TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Khái niệm và một số định nghĩa về khuyến lâm
Khuyến lâm là phương pháp đào tạo và rèn luyện kỹ năng cho nông dân, giúp họ nắm bắt các chính sách nông nghiệp, kiến thức kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý và thông tin thị trường Qua đó, nông dân có khả năng tự giải quyết vấn đề của gia đình và cộng đồng, từ đó thúc đẩy sản xuất, cải thiện đời sống, nâng cao dân trí và góp phần xây dựng, phát triển nông thôn.
Khuyến lâm là quá trình cung cấp kiến thức, đào tạo kỹ năng và hỗ trợ các điều kiện vật chất cần thiết cho nông dân, nhằm giúp họ quản lý và bảo vệ hiệu quả nguồn tài nguyên rừng trong cộng đồng.
Khuyến lâm là hình thức giáo dục ngoài học đường dành cho nông dân, tập trung vào việc vận động, quảng bá và khuyến cáo theo nguyên tắc tự nguyện, không áp đặt Quá trình này giúp nông dân tiếp thu kiến thức và kỹ năng một cách dần dần và tự giác, góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp.
Lịch sử và hoạt động khuyến nông khuyến lâm ở trên thế giới và ở Việt Nam
1.2.1 Lịch sử và hoạt động khuyến nông khuyến lâm trên thế giới
Vào ngày 01/09/1919, Luật Lâm nghiệp chính thức có hiệu lực, dẫn đến việc thành lập Ủy ban Lâm nghiệp (Khuyến lâm) để quản lý rừng tại Anh, Scotland, Wales và Ireland Tổ chức này được cấu trúc thành mười phòng ban, với tổng cộng 29 nhân viên ở cấp trung ương và cấp huyện cùng 110 kiêm lâm viên.
Sau 10 năm đã có 152 khu rừng được quản lý với diện tích khoảng 600.000 mẫu Anh và hơn 138,000 mẫu Anh đã được trồng
Năm 1939, Ủy ban Lâm nghiệp tách thành Cục Kiểm lâm, và Cục
Sau 90 năm thành lập, hệ thống khuyến lâm đã nâng tỷ lệ che phủ rừng tại Anh lên 5%, hiện đạt khoảng 2.982.000 ha, tương đương 13% diện tích đất nước.
Hoạt động khuyến nông lâm tại Nhật Bản bắt đầu từ những năm 1900, được thực hiện bởi các trường học và trang trại chính phủ thông qua thử nghiệm và ứng dụng công nghệ mới Theo thời gian, với sự phát triển của nông nghiệp và lâm nghiệp, hoạt động này đã được chính thức hóa bằng pháp luật, dẫn đến việc xây dựng và củng cố đội ngũ cán bộ khuyến nông, khuyến lâm Trong bối cảnh cải cách xã hội, nông dân phải tuân thủ các hướng dẫn kỹ thuật từ cán bộ khuyến nông lâm, được gọi là "Khuyến nông bắt buộc" Đến năm 1948, dịch vụ khuyến nông chính thức được khôi phục tại Nhật Bản.
“Dịch vụ Khuyến nông Hợp tác xã” và phát triển đến nay
Dịch vụ khuyến nông tại Nhật Bản đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao kỹ thuật sản xuất nông lâm nghiệp, cải thiện tiêu chuẩn sống của cộng đồng nông thôn và giáo dục thế hệ trẻ tại các vùng nông thôn.
Bộ Lâm nghiệp, Nông nghiệp và Thủy sản (MAFF) là cơ quan hỗ trợ Chính phủ Nhật Bản trong việc thực hiện dịch vụ khuyến nông lâm trên toàn quốc Hiện nay, Nhật Bản có khoảng 10.000 cán bộ khuyến nông lâm, hoạt động như các chuyên gia cố vấn, được phân bổ tại 47 cơ quan khuyến nông cấp tỉnh và 630 cơ quan khuyến nông lâm cấp huyện Mỗi tỉnh đều có một trung tâm đào tạo nông dân để nâng cao kỹ năng và kiến thức cho nông dân địa phương.
+ Chính phủ tạo hành lang pháp lý về khuyến nông lâm, phát triển nông thôn, với phương châm “thể chế mạnh và minh bạch”;
Chính phủ hỗ trợ 40% kinh phí cho các hoạt động dịch vụ khuyến nông của các tổ chức địa phương, trong khi phần còn lại sẽ do người dân, doanh nghiệp và tổ chức khuyến nông lâm đóng góp.
Hoạt động khuyến nông, khuyến lâm nước Mỹ được hình thành từ năm
Vào năm 1843, tác giả Alfred Charles True trong cuốn "Lịch sử khuyến nông nước Mỹ" đã ghi nhận rằng bang New York đã cấp kinh phí cho Hội đồng bang để thuê các nhà khoa học nông nghiệp có kỹ năng thực hành tốt Những giảng viên này được cử xuống các thôn xã nhằm đào tạo nông dân về kiến thức khoa học và thực hành nông lâm nghiệp.
Cuối những năm 1980, Chính phủ Mỹ bắt đầu chú trọng đến việc đào tạo khuyến nông lâm tại các trường đại học Năm 1891, bang New York đã đầu tư 10.000 USD cho chương trình đào tạo này, đánh dấu bước khởi đầu quan trọng trong việc phát triển khuyến nông lâm tại các cơ sở giáo dục Đến năm 1907, sự quan tâm này tiếp tục gia tăng, cho thấy tầm quan trọng của đào tạo trong lĩnh vực nông lâm nghiệp.
Mỹ đã có 42 trường/39 bang có đào tạo khuyến nông lâm Năm 1910 có 35 trường có bộ môn khuyến nông, khuyến lâm
Vào năm 1914, Hoa Kỳ đã thông qua luật khuyến nông lâm và thiết lập Hệ thống khuyến nông khuyến lâm quốc gia, dẫn đến sự hình thành 8.861 Hội nông dân với khoảng 3.050.150 hội viên tham gia.
Hội khuyến nông Ấn Độ được thành lập vào năm 1820 với sự khởi xướng của William Carey nhằm cải tiến ngành nông nghiệp Cục Lâm nghiệp Hoàng gia ra đời năm 1864 và lâm luật được thông qua vào năm 1865, thiết lập ranh giới chủ rừng, sau đó được bổ sung vào năm 1878 Hệ thống khuyến nông lâm Ấn Độ được thành lập vào năm 1960 Trong những năm 1970, Ấn Độ công bố chiến lược phát triển lâm nghiệp dài hạn với mục tiêu giảm xói mòn đất và lũ lụt, đáp ứng nhu cầu sản phẩm gỗ trong nước và cung cấp chất đốt cho cư dân nông thôn Năm 1976, Ủy ban Quốc gia về Lâm nghiệp được thành lập và các sở lâm nghiệp được tổ chức lại, đồng thời Ủy ban lâm nghiệp xã hội được thành lập nhằm thúc đẩy hoạt động lâm nghiệp truyền thống và phát triển rừng cộng đồng thông qua quản lý lâm nghiệp, khuyến lâm và trồng rừng.
Trong năm 1980, lâm nghiệp xã hội được khuyến khích bởi các cơ quan lâm nghiệp cộng đồng Chính sách lâm nghiệp quốc gia được phê duyệt năm
Năm 1988, chính sách Chương trình quản lý rừng được triển khai, giao trách nhiệm cụ thể cho Bộ Lâm nghiệp trong việc quản lý các lô rừng Đặc biệt, người dân có trách nhiệm bảo vệ rừng Đến năm 1992, mười bảy tiểu bang của Ấn Độ đã tham gia vào công tác quản lý rừng, và đến năm 2006, Luật chủ rừng chính thức được ban hành.
Hệ thống khuyến nông khuyến lâm Trung Quốc được thành lập năm
Vào những năm 1970, công tác đào tạo khuyến nông tại Trung Quốc được chú trọng đáng kể Từ 1951 đến 1978, Trung Quốc đã tổ chức Hợp tác xã (HTX) và Công xã nhân dân, do đó, hoạt động khuyến nông chủ yếu được triển khai tại các HTX Giai đoạn này tập trung vào việc phổ biến đường lối, chủ trương nông nghiệp của Đảng và Chính phủ, đồng thời chuyển giao công nghệ kỹ thuật nông nghiệp và xây dựng các mô hình điểm để người dân có thể tham quan, học tập và áp dụng.
Từ năm 1995, Trung Quốc đã thực hiện các chính sách hỗ trợ nông nghiệp nhằm sản xuất sản phẩm chất lượng cao, bao gồm việc chuyển giao giống cây rừng và lúa lai chất lượng Trong hai mươi năm qua, Nhà nước đã đầu tư vào hệ thống tổ chức và cơ sở nghiên cứu cho khuyến nông khuyến lâm, nâng cao điều kiện làm việc và đời sống của khuyến nông lâm viên Theo tác giả Phạm Kim Oanh (2004), tính đến cuối năm 1997, Trung Quốc có hơn 48.500 tổ chức khuyến nông khuyến lâm với 317 nghìn khuyến nông - khuyến lâm viên, phối hợp với khoảng 400 nghìn tổ chức nông dân và hơn một triệu nông dân kỹ thuật viên, tạo ra 6,6 triệu mô hình trình diễn.
Công tác khuyến nông lâm tại Campuchia do Cục Khuyến nông (DAE) thuộc Bộ Nông nghiệp, Lâm nghiệp và Thủy sản (MAFF) đảm nhiệm, với mục tiêu xây dựng hệ thống khuyến nông từ Trung ương đến cấp huyện, phù hợp với nhu cầu địa phương DAE phối hợp các hoạt động khuyến nông thông qua các bộ phận kỹ thuật, tổ chức nghiên cứu, cơ quan cấp tỉnh, và khu vực tư nhân, nhằm mang lại lợi ích tốt nhất cho nông dân Phương pháp tiếp cận của hoạt động khuyến nông lâm bao gồm lập kế hoạch và đánh giá có sự tham gia, phát triển công nghệ, đào tạo và mở rộng, cùng với việc phát triển và phổ biến tài liệu, cũng như xây dựng tổ chức nông dân.
Indonesia là một quốc gia có nền nông nghiệp phát triển tương đối trong khu vực, với Trung tâm khuyến lâm thuộc Bộ Lâm nghiệp quản lý các hoạt động khuyến lâm và phát triển lâm nghiệp bền vững Theo tác giả Nur Hidayat (2009), hiện tại Indonesia có hơn 30.000 cán bộ khuyến nông, trong đó có trên 5.200 khuyến lâm viên.
Về khuyến lâm
Từ năm 1993 đến 1995, Bộ Lâm nghiệp đã thành lập bộ phận khuyến lâm thuộc Vụ Lâm sinh Từ năm 1996 đến 2000, phòng Khuyến lâm được thành lập trực thuộc Cục Khuyến nông khuyến lâm.
Từ năm 2001 đến 2004, phòng Khuyến lâm được thành lập dưới sự quản lý của Cục Phát triển lâm nghiệp Từ năm 2005 đến 2010, phòng Khuyến lâm thuộc Trung tâm Khuyến nông Quốc gia đã được hình thành Tại các địa phương, trong số 63 tỉnh thành, chỉ một số ít tỉnh thành lập phòng Khuyến lâm trực thuộc Trung tâm Khuyến nông tỉnh, với mỗi trung tâm chỉ có từ 1-2 cán bộ được đào tạo về lâm nghiệp trong tổng số 20-25 cán bộ khuyến nông.
Theo báo cáo, chỉ có 4/73 người ở cấp Trung ương, 96/1431 người ở cấp tỉnh, 295/2813 người ở cấp huyện và 1.942/15.362 người ở cấp xã được đào tạo về lâm nghiệp Điều này cho thấy số lượng cán bộ khuyến lâm chỉ chiếm khoảng 10% tổng số cán bộ khuyến nông chuyên trách.
Hệ thống khuyến lâm hiện nay gặp khó khăn về cả số lượng lẫn chất lượng, do cán bộ khuyến lâm chủ yếu được đào tạo chuyên sâu trong lĩnh vực riêng, dẫn đến thiếu hụt kiến thức liên ngành và các kiến thức cơ bản về khuyến lâm.
Kinh phí hoạt động cho hoạt động khuyến lâm nằm trong kinh phí cấp theo các chương trình khuyến nông được phê duyệt
Giai đoạn 1993-2005, sau khi thành lập vào năm 1993, doanh nghiệp đã nhận được sự hỗ trợ đầu tư từ Chính phủ với số tiền 1,268 tỷ đồng Đến năm 2005, con số này đã tăng lên 97,8 tỷ đồng, với mức tăng trung bình hàng năm đạt hơn 8,04 tỷ đồng, tương đương trên 12%.
Năm 2005, kinh phí hỗ trợ cho hoạt động khuyến nông đạt 542,931 tỷ đồng, trong đó hỗ trợ cho khuyến lâm là 66,6 tỷ đồng, chiếm khoảng 12,6% Hoạt động này đã được triển khai trên tổng diện tích 19.940 ha.
Hơn 20.804 hộ gia đình đã tham gia các chương trình trồng cây, trong đó nổi bật là chương trình trồng tre lấy măng, chương trình trồng cây nguyên liệu giấy và chương trình trồng cây đặc sản.
Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2011), từ năm 2006 đến 2011, chương trình khuyến lâm đã được triển khai tại 55 tỉnh, với 51.575 hộ tham gia và tổng kinh phí 76 tỷ đồng, chiếm 9% trong tổng số 843,880 tỷ đồng dành cho hoạt động khuyến nông Chương trình bao gồm các hoạt động như trồng rừng thâm canh cây nguyên liệu, cây gỗ lớn, cây lâm sản ngoài gỗ, và tổ chức tập huấn nghiệp vụ khuyến lâm cho cán bộ kiểm lâm.
Trong nhiều năm qua, việc quản lý kinh phí khuyến lâm ở trung ương vẫn còn phân tán với nhiều đầu mối thực hiện như Trung tâm Khuyến nông Quốc gia và các cục liên quan Kinh phí khuyến lâm bao gồm nhiều hạng mục và có sự khác biệt giữa các vùng miền Các vùng miền núi và đặc biệt khó khăn được ưu tiên hỗ trợ 60% chi phí giống và 40% chi phí vật tư, trong khi đó vùng đồng bằng chỉ nhận hỗ trợ 40% và 20% cho việc xây dựng mô hình.
Các địa phương đều chú trọng đến chính sách khuyến nông và khuyến lâm viên cơ sở, nhưng việc thực hiện các chế độ chính sách này chưa đồng nhất, chủ yếu phụ thuộc vào nguồn kinh phí của từng địa phương.
Nhận xét, đánh giá chung
Điểm qua tình hình phát triển khuyến nông lâm ở trên thế giới và ở Việt Nam có thể rút ra nhận xét như sau :
Công tác khuyến lâm đang được nhiều quốc gia chú trọng, với việc hình thành các bộ phận chuyên trách và phát triển đội ngũ cán bộ từ Trung ương đến địa phương, cùng với đầu tư mạnh mẽ cho nghiên cứu và chuyển giao kỹ thuật Kết quả đạt được đã góp phần quan trọng vào phát triển hệ thống lâm nghiệp, đảm bảo đời sống người dân và hạn chế nóng lên toàn cầu Tại Việt Nam, khuyến nông lâm đã được coi trọng từ thời phong kiến và tiếp tục ưu tiên phát triển qua các giai đoạn lịch sử để đảm bảo an ninh lương thực và phát triển nông nghiệp Nhiều trung tâm khuyến nông được thành lập, với đội ngũ cán bộ đông đảo, nhằm cải thiện sinh kế cộng đồng, xóa đói giảm nghèo và phát triển rừng bền vững, đặc biệt tại khu vực đồi núi nơi đời sống người dân phụ thuộc lớn vào rừng.
Hằng năm, chính phủ đầu tư hàng tỷ đồng cho công tác khuyến lâm từ trung ương đến địa phương Tuy nhiên, không phải tất cả các mô hình khuyến lâm đều mang lại hiệu quả tốt, và việc xác định những bất cập trong quá trình chuyển giao các mô hình này là rất quan trọng Trả lời những câu hỏi này sẽ giúp định hướng phát triển khuyến lâm trong giai đoạn tiếp theo, vì vậy, nghiên cứu đề tài này là cần thiết.
MỤC TIÊU, ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Mục tiêu nghiên cứu
Nâng cao hiệu quả xây dựng mô hình khuyến lâm với các loài cây lâm sản ngoài gỗ tại tỉnh Quảng Ninh không chỉ dựa trên các cơ sở khoa học mà còn cần thực tiễn áp dụng Việc này góp phần quan trọng vào việc cải thiện đời sống của người dân địa phương, mang lại lợi ích kinh tế và phát triển bền vững cho cộng đồng.
2.1.2 Mục tiêu cụ thể Đánh giá được hiệu quả của một số mô hình trồng cây LSNG do địa phương thực hiện : mô hình trồng Ba kích (Morinda officinalis How), Mây nếp (Calamus tetradactylus Hance), tre Bát độ(Dendrocalamus latiflorus) tại tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2006 – 2011 Đề xuất được một số giải pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu quả xây dựng mô hình khuyến lâm nói chung và mô hình trồng cây LSNG nói riêng từ đó có thể áp dụng chuyển giao tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất, làm cơ sở để nhân rộng.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Mô hình khuyến lâm trồng cây LSNG tại tỉnh Quảng Ninh bao gồm các loại cây như Ba kích (Morinda officinalis How), Mây nếp (Calamus tetradactylus Hance) và tre Bát độ (Dendrocalamus latiflorus) Những mô hình này không chỉ giúp bảo vệ môi trường mà còn mang lại giá trị kinh tế cho người dân địa phương Việc phát triển các loại cây này phù hợp với điều kiện tự nhiên của Quảng Ninh, góp phần vào sự phát triển bền vững của ngành lâm nghiệp trong khu vực.
Nội dung nghiên cứu
Để đạt được các mục tiêu nghiên cứu, bài viết sẽ đánh giá thực trạng tổ chức triển khai mô hình khuyến lâm trồng cây lâm sản ngoài gỗ, bao gồm Ba kích, Mây nếp và Tre bát độ, tại tỉnh Quảng Ninh trong giai đoạn 2006 - 2011.
Mô hình khuyến lâm trồng cây LSNG tại tỉnh Quảng Ninh, bao gồm các loại cây như Ba kích, Mây nếp và tre Bát độ, đã được đánh giá kết quả trong giai đoạn 2006-2011 Những kết quả này cho thấy hiệu quả kinh tế và môi trường của mô hình, đồng thời góp phần vào việc phát triển bền vững khu vực.
+ Đánh giá tác động của một số mô hình khuyến lâm đã xây dựng tại tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2006-2011 (Ba kích, Mây nếp, tre Bát độ)
Trong giai đoạn hiện nay, việc triển khai xây dựng các mô hình khuyến lâm trồng cây LSNG tại tỉnh Quảng Ninh mang lại nhiều thuận lợi như sự hỗ trợ từ chính quyền địa phương và sự quan tâm của người dân Tuy nhiên, cũng gặp phải không ít khó khăn, bao gồm việc thiếu nguồn lực và kinh nghiệm trong quản lý dự án Bài học kinh nghiệm rút ra là cần tăng cường đào tạo cho người dân và cải thiện cơ chế phối hợp giữa các bên liên quan để nâng cao hiệu quả triển khai mô hình.
Để nâng cao hiệu quả công tác xây dựng mô hình khuyến lâm trồng cây LSNG và chuyển giao tiến bộ kỹ thuật trong lâm nghiệp, cần đề xuất một số giải pháp thiết thực Đầu tiên, tăng cường đào tạo và nâng cao nhận thức cho người dân về lợi ích của việc trồng cây LSNG Thứ hai, phát triển các chương trình hỗ trợ kỹ thuật và tài chính cho các hộ gia đình tham gia trồng cây Cuối cùng, cần xây dựng mạng lưới kết nối giữa các nhà khoa học, doanh nghiệp và nông dân để chia sẻ thông tin và kinh nghiệm trong việc áp dụng tiến bộ kỹ thuật.
Phương pháp nghiên cứu
2.4.1 Quan điểm và cách tiếp cận
Hoạt động khuyến lâm là cần thiết cho quốc gia có 3/4 diện tích đồi núi và nhiều dân cư phụ thuộc vào rừng Tuy nhiên, hiệu quả của mô hình khuyến lâm phụ thuộc vào nhiều yếu tố; một số mô hình được người dân hưởng ứng nhưng cũng có những mô hình không phù hợp Nguyên nhân không thành công có thể do hiệu quả kinh tế kém, tổ chức thực hiện kém hoặc tuyên truyền chưa tốt Đánh giá hiệu quả mô hình khuyến lâm, đặc biệt là mô hình trồng cây LSNG, cần phải toàn diện và tổng hợp các yếu tố liên quan Để đạt được điều này, đề tài thực hiện cách tiếp cận điều tra từ trên xuống và đánh giá từ dưới lên, đồng thời kế thừa các công trình nghiên cứu liên quan và bổ sung nội dung còn thiếu.
Hình 2.1: Sơ đồ các nội dung đánh giá:
2.4.2 Phương pháp nghiên cứu cụ thể
2.4.2.1 Phương pháp kế thừa số liệu, tài liệu
- Để thực hiện được các nội dung nghiên cứu trên, đề tài kế thừa các nguồn thông tin, số liệu sau:
Tỉnh Quảng Ninh có nhiều số liệu và tài liệu về điều kiện tự nhiên cũng như kinh tế - xã hội Thông tin liên quan đến tình hình thực hiện các mô hình khuyến lâm trồng cây LSNG như Ba kích, Mây nếp và Tre bát độ trong giai đoạn 2006-2011 đã được thu thập từ Trung tâm Khuyến nông tỉnh Quảng Ninh và Trung tâm Khuyến nông Quốc gia.
+ Các văn bản pháp quy có liên quan tới chính sách và tổ chức thực hiện hoạt động khuyến nông, khuyến lâm ở Việt Nam 2006 - 2011
2.4.2.2 Đánh giá thực trạng tổ chức triển khai xây dựng các mô hình khuyến lâm trồng cây LSNG ở tỉnh Quảng Ninh , giai đoạn 2006 – 2011 Để đánh giá thực trạng các mô hình khuyến lâm trồng cây LSNG (Ba kích, Mây nếp, tre Bát độ) được triển khai tại Quảng Ninh giai đoạn 2006-
2011, đề tài kế thừa số liệu và làm việc với các đơn vị để thu thập những thông tin
Phương pháp chính để thu thập thông tin trong nghiên cứu này là sử dụng bộ công cụ PRA, thông qua việc phỏng vấn các đối tượng liên quan và thu thập tài liệu sơ cấp Chúng tôi sẽ làm việc với lãnh đạo Trung tâm Khuyến nông Quốc gia để làm rõ các vấn đề cần thiết.
- Chủ trương của Đảng, nhà nước và của ngành lâm nghiệp về vấn đề khuyến lâm trong giai đoạn 2006 - 2011 và trong giai đoạn tiếp theo
Trong giai đoạn 2006 - 2011, ngành lâm nghiệp đã triển khai nhiều dự án khuyến lâm, xây dựng các mô hình khuyến lâm trồng cây LSNG tại nhiều tỉnh Các dự án này có quy mô diện tích và nguồn vốn đầu tư đa dạng, tập trung vào các loài cây trồng cụ thể Các biện pháp kỹ thuật áp dụng trong các mô hình được thực hiện bởi các đơn vị chuyên môn nhằm nâng cao hiệu quả trồng trọt và bảo vệ rừng.
Cần điều tra rõ ràng những thuận lợi và khó khăn trong việc triển khai các mô hình khuyến lâm trồng cây LSNG Trong số các mô hình khuyến lâm đã được xây dựng, cần xác định số lượng mô hình thành công và đánh giá mức độ chấp nhận cũng như khả năng nhân rộng của người dân địa phương đối với những mô hình này.
2.4.2.3 Đánh giá kết quả của một số mô hình khuyến lâm đã xây dựng tại tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2006-2011
Để đánh giá hiệu quả các mô hình khuyến lâm được triển khai tại Quảng Ninh trong giai đoạn 2006-2011, nghiên cứu đã tiến hành lựa chọn các mô hình phù hợp.
- Mô hình trồng cây Ba kích, mô hình trồng cây Mây nếp, mô hình trồng tre Bát độ
- Mô hình đánh giá phải nằm trên các địa bàn các huyện khác nhau
Trong cùng một xã thuộc huyện, với điều kiện tự nhiên và lập địa tương đồng, việc trồng và chăm sóc diễn ra đồng thời sẽ giúp so sánh hiệu quả giữa mô hình MHKL và mô hình đại trà.
Mô hình đề tài đánh giá hiệu quả tổ chức triển khai thông qua việc so sánh kế hoạch triển khai với kết quả nghiệm thu, bao gồm diện tích thực hiện, tỷ lệ sống của cây trồng, cũng như công tác thông tin tuyên truyền và đào tạo tập huấn.
Để đánh giá tình hình sinh trưởng của cây, nghiên cứu tiến hành đo các chỉ tiêu như đường kính tại độ cao 1,3m, chiều cao vút ngọn, số lượng cây mỗi bụi (đối với Tre bát độ và Mây nếp), số kg củ (đối với Tre bát độ và Ba kích), cũng như mật độ và tỷ lệ sống của cây.
Đối với mô hình trồng thuần loài, nghiên cứu tiến hành bố trí OTC trên diện tích 500 m² và thu thập số liệu sinh trưởng với điều kiện số cây lớn hơn 0 Trong khi đó, đối với các mô hình trồng xen, đề tài sẽ đo ngẫu nhiên 30 cây cho mỗi loài.
+ Đối với mô hình Mây nếp đề tài đo theo băng, đếm số cây/bụi; mô hình tre Bát Độ đếm số cây/bụi
2.4.2.4.Đánh giá tác động của một số mô hình khuyến lâm trồng cây LSNG (Ba kích, Mây nếp, Tre bát độ) tại tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2006-2011
* Tác động về nâng cao độ che phủ của rừng
* Tác động về thu hút sự tham gia của hộ gia đình
* Tác động về nâng cao nhận thức của người dân
* Tạo công ăn việc làm cho người dân
* Dự báo tác động về kinh tế
2.4.2.5 Phân tích những thuận lợi, khó khăn và bài học kinh nghiệm trong việc triển khai xây dựng các mô hình khuyến lâm trồng cây LSNG tại tỉnh Quảng Ninh Đề tài tiến hành sử dụng mô hình phân tích S.W.O.T (điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội, thách thức) để tiến hành phân tích những thuận lợi, khó khăn và bài học kinh nghiệm trong việc triển khai xây dựng các mô hình khuyến lâm trồng cây LSNG tại tỉnh Quảng Ninh
Chương 3 ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ- XÃ HỘI KHU VỰC NGHIÊN CỨU
VÀ THỰC TRẠNG NGÀNH LÂM NGHIỆP CỦA TỈNH.
Điều kiện tự nhiên
Quảng Ninh là tỉnh biên giới, miền núi và hải đảo thuộc vùng Đông Bắc Việt Nam, nằm trong dải hành lang biển lớn của Bắc Bộ Tỉnh kéo dài từ Đông Triều đến Bình Liêu - Móng Cái, giáp với vùng Thập Vạn Đại Sơn của Trung Quốc Quảng Ninh có đường biên giới đất liền dài 132,8 km và hải phận tiếp giáp với nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa Trung tâm tỉnh cách thủ đô Hà Nội 153 km qua quốc lộ 18.
- Từ 20 0 40’ đến 21 0 40’ Vĩ độ Bắc
- Từ 106 0 26’ đến 108 0 31’ Kinh độ Đông
Chiều ngang từ Đông sang Tây là 195 km, và chiều dọc từ Bắc xuống Nam là 102 km
* Ranh giới : Quảng Ninh có trên 300 km giáp với các tỉnh và 132,8 km giáp với Trung Quốc
- Phía Bắc giáp tỉnh Lạng Sơn và Trung Quốc
- Phía Đông giáp biển Đông
- Phía Tây và Tây Bắc giáp tỉnh Bắc Giang
- Phía Tây và Tây Nam giáp tỉnh Hải Dương
- Phía Nam giáp TP Hải Phòng
Quảng Ninh có vị trí địa lý thuận lợi, tạo điều kiện cho sự giao lưu kinh tế, văn hóa và khoa học kỹ thuật với Hà Nội, các tỉnh Bắc Bộ, toàn quốc và quốc tế Tổng diện tích tự nhiên của tỉnh là 607.813 km².
3.1.2 Địa hình địa thế Địa hình địa thế ở Quảng Ninh có thể chia thành 3 vùng chính:
3.1.2.1 Vùng núi thấp và trung bình Nam Mẫu - Bình Liêu Điển hình của vùng này là hai dãy Nam Mẫu (Yên Tử) và Bình Liêu được ngăn cách nhau bởi thung lũng các sông Ba Chẽ, Phố Cũ và Tiên Yên Hai dãy núi này gọi là cánh cung Đông Triều của vùng Đông Bắc Việt Nam
3.1.2.2 Vùng đồi và đồng bằng duyên hải
Khu vực này bao gồm các đồng bằng phù sa và thung lũng xen kẽ đồi núi, nằm ở phía Đông các huyện Quảng Hà, thị xã Móng Cái, Tiên Yên, Hoành Bồ, Yên Hưng, Đông Triều và thị xã Uông Bí So với các vùng đồng bằng khác, đây là những dải đất hẹp nhất, với chiều rộng tối đa chỉ 10 km.
Dải thung lũng nằm xen giữa các đồi núi, kéo dài song song với phía Tây của vùng đồng bằng, có độ cao phổ biến từ 50 đến 200 mét Địa hình ở đây có độ dốc thoải và nhiều đỉnh dông bằng, chủ yếu hình thành từ phù sa cổ.
Vùng biển này có khoảng 2000 hòn đảo lớn nhỏ, trải dài theo hình cánh cung song song với cánh cung Đông Triều, bao gồm những đảo lớn như Kế Bào, Cái Bàn, Cái Chiên, Ba Mùn và Cô Tô.
Khí hậu Quảng Ninh có đặc điểm chung của miền núi Bắc Việt Nam, đồng thời mang yếu tố riêng của tỉnh ven biển với các quần đảo ở huyện Cô Tô và Vân Đồn, thể hiện rõ nét đặc trưng khí hậu đại dương Dựa vào các yếu tố khí hậu đặc trưng, tỉnh được chia thành ba tiểu vùng khí hậu khác nhau.
Vùng trũng Ba Chẽ có địa hình lòng chảo, giúp nơi đây ít bị ảnh hưởng bởi gió bão và mang đặc trưng khí hậu miền núi Vào mùa đông, nhiệt độ tại đây có thể giảm xuống dưới mức trung bình.
20c, xuất hiện nhiều sương muối, lượng mưa trung bình hàng năm là 2317 mm
Vùng đồng bằng ven biển Đông Bắc, nằm ở phía nam cánh cung Đông Triều - Móng Cái, có thời tiết mát mẻ hơn vào mùa hè so với các khu vực khác và nhận lượng mưa trung bình hàng năm lên tới 2488 mm Khu vực này thường xuyên chịu ảnh hưởng của gió, bão và thủy triều.
Vùng hải đảo có khí hậu đại dương nhưng gần lục địa, với lượng mưa hàng năm trung bình đạt 1733 mm Khu vực này chịu ảnh hưởng lớn từ gió và bão, đặc biệt vào mùa Đông, khi sương mù xuất hiện, gây ảnh hưởng đến sản xuất vụ đông.
Khí hậu của Quảng Ninh rất thuận lợi cho sản xuất đa dạng các loại cây trồng nông - lâm nghiệp Tuy nhiên, hạn chế lớn nhất là lượng mưa lớn tập trung theo mùa, gây xói mòn và rửa trôi ở các vùng núi cao dốc và lưu vực sông suối Do đó, cần thiết phải tạo ra những vùng phòng hộ đầu nguồn để bảo vệ đất, giữ nước và phát triển sản xuất nông lâm nghiệp bền vững.
Quảng Ninh nổi bật với nhiều sông suối, tuy nhiên phần lớn đều nhỏ, lòng sông hẹp và dốc Các con sông thường có cự ly ngắn, chảy thẳng từ vùng núi ra biển, dẫn đến việc hầu hết không có vùng trung lưu và cửa sông tương đối rộng.
Tỉnh này có tổng cộng 8 con sông chảy qua, bao gồm sông Bạch Đằng, sông Đá Bạc, sông Diễn Vọng, sông Hà Cối, sông Ba Chẽ, sông Phố Cũ, sông Tiên Yên và sông Đầm Hà.
Các sông trong khu vực có diện tích lưu vực nhỏ, độ dốc lớn và khả năng điều tiết nước kém Chúng đều bắt nguồn từ vùng núi cánh cung Đông Triều, nơi có độ chênh cao đáng kể và nhiều gềnh thác.
Mạng lưới suối có mật độ 1,6 km/1km2, tuy diện tích lưu vực nhỏ nhưng thủy văn phức tạp với dòng chảy không đều trong năm Mùa lũ diễn ra từ tháng 5 đến tháng 10, trong khi mùa cạn từ tháng 11 đến tháng 4, chủ yếu phụ thuộc vào nguồn nước ngầm Do đó, việc xây dựng các hồ đập chứa nước và hệ thống rừng phòng hộ bền vững là rất quan trọng để cung cấp nước cho sản xuất nông - lâm nghiệp.
Theo các tài liệu điều tra nghiên cứu về đất, Quảng Ninh hiện có 5 nhóm đất chính:
Nhóm đất Feralít mùn vàng nhạt trên núi trung bình (FH)
Nhóm đất Feralít mùn vàng đỏ trên núi thấp (F)
Nhóm đất Feralít đỏ vàng điển hình vùng đồi (F)
Nhóm đất phù sa thung lũng và đồng bằng ven biển
Nhìn chung: Địa chất thổ nhưỡng ở Quảng Ninh có những đặc điểm khá đặc trưng:
Điều kiện kinh tế - xã hội
3.2.1 Đặc điểm dân tộc - dân số và lao động
Quảng Ninh có 8 dân tộc chung sống, trong đó: dân tộc Kinh chiếm 97%, Tày 0,52%, Dao 0,3%, các dân tộc khác như: Hoa, Sán Dìu, Nùng, Mường chiếm 2,18%
Có 10 huyện, thị xã và 4 thành phố với 184 xã, phường, thị trấn Tổng dân số là 1.081.363 người
- Dân số nông thôn và nông nghiệp chiếm 37%, trên địa bàn lâm nghiệp có 130/184 xã, phường, dân số 400.000 người với 104.683 hộ
Mật độ dân số trung bình của tỉnh đạt 183 người/km2, tuy nhiên, sự phân bố dân cư không đồng đều, chủ yếu tập trung tại các thành phố, thị xã, thị trấn và khu vực ven các tuyến đường giao thông.
Tỷ lệ tăng dân số trung bình toàn tỉnh đạt 1,02%, với mức cao nhất ở các huyện có nhiều dân tộc ít người như Ba Chẽ (1,66%) và Bình Liêu (1,64%) Trong khi đó, các thành phố và thị xã như Uông Bí chỉ đạt 0,89%, Cẩm Phả 0,77%, và thành phố Hạ Long 0,96%.
Tỉnh có tổng số lao động là 398.762 người, chiếm 36,9% dân số, trong đó lao động trong lĩnh vực nông- lâm- ngư nghiệp đạt 209.366 người, tương đương 52,5% Tại khu vực đất lâm nghiệp, lao động nông lâm nghiệp đóng vai trò chủ yếu.
Trong sản xuất nông nghiệp, nghề trồng trọt đóng vai trò chủ yếu và thu hút một lực lượng lao động lớn Ngoài việc sản xuất nông nghiệp, người lao động còn có thể tham gia vào phát triển lâm nghiệp xã hội, bao gồm các hoạt động như trồng rừng, nông lâm kết hợp và khoanh nuôi tái sinh rừng.
3.2.2 Thực trạng kinh tế chung của tỉnh
Trong những năm qua, Quảng Ninh đã tận dụng tối đa tiềm năng phát triển với tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân đạt 12,7%/năm giai đoạn 2005-2010 và 12,1% trong năm 2011 So với năm 2005, quy mô kinh tế năm 2011 gấp 205 lần, với GDP bình quân đầu người đạt 2.264 USD, tăng 3,1 lần Tổng thu ngân sách nhà nước trong giai đoạn 2005 - 2010 tăng trung bình 35,16%/năm, đạt mức cao nhất từ trước đến nay vào năm 2011 và đứng thứ 5 toàn quốc Tổng GDP toàn tỉnh vượt 29.000 tỷ đồng, với cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực, tỷ trọng nông nghiệp giảm, trong khi tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ tăng lên.
- Ngành du lịch, dịch vụ: 4,06 % GDP
Từ cơ cấu giá trị sản xuất cho thấy: Quảng Ninh có cơ cấu kinh tế phản ánh là tỉnh công nghiệp và dịch vụ
Kinh tế tỉnh đang trên đà phát triển với tốc độ tăng trưởng tương đương cả nước Tuy nhiên, đồng bào các dân tộc ở vùng sâu, vùng xa, đặc biệt là những khu vực lâm nghiệp, vẫn phải đối mặt với nhiều khó khăn trong cuộc sống.
(Nguồn: Niên giám thống kê năm 2011)
3.2.3 Thực trạng xã hội và cơ sở hạ tầng
Quảng Ninh sở hữu hệ thống giao thông đa dạng với đường bộ, đường thủy và đường sắt phát triển, chủ yếu phục vụ cho thành phố Hạ Long và các huyện lân cận.
18 từ Đông Triều đến Móng Cái Các huyện, xã ở vùng núi hải đảo mật độ đường giao thông còn thấp chỉ đạt 0,2 km/km2
Hệ thống công trình thủy lợi hiện tại chỉ đáp ứng khoảng 80% nhu cầu của tỉnh, với một số công trình lớn như đập Yên Lập, Tràng Vinh và Đầm Hà Động Nhiều công trình khác vẫn còn tạm thời và đang trong tình trạng xuống cấp, dẫn đến năng lực tưới tiêu chưa đủ cho diện tích canh tác nông nghiệp.
- Thực trạng trường phổ thông đã xây dựng cho các xã trong toàn tỉnh là 181/189 phường xã
Tính đến nay, toàn tỉnh đã hoàn thành chương trình xoá mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học với 189/189 xã phường đạt tiêu chí Đặc biệt, 110/189 xã phường cũng đã hoàn tất chương trình xoá mù chữ và phổ cập giáo dục phổ thông cơ sở.
Cơ sở vật chất và trang thiết bị của nhà trường đã được cải thiện đáng kể, góp phần nâng cao trình độ dân trí Tuy nhiên, vẫn còn một số xã vùng cao có trình độ dân trí thấp, cần được chú ý và hỗ trợ phát triển.
Tính đến thời điểm hiện tại, hệ thống cơ sở y tế trên toàn tỉnh đã được nâng cấp và hoàn thiện, với 100% xã có trạm y tế và tất cả các huyện, thị xã, thành phố đều sở hữu bệnh viện công lập.
Hoạt động khám chữa bệnh cũng được nâng cao, cho đến nay đã có 12 bác sỹ/1 vạn dân; 32 giường bệnh/1 vạn dân
Tỉnh Quảng Ninh có cơ sở hạ tầng và văn hóa xã hội phát triển, nhưng chủ yếu tập trung ở các thành phố, thị xã và vùng thấp Các khu vực miền núi và hải đảo vẫn gặp nhiều khó khăn và có trình độ dân trí thấp.
* Đánh giá chung về điều kiện kinh tế xã hội của tỉnh
Quảng Ninh, nằm trong vùng kinh tế động lực phía Bắc Việt Nam, sở hữu hệ thống giao thông đa dạng bao gồm đường bộ, đường sắt và đường thủy, tạo điều kiện thuận lợi cho giao lưu kinh tế với đồng bằng Bắc Bộ Đặc biệt, tỉnh có cửa khẩu với Trung Quốc và các nước trong khu vực qua biển, mang lại lợi thế quan trọng cho việc trao đổi hàng hóa, văn hóa và xã hội cả trong nước và quốc tế.
Với tỷ lệ đất lâm nghiệp cao lên đến 70%, cộng đồng dân cư nơi đây gắn bó chặt chẽ với rừng và đất lâm nghiệp, sở hữu nguồn lao động dồi dào và kinh nghiệm phong phú trong các hoạt động như trồng rừng, bảo vệ rừng, xây dựng trại rừng và vườn rừng Những năm gần đây, nhờ sự quan tâm của Nhà nước, tỉnh và các ngành liên quan, cùng với sự chuyển đổi nhận thức của người dân, công tác trồng rừng phòng hộ, rừng đặc dụng, rừng nguyên liệu gỗ trụ mỏ, cây đặc sản và phát triển kinh tế vườn đã đạt được nhiều kết quả kinh tế tích cực.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Thực trạng tổ chức triển khai xây dựng mô hình khuyến lâm trồng cây
* Mô hình và địa điểm nghiên cứu
Theo số liệu từ Trung tâm Khuyến nông, Khuyến ngư Quảng Ninh, trong giai đoạn 2006-2011, đã triển khai 10 mô hình khuyến lâm trồng cây LSNG trên diện tích 194 ha, bao gồm các loài cây như Ba kích, Mây nếp và tre Bát độ.
Bảng 4.1 Thông tin về đối tượng điều tra đánh giá
STT Tên mô hình Năm trồng Địa điểm triển khai
1 Trồng rừng thâm canh cây tre Bát độ 2006 Xã Vạn Yên, huyện
2 Trồng rừng thâm canh cây Mây nếp 2007 Xã Quảng Sơn , huyện
3 Trồng rừng thâm canh cây tre Bát độ 2007 Xã Thanh Lâm, huyện
4 Trồng thâm canh cây Ba kích 2007 Xã Thanh Sơn, huyện
5 Trồng rừng thâm canh cây Mây nếp 2008 Xã Đồng Văn, huyện
6 Trồng rừng thâm canh cây tre Bát độ 2008 Xã Ninh Dương, huyện
7 Trồng rừng thâm canh cây Mây nếp 2009 Xã Nam Sơn, huyện
8 Trồng rừng thâm canh cây tre Bát độ 2009 Xã Vĩnh Thực, thị xã
9 Trồng rừng thâm canh cây Mây nếp 2010 Xã Đồng Lâm, huyện
10 Trồng rừng thâm canh cây tre Bát độ 2010 Xã Tân Việt, huyện Đông Triều 22 30 1
Từ năm 2006 đến 2010, đã triển khai nhiều mô hình trồng cây thâm canh, bắt đầu với 01 mô hình trồng tre Bát độ vào năm 2006 Năm 2007, có thêm 03 mô hình, bao gồm 01 mô hình trồng Ba kích Trong giai đoạn từ năm 2008 đến 2010, mỗi năm chỉ thực hiện 02 mô hình trồng Mây nếp và tre Bát độ.
Kết quả của các mô hình
4.2.1 Tổ chức triển khai xây dựng và quản lý mô hình khuyến lâm
Mô hình khuyến lâm được triển khai thông qua sự phối hợp chặt chẽ giữa Trung tâm Khuyến nông Quốc gia, Trung tâm Khuyến nông Khuyến ngư tỉnh, Trạm khuyến nông huyện, cán bộ khuyến nông cơ sở, chính quyền địa phương và các chủ hộ thông qua hợp đồng trách nhiệm.
- Lập kế hoạch: Các mô hình khuyến lâm được xây dựng kế hoạch có
Mô hình khuyến lâm là một phần quan trọng trong phương thức tiếp cận khuyến nông, thông qua các mô hình trình diễn Đây là nội dung cơ bản trong hoạt động khuyến lâm nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất và phát triển bền vững.
4.2.1.1 Quy mô và điều kiện để thực hiện các mô hình trình diễn và tham gia triển khai các mô hình khuyến lâm
Mô hình khuyến lâm được tổ chức thành các điểm trình diễn, với mỗi mô hình không quá 5 điểm, mỗi điểm có quy mô từ 20-25ha Để tham gia vào mô hình khuyến lâm, người sản xuất cần đáp ứng một số điều kiện nhất định, đồng thời các đơn vị triển khai cũng phải có các tiêu chí cụ thể để đảm bảo hiệu quả của mô hình.
- Đối với người sản xuất, muốn tham gia vào mô hình trình diễn cần phải đáp ứng được các yêu cầu:
+ Có địa điểm để thực hiện mô hình trình diễn phù hợp với nội dung, quy trình kỹ thuật của mô hình;
Cam kết đầu tư vốn cho mô hình phù hợp với yêu cầu kỹ thuật, với kinh phí ngân sách Nhà nước hỗ trợ theo tiến độ và tỷ lệ đầu tư thực tế của chủ mô hình.
+ Chưa nhận hỗ trợ từ bất kỳ nguồn kinh phí nào của ngân sách Nhà nước cho cùng một nội dung của mô hình
- Đối với các đơn vị tham gia thực hiện việc triển khai mô hình cũng có những yêu cầu như:
+ Có chức năng, nhiệm vụ phù hợp với lĩnh vực thuộc chương trình, dự án khuyến nông;
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã quy định các tiêu chuẩn cho các đơn vị tham gia vào các chương trình và dự án khuyến nông, đảm bảo đủ năng lực để thực hiện hiệu quả các hoạt động này.
4.2.1.2 Mức hỗ trợ và đối tượng nhận hỗ trợ từ nguồn kinh phí trung ương trong thực hiện mô hình khuyến lâm
Công tác xây dựng mô hình khuyến lâm nhằm chuyển giao tiến bộ khoa học và kỹ thuật từ các mô hình trình diễn rộng rãi, góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông lâm nghiệp tại địa phương Điều này không chỉ nâng cao hiệu quả, năng suất và chất lượng sản xuất mà còn mang lại lợi ích cho nhiều đối tượng như nông dân, công nhân công ty lâm nghiệp, chủ trang trại, doanh nghiệp, hợp tác xã và tổ hợp tác sản xuất, chế biến, tiêu thụ lâm sản Mức hỗ trợ cho người sản xuất sẽ thay đổi tùy theo từng vùng miền.
- Đối với đồng bằng hỗ trợ 40% chi phí giống và 20% chi phí phân bón;
- Đối với miền núi hỗ trợ 60% chi phí giống và 40% chi phí phân bón;
- Đối với hộ nghèo ở miền núi, vùng sâu, biên giới được hỗ trợ 80% chi phí giống và 60% chi phí phân bón
Tỉnh Quảng Ninh, với đặc thù là tỉnh miền núi, biên giới và hải đảo, được áp dụng mức hỗ trợ 60% chi phí giống và 40% chi phí phân bón cho nông dân Trong giai đoạn 2009-2010, theo Quyết định số 162/2008/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, các mô hình khuyến nông tại vùng khó khăn được phê duyệt mức hỗ trợ 100% chi phí giống và vật tư thiết yếu Hiện tại, tỉnh Quảng Ninh có 53/189 xã thuộc vùng khó khăn và được hưởng hỗ trợ 100% chi phí giống và phân bón trong các chương trình khuyến nông của địa phương và Trung ương.
Cây trồng lâm nghiệp có đặc thù là cây dài ngày, vì vậy mức hỗ trợ được tính trong vòng 3 năm Trong năm đầu tiên, hỗ trợ sẽ bao gồm chi phí giống và phân bón.
2 và thứ 3 chỉ hỗ trợ chi phí phân bón (40%)
Mô hình không chỉ hỗ trợ chi phí giống và phân bón mà còn cung cấp kinh phí cho việc thuê cán bộ kỹ thuật để chỉ đạo, tổ chức tập huấn, thông tin tuyên truyền, thăm quan và hội thảo tổng kết, như được trình bày trong bảng 4.2.
Bảng 4.2 Định mức triển khai xây dựng mô hình STT Hạng mục Năm thứ 1 Năm thứ 2 Năm thứ 3
Chuyển giao kỹ thuật gây trồng
Chuyển giao kỹ thuật chăm sóc và bón phân 1 lần trong 2 ngày
Chuyển giao kỹ thuật chăm sóc và bảo vệ 1 lần trong
Xây dựng biển quảng cáo mô hình
Viết bài quảng bá mô hình
Tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng
3 Tham quan, hội thảo tổng kết
Tham quan 1 lần; sơ kết 1 lần Sơ kết 1 lần Tổng kết, hội thảo
4 Cán bộ chỉ đạo: 1 người/20-25ha 9 tháng 6 tháng 4 tháng
Để triển khai mô hình khuyến lâm hàng năm, cần thực hiện theo một trình tự cụ thể được quy định bởi Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn.
Để xây dựng và phê duyệt kế hoạch cho các mô hình thực hiện bằng nguồn ngân sách địa phương, cần có sự tham gia của các hộ dân dưới sự hướng dẫn của cán bộ kỹ thuật Sau khi hoàn thành, bản kế hoạch phải được báo cáo trước toàn thể thôn bản, nơi mà cộng đồng có quyền góp ý và chỉnh sửa nội dung trước khi thống nhất và gửi lên các cấp phê duyệt Đối với các mô hình sử dụng nguồn vốn ngân sách Trung ương, các đơn vị cần đề xuất danh mục mô hình khuyến lâm với các tiêu chí như quy mô, địa điểm triển khai, đối tượng và loài cây, và gửi đến Trung tâm KNQG trước ngày 31 tháng 5.
Trung tâm KNQG sẽ thẩm định nội dung và dự toán chi tiết các chương trình khuyến lâm trước ngày 30 tháng 9 Sau đó, Bộ sẽ phê duyệt dự toán cho các chương trình này trước ngày 15 tháng 11.
Bộ, Trung tâm KNQG tiến hành ký hợp đồng với các đơn vị triển khai xây dựng mô hình khuyến lâm
- Triển khai xây dựng mô hình:
Sau khi ký hợp đồng, đơn vị triển khai xây dựng mô hình có thể lựa chọn nhiều hình thức triển khai khác nhau, tùy thuộc vào khả năng và cách tiếp cận Đơn vị có thể dựa vào hệ thống khuyến nông các cấp, triển khai trực tiếp đến thôn và hộ dân, hoặc ký hợp đồng với hệ thống khuyến nông Thông thường, đầu mối địa phương được xác định dựa vào chính quyền cấp xã.
Các đơn vị tư vấn phối hợp với chính quyền xã cần dựa trên tình hình thực tế và quy hoạch đất đai địa phương để xây dựng kế hoạch triển khai cụ thể Họ sẽ thông báo cho người dân về chương trình hỗ trợ xây dựng mô hình cây trồng, bao gồm loại cây, mức hỗ trợ, đối tượng được hưởng, mùa vụ và thời gian triển khai.
Người dân có quyền tự quyết định tham gia hoặc cần tham gia các cuộc họp dân để nhận được sự vận động và giải thích từ cán bộ xã, trưởng thôn, trưởng bản cùng với cán bộ kỹ thuật.
Đánh giá tác động của một số mô hình Mây nếp, tre Bát độ, Ba kích tại tỉnh Quảng Ninh, giai đoạn 2006 – 2011
4.3.1 Tác động về xã hội
4.3.1.1 Tác động tới nhận thức
Mô hình trình diễn khuyến lâm nhằm mục đích giới thiệu các tiến bộ kỹ thuật và giống cây mới cho người dân, từ đó hướng dẫn họ áp dụng Trong giai đoạn 2006-2011, các mô hình khuyến lâm tại Quảng Ninh đã góp phần nâng cao nhận thức của cộng đồng về nông nghiệp bền vững Chi tiết về sự nâng cao nhận thức được thể hiện trong bảng 4.8.
Bảng 4.8 Nhận thức của người dân khi có mô hình khuyến lâm
Số người điều tra (100 người) Ghi chú Đồng ý %
Hiểu được quyền và trách nhiệm tham gia mô hình 82 82
Hiểu biết về kỹ thuật trồng rừng và bảo vệ rừng
- Dự án LN tại địa phương 25 25
- Tự tìm hiểu từ nguồn khác 7 7
Muốn tham gia dự án 100 100
Có được kiến thức kỹ thuật trong trồng
Lựa chọn loài cây khi tham gia mô hình Nhà nước đầu tư
Lựa chọn loài cây LSNG gì khi tự nhân rộng?
Người dân tự đầu tư
Tại 10 mô hình khảo sát đã có 242 hộ tham gia lớp tập huấn kỹ thuật,
Trong năm qua, có 242 lượt người tham gia tham quan học tập và 292 lượt người dự hội thảo tổng kết mô hình Ngoài việc tổ chức các buổi tập huấn, các đơn vị cũng đã chú trọng vào công tác thông tin tuyên truyền để nâng cao hiệu quả hoạt động.
Hình 4.14 Tập huấn kỹ thuật xây dựng mô hình
Dựa trên kết quả khảo sát 100 người tham gia xây dựng mô hình tại khu vực trình diễn, nghiên cứu chỉ ra rằng mô hình khuyến lâm đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao nhận thức của cộng đồng.
Theo khảo sát, 82% người dân đã hiểu rõ quyền lợi và trách nhiệm của mình khi tham gia mô hình, với 100% người tham gia bày tỏ nguyện vọng tham gia Cụ thể, mô hình Tre Bát Độ thu hút 92% sự quan tâm, tiếp theo là Mây nếp với 75%, và mô hình Ba Kích đứng thứ ba với 56%.
Nếu người dân tự đầu tư để nhân rộng mô hình, tỷ lệ tham gia sẽ thấp hơn so với khi có sự đầu tư từ Nhà nước Điều này cho thấy người dân vẫn có tâm lý trông chờ vào sự hỗ trợ từ Nhà nước và chưa thực sự mạnh dạn trong việc đầu tư.
Trên các mô hình điều tra đã có 242 lượt người đến thăm quan học tập,
Hội thảo tổng kết mô hình thu hút 292 người tham dự, trong đó 211 hộ tự bỏ vốn trồng được 188 ha cây trồng từ 3 loài LSNG Cụ thể, cây Tre Bát chiếm ưu thế với 104/188 ha, tiếp theo là Mây nếp với 67/188 ha, và cây Ba kích với 17 ha Số liệu về ảnh hưởng của mô hình khuyến lâm đến nhận thức và việc nhân rộng mô hình được trình bày trong bảng 4.9.
Bảng 4.9 Nhân rộng mô hình khuyến lâm
Tên mô hình Địa điểm
Triển khai mô hình Nhân rộng
Trồng rừng thâm canh cây Tre Bát Độ
Xã Vạn Yên huyện Vân Đồn
Trồng rừng thâm canh cây Mây nếp
Xã Quảng Sơn huyện Hải Hà)
Trồng rừng thâm canh cây Tre Bát Độ
Trồng thâm canh cây Ba kích
Xã Thanh sơn huyện Ba Chẽ 16 30 30 35 17 20
Trồng rừng thâm canh cây Mây nếp
Xã Đồng Văn huyện Bình Liêu
Trồng rừng thâm Xã Ninh 19 25 25 30 16 20
Tên mô hình Địa điểm
Triển khai mô hình Nhân rộng
Số hộ (người) canh cây Tre Bát Độ Dương huyện
Hải Hà Trồng rừng thâm canh cây Mây nếp
Xã Nam Sơn huyện Ba Chẽ 19 20 20 25 15 16
Trồng rừng thâm canh cây Tre Bát Độ
Xã Vĩnh Thực thị xã Móng Cái
Trồng rừng thâm canh cây Mây nếp
Xã Đồng Lâm huyện Hoành
Trồng rừng thâm canh cây Tre Bát Độ
Xã Tân Việt huyện Đông Triều
Tre Bát Độ là loài cây có tốc độ sinh trưởng nhanh và khả năng thích nghi tốt với nhiều loại đất, đồng thời thị trường tiêu thụ măng ổn định Với những ưu điểm này, mô hình trồng Tre Bát Độ đang được nhiều người dân nhân rộng để phát triển kinh tế và tạo nguồn nguyên liệu bền vững.
Mây nếp có khả năng nhân rộng trung bình, hiện tại chỉ có một số hộ gia đình trồng, chủ yếu để tận dụng làm hàng rào cho vườn nhà.
Ba kích có khả năng nhân rộng hạn chế do thị trường tiêu thụ không ổn định, năng suất thấp và chất lượng củ kém Giá thành hạ cũng khiến người dân không mặn mà với việc phát triển loài cây này.
4.3.2 Tác động tới phát triển kinh tế - xã hội
4.3.2.1 Tác động đến kinh tế
Mô hình khuyến lâm hiện tại chỉ hỗ trợ trong một hoặc hai năm, không đủ thời gian để đánh giá giá trị kinh tế một cách chính xác Tuy nhiên, trong thời gian tham gia, các hộ gia đình đã biết tận dụng nguồn tài nguyên rừng để thu hoạch sản phẩm phụ, từ đó cải thiện đời sống và giảm thiểu tình trạng phá rừng Đặc biệt, mô hình tre Bát độ với mật độ 460 bụi/ha, bắt đầu cho thu hoạch măng từ năm thứ ba, có thể mang lại sản lượng trung bình 10kg măng/bụi, tương đương 41,4 triệu đồng/ha với giá măng là 9.000đ/kg.
Hình 4.15 Hiệu quả kinh tế từ mô hình trồng tre Bát Độ
Nếu cây ở tuổi 5 sản lượng bình quân 20kg/bụi, người dân có thể thu
Mô hình trồng cây Mây nếp tại xã Quảng Sơn, huyện Hải Hà đã cho thu hoạch với năng suất bình quân đạt 50 tạ/ha, tương đương giá trị 55 triệu đồng, với giá Mây nếp khoảng 11.000 đồng/kg Sản phẩm chủ yếu thu được là thân Mây nếp, bên cạnh một phần hạt giống.
Các mô hình Mây nếp chưa đến chu kỳ khai thác không mang lại thu nhập, do đó không thể đánh giá hiệu quả kinh tế Trong khi đó, đối với các mô hình trồng cây Ba kích, hiệu quả kinh tế chỉ được tính khi đạt đến mật độ khai thác nhất định.
Trên mỗi hecta, có thể trồng khoảng 850 cây, với mỗi gốc cho khoảng 1,2 kg củ tươi Theo giá hiện tại, mỗi kg củ tươi được bán với giá khoảng 110.000 đồng Sau một chu kỳ trồng kéo dài 4 năm, người dân có thể thu về khoảng 112 triệu đồng, tương đương với bình quân 28 triệu đồng mỗi hecta mỗi năm.
4.3.2.2 Tạo công ăn việc làm
Triển khai các mô hình khuyến lâm tại địa phương đã góp phần tạo ra nhiều cơ hội việc làm cho người lao động, đồng thời tận dụng hiệu quả thời gian nông nhàn.
Người tham gia mô hình cần dành từ 200 - 228 công lao động cho 1 ha trong 3 năm, với 140-150 công cho năm đầu để thực hiện các công việc như phát thực bì, đào hố, vận chuyển cây giống, lấp hố, chăm sóc, vun xới, bón phân và trồng dặm Trong năm thứ hai và ba, khoảng 60-78 công sẽ được sử dụng cho việc chăm sóc và phát dọn thực bì tùy theo mức độ xâm lấn Việc triển khai các mô hình khuyến nông không chỉ tạo việc làm cho người dân địa phương theo nghề rừng mà còn góp phần ổn định trật tự xã hội trong khu vực.
4.3.2.3 Tác động về môi trường
Phân tích thuận lợi, khó khăn trong xây dựng các mô hình khuyến lâm
Dựa trên thống kê khảo sát 10 mô hình và kết quả điều tra, phỏng vấn người dân, các đơn vị triển khai và đơn vị chủ quản, những thuận lợi và khó khăn trong việc xây dựng mô hình khuyến lâm tại khu vực nghiên cứu đã được xác định rõ ràng.
Diện tích đất rừng đã được giao cho các chủ quản lý, giúp nâng cao ý thức trách nhiệm trong sản xuất và thuận tiện cho công tác quản lý Điều này tạo nền tảng vững chắc cho việc lựa chọn các hộ gia đình tham gia vào mô hình khuyến lâm.
+ Hầu hết đất trên các khu vực nghiên cứu còn khá tơi xốp, phù hợp với nhiều loại cây trồng Lâm nghiệp
Các cấp chính quyền tỉnh, huyện, xã đang tích cực quan tâm đến phát triển lâm nghiệp và xây dựng các mô hình khuyến lâm Qua việc thiết lập hợp đồng và quy chế phối hợp, quyền và trách nhiệm của các bên tham gia được xác định rõ ràng Trong giai đoạn đầu triển khai các mô hình mới, các đơn vị thường dựa vào đội ngũ cán bộ xã, trưởng thôn, bản hoặc đảng viên gương mẫu để tham gia và tuyên truyền, vận động người dân thực hiện theo.
Mô hình khuyến lâm được xây dựng với sự phân công rõ ràng trách nhiệm cho các cán bộ kỹ thuật, mỗi người sẽ phụ trách 25-30 ha Diện tích này phù hợp để đảm bảo việc theo dõi, giám sát và đánh giá hiệu quả của mô hình.
Trong quá trình triển khai, các đơn vị đã thực hiện đầy đủ các bước quan trọng như khảo sát, lựa chọn hộ, lập kế hoạch, tổ chức tập huấn, thực hiện thăm quan, tiến hành thực hiện kế hoạch, và thực hiện giám sát, đánh giá cùng với việc đưa ra khuyến cáo.
Hầu hết các huyện tại tỉnh Quảng Ninh đều thể hiện sự đồng thuận và trách nhiệm cao trong việc triển khai mô hình khuyến lâm, điều này góp phần tạo thuận lợi cho quá trình xây dựng, chuyển giao và giám sát kỹ thuật.
Các mô hình khuyến lâm được triển khai bởi trung tâm khuyến nông tỉnh, mang lại lợi thế nhờ đội ngũ cán bộ dày dạn kinh nghiệm và hiểu biết về phong tục tập quán của đồng bào dân tộc thiểu số, từ đó dễ dàng truyền đạt kiến thức đến cộng đồng tham gia xây dựng mô hình.
+ Các giống cây tốt đã được công nhận, được chuyển giao xây dựng mô hình cho các vùng sinh thái khác nhau
Các loài cây rừng trong mô hình đều thuộc danh mục đã được Bộ và ngành chuyên môn phê duyệt, nhằm phục vụ cho mô hình khuyến lâm và đi kèm với quy trình kỹ thuật trồng trọt.
Chính sách của Nhà nước về giao đất, giao rừng và hưởng lợi từ rừng đang hướng tới xã hội hóa nghề rừng, theo Nghị định 163/CP năm 1999 và Nghị định 181/CP năm 2000 Các văn bản này hướng dẫn thi hành Luật Đất đai năm 2003 và Quyết định 661/QĐ/TTg ngày 29/7/1998, nhằm mục tiêu trồng mới 5 triệu ha rừng.
178/2001/QĐ/TTg, về quyền lợi, nghĩa vụ của các chủ rừng kinh doanh sản xuất lâm nghiệp
Địa phương đã triển khai các chính sách sử dụng ngân sách địa phương nhằm xây dựng mô hình khuyến lâm, cụ thể là Quyết định 1602/QĐ-UBND và Công văn số 2490/UBND-NLN2 ngày 12 tháng 6 của UBND tỉnh Quảng Ninh, liên quan đến việc đầu tư nguồn vốn ngân sách cho mô hình khuyến lâm tại các xã và huyện miền núi.
Nhà nước đã ban hành các chính sách và chế độ nhằm hướng dẫn và triển khai hoạt động khuyến lâm, bao gồm Nghị định 56/2005/NĐ-CP ngày 26/4/2005 về khuyến nông và khuyến ngư Bên cạnh đó, Thông tư 30/2006/TTLT-BTC-BNN&PTNT-BTS ngày 26/4/2006 quy định về quản lý và sử dụng kinh phí sự nghiệp kinh tế cho hoạt động khuyến nông, khuyến ngư Đặc biệt, Thông tư 50/2007/TTLT-BTC-BNN-BTS ngày 21/7/2007 đã sửa đổi và bổ sung một số nội dung của Thông tư số 30/2006, góp phần hoàn thiện khung pháp lý cho các hoạt động này.
Vào ngày 6/4/2006, BNN&PTNT-BTS đã hướng dẫn quản lý và sử dụng kinh phí cho hoạt động khuyến nông, khuyến ngư Tiếp theo, Quyết định 4227/QĐ-BNN-KHCN ngày 13/12/2007 đã phê duyệt quy định tạm thời về định mức trong các Chương trình, Dự án khuyến lâm Ngày 22/2/2008, Quyết định 37/QĐ-BNN ban hành quy chế quản lý chương trình, dự án khuyến nông, khuyến ngư quốc gia Đến ngày 17/3/2008, Quyết định 832/QĐ-BNN-KHCN phê duyệt đề án phát triển khuyến lâm giai đoạn 2008-2010 và định hướng đến 2020 Cuối cùng, Quyết định số 162/2008/QĐ-TTg ngày 04/12/2008 của Thủ tướng Chính phủ đã đưa ra chính sách khuyến nông, khuyến ngư cho các địa bàn khó khăn.
Mạng lưới cán bộ khuyến nông và khuyến lâm đã được phát triển đến từng thôn, bản, với đội ngũ cán bộ chuyên trách tại địa phương Những cán bộ này đã được đào tạo bài bản, có trình độ chuyên môn và phương pháp làm việc hiệu quả với cộng đồng.
Quảng Ninh là tỉnh được hưởng nhiều dự án và chương trình khuyến lâm như 661, 327, 30a, giúp nâng cao nhận thức của người dân về sản xuất lâm nghiệp và xây dựng mô hình khuyến lâm.
+ Nhu cầu lâm sản trong nước lớn, sản xuất mới đáp ứng được >50% nhu cầu gỗ trong nước, đặc biệt là gỗ lớn nhập khẩu >80%
Sự phát triển của cơ chế thị trường và giao thông thuận tiện đã giúp người sản xuất không còn lo lắng về đầu ra cho các loại cây rừng như tre Bát độ và Mây nếp, khi mà tư thương sẵn sàng vào mua ngay tại chân vườn rừng.
Đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu quả công tác xây dựng mô hình khuyến lâm và chuyển giao tiến bộ kỹ thuật trong lâm nghiệp, làm cơ sở nhân rộng
Qua nghiên cứu khảo sát tình hình triển khai mô hình khuyến lâm tại tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2006-2011, đề tài có một số đề xuất sau:
4.5.1 Giải pháp về tổ chức thực hiện hoàn thiện bộ máy khuyến nông
Kiện toàn cơ cấu tổ chức và quản lý hệ thống khuyến nông tại tỉnh Quảng Ninh theo nghị định 56/NĐ-CP ngày 26/5/2005 và nghị định 02/2010/NĐ-CP ngày 08/01/2010 Tất cả các huyện sẽ thành lập trạm khuyến nông trực thuộc Trung tâm khuyến nông tỉnh hoặc UBND huyện, đảm bảo mỗi xã có cán bộ khuyến nông viên cơ sở được hưởng lương từ ngân sách Nhà nước.
Tăng cường phân cấp trong hoạt động khuyến nông nhằm đáp ứng nhu cầu sản xuất và thị trường, đồng thời giảm thiểu sự quan liêu thông qua việc phân chia lợi ích và trách nhiệm.
- Tăng cường các hoạt động giám sát có sự tham gia của tất cả các bên liên quan Xây dựng hệ thống các chỉ số đánh giá
Các hoạt động khuyến nông và khuyến lâm cần sự tham gia tích cực từ người dân, nhà quản lý, cán bộ khuyến nông và các nhà nghiên cứu Việc thiết lập mạng lưới hợp tác với các cơ quan nghiên cứu và đoàn thể sẽ giúp huy động tối đa nguồn lực, đồng thời sử dụng hiệu quả để tránh chồng chéo, trùng lặp và lãng phí.
4.5.2 Giải pháp về phát triển nguồn lực con người
- Đào tạo tập huấn phù hợp với bản chất phương pháp tập huấn có sự tham gia và tăng cường năng lực tập huấn của cán bộ khuyến nông
Xây dựng và thực hiện kế hoạch đào tạo nhằm nâng cao năng lực cho cán bộ khuyến nông ở tất cả các cấp, đặc biệt là ở cấp xã và những vùng sâu, vùng xa Điều này nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển sản xuất nông nghiệp một cách hiệu quả.
- Chú trọng phương pháp và hoạt động đào tạo khuyến nông cho người nghèo, đặc biệt là bà con dân tộc thiểu số và phụ nữ…
Xây dựng chương trình đào tạo ngắn hạn chuyên sâu cho đội ngũ khuyến nông viên tại xã, phường và thôn bản nhằm nâng cao năng lực hướng dẫn và chuyển giao kỹ thuật mới cho nông dân Đặc biệt, ưu tiên tuyển chọn cán bộ khuyến nông viên nữ để đảm bảo sự đa dạng và hiệu quả trong công tác khuyến nông.
- Nâng cao năng lực về công tác khuyến lâm cho cán bộ địa bàn để tham gia vào các dự án khuyến lâm
Tăng cường đào tạo chuyên môn kỹ thuật và phương pháp khuyến nông là cần thiết để nâng cao nghiệp vụ và trình độ tổ chức Đồng thời, cần chú trọng đến việc giám sát và quản lý các hoạt động khuyến nông nhằm đảm bảo hiệu quả và bền vững trong phát triển nông nghiệp.
4.5.3 Giải pháp về kỹ thuật
Để nâng cao hiệu quả trong các mô hình khuyến lâm, cần tăng cường cải tiến khoa học kỹ thuật và áp dụng phương pháp “Nghiên cứu có sự tham gia của người dân” Điều này giúp kết nối chặt chẽ giữa nghiên cứu và sản xuất, đồng thời chuyển giao và nhân rộng các tiến bộ kỹ thuật một cách hiệu quả.
- Tăng cường chuyển giao khoa học kỹ thuật có tính chất đột phá như giống, bảo quản và chế biến nông lâm sản
Cần ưu tiên phát triển mô hình khuyến lâm tại vùng cao (vùng 3), nơi người dân đang đối mặt với nhiều khó khăn như thiếu vốn, kiến thức và công nghệ Mục tiêu là từng bước thay đổi tư duy và phương pháp sản xuất truyền thống, áp dụng tiến bộ khoa học để nâng cao năng suất lao động và cải thiện chất lượng cuộc sống.
Lựa chọn tiến bộ khoa học và giống cây trồng phù hợp, kết hợp với kỹ thuật thâm canh thích ứng với từng vùng sinh thái, là điều cần thiết để đạt được hiệu quả kinh tế cao Việc này không chỉ đúng với định hướng của ngành mà còn phù hợp với quy hoạch địa phương và nguyện vọng của người dân, từ đó kỳ vọng nhân rộng mô hình thành công.
Quản lý công tác giống là rất quan trọng để tránh sử dụng giống không rõ nguồn gốc, xuất xứ và chất lượng kém Điều này không chỉ giúp duy trì lòng tin của người dân mà còn ảnh hưởng tích cực đến khả năng nhân rộng của mô hình.
4.5.4 Giải pháp về chính sách
Tăng cường tuyên truyền về luật pháp và chính sách phát triển lâm nghiệp, đặc biệt là khuyến lâm, cho các cấp lãnh đạo và cộng đồng là cần thiết Điều này giúp người dân dần thay đổi cách thức quản lý và sử dụng rừng một cách hiệu quả hơn.
Để thu hút và giữ chân cán bộ khuyến nông làm việc lâu dài tại các vùng sâu, vùng xa, cần xây dựng cơ chế chính sách khuyến nông phù hợp Những chính sách này không chỉ khuyến khích mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ làm việc hiệu quả trong môi trường khó khăn.
Để nâng cao hiệu quả hoạt động khuyến lâm, cần tăng ngân sách Nhà nước đầu tư cho việc này Việc xây dựng mô hình khuyến lâm trình diễn cần được tính toán đầy đủ, bao gồm hỗ trợ 100% giống cây, vật tư chính, và một phần chi phí nhân công cho việc trồng và chăm sóc trong 3 năm đầu Điều này sẽ đảm bảo việc kiểm tra, giám sát mô hình được thực hiện đúng yêu cầu kỹ thuật và đúng thời gian.
Trong một hoạt động tại cùng một địa phương, cần tránh việc tồn tại nhiều hình thức hỗ trợ khác nhau để không gây khó khăn cho quá trình triển khai Chẳng hạn, khi xây dựng mô hình khuyến lâm theo Trung tâm quốc gia, hỗ trợ 60% cây giống và 40% phân bón, cần có sự đồng nhất trong cách thức hỗ trợ để đảm bảo hiệu quả.
Theo quyết định 1620/QĐ-UBND tỉnh Quảng Ninh, chương trình hỗ trợ 661 cung cấp 100% giống, phân bón và một phần chi phí nhân công cho việc xây dựng mô hình khuyến lâm, với mức hỗ trợ lên đến 2 triệu đồng/ha.
4.5.5 Giải pháp về cách thức triển khai
Bước 1: Xác định nhu cầu của nông dân
Kết luận
1 Các mô hình khuyến lâm trồng cây LSNG triển khai ở khu vực nghiên cứu chủ yếu là 3 loài cây trên, chưa thấy nhiều mô hình trồng loài cây khác Ngoài ra các mô hình trồng rừng nguyên liệu, mô hình cải tạo rừng tự nhiên, nông lâm kết hợp chưa thấy có
2 Phương pháp và các bước xây dựng mô hình khuyến lâm là tương đối đồng nhất bao gồm: Điều tra khảo sát; Chọn hộ; Lập kế hoạch; Tập huấn; Thăm quan học tập; Xây dựng mô hình; Giám sát đánh giá và nhân rộng mô hình Có sự tham gia của người dân, nhưng kết quả của các nội dung hoạt động không giống nhau do thời gian, trình độ, trách nhiệm của cán bộ thực hiện
3 Các mô hình khảo sát, đánh giá 100% đúng với kế hoạch xây dựng (về mặt diện tích) các biện pháp kỹ thuật khuyến cáo cơ bản đáp ứng được yêu cầu về mặt kỹ thuật xây dựng mô hình
- Cây Mây nếp được trồng tại các huyện Hải Hà, Bình Liêu, Hoành Bồ, và
Ba Chẽ cho thấy cây sinh trưởng tốt, sau 3-4 năm trồng, mỗi bụi có từ 5-8 cây với chiều dài trung bình từ 4,0-6,3 m Mô hình này đạt tỷ lệ 86-87% khóm sinh trưởng tốt và trung bình, trong khi chỉ có 12-13% khóm sinh trưởng kém.
Cây tre Bát độ được công nhận là loại cây có khả năng sinh trưởng và phát triển tốt nhất, với trung bình 4 cây/bụi sau 3 năm trồng, chiều cao trung bình đạt 7,2m và đường kính thân 6,5 cm Trong mô hình nghiên cứu, 92% khóm tre sinh trưởng tốt và trung bình, trong khi chỉ có 8% khóm sinh trưởng kém.
Mô hình trồng Ba kích tại Ba Chẽ hiện chưa mang lại nhiều lợi ích cho kinh tế hộ gia đình, với hiệu quả kinh tế chưa cao và mức độ chấp nhận của người dân vẫn còn hạn chế.
4 Các mô hình khuyến lâm đã có tác động tích cực làm thay đổi nhận thức của người dân trong quản lý và phát triển rừng, 100% người được hỏi đều có nguyện vọng tham gia mô hình khuyến lâm
5 Trong khuôn khổ đề tài đã phân tích được những thuận lợi, khó khăn trên các lĩnh vực: Điều kiện tự nhiên; Tổ chức; Kỹ thuật; Chính sách; Nguồn lực; Thị trường Trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp khắc phục dựa trên cơ sở phát hiện của công trình Giúp các nhà quản lý tham khảo xây dựng mô hình khuyến lâm hiệu quả hơn.
Kiến nghị 94 TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Cần đầu tư them thời gian để đánh giá sâu hơn hiệu quả của các mô hình
- Cần tiếp tục nghiên cứu so sánh hiệu quả và phương thức trồng ở mỗi mô hình
TÀI LIỆU THAM KHẢO Tiếng Việt
1 Đào Xuân Ánh (2008), “Nhân Festival Huế: Nghĩ về chính sách Gia Long khuyến nông”, Tạp chí Việt Nam hương sắc, (Số 12), Tr 1-2
2 Bách khoa toàn thư Wikipe
3 Bách khoa toàn thư, Chiếu khuyến nông
4 Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn (2005), Báo cáo ngành lâm nghiệp năm 2005 Các chỉ tiêu về Đầu tư phát triển nguồn nhân lực
5 Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn (2006), Báo cáo tổng kết hoạt động khuyến nông 12 năm giai đoạn 1993-2005
6 Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn (2011), Báo cáo tổng kết tổng kết Nghị định 56 và triển khai Nghị định 02 của Chính phủ về Khuyến nông
7 Cổng thông tin điện tử Hà Nam, Lê Hoàn, nhà vua đầu tiên cày tịch điền
8 Nguyễn Chí Hải (1997), Một số vấn đề về nội dung của lịch sử tư tưởng kinh tế Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội
9 Vũ Thị Lan (2007), Giáo trình khuyến nông lâm, NXB Nông nghiệp, Hà
10 Phạm Kim Oanh (2004), “Kinh nghiệm khuyến nông của Trung Quốc”, Bản tin khuyến nông Việt Nam”, Tạp chí Khoa học Lâm nghiệp, (Số 3), tr 23-25
11 Trung tâm Khuyến nông Quốc gia (2011), Phương pháp khuyến nông,
Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội
12 Lê Sỹ Trung (2010), Đánh giá hiệu quả chuyển giao khoa học kỹ thuật của các mô hình khuyến lâm, Đại học Nông lâm Thái Nguyên
13 Hà Thanh Tùng (2010), Báo cáo tổ chức hoạt động khuyến nông của Nhật
Bản, Hội thảo của tổ chức JCA Nhật Bản, Hà Nội.