hoặc ba nhóm dựa trên các tiêu chí khác nhau Hệ số ngành (Ia) cũng có thể được áp dụng để thực hiện những so sánh này giữa các ngành.
Do sự khác biệt trong trình độ phát triển, số lượng và quy mô doanh nghiệp ở các vùng lãnh thổ cũng khác nhau Vì vậy, cần xem xét hệ số vùng (Ib) để đảm bảo tính tương thích khi so sánh quy mô doanh nghiệp giữa các khu vực khác nhau.
Bảng 1.1: Tham khảo tiêu chí phân loại doanh nghiệp nhỏ và vừa của một số quốc gia và khu vực Quốc gia/
Phân loại DN vừa và nhỏ
Số lao động bình quân Vốn đầu tƣ Doanh thu
A NHÓM CÁC NƯỚC PHÁT TRIỂN
1 Hoa kỳ Nhỏ và vừa 0-500 Không quy định
- Đối với ngành sản xuất
- Đối với ngành thương mại
- Đối với ngành dịch vụ
4 Australia Nhỏ và vừa < 200 Không quy định
< CDN$ 5 triệu CDN$ 5 -20 triệu 6.New
Nhỏ và vừa < 50 Không quy định
7 Korea Nhỏ và vừa < 300 Không quy định
8 Taiwan Nhỏ và vừa < 200 < NT$ 80 triệu
B NHÓM CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN
1 Thailand Nhỏ và vừa Không quy định
2 Malaysia - Đối với ngành sản xuất
3 Philippine Nhỏ và vừa < 200 Peso 1,5-60 triệu
4 Indonesia Nhỏ và vừa Không quy định
5 Brunei Nhỏ và vừa 1-100 Không quy định
C NHÓM CÁC NƯỚC KINH TẾ ĐANG CHUYỂN ĐỔI
Nguồn: Tổng hợp dữ liệu từ các trang Web
Doanh nghiệp được phân loại thành ba quy mô: lớn, vừa và nhỏ, với tiêu chí đánh giá khác nhau giữa các quốc gia và có thể thay đổi theo thời gian Các tiêu chí phổ biến để xác định quy mô doanh nghiệp bao gồm số lượng lao động bình quân hàng năm, tổng mức vốn đầu tư và tổng doanh thu hàng năm.
Hầu hết các quốc gia sử dụng tiêu chí số lao động bình quân để phân loại doanh nghiệp theo quy mô, vì đây là một tiêu chí ổn định hơn so với doanh thu hay vốn, những yếu tố thường bị ảnh hưởng bởi biến động thị trường và tình hình kinh tế Tiêu chí số lao động bình quân không chỉ bền vững theo thời gian mà còn phản ánh đặc thù của ngành nghề mà doanh nghiệp hoạt động.
Theo số liệu từ bảng, hầu hết các quốc gia chỉ áp dụng một trong ba tiêu thức đánh giá, đặc biệt là các nước có nền kinh tế đang chuyển đổi Một số quốc gia khác kết hợp hai trong ba tiêu thức này, trong khi chỉ có một số ít quốc gia sử dụng đồng thời cả ba tiêu thức liên quan đến lao động, vốn và doanh thu.
Ngân hàng Thế giới và nhiều tổ chức quốc tế khác sử dụng tiêu chí số lao động để đánh giá doanh nghiệp Theo tiêu chí của Ngân hàng Thế giới, doanh nghiệp được phân loại thành bốn loại dựa trên số lượng lao động: doanh nghiệp siêu nhỏ (dưới 10 lao động), doanh nghiệp nhỏ (từ 10 đến 49 lao động), doanh nghiệp vừa (từ 50 đến 249 lao động) và doanh nghiệp lớn (từ 250 lao động trở lên).
10 người đến dưới 50 người), doanh nghiệp vừa (số lao động từ 50 người đến
300 người), doanh nghiệp lớn (số lao động > 300 người)
Khái niệm doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam
Trước năm 1998, Việt Nam chưa có quy định phân loại doanh nghiệp theo quy mô, chỉ phân chia thành doanh nghiệp quốc doanh và ngoài quốc doanh Công văn số 681/1998/CP-KTN ngày 20/06/1998 đánh dấu bước khởi đầu trong việc hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNN&V), xác định DNN&V là doanh nghiệp có vốn dưới 5 tỷ đồng và lao động dưới 200 người, mặc dù các tiêu chí này chủ yếu mang tính chất quy ước hành chính Năm 1999, Luật Doanh nghiệp ra đời cải thiện môi trường kinh doanh với nhiều chính sách ưu đãi, dẫn đến sự chuyển biến mạnh mẽ của DNN&V Ngày 23/11/2001, Chính phủ ban hành nghị định số 90/2001/NĐ-CP, đưa ra tiêu chuẩn chính thức phân loại DNNVV, xác định doanh nghiệp nhỏ và vừa có vốn không quá 10 tỷ đồng hoặc lao động không quá 300 người, đồng thời cho phép linh hoạt áp dụng các tiêu chí này dựa trên tình hình kinh tế - xã hội cụ thể.
DNNVV được xác định dựa trên các tiêu chí về quy mô mà không phân biệt hình thức sở hữu hay lĩnh vực sản xuất Sự thay đổi này đã làm thay đổi tư duy quản lý và nhận thức xã hội, bởi trước đây, DNNVV thường bị nhầm lẫn với doanh nghiệp ngoài quốc doanh, dẫn đến sự phân biệt đối xử với loại hình doanh nghiệp này.
Sau 7 năm thực hiện, khái niệm doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNN&V) theo Nghị định 90 đã bộc lộ nhiều điểm chưa hợp lý Có doanh nghiệp sở hữu số lao động vượt xa 300 (thậm chí 500-600 lao động), nhưng do vốn đăng ký dưới 10 tỷ đồng vẫn được coi là DNN&V Ngược lại, những doanh nghiệp có vốn đăng ký hàng trăm tỷ đồng nhưng số lao động thường xuyên dưới 300 lại bị xếp vào nhóm DNN&V Hơn nữa, việc không phân loại DNN&V theo lĩnh vực sản xuất dẫn đến sự không công bằng, vì 10 tỷ đồng vốn trong lĩnh vực sản xuất là ít, nhưng lại nhiều trong lĩnh vực dịch vụ Tiêu chí phân loại dựa trên vốn đăng ký tự khai của doanh nghiệp thường mang tính chủ quan, không chính xác và khó kiểm soát, gây khó khăn cho việc áp dụng chính sách hỗ trợ cho DNN&V.
Chính phủ đã ban hành định nghĩa mới về doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNN&V) trong nghị định số 56/2009/NĐ-CP ngày 30/6/2009, nhằm hỗ trợ phát triển DNN&V Nghị định này phân loại DNN&V theo khu vực kinh doanh và đưa ra tiêu chí cụ thể cho doanh nghiệp siêu nhỏ và doanh nghiệp vừa.
CƠ SỞ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ PHÁT TRIỂN
1.2.1 Khái niệm về phát triển Đã có rất nhiều khái niệm của lý thuyết kinh tế học phát triển mà cơ sở xuất phát của nó là từ các khái niệm rất cơ bản của lý thuyết kinh tế học hiện đại đã có trên thế giới từ hơn nửa thế kỷ qua (chủ yếu là từ các nước phương Tây đã có nền công nghiệp TBCN phát triển) đƣợc du nhập và vận dụng vào công cuộc đổi mới, phát triển kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở nước ta hơn 20 năm vừa qua
Theo lý thuyết tăng trưởng kinh tế, tăng trưởng kinh tế là sự biến đổi về lượng của nền kinh tế quốc gia Để đo lường sản xuất xã hội hàng năm và so sánh quốc tế, các quốc gia thường sử dụng hai chỉ tiêu: Tổng sản phẩm quốc dân (GNP) và Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) GNP phản ánh giá trị hàng hóa và dịch vụ của quốc gia trong nền kinh tế mở, trong khi GDP thể hiện giá trị trong nền kinh tế khép kín hoặc đang phát triển chậm Cả hai chỉ tiêu này đều cho thấy mức tăng trưởng sản xuất hàng hóa và dịch vụ qua các giai đoạn, thường được biểu thị bằng tỷ lệ phần trăm hàng năm Tại Việt Nam, trong hơn 20 năm đổi mới, việc sử dụng chỉ số GDP và GDP/người là phù hợp với trình độ phát triển kinh tế hiện tại và thông lệ quốc tế.
Phát triển kinh tế là khái niệm rộng hơn so với tăng trưởng kinh tế, không chỉ tập trung vào sự gia tăng các chỉ tiêu kinh tế như GNP hay GDP, mà còn bao hàm những biến đổi về mặt chất trong nền kinh tế – xã hội Điều này bao gồm sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH-HĐH) và nâng cao mức sống của người dân thông qua các tiêu chí như thu nhập thực tế, tuổi thọ trung bình, và bảo vệ môi trường Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập mạnh mẽ, nhiều vấn đề phức tạp như môi trường sống, thiên tai, và dịch bệnh đã xuất hiện, ảnh hưởng đến sự phát triển của từng quốc gia và toàn cầu Do đó, cần nâng cao sự hợp tác và phát triển để đáp ứng những thách thức này.
1.2.2 Nội dung phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa
1.2.2.1 Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa về số lượng
Khu vực doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNN&V) đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra việc làm, thúc đẩy cạnh tranh và phát triển kinh tế ở nhiều quốc gia Với sự hiện diện rộng rãi hơn so với các doanh nghiệp lớn, DNN&V góp phần vào việc phân bổ thu nhập một cách công bằng Đặc biệt, đối với các nền kinh tế đang phát triển, DNN&V không chỉ là yếu tố then chốt trong việc xóa đói giảm nghèo mà còn là nguồn lực bền vững tạo ra việc làm và thu nhập cho lao động ngoài khu vực nhà nước.
Doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNN&V) tại Việt Nam đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế của đất nước, với việc tạo ra hơn nửa triệu việc làm mới mỗi năm DNN&V sử dụng hơn 60% lực lượng lao động và đóng góp khoảng 50% GDP cùng 33% thu ngân sách nhà nước Việc phát triển số lượng DNN&V không chỉ cần thiết mà còn quan trọng để tạo thêm việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, và huy động nguồn lực xã hội cho đầu tư phát triển, góp phần xóa đói giảm nghèo.
1.2.2.2 Phát triển các nguồn lực trong doanh nghiệp nhỏ và vừa
Vốn đóng vai trò quyết định trong sự phát triển của các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNN&V) tại Việt Nam, đặc biệt khi nguồn vốn chủ sở hữu của họ còn thấp Tình trạng thiếu vốn ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng sản xuất, khiến DNN&V gặp khó khăn trong việc đầu tư vào công nghệ hiện đại để tạo ra sản phẩm chất lượng và cạnh tranh với hàng hóa quốc tế Công nghệ lạc hậu dẫn đến chi phí tiêu hao cao, năng suất lao động thấp và giá thành sản phẩm không cạnh tranh Do đó, để nâng cao năng lực cạnh tranh, các DNN&V cần tăng cường tiềm lực tài chính và đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin, trong sản xuất kinh doanh.
Ngày nay, sự phát triển kinh tế ngày càng phụ thuộc vào tri thức và khả năng sáng tạo của con người, khiến việc thu hút và nâng cao chất lượng nhân lực trở thành vấn đề cấp thiết, đặc biệt đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNN&V) đang phải đối mặt với cạnh tranh lớn từ các doanh nghiệp lớn Để phát triển bền vững, các DNN&V cần có cái nhìn toàn diện và lâu dài về việc sử dụng và nuôi dưỡng đội ngũ lao động, từ công tác tuyển dụng đến phân công công việc gắn với quyền hạn và trách nhiệm Họ cũng cần thường xuyên chú trọng đến đào tạo và đào tạo lại để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong doanh nghiệp.
1.2.2.3 Liên kết trong sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nhỏ và vừa
Trong bối cảnh hiện nay, đời sống người dân ngày càng được cải thiện, dẫn đến nhu cầu đa dạng về sản phẩm và dịch vụ Đặc biệt, xu hướng sử dụng các sản phẩm trọn gói đang gia tăng Để đáp ứng nhu cầu này và nâng cao tính cạnh tranh, việc liên kết giữa các doanh nghiệp trở nên vô cùng quan trọng.
Trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng gay gắt giữa các doanh nghiệp, việc liên kết giữa các doanh nghiệp trở nên cần thiết để khai thác tối ưu tiềm năng của mỗi bên Liên kết này không chỉ giúp tạo ra sản phẩm chất lượng cao với giá thành thấp, mà còn đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách hàng Quan hệ liên kết giữa các doanh nghiệp được thực hiện trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng và mang lại lợi ích cho cả hai bên, có thể diễn ra giữa các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNN&V) hoặc giữa DNN&V với các doanh nghiệp lớn Đặc biệt, vai trò của các Hiệp hội và ngành nghề trong việc hỗ trợ và thúc đẩy sự liên kết này là vô cùng quan trọng.
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, việc liên kết giữa các doanh nghiệp đóng vai trò quan trọng trong việc tăng cường sức cạnh tranh và chiếm lĩnh thị trường cả trong nước lẫn quốc tế Điều này không chỉ giúp mở rộng thị trường mà còn thúc đẩy doanh thu và sự phát triển bền vững cho các doanh nghiệp.
Liên kết giữa các doanh nghiệp trong chuỗi cung ứng sản phẩm là yếu tố quan trọng để đáp ứng nhu cầu của khách hàng Sự hợp tác này không chỉ giúp phát triển thị trường mà còn tạo ra sức mạnh cạnh tranh trong quá trình xuất khẩu sản phẩm.
1.2.2.4 Thị trường tiêu thụ của các doanh nghiệp nhỏ và vừa
Để phát triển bền vững, DNN&V cần nâng cao uy tín và thương hiệu của mình trên thị trường trong và ngoài nước Việc xây dựng thương hiệu không chỉ là tài sản vô hình mà còn giúp tăng lợi nhuận, duy trì khách hàng truyền thống và thu hút khách hàng mới Điều này cũng giúp giảm chi phí cho hoạt động xúc tiến thương mại và marketing, đồng thời mang lại lợi thế cạnh tranh cho DNNVV.
Nâng cao khả năng nắm bắt thông tin về thị trường
Việc nắm bắt thông tin thị trường là yếu tố quan trọng để quản lý và xây dựng phương án sản xuất kinh doanh hiệu quả trong nền kinh tế hiện nay Nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNN&V) vẫn gặp khó khăn trong việc tiếp cận thông tin và dịch vụ hỗ trợ kinh doanh do chất lượng nguồn nhân lực thấp và hạn chế về chuyên môn, tin học, ngoại ngữ của đội ngũ quản lý Hơn nữa, đầu tư cho hệ thống thông tin còn hạn chế, khiến họ không theo kịp diễn biến thị trường Điều này dẫn đến việc nhiều quyết định kinh doanh chỉ dựa vào kinh nghiệm và cảm tính, tạo ra điểm yếu trong bối cảnh cạnh tranh quốc tế Do đó, để phát triển, DNN&V cần nỗ lực tự cải thiện và đồng thời nhận được sự hỗ trợ thông tin từ các cơ quan quản lý Nhà nước.
1.2.2.5 Hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nhỏ và vừa
Trong bối cảnh hiện nay, hiệu quả kinh doanh là mối quan tâm hàng đầu của các doanh nghiệp và xã hội Để tồn tại và phát triển trên thị trường, các doanh nghiệp cần nỗ lực cải thiện mọi mặt nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh và đạt được hiệu quả sản xuất kinh doanh Đánh giá hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp thường dựa vào chỉ tiêu lợi nhuận cuối kỳ Lợi nhuận không chỉ phản ánh khả năng cạnh tranh mà còn quyết định sự sống còn của doanh nghiệp, được tính bằng chênh lệch giữa doanh thu thuần và tổng chi phí Do đó, để tăng lợi nhuận, doanh nghiệp cần chú trọng vào việc tăng doanh thu và giảm chi phí.
Doanh thu không chỉ phản ánh giá trị hàng hóa bán ra mà còn thể hiện quy mô hoạt động và mức độ phát triển của doanh nghiệp Để tăng doanh thu, doanh nghiệp cần nâng cao chất lượng sản phẩm và mở rộng thị trường Đồng thời, việc phân tích và quản lý hiệu quả các nguồn lực như vốn, lao động và thiết bị là rất quan trọng, giúp giảm giá thành sản phẩm và tăng khả năng cạnh tranh, từ đó nâng cao doanh thu và lợi nhuận.
- Doanh thu thuần bình quân của 01 doanh nghiệp;
- Lợi nhuận sau thuế bình quân của 01 doanh nghiệp;
- Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu bình quân
- Tỷ suất lợi nhuận trên vốn SXKD bình quân.
CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA
Thị trường yếu tố sản xuất và thị trường tiêu thụ sản phẩm đóng vai trò quan trọng trong sự tồn tại của doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNN&V) Để duy trì hoạt động, DNN&V cần có chiến lược thích nghi với sự cạnh tranh Nếu thị trường đầu vào và đầu ra công bằng, DNN&V có thể đầu tư vào công nghệ mới để nâng cao năng lực cạnh tranh Tuy nhiên, trong trường hợp doanh nghiệp lớn chiếm ưu thế, DNN&V cần liên kết với các doanh nghiệp này để tồn tại Biến động giá cả nguyên liệu đầu vào ảnh hưởng lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh, và việc phụ thuộc vào nguyên liệu nhập khẩu khiến DNN&V dễ bị tác động từ thị trường thế giới Các chi phí trung gian như vận chuyển, hải quan, và chi phí điện nước cao cũng làm tăng gánh nặng chi phí đầu vào cho doanh nghiệp.
Giá sản phẩm đầu ra của doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNN&V) chịu ảnh hưởng lớn từ tình trạng thị trường, vì DNN&V không thể kiểm soát giá cả Do đó, khi có sự biến động bất lợi về cung cầu trên thị trường, DNN&V thường dễ bị tổn thương hơn so với các doanh nghiệp lớn.
Sự biến động của thị trường toàn cầu ảnh hưởng lớn đến sự phát triển kinh tế - xã hội trong nước, đặc biệt là đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNN&V) Cuộc khủng hoảng kinh tế bắt đầu từ Mỹ vào năm 2007 đã thu hẹp thị trường xuất khẩu, gia tăng tình trạng bảo hộ và tạo ra rào cản phi thuế quan, khiến hàng hóa Việt Nam khó cạnh tranh trên thị trường quốc tế Hệ quả là hàng trăm nghìn DNN&V ở Việt Nam đã phải giải thể hoặc ngừng hoạt động do thất nghiệp, nợ công và rủi ro tài chính gia tăng Ngược lại, khi kinh tế thế giới phục hồi, DNN&V lại có cơ hội mở rộng thị trường xuất khẩu, thiết lập quan hệ kinh doanh với các doanh nghiệp lớn và tăng doanh thu trong nước.
1.3.2 Chính sách hỗ trợ của Nhà nước và các tổ chức khác
Chính sách hỗ trợ của Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc giúp các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNN&V) vượt qua những điểm yếu tiềm ẩn Khi chính sách được xây dựng đúng đắn, kịp thời và khả thi, cùng với thái độ và nguồn lực phù hợp từ cơ quan thực thi, DNN&V sẽ có điều kiện thuận lợi để phát huy tiềm năng Ngược lại, nếu chính sách thiếu đồng bộ, không khả thi, chậm trễ và công chức thực thi thiếu trách nhiệm, DNN&V sẽ phải đối mặt với nhiều khó khăn và trì trệ trong hoạt động.
Các chính sách đối với khu vực công đầu tư vào kết cấu hạ tầng kinh tế - kỹ thuật
Sự phát triển của hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế kỹ thuật, bao gồm đường giao thông và thông tin liên lạc, đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy giao lưu kinh tế giữa các chủ thể, vùng miền và quốc gia Bên cạnh đó, sự ổn định của hệ thống cung cấp điện và nước là yếu tố then chốt để đảm bảo hoạt động sản xuất kinh doanh diễn ra một cách ổn định, thông suốt và hiệu quả, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Trong những năm qua, hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - kỹ thuật của nước ta đã được phát triển, góp phần tăng cường sức hấp dẫn của môi trường đầu tư Tuy nhiên, sự phát triển này chủ yếu tập trung ở các trung tâm kinh tế lớn và vùng kinh tế trọng điểm, chưa đáp ứng đầy đủ nhu cầu phát triển của các doanh nghiệp nhỏ và vừa, đặc biệt là tại các khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa.
1.3.3 Vốn và khả năng tiếp cận nguồn tín dụng của doanh nghiệp nhỏ và vừa
Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNN&V) thường gặp khó khăn lớn nhất là thiếu vốn Để tồn tại và phát triển, DNN&V cần vốn, nhưng vốn tự có thường rất hạn chế, do đó, vốn vay trở thành mối quan tâm hàng đầu Để tiếp cận nguồn vốn vay chính thống, các DNN&V cần xây dựng phương án kinh doanh khả thi, làm rõ hiệu quả sản xuất kinh doanh, hợp đồng kinh tế, khả năng hoàn vốn, mục đích sử dụng vốn và phương án bảo toàn vốn vay Điều này đòi hỏi doanh nghiệp phải có cán bộ có năng lực quản lý và chuyên môn để lập dự án, kế hoạch sản xuất kinh doanh, kế hoạch đầu tư và kế hoạch vay vốn, từ đó giúp tháo gỡ ách tắc trong việc vay và sử dụng vốn tín dụng.
1.3.4 Trình độ nguồn nhân lực và năng lực của người quản lý doanh nghiệp nhỏ và vừa
Con người đóng vai trò trung tâm trong sự sáng tạo và phát triển của doanh nghiệp Nếu doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNN&V) có đội ngũ lao động với trình độ chuyên môn phù hợp, tương lai của họ sẽ tươi sáng Ngược lại, nếu DNN&V thiếu hụt nhân lực đáp ứng yêu cầu và không thể thu hút, đào tạo đủ số lao động cần thiết, tương lai phát triển của doanh nghiệp sẽ gặp nhiều khó khăn.
Đội ngũ cán bộ quản trị doanh nghiệp đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNN&V) Những cán bộ quản trị có tầm nhìn, tâm huyết và năng lực sẽ xây dựng chiến lược kinh doanh hiệu quả, dẫn dắt doanh nghiệp đến thành công Ngược lại, nếu cán bộ quản trị yếu kém, họ có thể gây ra thất bại cho doanh nghiệp Hơn nữa, việc thiếu đạo đức trong kinh doanh của đội ngũ quản trị sẽ mang lại những rủi ro nghiêm trọng cho doanh nghiệp.
CƠ SỞ THỰC TIỄN PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA
Đảng ta đã nhấn mạnh vai trò thiết yếu của doanh nghiệp nhỏ và vừa trong nền kinh tế tư nhân Nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân, Nhà nước đã ban hành các luật và chính sách hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất và kinh doanh Các chương trình hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa đã dần đi vào thực tiễn, giúp cộng đồng doanh nghiệp vượt qua khó khăn và hướng tới sự phát triển bền vững.
Biện pháp cải thiện môi trường kinh doanh, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp
Chủ trương của Đảng trong các Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc là thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân bền vững, phù hợp với trình độ sản xuất Để thực hiện điều này, Nhà nước đã ban hành các luật như Luật Đầu tư (sửa đổi) và Luật Doanh nghiệp (sửa đổi) có hiệu lực từ 01/7/2015, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp hoạt động Các luật này quy định rõ lĩnh vực và địa bàn khuyến khích đầu tư, thu hút các dự án chất lượng và hiệu quả, đồng thời đảm bảo tính minh bạch, khả thi và đồng bộ trong các quy định về điều kiện và thủ tục đầu tư, kinh doanh, tạo nền tảng pháp lý công bằng cho cả nhà đầu tư trong và ngoài nước.
Luật Thuế GTGT năm 2013, có hiệu lực từ 1/1/2014, đã sửa đổi và bổ sung một số nội dung quan trọng nhằm hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNN&V) có doanh thu hàng năm dưới 100 triệu đồng, không phải chịu thuế GTGT Luật cũng quy định cụ thể cách tính thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thuế và phương pháp tính trực tiếp trên giá trị gia tăng.
Luật Thuế TNDN năm 2013, có hiệu lực từ 1/1/2014, quy định mức thuế suất phổ thông là 22%, trong khi doanh nghiệp có doanh thu bình quân năm dưới 20 tỷ đồng sẽ áp dụng thuế suất 20% từ 1/7/2013 Luật cũng bổ sung chính sách ưu đãi thuế cho lĩnh vực khoa học và công nghệ, công nghệ cao nhằm khuyến khích và hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư phát triển trong lĩnh vực này.
Luật Khoa học và Công nghệ năm 2013 thiết lập các cơ chế và chính sách ưu đãi cho doanh nghiệp khoa học và công nghệ, bao gồm quyền sở hữu nhà nước, thuế thu nhập doanh nghiệp, miễn lệ phí trước bạ khi đăng ký quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà Ngoài ra, luật cũng ưu tiên sử dụng thiết bị cho hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ tại các phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia, cơ sở ươm tạo công nghệ, ươm tạo doanh nghiệp và các cơ sở nghiên cứu khoa học và công nghệ của Nhà nước.
Một số văn bản quy phạm pháp luật đã được sửa đổi và bổ sung nhằm cải thiện môi trường đầu tư và sản xuất kinh doanh, bao gồm Luật Phá sản, Luật Hải quan, Luật Ngân sách nhà nước và Luật Đầu tư công.
Ngày 18/3/2014, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 19/NQ-Chính phủ về
Để nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, cần triển khai các giải pháp cải thiện môi trường kinh doanh, bao gồm tối ưu hóa hệ thống thuế, cải cách quy trình hải quan, nâng cao khả năng tiếp cận điện năng, hỗ trợ khởi sự doanh nghiệp và bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư.
Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 77/2014-QH13 ngày 10/11/2014 về
Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2015 nhấn mạnh việc xây dựng các chính sách hỗ trợ nhằm phục hồi và phát triển sản xuất kinh doanh, đặc biệt là cho khu vực kinh tế tư nhân Chính phủ đã chỉ đạo Ngân hàng Nhà nước hạ lãi suất tín dụng tương ứng với mức giảm lạm phát, đồng thời thực hiện các biện pháp hỗ trợ, đơn giản hóa thủ tục cho vay và tăng cường tín dụng cho khu vực nông nghiệp, nông thôn, doanh nghiệp nhỏ và vừa, cũng như các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu.
DN công nghiệp hỗ trợ Trong năm 2014, xếp hạng môi trường kinh doanh của Việt Nam đã đƣợc cải thiện đáng kể
Năm 2015, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 19/NQ-CP vào ngày 12/3/2015, nhằm cải thiện môi trường kinh doanh và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia trong giai đoạn 2015-2016 Các bộ ngành, địa phương và hiệp hội ngành nghề đã tích cực thực hiện các nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu được đề ra trong nghị quyết này.
Chính sách hỗ trợ trực tiếp cho doanh nghiệp nhỏ và vừa
Từ năm 2001, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 90/2001/NĐ-CP ngày
Vào ngày 23 tháng 11 năm 2001, chính phủ đã ban hành các quy định về trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNN&V), thiết lập chính sách hỗ trợ từ Trung ương đến địa phương Tiếp theo, vào ngày 23 tháng 10 năm 2006, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Quyết định số 236/2006/QĐ-TTg, nhằm thực hiện kế hoạch phát triển DNN&V.
Giai đoạn 2006 – 2010 đã đưa ra các giải pháp nhằm xây dựng môi trường đầu tư và kinh doanh thuận lợi, đồng thời nâng cao năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNN&V) thông qua việc huy động các nguồn lực từ cả trong và ngoài nước.
Vào ngày 30/6/2009, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 56/2009/NĐ-CP nhằm hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNN&V), thay thế cho Nghị định 90/2001/NĐ-CP Nghị định này quy định 8 nhóm hỗ trợ để thúc đẩy sự phát triển của DNN&V Theo đó, các bộ, ngành và địa phương đã triển khai nhiều chương trình hỗ trợ nhằm thực hiện Nghị định số 56/2008/NĐ-CP.
Quyết định số 1231/QĐ-TTg ngày 7/9/2012 đề ra các giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNN&V) bao gồm: hoàn thiện khung pháp lý cho việc gia nhập, hoạt động và rút lui khỏi thị trường; hỗ trợ tiếp cận tài chính và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn; đổi mới công nghệ; phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt là nâng cao năng lực quản trị; đẩy mạnh hình thành các cụm liên kết và ngành công nghiệp; cung cấp thông tin hỗ trợ và xúc tiến mở rộng thị trường; xây dựng hệ thống tổ chức trợ giúp phát triển; và quản lý thực hiện kế hoạch phát triển Các giải pháp cụ thể bao gồm thành lập Quỹ hỗ trợ, thực hiện các chương trình đổi mới công nghệ quốc gia và phát triển công nghệ cao đến năm 2020, phát triển sản phẩm quốc gia, xây dựng vườn ươm doanh nghiệp, và thúc đẩy các liên kết kinh tế.
Kế hoạch và Đầu tƣ đang triển khai xây dựng Luật Hỗ trợ DNN&V Những chính sách hỗ trợ DNN&V cụ thể gồm:
DNN&V được hỗ trợ tiếp cận nguồn vốn ngân hàng thông qua bảo lãnh tín dụng từ quỹ bảo lãnh tín dụng địa phương và Ngân hàng Phát triển Việt Nam Ngoài ra, DNN&V có thể huy động vốn qua phát hành trái phiếu, mua bán cổ phiếu và cổ phiếu quỹ Quỹ Phát triển DNN&V được thành lập nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp có kế hoạch sản xuất kinh doanh khả thi trong các lĩnh vực ưu tiên của Nhà nước Doanh nghiệp cũng nhận được hỗ trợ kinh phí cho nghiên cứu khoa học và công nghệ, với hình thức cho vay ưu đãi không lãi suất hoặc lãi suất thấp theo quy định của Nhà nước.
Hỗ trợ mặt bằng sản xuất, đổi mới, nâng cao năng lực công nghệ, trình độ kỹ thuật
Nhà nước đã triển khai nhiều biện pháp hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNN&V) tiếp cận đất sạch phục vụ sản xuất và kinh doanh, bao gồm đấu giá quyền sử dụng đất Đồng thời, cơ chế tạo quỹ đất mới và quy định cụ thể về thu hồi đất cũng được thiết lập để đảm bảo quyền lợi cho các doanh nghiệp.
KINH NGHIỆM PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA TẠI MỘT SỐ ĐỊA PHƯƠNG TRONG NƯỚC
Trong những năm qua, nhờ vào chính sách khuyến khích và hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNN&V) của nhà nước, đặc biệt là sau khi Luật Doanh nghiệp có hiệu lực từ năm 2000, số lượng DNN&V tại Việt Nam và tỉnh Đồng Nai đã tăng nhanh chóng Đến cuối năm 2005, tỉnh Đồng Nai ghi nhận có 8.739 doanh nghiệp công nghiệp dân doanh, tăng 18% so với năm 2000, trong đó bao gồm 9 hợp tác xã và 350 công ty TNHH Sự phát triển này cho thấy vai trò quan trọng của DNN&V trong nền kinh tế tỉnh Đồng Nai.
CP, tăng 4,5 lần so với năm 2000; và 8.100 hộ kinh doanh cá thể, tăng 15% so với năm 2000
Năm 2005, giá trị sản xuất công nghiệp của khu vực công nghiệp dân doanh tại Đồng Nai đạt trên 5.894 tỷ đồng, tăng 123,9% so với năm trước Doanh nghiệp tư nhân đóng góp 950 tỷ đồng, chiếm 18,1%, tăng 10,2%, trong khi hợp tác xã đạt hơn 18 tỷ đồng, tăng 0,8% Các hộ sản xuất cá thể đạt 769 tỷ đồng, chiếm 10,6%, tăng 51,9% Doanh nghiệp hỗn hợp (Công ty CP) đạt 4.155 tỷ đồng, chiếm 70,8%, tăng 23,3% Khu vực công nghiệp dân doanh ghi nhận mức tăng trưởng cao nhất trong ngành công nghiệp Đồng Nai đã triển khai nhiều biện pháp hỗ trợ cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, tạo nền tảng cho sự phát triển của khu vực này, đồng thời là bài học kinh nghiệm cho Hưng Yên.
Các biện pháp nhằm phát triển DNN&V của tỉnh Đồng Nai đƣợc thể hiện ở các nội dung sau:
Thành lập các trung tâm hỗ trợ DNN&V:
Nhằm nhận thức rõ vai trò quan trọng của doanh nghiệp nhỏ và vừa trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Tỉnh Đồng Nai đã chủ động triển khai các chính sách hỗ trợ từ Chính phủ để phát triển DNN&V Hiện tại, Đồng Nai đã thành lập hai trung tâm hỗ trợ DNN&V, bao gồm Trung tâm hỗ trợ phát triển DNN&V Đồng Nai (SMEDAC) và Trung tâm khuyến công Đồng Nai.
Các trung tâm này có chức năng tƣ vấn hỗ trợ nhằm giải quyết những khó khăn, vướng mắc trong hoạt động sản xuất kinh doanh của DNN&V
- Tƣ vấn cho doanh nghiệp tìm hiểu, giải thích về các chính sách, pháp luật, các văn bản pháp luật về thuế, … có liên quan đến doanh nghiệp
- Cung cấp các dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp nhƣ:
+ Lập dự án đầu tư và phương án vay vốn của các tổ chức tín dụng
+ Lập hồ sơ xin cấp phép xây dựng, hướng dẫn ghi sổ sách kế toán và lập báo cáo tài chính
- Đào tạo và tập huấn kiến thức quản lý cho doanh nghiệp
- Đại diện cho doanh nghiệp và bảo vệ lợi ích hợp pháp cho doanh nghiệp trong quan hệ với các cơ quan nhà nước và cơ quan pháp luật
Cung cấp thông tin thị trường và tổ chức triển lãm hội chợ giúp doanh nghiệp tìm kiếm thị trường và đối tác kinh doanh mới Đồng thời, đưa ra các chính sách hỗ trợ cho doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNN&V) nhằm thúc đẩy sự phát triển và kết nối trong kinh doanh.
Đồng Nai đã triển khai hiệu quả các biện pháp khuyến khích đầu tư như giảm thuế, cho vay tín dụng và đơn giản hóa thủ tục đăng ký đầu tư, rút ngắn thời gian xuống còn 3 - 5 ngày Tỉnh cũng chỉ đạo các sở, ban ngành phối hợp chặt chẽ để hỗ trợ doanh nghiệp, bao gồm xây dựng phương án đầu tư và tổ chức gặp gỡ doanh nghiệp ít nhất hai lần mỗi năm Nhờ đó, môi trường pháp lý đã trở nên thông thoáng hơn, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thu hút đầu tư.
Tỉnh đã triển khai quy hoạch tổng thể cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNN&V), đồng thời áp dụng nhiều biện pháp hỗ trợ cụ thể về đất đai và mặt bằng sản xuất Điều này bao gồm việc hình thành 4 loại khu công nghiệp (KCN) và các cụm công nghiệp (CCN) tập trung, với các chính sách đa dạng nhằm tăng cường thu hút đầu tư và tạo cơ hội cho các doanh nghiệp phát triển.
- Chính sách đào tạo nhân lực: Năm 2007 tỷ lệ chi cho giáo dục, y tế, văn hóa, xã hội chiếm 37% tổng chi ngân sách toàn tỉnh, đạt khoảng 360 tỷ VNĐ
Từ tháng 11/2000, tỉnh đã thành lập Trung tâm hỗ trợ đầu tư và phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, hiện đang hoạt động hiệu quả, giúp giải quyết khó khăn trong tuyển dụng lao động cho các doanh nghiệp này.
Tỉnh thực hiện chính sách thuế hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNN&V) bằng cách tuân thủ đúng các quy định về ưu đãi thuế và áp dụng các biện pháp hỗ trợ cụ thể Trong năm 2005 và 2006, tỉnh đã giảm thuế giá trị gia tăng (GTGT) và miễn thuế thu nhập cho hơn 135 doanh nghiệp, giảm 50% thuế suất GTGT cho hoạt động xây dựng nhà ở và cơ sở hạ tầng, cũng như giảm thuế GTGT từ 10% xuống 5% cho nhiều mặt hàng và dịch vụ Ngoài ra, tỉnh cũng áp dụng ưu đãi thuế cho doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động và miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) cho các doanh nghiệp mới đầu tư theo quy định hiện hành.
Chính sách vốn và tín dụng cần giảm bớt thủ tục phiền hà để tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp nhỏ và vừa tiếp cận ngân hàng Đồng thời, cần thành lập Chi nhánh Quỹ hỗ trợ phát triển và Quỹ hỗ trợ đầu tư của tỉnh nhằm cung cấp nguồn vốn vay trung và dài hạn cho một số dự án đầu tư.
Bình Dương, tỉnh thuộc miền Đông Nam Bộ, nổi bật với tốc độ tăng trưởng kinh tế cao nhất cả nước, đạt 17,52% GDP bình quân giai đoạn 2001-2005 và 13,5% giai đoạn 2006-2010 Thành tựu này chủ yếu đến từ sự phát triển mạnh mẽ của các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNN&V), chiếm hơn 98% tổng số doanh nghiệp trong tỉnh, đóng góp to lớn vào sự phát triển kinh tế - xã hội của Bình Dương.
Góp phần vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, giảm tỷ trọng giá trị nông nghiệp và tăng cường tỷ trọng công nghiệp cũng như dịch vụ.
Phát huy tiềm năng đất đai, lao động và nguồn vốn trong dân, tỉnh đã thu hút 813,83 tỷ đồng, chiếm 37% tổng vốn đầu tư kinh doanh năm 2006 Các doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) trong ngành công nghiệp và dịch vụ đã tạo ra hơn 73.000 việc làm tính đến cuối năm 2005 Năm 2005, lực lượng kinh tế ngoài quốc doanh, chủ yếu là DNVVN, đóng góp khoảng 50% GDP và 156,3 tỷ đồng vào ngân sách nhà nước.
DNVVN đã đóng góp tích cực vào việc nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân, với thu nhập bình quân đầu người tăng từ 5,6 triệu đồng năm 2007 lên 8 triệu đồng năm 2010 Tỷ lệ hộ nghèo cũng giảm từ 8% xuống còn 6% trong cùng thời gian, trong khi không còn hộ đói.
Mặc dù các Doanh nghiệp Nhỏ và Vừa (DNN&V) ở Bình Dương đóng góp tích cực vào sự phát triển kinh tế - xã hội, nhưng họ đang đối mặt với nhiều thách thức như hoạt động tự phát và phân tán, dẫn đến sức cạnh tranh yếu và khó khăn trong việc thích ứng với biến động thị trường Hơn nữa, thiết bị công nghệ lạc hậu không chỉ ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm mà còn gây ô nhiễm môi trường, với tỷ lệ đầu tư đổi mới công nghệ chưa đạt 15% doanh thu Đặc biệt, trình độ quản lý kinh doanh của các chủ doanh nghiệp vẫn còn nhiều hạn chế, khi có đến 32% chủ doanh nghiệp chưa qua đào tạo hoặc chỉ tham gia một lớp học quản lý ngắn hạn.
Lãnh đạo tỉnh Bình Dương nhận thức rõ tầm quan trọng của doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNN&V) cũng như những thách thức mà họ phải đối mặt, từ đó đã thể hiện sự quan tâm thích đáng đến sự phát triển của DNVVN.