TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Những nghiên cứu về Bạch đàn E.urophylla
Từ thế kỷ XIX, cây Bạch đàn đã được du nhập từ châu Úc vào nhiều quốc gia và được công nhận là loài cây có khả năng thích ứng với nhiều điều kiện khí hậu khác nhau Sau đó, Bạch đàn trở thành cây trồng rừng kinh tế quan trọng Đến năm 1955, trên toàn thế giới đã có khoảng 700.000 ha rừng trồng Bạch đàn, và con số này đã tăng lên khoảng 4 triệu ha vào năm 1975, phân bố ở 58 quốc gia khác nhau.
Sự phát triển mạnh mẽ của rừng trồng Bạch đàn ở nhiều quốc gia phần lớn nhờ vào các chương trình nghiên cứu về loài và xuất xứ của cây Bạch đàn Trong số đó, các công trình nghiên cứu khảo nghiệm loài và xuất xứ Bạch đàn Urophylla đã đóng góp đáng kể cho thành công này.
Khảo nghiệm loài Bách đàn E urophylla được thực hiện vào năm 1977 tại 11 địa điểm khác nhau ở Brazil cho thấy, ở tuổi 3,5, chiều cao trung bình đạt 8,34m Địa điểm có sinh trưởng tốt nhất là Aracruz với chiều cao trung bình 11,94m, trong khi địa điểm kém nhất là Joao Pinheiro chỉ đạt 3,27m.
Khảo nghiệm 17 xuất xứ Bạch đàn Urophylla tại tỉnh Santos và Brazil, Amazon cho thấy mối tương quan chặt chẽ giữa độ cao phân bố và tỷ lệ sống cũng như sinh trưởng chiều cao Thêm vào đó, khảo nghiệm 22 xuất xứ Bạch đàn Urophylla năm 1981 ở Wanagama, Indonesia cho thấy sau 22 tháng tuổi, các xuất xứ từ Wetar có sự sinh trưởng vượt trội về chiều cao và đường kính.
Năm 1971, một nghiên cứu được thực hiện để khảo nghiệm 5 xuất xứ Bạch đàn Urophylla tại 2 lập địa khác nhau ở Puerto Rico Sau 8 năm, kết quả cho thấy xuất xứ từ Timor phát triển tốt hơn về cả đường kính lẫn chiều cao.
Các nghiên cứu thành công về loài Bạch đàn lai, đặc biệt giữa E.grandis và E.urophylla tại Brazil, cũng như E.allba với E.urophylla ở Công Gô, đã đóng góp quan trọng vào việc phát triển các khu rừng trồng nguyên liệu giấy với năng suất cao.
Hiện nay, nhiều tổ chức Lâm Nghiệp như Trung tâm Lâm Nghiệp nhiệt đới Pháp (CTFT) và Cơ quan Lâm Nghiệp Úc (CSIRO) đã chú trọng vào việc khảo nghiệm xuất xứ Bạch đàn Urophylla Họ không chỉ cung cấp hạt giống mà còn hướng dẫn phương pháp và hỗ trợ kinh phí cho các nghiên cứu này.
Nghiên cứu quy luật cấu trúc lâm phần
1.1.2.1 Nghiên cứu quy luật phân bố số cây theo đường kính
Quy luật phân bố số cây theo cỡ đường kính là một quy luật quan trọng trong lâm phần, thu hút sự quan tâm nghiên cứu của các nhà Lâm học và điều tra rừng Nghiên cứu đầu tiên của Meyer (1934) và Prodan (1949) đã mô tả phân bố này của rừng tự nhiên thông qua các phương trình toán học.
Phương trình Meyer, hay còn gọi là hàm Meyer, đã được nghiên cứu và áp dụng trong nhiều nghiên cứu về phân bố N-D của lâm phần thuần loài Naslunel (1936-1937) đã xác lập phân bố Charlier-A cho loại phân bố này, trong khi Loetch (1973) áp dụng hàm Beta để nắn phân bố thực nghiệm Roemisch (1975) cũng đã nghiên cứu khả năng sử dụng hàm Gamma để mô phỏng sự biến đổi của phân bố N/D theo tuổi Đặc biệt, J.L.F Batista và H.T.Z Docuto (1992) đã sử dụng hàm Weibull để mô phỏng phân bố N-D trong nghiên cứu rừng nhiệt đới ở Maranhoo, Brazil.
1.1.2.2 Nghiên cứu quy luật tương quan giữa chiều cao với đường kính Đây cũng là quy luật cơ bản và quan trọng trong hệ thống các quy luật cấu trúc lâm phần Qua nghiên cứu nhiều tác giả cho thấy, chiều cao tương ứng với mỗi cỡ đường kính luôn tăng theo tuổi Trong một cỡ kính xác định, ở các cấp tuổi khác nhau cây rừng thuộc cấp sinh trưởng khác nhau. Tiurin.D.V (1927) đã phát hiện ra quy luật này khi xác lập đường cong chiều cao ở các cấp tuổi khác nhau Prodan.M (1935) cho thấy độ dốc đường cong chiều cao có chiều hướng giảm dần khi tuổi tăng lên.
Curtis.R.O đã mô phỏng quan hệ chiều cao với đường kính và tuổi theo dạng phương trình: Logh = d + b1.1/d + b2.1/A + b3.1/dA (1.2)
Tại từng tuổi nhất định dùng phương trình:
Các tác giả như: Hohenadl; Krenn; Michailoff; Naslund, M; Anoutchin, NP; Eckert, KH; Korsum, F; Levakovic, A; Meyer, H.A; Munller và V.Soest,
J đã đề xuất dùng các phương trình dưới đây: h = a0+ a1d + a2d 2 (1.4) h - 1,3 = d 2 /(a + bd) 2 (1.5) h = a.b d ; logh = a + b.logd (1.6) h = a.(1 – e -bd ) (1.7) h = a + b.logd (1.8) h - 1,3 = a.(d/(1 + b)) b (1.9) h - 1,3 = a.e -b/d (1.10) log (h – 1,3) = loga + b.((loge)/d) (1.11) h = a(b.lnd – c.(lnd)^2)
Để thể hiện mối quan hệ giữa chiều cao và đường kính, có thể sử dụng nhiều loại phương trình khác nhau Tuy nhiên, việc lựa chọn phương trình phù hợp nhất cho từng đối tượng vẫn chưa được nghiên cứu đầy đủ Hai loại phương trình phổ biến nhất để biểu thị đường cong chiều cao là phương trình Parabol và Logarit.
Biểu thể tích
Biểu thể tích 2 nhân tố thể hiện mối quan hệ giữa thể tích với đường kính và chiều cao thân cây Nhiều nhà nghiên cứu như Prodan, Meyer, Spurr, Halaj và Tiorin đã phát triển các phương trình khác nhau, nhưng chủ yếu tập trung vào hai dạng phổ biến nhất.
Hai dạng phương trình biểu thể tích 2 nhân tố đã được nhiều tác giả kiểm tra và thiết lập tại nhiều quốc gia như Đức, Ấn Độ, Mỹ, Indonesia, Thái Lan Mặc dù là biểu thể tích 2 nhân tố, yếu tố hình dạng thân cây được coi như một hằng số hoặc biến số liên quan đến đường kính và chiều cao Do đó, độ chính xác và tính phổ biến của biểu thể tích này rất cao Để tiết kiệm chi phí nghiên cứu, nhiều quốc gia hoặc địa phương thường kiểm nghiệm biểu thể tích 2 nhân tố của nước láng giềng để áp dụng cho đối tượng của mình.
Biểu cấp đất
Cấp đất thể hiện sức sản xuất và mức độ phù hợp của điều kiện môi trường với từng loại rừng Việc nghiên cứu và lập biểu cấp đất là cơ sở quan trọng để xác định, sử dụng các biểu điều tra và sản lượng, đồng thời thiết kế các biện pháp kinh doanh rừng hiệu quả.
Quá trình xác định các chỉ tiêu đánh giá mức độ phù hợp của điều kiện rừng đã trải qua nhiều giai đoạn Ban đầu, nghiên cứu tập trung vào các nhân tố nguyên nhân như khí hậu, không khí và đất, tuy nhiên, sự ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác cũng không thể bỏ qua Mặc dù có thể xác định một nhân tố chủ đạo, nhưng nó lại tác động tổng hợp với các yếu tố khác, dẫn đến việc không đạt được kết quả như mong đợi Sau đó, nghiên cứu chuyển hướng sang các nhân tố hệ quả, tương tự như trong nông nghiệp, nơi kết quả thu hoạch được dùng để phân chia cấp sản lượng, trong lâm nghiệp, trị số sản lượng rừng được sử dụng để đánh giá sức sản xuất.
Kể từ khi Eichhorn (1904) phát hiện quy luật "Trữ lượng rừng là một hàm số của chiều cao lâm phần", phương pháp phân chia cấp đất đã được củng cố với cơ sở lý luận vững chắc hơn Ông cho rằng, tất cả các lâm phần trong các điều kiện khác nhau sẽ có cùng trữ lượng nếu chúng có cùng chiều cao bình quân.
Phân chia cấp đất chủ yếu tập trung vào việc xác định mối quan hệ theo tuổi của một yếu tố điều tra cụ thể, thường là chiều cao bình quân lâm phần hoặc chiều cao bình quân tầng ưu thế Yếu tố này cần phải có sự liên kết chặt chẽ với trữ lượng và ít bị ảnh hưởng bởi các biện pháp kinh doanh.
Nghiên cứu cho thấy quy luật sinh trưởng chiều cao của cây cối phụ thuộc vào từng vùng sinh thái Do đó, để phù hợp với từng kiểu sinh trưởng chiều cao, cần xác định một biểu cấp đất hay hệ thống cấp đất tương ứng.
Việc phân chia cấp đất, bất kể chỉ tiêu nào được sử dụng, thực chất là một quá trình đánh giá và phân chia mức độ sinh trưởng của rừng.
Những nghiên cứu về đánh giá hiệu quả kinh tế
Năm 1974, giáo sư Jonh E – Gunter từ trường đại học Tổng Hợp bang Michigan đã xuất bản giáo trình "Những vấn đề cơ bản trong đánh giá đầu tư Lâm nghiệp" Tác giả đã trình bày các cơ sở cần thiết để đánh giá hiệu quả trồng rừng, bao gồm lãi suất đơn, lãi suất kép, thời gian và năm chiết khấu.
Năm 1979, tổ chức Nông nghiệp và Lương thực Thế giới (FAO) đã phát hành giáo trình mang tên “Phân tích các Dự án Lâm Nghiệp”, được biên soạn bởi Hans M Gregesen và Amoldo H Contresal.
Theo tài liệu của TREE CD – ROM (Cab International for Asia), từ năm 1939 đến tháng 4 năm 1995, đã có 48 công trình nghiên cứu về hiệu quả kinh tế trong Lâm nghiệp Trong số đó, 19 công trình tập trung vào lâm nghiệp nhiệt đới, với một số nghiên cứu đặc biệt về hiệu quả kinh tế của rừng trồng, trong đó có 9 công trình đánh giá hiệu quả từ việc áp dụng các biện pháp kỹ thuật lâm sinh.
Ở Việt Nam
1.2.1 Những nghiên cứu về Bạch đàn E.urophylla Ở Việt Nam, Bạch đàn đã được nhập vào trồng rải rác trước năm 1945.
Từ giữa những năm 60, miền Bắc Việt Nam đã tiến hành nhập khẩu các giống bạch đàn như Bạch đàn trắng (E tereticornis), Bạch đàn liễu (E exserta), Bạch đàn chanh (E citriodora) và Bạch đàn đỏ (E robusta) nhằm phát triển phong trào trồng cây và thiết lập rừng trồng tại các Lâm trường Quốc doanh.
Từ năm 1960, Bạch đàn đã trở thành một trong những loài cây chủ yếu trong Lâm nghiệp, trải qua ba giai đoạn phát triển Giai đoạn từ 1977 đến 1983 là thời kỳ bài trừ Bạch đàn mạnh mẽ, do quan niệm cho rằng cây này làm xấu đất và cạn kiệt nguồn nước, dẫn đến diện tích trồng chỉ đạt 2000 đến 3000 ha/năm, nhiều cây con đủ tiêu chuẩn bị vứt bỏ Từ 1984 đến 1986, Bạch đàn bắt đầu phục hồi, với diện tích trồng tăng trưởng không ngừng Kể từ năm 1987, Bạch đàn bước vào giai đoạn phát triển mạnh mẽ, luôn đứng đầu trong các loài cây trồng của Lâm nghiệp, với các giống Bạch đàn phổ biến như E exserta, E camaldulensis, E citriodora, E robusta, và E urophylla.
Nguyễn Dương Tài (1992) [18] nghiên cứu xuất xứ Bạch đàn
(Eucalyptus urophylla) đã đưa ra kết luận, 21 xuất xứ Eucalyptus urophylla từ Indonesia đều tỏ ra tốt với điều kiện tự nhiên ở nơi thí nghiệm trong những năm đầu.
Nguyễn Thanh Vân (2003) đã nghiên cứu sinh trưởng của Bạch đàn (Eucalyptus urophylla) trồng thuần loài tại Lạng Sơn, Bắc Giang Trong nghiên cứu, ông so sánh sự phát triển của các dòng Bạch đàn U6, PN2 và Bạch đàn hạt trồng thuần loài Kết quả cho thấy tất cả các dòng này đều phù hợp với điều kiện tự nhiên tại Bắc Giang - Lạng Sơn, trong đó dòng PN2 có tốc độ sinh trưởng nhanh nhất.
Phạm Quang Việt (2004) [22] qua nghiên cứu Bạch đàn Eucalyptus urophylla ST Black đã chọn được 2 dòng vượt trội nhất về sinh khối tại thời điểm 3 tháng tuổi ở cây hom.
Gần đây, Vũ Thành Nam (2006) đã tiến hành nghiên cứu về cấu trúc và mô phỏng sinh trưởng của cây Bạch đàn (Eucalyptus urophylla) dòng U 6 và PN 2 khi trồng thuần loài, nhằm đề xuất các giải pháp kinh doanh hiệu quả cho loài cây này tại địa phương.
1.2.2 Nghiên cứu quy luật cấu trúc lâm phần
1.2.2.1 Nghiên cứu quy luật phân bố số cây theo đường kính (N-D) Đối với rừng tự nhiên nước ta, Đồng Sỹ Hiền (1974) [5] đã dùng họ đường cong Pearson biểu diễn phân bố số cây theo cỡ đường kính của rừng tự nhiên Vũ Nhâm (1988) [17] và Vũ Tiến Hinh (1990) [7] cho thấy, có thể dùng phân bố Weibull với hai tham số để biểu thị phân bố N-D cho những lâm phần thuần loài, đều tuổi như thông đuôi ngựa (pinus massoniana), thông nhựa (Pinus merkussii), Mỡ (Manglietia glauca) và bồ đề (Styrax tonkinensis).
Nguyễn Ngọc Lung (1999) đã nghiên cứu phân bố số cây theo cỡ đường kính tại rừng thông ba lá (Pinus kesiya) ở Việt Nam, thử nghiệm ba hàm phân bố: Poisson, Charlier và Weibull Kết quả cho thấy hàm Charlier kiểu A là hàm phù hợp nhất cho nghiên cứu này.
Nhiều tác giả đã lựa chọn phân bố Weibull để mô tả và xây dựng mô hình cấu trúc đường kính cho rừng thuần loài có tuổi đời lớn.
1.2.2.2 Nghiên cứu quy luật phân bố số cây theo chiều cao (N-H)
Phân bố số cây theo chiều cao thường ít được chú ý và sử dụng trong thực tế Đối với các lâm phần thuần loài đều tuổi, phân bố số cây theo chiều cao, cả cho toàn lâm phần lẫn từng cỡ chiều cao, đều có hình dạng đường cong một đỉnh hơi lệch sang bên phải.
Nghiên cứu cho thấy giới hạn chiều cao bình quân của lâm phần thông ba lá (Pinus kesiya) tại Việt Nam dao động từ 0,69 đến 1,16, với hệ số biến động khoảng 8% Nguyễn Ngọc Lung (1999) đã áp dụng hàm Charlier kiểu A để mô phỏng phân bố N-H cho lâm phần này và phát hiện rằng có đến 82% các ô tiêu chuẩn phù hợp với mô hình.
Rừng tự nhiên lá rộng ở Việt Nam có sự phân bố chiều cao đa dạng giữa các loài cây, cho thấy cấu trúc phức tạp của hệ sinh thái Theo Đồng Sỹ Hiền (1974), hệ số biến động chiều cao trong các lâm phần tự nhiên dao động từ 25-40%, trong khi đó, biến động chiều cao giữa các loài cây nằm trong khoảng 12-34%.
1.2.2.3 Nghiên cứu quy luật tương quan giữa chiều cao với đường kính
Khi sắp xếp cây rừng theo đường kính ngang ngực (D 1.3) và chiều cao cây (H), ta có thể xác định quy luật phân bố hai chiều và mối tương quan giữa chiều cao và đường kính thân cây Nghiên cứu này đã thu hút sự quan tâm của nhiều tác giả, trong đó có Đồng Sỹ Hiền (1974), người đã thử nghiệm năm dạng tương quan phổ biến và kết luận rằng phương trình (1.6) phù hợp với rừng hỗn giao khác tuổi có nguồn gốc tự nhiên.
Vũ Nhâm (1988) đã sử dụng phương trình (1.8) để xác lập quan hệ chiều cao (H) và đường kính (D) cho từng lâm phần, làm cơ sở cho việc lập biểu thương phẩm gỗ trụ mỏ rừng thông đuôi ngựa Tương tự, Vũ Tiến Hinh (2000) cũng áp dụng phương trình (1.8) để xác định quan hệ H/D cho các loài cây như Mỡ, Sa mộc và thông đuôi ngựa.
Như vậy, đối với rừng trồng thuần loài dạng phương trình được sử dụng nhiều nhất để biểu thị đường cong chiều cao là phương trình Logarit.
Đồng Sỹ Hiền nhấn mạnh rằng ở Việt Nam chỉ nên sử dụng biểu thể tích 2 nhân tố, cần nghiên cứu mối quan hệ giữa thể tích (V), đường kính (D) và chiều cao (H) của cây Nghiên cứu này đã thu hút sự quan tâm của nhiều tác giả trong và ngoài nước Hiền (1974) đã kiểm tra hai dạng phương trình và kết luận rằng có thể lập biểu thể tích cho một số loài cây rừng tự nhiên dựa trên phương trình (1.16) Phương trình này sau đó được Viện điều tra quy hoạch rừng áp dụng để lập biểu cho các kiểu rừng trồng thuần loài như Đước, Tràm, Bạch đàn, và cũng được Vũ Đình Phương sử dụng cho thông Caribe và keo vùng trung tâm.
Phạm Ngọc Giao (1976) đã đề xuất phương trình V = a + b.h + c.d².h (1.17) để lập biểu thể tích cho hai loài thông nhựa và thông đuôi ngựa tại vùng Đông Bắc Phương trình này đã được Bộ môn Điều tra quy hoạch rừng thử nghiệm và giới thiệu, và hiện nay được sử dụng rộng rãi trong các cuộc điều tra.
Việc kiểm nghiệm biểu thể tích thường sử dụng phương pháp chặt trắng lâm phần làm tài liệu đối chứng, giúp đảm bảo độ chính xác cao trong quá trình kiểm tra Tuy nhiên, phương pháp này đòi hỏi nhiều công sức và chi phí, đồng thời không phải lúc nào cũng có thể thực hiện được.
Đặc điểm đối tượng nghiên cứu
Bạch đàn, loài cây đặc trưng của Australia, hiện có hơn 600 loài nguyên sản tại đây và một số đảo lân cận Trong số đó, hai loài E.deglupta và E.urophylla đã được phát hiện ngoài khu vực phân bố tự nhiên của Australia Hai loài này cho thấy tiềm năng lớn trong việc trồng trọt ở các vùng có vĩ độ thấp, nhờ khả năng chịu đựng điều kiện khí hậu tốt hơn so với các loài Bạch đàn khác.
Bạch đàn Eucalyptus Urophylla là loài cây nhập nội có nguồn gốc từ một số quần đảo Indonesia, đã được khảo nghiệm và cải thiện giống tại nhiều vùng như Phú Thọ, Yên Bái, Quảng Ninh và Gia Lai với kết quả khả quan Loài cây này nổi bật với tốc độ sinh trưởng nhanh, chu kỳ kinh doanh ngắn từ 6-8 năm và khả năng thích ứng rộng Bạch đàn Urophylla có dáng thân thon thẳng và tán lá dày, giúp chống xói mòn hiệu quả hơn so với Bạch Đàn trắng Kỹ thuật thâm canh rừng trồng đã được xác định rõ ràng, với nhiều dòng vô tính được công nhận như PN2, PN14, và các giống tiến bộ kỹ thuật như W4, W5, U6 Ngoài ra, kỹ thuật nhân hom và nuôi cấy mô cũng đã được áp dụng, đảm bảo cung cấp cây con chất lượng và số lượng lớn từ các trung tâm nghiên cứu.
Bạch đàn Urophylla là một trong hai loài Bạch đàn E Urophylla,
E alba không mọc tự nhiên ở lục địa Châu Úc Khu vực phâm bố tự nhiên được giới hạn bởi các hòn đảo cực nam quần đảo Sonda của Indonesia, bao gồm các đảo Timor, Wetar, Alor, Pandar, Andonara và Flores Những đảo này bị tách biệt về phía Bắc và phía Nam bởi các biển Timor và Flores Bên trong các đảo này, E.Urophylla có mặt trên một giải giữa các vĩ độ nam 7 0 30’ và 10 0 Giới hạn về phía Tây và phía Đông thường không rõ Trong vùng phân bố tự nhiên E Urophylla sống ở vùng bán sơn địa đến vùng núi Trong đảo Wetar gặp loài Bạch đàn ở độ cao 300 đến 400 m, trong khi đảo Timor chỉ xuất hiện ở độ cao 2900m trên đỉnh Tatamailan (2963m) Nguyễn Luyện (1993) [15].
Loài Bạch đàn này phân bố tự nhiên ở phía Tây, trải dài khoảng 250 km qua dãy núi của đảo Flores, và sau đó xuất hiện trên các đảo Adorama, Lomblem, Alor, cho đến đảo Wetar và Timor ở phía Tây.
Khu vực khô hạn hơn trong phân bố của loài Bạch đàn bao gồm các đảo Adorama, Pandar, Alor, phần Bắc đảo Timor và Tây đảo Wetar, với tổng lượng mưa bình quân chỉ từ 900 mm.
Khu vực khác bao gồm phần Nam đảo Timor, một phần cuả đảo Flores và phía Tây đảo Wetar, có tổng lượng mưa cả năm từ 1400 -
Vùng này có tiểu khí hậu mưa mùa hè với tổng lượng mưa dao động từ 1000 đến 1500 mm Mùa khô ở đây không quá khắc nghiệt, trong khi nhiệt độ tối cao trung bình vào tháng nóng nhất đạt 29°C Ngược lại, nhiệt độ tối thấp trong tháng lạnh nhất dao động từ 8-10°C, và nhiệt độ trung bình hàng năm là 27,2°C.
Bạch đàn E Urophylla là loài cây sinh trưởng nhanh, có khả năng đạt chiều cao lên tới 53m và đường kính 1,26m, đặc biệt tại vùng Laclubar trên đảo Timor Tại dãy Monter Mutio với độ cao 2100m, có những cá thể lớn với đường kính lên tới 2,5m Tuy nhiên, ở những vùng khô hoặc trên các đỉnh núi, loài cây này có hình dạng khác biệt, chiều cao giảm nhưng vẫn có thể đạt đường kính lớn.
Dạng thân cành: Loại Bạch đàn E Urophylla tăng trưởng nhanh có thể đạt kích thước lớn, thân thẳng, phân cành thấp và tỉa thưa tự nhiên tốt.
Vỏ của cây Bạch đàn E Urophylla có hình thái ít sần sùi, dày và sợi thẳng, thường có màu nâu, trong khi cây non có vỏ màu nâu đỏ Ở những nơi có độ cao thấp, vỏ cây thường trơn nhẵn, nhưng phần gốc cao đến 2m lại có vỏ sần sùi Kiểu vỏ của cây thay đổi tùy thuộc vào điều kiện môi trường và tuổi trưởng thành của nó.
Lá Bạch đàn E Urophylla của cây trưởng thành có hình dáng và kích thước thay đổi theo tuổi, với cuống lá dài từ 19-22mm và phiến lá dài từ 127-158mm, rộng từ 38-68mm Lá non có màu sắc ngả đỏ, khác biệt rõ rệt so với lá trưởng thành.
Hoa Bạch đàn E Urophylla là hoa lưỡng tính, thích hợp cho thụ phấn chéo nhờ côn trùng Cụm hoa có hình dạng xim hai ngả, với trung bình 7 quả mỗi cụm Đế hoa chủ yếu có hai dạng: hình chuông và hình bán cầu Bầu hoa là bầu thượng, phẳng khi lõm xuống, và tỷ lệ giữa hai loài thường thay đổi theo độ cao.
2.1.3 Công dụng của Bạch đàn
Gỗ Bạch đàn Urophylla được sử dụng đa dạng cho nhiều mục đích, bao gồm đồ gia dụng và xây dựng, nhưng chủ yếu được ưa chuộng trong ngành công nghiệp giấy và gỗ trụ mỏ.
Rừng Bạch đàn Urophylla trồng trên lập địa xấu chỉ đạt năng suất 7,7 – 8m³/ha/năm, trong khi thâm canh cao sản ở vùng Trung tâm có thể đạt từ 16 – 20m³/ha/năm.
2.1.4 Một số biểu lập cho rừng trồng Urophylla
Biểu lập cho rừng trồng Urophylla chủ yếu thuộc đối tượng rừng trồng từ hạt, các biểu gồm:
1 Biểu thể tích hai nhân tố cây đứng có vỏ Bạch đàn Urophylla.
2 Biểu cấp đất rừng trồng Bạch đàn Urophylla (theo chiều cao bình quân Hg).
3 Biểu quá trình sinh trưởng rừng trồng Bạch đàn Urophylla.
MỤC TIÊU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu này nhằm xây dựng cơ sở khoa học và thực tiễn để xác định hiệu quả kinh tế của rừng trồng Bạch đàn E urophylla dòng PN2 tại Lâm trường Hữu Lũng II, tỉnh Lạng Sơn Việc phân tích hiệu quả kinh tế sẽ giúp tối ưu hóa việc quản lý và phát triển rừng trồng, đồng thời nâng cao giá trị kinh tế cho địa phương Các kết quả đạt được sẽ cung cấp thông tin hữu ích cho các nhà quản lý và người dân trong việc lựa chọn cây trồng phù hợp và bền vững.
- Xác định cấu trúc và năng suất rừng trồng Bạch đàn E.urophylla dòng PN2 tại Lâm trường Hữu Lũng II, tỉnh Lạng Sơn
- Xác định hiệu quả kinh tế của rừng trồng Bạch đàn E.urophylla dòngPN2 tại Lâm trường Hữu Lũng II, tỉnh Lạng Sơn.
Giới hạn nghiên cứu
Đề tài chỉ xác định hiệu quả rừng trồng Bạch đàn Eucalyotus urophylla dòng PN2 (trồng bằng hom) trồng thuần loài tại Lâm trường Hữu Lũng II – LạngSơn.
Nội dung nghiên cứu
3.3.1 Nghiên cứu một số đặc điểm cấu trúc của rừng trồng Bạch đàn
3.3.1.1 Quy luật phân bố số cây theo đường kính (N-D)
3.3.1.2 Quy luật phân bố số cây theo chiều cao (N-H)
3.3.1.3 Quy luật tương quan giữa chiều cao với với đường kính (H/D)
3.3.2 Xác định năng suất rừng trồng Bạch đàn.
- Kiểm tra biểu thể tích đã có.
- Xác định năng suất rừng trồng theo cấp đất và tuổi.
3.3.3 Xác định hiệu quả kinh tế của rừng trồng Bạch đàn
- Xác định chi phí đầu tư cho 1ha rừng trồng Bạch đàn E.urophylla.
Xác định thu nhập cho 1ha rừng trồng Bạch đàn E.urophylla.
3.3.3.1 Xác định hiệu quả kinh tế theo phương pháp tĩnh
3.3.3.2 Xác định hiệu quả theo phương pháp động
Cân đối thu nhập - chi phí và tính toán các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả.
- Giá trị hiện tại thuần tuý (NPV).
- Tỷ lệ thu nhập trên tỷ lệ chi phí (BCR).
- Tỷ lệ thu hồi nội bộ (IRR).
3.3.4 Đánh giá rủi ro trong kinh doanh trồng Bạch đàn
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
Một số quy luật cấu trúc của các lâm phần điều tra
4.1.1 Quy luật phân bố số cây theo đường kính.
Phân bố số cây theo đường kính (N-D) là yếu tố quan trọng trong nghiên cứu quy luật phân bố của các đại lượng điều tra lâm phần Dãy phân bố N-D giúp xác định các đại lượng này, và thường được gọi là phân bố đường kính Khi biểu diễn trên biểu đồ, trục hoành thể hiện cỡ kính, trong khi trục tung biểu thị số cây hoặc tần suất tương ứng Đặc điểm của phân bố số cây theo đường kính ở các lâm phần thuần loài khác biệt hoàn toàn so với các lâm phần hỗn giao.
Các lâm phần thuần loài có tuổi và đường cong phân bố N-D chủ yếu thể hiện dạng một đỉnh lệch trái Khi tuổi tăng, độ lệch của phân bố giảm dần và tiến gần tới hình dạng phân bố chuẩn.
4.1.1.1 Một số đặc trưng mẫu về đường kính
Một số đặc trưng phân bố N-D được xác định bằng phần mềm Excel. Kết quả tính được thống kê theo tuổi từ biểu 4.1 đến biểu 4.3:
Biểu 4.1: Các đặc trưng mẫu phân bố N-D tuổi 4
Hệ số biến động (S%) ở các ô nhìn chung tương đối ổn định, biến động từ 14,77% đến 19,21% Điều này cho thấy giữa các lâm phần Bạch đàn ở tuổi
Mặc dù có sự phân hoá về đường kính, sự khác biệt vẫn chưa rõ ràng Độ lệch (S k) của đường cong không ổn định, với một số trường hợp lệch trái (Sk > 0) và một số trường hợp lệch phải (Sk < 0) Độ nhọn (Ex) luôn có giá trị âm, cho thấy đường cong phân bố có đỉnh bẹt hơn so với phân bố chuẩn.
Biểu 4.2: Các đặc trưng mẫu phân bố N-D tuổi 5
Hệ số biến động (S%) của các lâm phần Bạch đàn ở tuổi 5 dao động từ 17,12% đến 22,74%, cho thấy sự phân hoá về đường kính không lớn Độ lệch (Sk) của đường cong tương đối ổn định với tất cả các trường hợp đều lệch phải (Sk < 0) Độ nhọn (Ex) của các lâm phần Bạch đàn ở tuổi 5 đều có giá trị âm, cho thấy đường cong phân bố có đỉnh bẹt hơn so với phân bố chuẩn.
Biểu 4.3: Các đặc trưng mẫu phân bố N-D tuổi 6
Hệ số biến động (S%) trong biểu 4.3 cho thấy sự không ổn định, dao động từ 14,25% đến 24,19%, chỉ ra sự phân hoá lớn về đường kính Độ lệch (Sk) của đường cong tương đối ổn định, với phần lớn các trường hợp lệch phải (Sk < 0) và chỉ có một trường hợp lệch trái (Sk > 0) Độ nhọn (Ex) có giá trị âm, cho thấy đường cong phân bố có đỉnh bẹt hơn so với phân bố chuẩn.
Tóm lại, hệ số biến động đường kính (S%) ở cả ba cấp tuổi có sự biến động lớn, dao động từ 14,25% đến 24,19% Mặc dù chênh lệch S% giữa các ô tiêu chuẩn cùng tuổi không lớn, nhưng xu hướng này có chiều hướng tăng khi tuổi tăng Độ lệch (Sk) của đường cong không ổn định, với một số trường hợp lệch trái (Sk > 0) và một số lệch phải (Sk < 0), nhưng chủ yếu là lệch phải so với giá trị trung bình Độ nhọn của phân bố (Ex) cho thấy đường cong thực nghiệm bẹp hơn so với phân bố chuẩn (Ex < 0).
4.1.1.2 Mô phỏng quy luật phân bố số cây theo đường kính
Biểu đồ phân bố thực nghiệm cho thấy hầu hết các ô tiêu chuẩn N-D có dạng đối xứng, do đó phân bố Weibull được lựa chọn để mô phỏng Kết quả xác định tham số và kiểm tra mức độ phù hợp của phân bố lý thuyết được trình bày từ biểu 4.4 đến 4.6.
Biểu 4.4: Kết quả nắn phân bố N-D tuổi 4 theo hàm Weibull.
Biểu 4.5: Kết quả nắn phânbố N-D tuổi 5 theo hàm Weibull
Biểu 4.6: Kết quả nắn phânbố N-D tuổi 6 theohàm Weibull
Có 23/27 (chiếm 85,18%) số ô tiêu chuẩn phân bố N/D tuân theo phân bố Weibull Cụ thể, ở tuổi 4 có 6/6 trường hợp, tuổi 5 có 8/9 trường hợp, tuổi
6 có 9/12 trường hợp phân bố lý thuyết phù hợp với phân bố thực nghiệm. Như vậy, phân bố N-D mô tả tốt bằng phân bố Weibull.
Kết quả nghiên cứu này nhất quán với các nghiên cứu trước đây về phân bố N-D trong rừng trồng thuần loài đồng tuổi.
Sự phù hợp giữa phân bố lý thuyết với phân bố thực nghiệm được minh hoạ ở hình 4.1
Hình 4.1: Kết quả nắn phân bố N-D bằng hàm Weibull
4.1.2 Phân bố số cây theo chiều cao.
4.1.2.1 Một số đặc trưng mẫu về H
Một số đặc trưng phân bố N-H thực nghiệm được xác định bằng phần mềm Excel Kết quả được tổng hợp ở biểu 4.7 đến biểu 4.9:
Biểu 4.7: Các đặc trưng mẫu phân bố N-H tuổi 4
Hệ số biến động (S%) ở các ô lâm phần Bạch đàn tuổi 4 khá ổn định, dao động từ 6,46% đến 8,10%, cho thấy sự phân hoá chiều cao chưa rõ nét Độ lệch (Sk) của đường cong không ổn định, có lúc lệch trái (Sk > 0) và lúc lệch phải (Sk < 0) so với giá trị trung bình Độ nhọn (Ex) có thể âm, cho thấy đường cong phân bố phẳng hơn so với phân bố chuẩn, hoặc dương, cho thấy đường cong phân bố nhọn hơn.
Biểu 4.8: Các đặc trưng mẫu phân bố N-H tuổi 5
Hệ số biến động (S%) của các ô tương đối ổn định, dao động từ 8,84% đến 12,34% Độ lệch (S k ) của đường cong không ổn định, với một số trường hợp lệch trái (Sk > 0) và lệch phải (Sk < 0), trong đó số trường hợp lệch phải chiếm ưu thế với 7 trường hợp mang giá trị âm Về độ nhọn (Ex), có ba trường hợp mang giá trị âm cho thấy đường cong phân bố có đỉnh bẹt hơn so với phân bố chuẩn, trong khi các trường hợp còn lại mang giá trị dương, cho thấy đường cong phân bố có đỉnh nhọn hơn so với phân bố chuẩn.
Biểu 4.9: Các đặc trưng mẫu phân bố N-H tuổi 6
Hệ số biến động (S%) dao động trong khoảng từ 6,02 đến 12,07, cho thấy sự biến đổi của dữ liệu Độ lệch (Sk) của đường cong đã ổn định, với tất cả các trường hợp đều có độ lệch phải (Sk < 0) so với giá trị trung bình Bên cạnh đó, độ nhọn của đường cong có cả trường hợp âm và dương.
Biến động chiều cao (S%) ở các cấp tuổi không lớn và có xu hướng tăng theo tuổi, như thể hiện qua các biểu 4.7, 4.8 và 4.9 Đường cong phân bố chủ yếu lệch phải và bẹt hơn so với phân bố chuẩn (Ex