TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Trên thế giới
Cấu trúc rừng là cách tổ chức các thành phần sinh vật trong hệ sinh thái rừng, cho phép các loài có đặc điểm sinh thái khác nhau cùng tồn tại trong một không gian nhất định Nó thể hiện mối quan hệ giữa các thành phần sinh vật và môi trường, đồng thời phản ánh quá trình đấu tranh sinh tồn và thích ứng Cấu trúc rừng bao gồm ba yếu tố chính: cấu trúc sinh thái, cấu trúc hình thái và cấu trúc tuổi.
1.1.1 Cơ sở sinh thái về cấu trúc rừng
Quy luật cấu trúc rừng là nền tảng thiết yếu cho nghiên cứu sinh thái học và sinh thái rừng, đồng thời hỗ trợ xây dựng các mô hình lâm sinh nhằm tối ưu hóa hiệu quả sản xuất Trong quá trình nghiên cứu, cấu trúc rừng được phân chia thành ba dạng chính: cấu trúc sinh thái, cấu trúc không gian và cấu trúc.
Cấu trúc thảm thực vật là kết quả của cuộc đấu tranh sinh tồn giữa các loài thực vật và môi trường sống Từ góc độ sinh thái, cấu trúc rừng phản ánh nội dung bên trong của hệ sinh thái rừng, cho thấy tính quy luật và trật tự của quần xã.
Nghiên cứu về sự phong phú của hệ thực vật rừng mưa nhiệt đới cho thấy rằng, theo Schimper (1953), chỉ trong diện tích 0,5 ha có thể có từ 25 đến 30 loài cây gỗ lớn Tương tự, Brown (1941) cũng chỉ ra rằng ở rừng mưa châu Âu có thể tồn tại từ 20 đến 25 loài cây gỗ.
Theo nghiên cứu của Richards P.W (1952), trong rừng mưa nhiệt đới, mỗi hecta thường có ít nhất 40 loài cây gỗ, và có thể lên đến 100 loài Các loài cây gỗ lớn thường sinh trưởng hỗn hợp với tỉ lệ tương đối đồng đều, nhưng cũng có thể chỉ có một hoặc hai loài chiếm ưu thế Tại châu Á, nghiên cứu của Zeng và cộng sự (1998) về rừng thứ sinh nhiệt đới ở Shanxin, Trung Quốc đã ghi nhận khoảng 280 loài cây dược liệu, 80 loài cây có dầu, 20 loài cây có sợi, cùng với nhiều loài cây gỗ có giá trị.
Các nghiên cứu về cấu trúc sinh thái của rừng mưa nhiệt đới đã được P
W Richards (1952), G N Baur (1964), E P Odum (1971)… tiến hành Những nghiên cứu này đã nêu lên quan điểm, các khái niệm và mô tả định tính về tổ thành, dạng sống và tầng phiến của rừng Theo tác giả G N Baur (1964) [36] đã nghiên cứu các vấn đề về cơ sở sinh thái nói chung và về cơ sở sinh thái học trong kinh doanh rừng nói riêng, trong đó đi sâu nghiên cứu cấu trúc rừng, các kiểu sử lý về mặt lâm sinh áp dụng cho rừng mưa tự nhiên Từ đó tác giả đưa ra các nguyên lý tác động sử lý lâm sinh cải thiện rừng
P Odum (1971) [40] đã hoàn chỉnh học thuyết về hệ sinh thái trên cơ sở thuật ngữ hệ sinh thái (ecosystem) của Tansley (1935) Khái niệm sinh thái được làm sáng tỏ là cơ sở để nghiên cứu các nhân tố cấu trúc trên quan điểm sinh thái học
Nghiên cứu của R Catinot (1965) và J Plaudy (1987) đã cung cấp những biểu diễn hình thái của rừng thông qua các phẫu đồ rừng, đồng thời phân tích cấu trúc sinh thái bằng cách mô tả và phân loại theo các khái niệm dạng sống và tầng phiến.
1.1.2 Mô tả về hình thái cấu trúc rừng
Hiện tượng thành tầng trong rừng phản ánh sự phân bố không gian của các thành phần sinh vật cả theo chiều ngang và chiều dọc Phương pháp vẽ biểu đồ mặt cắt đứng của rừng do P.W Richards đề xuất vào năm 1952, được áp dụng lần đầu tại Guam, vẫn là công cụ hiệu quả để nghiên cứu cấu trúc tầng thứ của rừng Tuy nhiên, phương pháp này chỉ thể hiện được sự sắp xếp theo chiều dọc của các loài cây gỗ trong một diện tích hạn chế Để khắc phục nhược điểm này, Cusen đã phát triển phương pháp vẽ nhiều giải kề bên nhau, giúp tạo ra hình ảnh không gian ba chiều cho cấu trúc rừng.
P W Richards (1959, 1968, 1970) [23] đã phân biệt tổ thành rừng mưa nhiệt đới làm hai loại là rừng mưa hỗn hợp và rừng mưa đơn ưu có tổ thành loài cây đơn giản Cũng theo tác giả thì rừng mưa thường có nhiều tầng (thường có 3 tầng, trừ tầng cây bụi và tầng cây cỏ) Trong rừng mưa nhiệt đới, ngoài cây gỗ lớn, cây bụi và các loài thân thảo còn có nhiều loại dây leo cùng nhiều loài thực vật phụ sinh trên thân hoặc cành cây Hiện nay, nhiều hệ thống phân loại thảm thực vật rừng đã dựa vào các đặc trưng như cấu trúc và dạng sống, độ ưu thế, kết cấu hệ thực vật hoặc năng suất thảm thực vật Ngay từ đầu thế kỷ 19, Humboldt và Grinsebach đã sử dụng dạng sinh trưởng của các loài cây ưu thế và kiểu môi trường sống của chúng để
6 biểu thị cho các nhóm thực vật Phương pháp của Humboldt và Grinsebach được các nhà sinh thái học Đan Mạch (Warming, 1094; Raunkiaer,
Raunkiaer (1934) đã phân loại các loài cây trong thảm thực vật thành các dạng sống và phổ sinh học, nhưng nhiều nhà sinh thái học cho rằng phân loại này kém ý nghĩa hơn so với các dạng sinh trưởng của Humboldt và Grinsebach Trong việc phân loại rừng dựa trên cấu trúc và dạng sống của thảm thực vật, phương pháp dựa vào hình thái bên ngoài của thảm thực vật là được sử dụng phổ biến nhất.
Kraft (1884) đã đề xuất hệ thống phân cấp cây rừng thành 5 cấp dựa trên khả năng sinh trưởng, kích thước và chất lượng cây Mặc dù phân cấp này phản ánh tình hình phân hóa cây rừng một cách rõ ràng và dễ áp dụng, nhưng chỉ phù hợp với rừng thuần loài đồng tuổi Việc phân cấp cho rừng tự nhiên hỗn loài nhiệt đới là một thách thức phức tạp, và hiện tại chưa có phương án nào được chấp nhận rộng rãi Do đó, nhiều tác giả khi nghiên cứu về tầng thứ thường đưa ra nhận xét định tính, trong khi việc phân chia tầng thứ theo chiều cao chưa phản ánh đúng sự phân tầng của rừng tự nhiên nhiệt đới.
1.1.3 Nghiên cứu định lượng cấu trúc rừng
Nghiên cứu cấu trúc rừng đã tiến triển từ mô tả định tính sang định lượng, sử dụng toán học và tin học để mô hình hóa mối quan hệ giữa các nhân tố cấu trúc Nhiều tác giả đã đạt được kết quả đáng kể trong việc phân tích cấu trúc không gian và thời gian của rừng, cho thấy tầm quan trọng của các yếu tố này trong nghiên cứu sinh thái.
Nhiều tác giả như Rollet B (1971), Brung (1970), và Loeth et al (1976) đã nghiên cứu cấu trúc không gian và thời gian của rừng bằng phương pháp định lượng và mô phỏng các quy luật cấu trúc thông qua các mô hình toán học (Trần Văn Con, 2001) F X Schumarcher và T X Coil (1960) đã áp dụng hàm Weibull để mô hình hóa cấu trúc đường kính loài, trong khi các hàm khác như Meyer, Hyperbol, hàm mũ, Peason, và Poisson cũng được sử dụng rộng rãi để mô hình hóa cấu trúc rừng.
Một vấn đề nữa có liên quan đến cấu trúc rừng đó là việc phân loại rừng theo cấu trúc và ngoại mạo hay ngoại mạo sinh thái [13], [14], [15]
Cơ sở phân loại rừng dựa trên đặc điểm phân bố, dạng sống ưu thế, cấu trúc tầng thứ và các đặc điểm hình thái của quần xã thực vật, với các đại diện như Humbold (1809), Schimper (1903) và Aubreville (1949) Hệ thống phân loại này chú trọng đến ngoại mạo sinh thái, không tách rời khỏi hoàn cảnh của quần xã thực vật, và khác với phân loại theo cấu trúc, chủ yếu mô tả rừng ở trạng thái tĩnh Melekhov (1950) đã nhấn mạnh sự biến đổi của rừng theo thời gian, đặc biệt là sự thay đổi tổ thành loài cây qua các giai đoạn phát triển Việc định lượng các đặc điểm cấu trúc rừng đã được áp dụng trong nghiên cứu các hệ sinh thái rừng tự nhiên, bao gồm cả rừng nhiệt đới.
Những nghiên cứu ở Việt Nam
Nhiều nghiên cứu khoa học đã tập trung vào các đặc điểm cấu trúc của rừng tự nhiên và rừng trồng, nhằm hỗ trợ cho việc kinh doanh rừng bền vững và ổn định Các tác giả đã phát triển các mô hình để mô phỏng cấu trúc rừng, từ những mô hình đơn giản đến phức tạp.
Theo Trần Ngũ Phương (1970) [19] đã đề cập tới một hệ thống phân loại, trong đó rất chú ý tới việc nghiên cứu quy luật diễn thế rừng
Thái Văn Trừng (1978) đã nghiên cứu kiểu rừng kín thường xanh mưa ẩm nhiệt đới tại Việt Nam và đưa ra mô hình cấu trúc bao gồm các tầng: tầng vượt tán, tầng ưu thế sinh thái, tầng dưới tán, tầng cây bụi và tầng cỏ quyết.
Vũ Đình Phương (1987) đã đề xuất phương pháp phân chia rừng phục vụ cho công tác điều chế dựa trên 5 nhân tố: nhóm sinh thái tự nhiên, các giai đoạn phát triển và suy thoái của rừng, khả năng tái tạo rừng bằng con đường tái sinh tự nhiên, đặc điểm địa hình và thổ nhưỡng, kèm theo bảng mã hiệu để tra cứu Đối với hệ sinh thái rừng nhiệt đới tại Việt Nam, Thái Văn Trừng (2000) đã phân chia thảm thực vật thành 5 nhóm kiểu thảm và 14 kiểu quần hệ, dựa trên sự kết hợp của hai hệ thống phân loại: một là dựa vào cấu trúc ngoại mạo và hai là dựa vào yếu tố hệ thực vật.
Bảng phân loại thảm thực vật Việt Nam của GS Thái Văn Trừng, từ bậc quần hệ trở lên, gần như tương thích với hệ thống phân loại của UNESCO (1973) Tuy nhiên, vẫn cần thảo luận và chỉnh lý bổ sung thêm để hoàn thiện hơn.
Khi nghiên cứu cấu trúc rừng, việc mô hình hóa quy luật phân bố số cây theo đường kính và chiều cao là rất quan trọng Đây là quy luật cơ bản trong các quy luật kết cấu lâm phần Hiểu rõ quy luật phân bố giúp xác định số cây tương ứng với từng cỡ kính và chiều cao, từ đó làm cơ sở để xác định trữ lượng lâm phần.
Nguyễn Văn Trương (1983) đã nghiên cứu cấu trúc rừng hỗn loài với việc phân tầng theo hướng định lượng và chiều cao một cách cơ giới Vũ Đình Phương (1987) nhận định rằng việc xác định tầng thứ của rừng lá rộng thường xanh là cần thiết, nhưng chỉ khi rừng có sự phân tầng rõ rệt Đào Công Khanh (1996) đã nghiên cứu cấu trúc rừng lá rộng thường xanh ở Hương Sơn, Hà Tĩnh để đề xuất biện pháp lâm sinh cho khai thác và nuôi dưỡng rừng Nguyễn Anh Dũng (2000) nghiên cứu cấu trúc tầng cây gỗ cho hai trạng thái rừng IIA và IIIA tại lâm trường Sông Đà - Hoà 1 Bình.
Bùi Thế Đồi (2001) đã nghiên cứu các đặc điểm cấu trúc quần xã thực vật rừng trên núi đá vôi tại ba địa phương ở miền Bắc Việt Nam Đồng thời, Vũ Đình Phương và Đào Công Khanh (2001) đã thử nghiệm phương pháp nghiên cứu các quy luật cấu trúc và sinh trưởng nhằm điều chế rừng lá rộng, hỗn loại thường xanh ở Kon Hà Nừng.
Gia Lai cho rằng đa số loài cây có cấu trúc đường kính và chiều cao tương tự như lâm phần, với sự biến động trong cấu trúc loài Nghiên cứu định lượng cấu trúc rừng thường tập trung vào mô hình hóa cấu trúc đường kính (D), sử dụng D1.3 để biểu diễn theo các hàm phân bố xác suất khác nhau Nổi bật trong lĩnh vực này là các công trình của Đồng Sĩ Hiền (1974), người đã áp dụng hàm Meyer và hệ đường cong Poisson để phân tích phân bố thực nghiệm số cây theo cỡ đường kính cho rừng tự nhiên, tạo cơ sở cho việc lập biểu độ thon cây đứng tại Việt Nam.
Nguyễn Hải Tuất (1982, 1986) đã áp dụng hàm phân bố giảm và phân bố khoảng cách để mô tả cấu trúc của rừng thứ sinh, đồng thời sử dụng quá trình Poisson trong nghiên cứu cấu trúc quần thể rừng.
Trần Văn Con (1991) đã sử dụng hàm Weibull để mô phỏng cấu trúc đường kính của rừng khộp ở Đăklăk, trong khi Lê Sáu (1996) áp dụng hàm này để mô phỏng quy luật phân bố đường kính và chiều cao tại khu vực Kon Hà Nừng, Tây Nguyên.
Bùi Văn Chúc (1996) đã tiến hành nghiên cứu về cấu trúc rừng phòng hộ đầu nguồn tại Lâm trường sông Đà, tập trung vào các trạng thái rừng IIA, IIIA và rừng trồng, nhằm hỗ trợ cho việc lựa chọn loài cây phù hợp.
Vườn Quốc Gia Tam Đảo, theo thống kê của Nguyễn Nghĩa Thìn (1997), có khoảng 2.000 loài thực vật, bao gồm 904 loài cây có ích thuộc 478 chi và 213 họ, trải dài qua 3 ngành Dương xỉ, Hạt trần và Hạt kín Các loài thực vật này được phân loại thành 8 nhóm với giá trị khác nhau Đặc biệt, trong số đó có 42 loài đặc hữu và 64 loài quý hiếm cần được bảo tồn, bao gồm Hoàng thảo tam đảo (Dendrobium daoensis), Trà hoa dài (Camellia longicaudata), Trà hoa vàng tam đảo (Camellia petelotii), Hoa tiên (Asarum petelotii) và Trọng lâu kim tiền (Paris delavayi).
Theo nghiên cứu của Đặng Kim Vui (2002), đặc điểm cấu trúc rừng phục hồi sau nương rẫy tại huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên cho thấy trong giai đoạn phục hồi từ 1 - 2 tuổi, thảm thực vật chủ yếu là cây bụi với 72 loài thuộc 36 họ Trong đó, họ Hoà thảo (Poaceae) chiếm ưu thế với 10 loài, tiếp theo là họ Thầu dầu (Euphorbiaceae) với 6 loài, và các họ Trinh nữ (Mimosa) cùng Cà phê (Rubiaceae) mỗi họ có 4 loài Ngoài ra, bốn họ khác có 3 loài gồm họ Long não (Lauraceae), họ Cam (Rutaceae), họ Khúc khắc (Smilacaceae) và họ Cỏ roi ngựa (Verbenaceae) Mặc dù số lượng cá thể trong ô tiêu chuẩn cao, cấu trúc hình thái của thảm thực vật này lại đơn giản với độ che phủ thấp nhất từ 75 - 80%, chủ yếu tập trung vào các loài cây bụi.
Nguyễn Thành Mếm (2005) đã nghiên cứu cấu trúc rừng lá rộng thường xanh tại tỉnh Phú Yên và phát hiện rằng trạng thái IV bao gồm hai ưu hợp là cho chai – trâm và chò chai – trám Trong khi đó, trạng thái IIIB có ba ưu hợp là trâm – trám, giẻ - chò chai, và xuân thôn – xoay Tổ thành theo nhóm gỗ cho thấy nhóm I – III chiếm 15,59%, nhóm IV – VI chiếm 49,84%, và các nhóm còn lại chiếm 34,57%.
Việc phân chia loại hình rừng ở Việt Nam được nhiều tác giả trong và ngoài nước đánh giá là cần thiết cho nghiên cứu và sản xuất Tùy thuộc vào từng mục tiêu cụ thể, các phương pháp phân chia sẽ được xây dựng khác nhau, nhưng đều hướng tới việc làm rõ các đặc điểm của đối tượng nghiên cứu.
MỤC TIÊU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu đặc điểm cấu trúc của thảm thực vật thứ sinh phục hồi tự nhiên là cơ sở khoa học quan trọng để đề xuất các giải pháp quản lý và phát triển rừng bền vững tại khu Bảo tồn thiên nhiên Tây Yên Tử, tỉnh Bắc Giang.
- Xác định được hiện trạng rừng hiện có tại khu vực nghiên cứu
Nghiên cứu đã xác định các đặc điểm cấu trúc cơ bản của tầng cây gỗ tại một số trạng thái rừng trong khu Bảo tồn thiên nhiên Tây Yên Tử, tỉnh Bắc Giang.
- Đề xuất được các giải pháp phù hợp cho công tác quản lý và phát triển bền vững tài nguyên rừng tại khu vực nghiên cứu.
Giới hạn nghiên cứu
2.2.1 Giới hạn về khu vực nghiên cứu Đề tài tập trung nghiên cứu một số trạng thái rừng ở phân ban thanh – Lục Sơn, khu bảo tồn thiên nhiên Tây Yên Tử, tỉnh Bắc Giang
2.2.2 Giới hạn về đối tượng và thời gian nghiên cứu
Nghiên cứu tập trung vào hai trạng thái rừng chính là IIIA1, đại diện cho nhóm trạng thái rừng nghèo (bao gồm IIIA1-1 và IIIA1-2), và IIIA2, đại diện cho nhóm trạng thái rừng trung bình đến giàu.
2.2.3 Giới hạn về nội dung nghiên cứu
Nghiên cứu các đặc điểm cấu trúc của tầng cây gỗ, bao gồm cấu trúc tổ thành, độ cao và mức độ ưu thế, nhằm đánh giá vai trò của một số loài cây gỗ trong quần xã cây gỗ rừng Đồng thời, nghiên cứu cũng xem xét quy luật phân bố số loài và một số quy luật kết cấu lâm.
13 phân; số cây theo cấp đường kính và cấp chiều cao; tương quan chiều cao vút ngọn ( Hvn) và đường kính thân ở độ cao (D1.3)…
Nội dung nghiên cứu
2.3.1 Hiện trạng rừng hiện có của khu vực nghiên cứu
- Đặc điểm cơ bản của các trạng thái rừng
2.3.2 Nghiên cứu đặc điểm cấu trúc tầng cây cao các trạng thái rừng a Cấu trúc tổ thành
- Tổ thành theo trị số IV%
- Tổ thành theo nhóm gỗ b Cấu trúc mật độ và độ tàn che của các trạng thái rừng
- Một độ loài cây ưu thế
- Hình thái phân bố cây trên mặt đất rừng
- Mối quan hệ giữa các loài cây c Cấu trúc tầng thứ
2.3.3 Nghiên cứu một số quy luật kết cấu lâm phân
- Phân bố số loài cây theo cấp kính
- Phân bố số cây theo chiều cao
- Phân bố số cây theo cấp kính
- Tương quan giữa chiều cao vút ngọn và đường kính ngang ngực
2.3.4 Đề xuất một số biện pháp quản lý và phát triển bền vững tài nguyên rừng tại khu vực nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu
Vận dụng quan điểm sinh thái phát sinh quần thể trong thảm thực vật rừng nhiệt đới của Thái Văn Trừng (1978) [32]: Thảm thực vật rừng là
Bài viết trình bày 14 tấm gương phản chiếu trung thành các điều kiện tự nhiên thông qua sinh vật, hình thành quần thể thực vật Thảm thực vật tái sinh tự nhiên thể hiện ảnh hưởng tổng hợp của các nhân tố sinh thái trong quá trình phục hồi rừng thứ sinh Đề tài áp dụng phương pháp điều tra ô tiêu chuẩn đại diện cho hai trạng thái thảm thực vật rừng đã chọn, đảm bảo số liệu đại diện, khách quan và chính xác Ngoài ra, các phương pháp phân tích số liệu truyền thống và mô hình đã được kiểm nghiệm được sử dụng để đảm bảo tính khoa học.
2.4.2 Phương pháp thu thập số liệu
2.4.2.1 Tính kế thừa Đề tài có kế thừa một số tư liệu:
- Những tư liệu về điều kiện tự nhiên, khí hậu, thuỷ văn, đất đai, địa hình, tài nguyên rừng
- Tư liệu về điều kiện dân sinh, kinh tế, xã hội
- Những kết quả nghiên cứu có liên quan đến đề tài như: Kết quả điều tra hệ thực vật và thảm thực vật rừng tại khu bảo tồn
2.4.2.2 Thu thập số liệu Để mô tả một quần xã thực vật, số liệu cần phải được thu thập trên một số ô gọi là ô tiêu chuẩn (OTC) có tổng diện tích phải đủ lớn Việc áp dụng phương pháp điều tra theo OTC với những diện tích khác nhau đã được các tác giả trong và ngoài nước áp dụng rộng rãi khi nghiên cứu về rừng nhiệt đới như: Nguyễn Thành Mến (2005)[17], khi nghiên cứu đặc điểm cấu trúc rừng tự nhiên lá rộng thường xanh ở tỉnh Phúc Yên, đã xác định diện tích biểu hiện loài ưu thế ở các xã hợp xấp xỉ 380 m 2 Cao Thị Lý (2007) Khi nghiên cứu quan hệ sinh thái giữa các loài thực vật thân gỗ nhằm phục hồi rừng Khộp theo mục tiêu đa dạng sinh học tại Vườnn quốc gia Yok Đôn, tỉnh Đăk Lăk, Việt Nam xác định diện tích biểu hiện loài ưu thế biến động trong khoảng từ 231,547 - 407,145 m 2
H Lamprecht (1969), Lâm Phúc Cố (1994, 1996), Lê Đồng Tấn
Năm 2003, một cuộc điều tra về thành phần loài cây đã được thực hiện trên diện tích ô tiêu chuẩn (OTC) 400 m² Trần Xuân Thiệp (1995) và Phạm Ngọc Thường (2001) cũng đã sử dụng OTC với diện tích từ 500 m² trở lên Mặc dù các tác giả áp dụng kích thước OTC khác nhau, nhưng họ đều thống nhất rằng số lượng và kích thước OTC cần đủ lớn để đảm bảo độ tin cậy của số liệu thu thập Để đạt được độ tin cậy cao, đề tài đã sử dụng một hệ thống OTC bao gồm 04 ô tiêu chuẩn với diện tích 0,1 ha và 12 ô tiêu chuẩn 400 m² để điều tra về gỗ.
Trong mỗi OTC, đo chu vi thân tất cả các cây có đường kính lớn hơn 6 cm tại độ cao 1,3 m và sử dụng công thức D=P/π để tính đường kính, trong đó P là chu vi thân cây Cần xác định tên loài cây và đánh giá phẩm chất (A tốt, B trung bình, C xấu) của từng cây qua mục trắc Đối với các loài cây nghi vấn, thu thập mẫu lá, hoa hoặc quả để tra cứu theo sách Phạm Hoàng Hộ (2000) và Cây gỗ rừng Việt Nam Cuối cùng, xác định tên loài, số lượng và đánh giá phẩm chất của từng cây.
Để đo chiều cao vút ngọn (Hvn), sử dụng thước sào có chia vạch cho mỗi cây đã đo đường kính, kết hợp với thước đo chiều cao Blumeleiss, làm tròn số đến 0,1 m Nghiên cứu phân bố số cây theo chiều ngang áp dụng phương pháp sáu cây; trong lâm phần nghiên cứu, bố trí các ô biểu hiện, tại mỗi điểm từ một cây chọn ngẫu nhiên đến năm cây lân cận gần nhất để xem như một ô nghiên cứu.
2.4.2.3 Phương pháp phân tích và xử lý số liệu
Sau khi thống kê các số liệu, chúng tôi đã sử dụng chương trình Excel để thực hiện phân tích thống kê Đồng thời, phần mềm SPSS cũng được áp dụng để mô phỏng mối tương quan giữa chiều cao và đường kính.
- Xác định trạng thái rừng:
Trạng thái rừng được xác định theo phân loại trạng thái của Loschau
Năm 1960, Viện Điều tra quy hoạch rừng Việt Nam đã cập nhật và đưa vào quy phạm thiết kế kinh doanh rừng (QPN6-84), được Bộ Lâm nghiệp cũ ban hành vào năm 1984 Theo thông tư số 34/2009/TT-BNNPTNT, ngày 10 tháng 06 năm 2009, các quy định này tiếp tục được áp dụng trong quản lý và phát triển rừng.
2009, Quy định tiêu chí xác định và phân loại rừng [1]
- Xác định các xã hợp thực vật
Xác định các xã hợp thực vật cho từng trạng thái rừng dựa trên nhóm loài ưu thế Nhóm loài ưu thế bao gồm các loài có trị số IV lớn hơn 5%, với số lượng loài ưu thế không vượt quá 10 loài, và tổng trị số IV của các loài phải đạt trên 50%.
Tỉ lệ tổ thành của từng loài cây được tính theo trị số quan trọng IV%, theo phương pháp của Daniel Marmillod, dẫn theo Vũ Đình Hòe (1984)[13]
Trong đó: N% là tỉ lệ phần trăm số cây của một loài cây nào đó so với tổng số cây trong OTC
G% là tỷ lệ phần trăm tiết diện ngang của một loài cây so với tổng G của OTC Để phân loại nhóm gỗ, sử dụng bảng phân loại tạm thời do quyết định số 2198-CNR ngày 26 tháng 11 năm 1977 ban hành, cùng với bảng điều chỉnh phân loại theo quyết định số 334-CNR ngày 10 tháng 5 năm 1988 của Bộ Lâm Nghiệp Đối với các loài cây gỗ chưa xác định tên cụ thể, sẽ được xếp vào các nhóm gỗ V-VIII dựa trên đặc trưng độ cứng và giá trị thị trường, ký hiệu là sp1 đến sp4.
Kiểm tra sự thuần nhất các ô tiêu chuẩn trong cùng xã hợp thực vật theo tiêu chuẩn χ 2
( ) m k i j fi ni n fi ni fij n
Trong nghiên cứu, m đại diện cho số loài ưu thế, k là số OTC, fj là trị số IV% của loài i, fij là trị số IV% của loài i tại ô j, ni là trị số IV% của các loài ở ô j, và n là tổng IV% của các loài ưu thế Nếu giá trị χ 2 nhỏ hơn χ05 [(m-1)(k-1)], điều này cho thấy các mẫu kiểm tra là thuần nhất và có thể gộp chung để tính toán như một tổng thể.
Trong nghiên cứu phân bố N/H, cự ly tổ được tính toán theo công thức thực nghiệm của Brooks và Carruther, Nguyễn Hải Tuất (1982) cho thấy hầu hết các lâm phần có cự ly phân tổ trong khoảng 2,95 – 3,14 m Để thuận tiện cho việc tính toán và so sánh, cấp chiều cao tính toán được quy định là 3,0 m.
Mô phỏng quy luật cấu trúc theo các dạng hàm hoặc phân bố xác suất thích hợp theo Nguyễn Hải Tuất [27]
Trong đó: γ và β là 2 tham số của hàm Weibull; β đặc trưng cho độ lệch; γ đặc trưng cho độ nhọn
Nếu β = 1, phân bố có dạng giảm; khi β = 3, phân bố trở nên đối xứng Nếu β > 3, phân bố lệch về phía phải, trong khi β < 3 thì phân bố lệch về phía trái Phân bố Mayer được biểu diễn bằng công thức Px(x) = y = α e^(-βx).
Trong đó: α và β là hai tham số của hàm Mayer
Nghiên cứu quy luật phân bố cây tái sinh trên mặt phẳng ngang nhằm tìm hiểu hình thái phân bố của chúng trên bề mặt đất rừng Phương pháp được áp dụng là đo khoảng cách từ một điểm ngẫu nhiên đến 6 cây tái sinh.
Phân bố Poisson được áp dụng theo tiêu chuẩn U của Clark và Evan để đánh giá sự phát triển của quần xã thực vật khi dung lượng mẫu đủ lớn (n = 36), từ đó dự đoán giai đoạn phát triển của quần xã thực vật trong khu trú.
Giá trị bình quân khoảng cách gần nhất của n lần quan sát được ký hiệu là r, trong khi λ đại diện cho mật độ cây tái sinh trên một đơn vị diện tích tính bằng cây/ha Số lần quan sát được ký hiệu là n.
Nếu U - 1,96 thì tổng thể cây tái sinh có phân bố cụm
Nếu U 1,96 thì tổng thể cây tái sinh có phân bố đều
Nếu -1,96 < U < 1,96 thì tổng thể cây tái sinh có phân bố ngẫu nhiên
- Nghiên cứu mối quan hệ giữa các loài cây ưu thế của tầng cây gỗ
Xác định dung lượng mẫu cần thiết theo công thức
ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN – KINH TẾ XÃ HỘI
Điều kiện tự nhiên
Khu bảo tồn thiên nhiên Tây Yên Tử thuộc bốn xã: Thanh Sơn, Thanh Luận, An Lạc huyện Sơn Động; xã Lục Sơn huyện Lục Nam
- Có toạ độ địa lý:
+ Phía Đông và Nam giáp tỉnh Quảng Ninh;
+ Phía Bắc và Tây giáp xã Long Sơn và phần còn lại của xã Thanh Luận, Thanh Sơn, Lục Sơn và xã Trường Sơn huyện Lục Nam
- Trung tâm Khu bảo tồn thiên nhiên Tây Yên Tử cách thị trấn An Châu huyện Sơn Động 32 km
Khu bảo tồn thiên nhiên Tây Yên Tử nằm trong lưu vực Yên Tử tây, được bao bọc bởi dãy Yên Tử với đỉnh cao nhất đạt 1.064 m Địa hình nơi đây có độ dốc lớn từ Đông nam sang Tây bắc, với nhiều vách đá dựng đứng và độ dốc bình quân từ 35° đến 40° ở khu vực giáp ranh tỉnh Quảng Ninh Chính nhờ địa hình phức tạp này, khu bảo tồn Tây Yên Tử vẫn giữ được những khu vực tương đối nguyên vẹn cùng với quần thể sinh vật phong phú và đa dạng.
Khu vực khu bảo tồn thiên nhiên Tây Yên Tử thuộc hai huyện Sơn Động
- Lục Nam có khí hậu nhiệt đới gió mùa nóng ẩm và mưa nhiều; có nhiệt độ
Nhiệt độ trung bình hàng năm đạt 23,0°C, với nhiệt độ cao nhất trung bình tháng là 28,5°C và thấp nhất là 15,8°C Lượng mưa trung bình hàng năm là 1.483,3 mm, trong đó lượng mưa cao nhất trung bình tháng là 291,9 mm và thấp nhất là 31,2 mm, với tổng số ngày mưa lên tới 120 ngày, chủ yếu vào các tháng 5, 6, 7 và 8 Độ ẩm không khí trung bình là 82%, với mức cao nhất là 85% và thấp nhất là 79% Lượng bốc hơi trung bình hàng năm là 1.050 mm, với mức cao nhất trung bình tháng là 114,5 mm và thấp nhất là 69,2 mm; hiện tượng bốc hơi mạnh thường xảy ra vào các tháng 5, 6 và 7, nhưng nhìn chung lượng bốc hơi luôn thấp hơn lượng mưa, giúp mùa khô ít bị hạn.
Sương mù thường xuất hiện vào các tháng 1, 2, 9, 10, 11 và 12, trong đó tháng 1, 11 và 12 có thể xảy ra sương muối gây thiệt hại cho nông nghiệp và chăn nuôi Khu vực Sơn Động và Lục Nam chịu ảnh hưởng bởi hai loại gió mùa: gió mùa đông bắc từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau, mang theo mưa phùn và giá lạnh, và gió mùa đông nam từ tháng 4 đến tháng 10, thời điểm có nhiệt độ cao và giông bão với lượng mưa lớn Tuy nhiên, nhờ vị trí địa lý xa biển và được dãy Yên Tử che chắn, mức độ thiệt hại do bão ở đây không lớn.
Khu bảo tồn thiên nhiên Tây Yên Tử, nằm trong lưu vực Yên Tử tây, sở hữu 7 hệ thủy chính gồm các suối: Suối Ke Rỗ, Suối Ke Đin, Suối Đồng Rì, Suối Bài, Suối Nước Ninh, Suối Nước Vàng và Suối Đá Ngang Những nhánh suối này đều thuộc thượng nguồn sông Lục Nam, tạo nên một hệ sinh thái phong phú và đa dạng.
Do khu vực có nhiều rừng, 7 con suối này có nước quanh năm, cung cấp nguồn nước thiết yếu cho các xã An Lạc, Thanh Sơn, Thanh Luận và Lục Sơn, đảm bảo nhu cầu sinh hoạt và sản xuất cho cộng đồng địa phương.
3.1.3.3 Địa chất thổ nhưỡng Đất thuộc các xã An Lạc, Thanh Sơn, Thanh Luận, Lục Sơn được hình thành trên phức hệ đất trầm tích, gồm các loại đá mẹ sa thạch, phiến thạch sét, sa phiến thạch, cuội kết và phù sa cổ thuộc kỷ đệ tứ
Khu bảo tồn thiên nhiên Tây Yên Tử có 2 loại đất chính sa:
Đất Feralit được tìm thấy trên các vùng núi với độ cao từ 300m trở lên, thường có thực vật che phủ dày đặc Loại đất này có tầng đất sâu và ẩm, cùng với lớp thảm mục phong phú, giàu dinh dưỡng Trong đất Feralit, có sự xuất hiện của nhiều loại phụ khác nhau.
+ Đất Feralit núi màu vàng;
+ Đất Feralit núi màu vàng nâu;
+ Đất Feralit núi bằng, tầng B không rõ
Đất Feralit là loại đất đặc trưng, thường xuất hiện ở độ cao từ 200 đến 300m, chủ yếu tập trung tại khu vực tây bắc của các khu rừng cấm, hình thành trên nền đá mẹ như phiến thạch và sa thạch Tầng đất thường có độ dày trung bình đến dày và mang tính chất đất rừng Ở những nơi còn rừng, tầng đất thường sâu, ẩm và có độ phì cao, trong khi ở những khu vực đã mất rừng, đất có xu hướng bị thoái hóa mạnh và nghèo dinh dưỡng.
+ Đất Feralit màu vàng, phát triển trên sa thạch, tầng đất nông, nghèo dinh dưỡng
+ Đất Feralit màu vàng đỏ, phát triển trên phiến thạch sét, sa phiến thạch tầng đất trung bình, chất dinh dường trung bình.
Hiện trạng dân sinh kinh tế xã hội
3.2.1 Trên địa bàn Khu bảo tồn thiên nhiên Yên Tử có 04 xã:
Xã Thanh Luận có 451 hộ, 2.572 khẩu
Xã Thanh Sơn có 739 hộ, 3.584 khẩu
Xã Lục Sơn có 812 hộ, 6.498 khẩu
Xã An Lạc có 810 hộ, 3.156 khẩu
Gồm có các dân tộc: Tày, Nùng, Dao, Sán dìu, Sán trắng, Hoa, Kinh Tổng số hộ: 2.812 hộ, tổng số nhân khẩu: 15.810 người
Trong độ tuổi lao động là 4.954 người, trong đó:
+ Lao động nữ là 2.850 người
+ Lao động nam là 2.104 người
- Nằm trong khu vực xây dựng khu bảo tồn kể cả vùng đệm có 1.113 hộ, 4.513 khẩu :
Xã Thanh Sơn có 284 hộ, 1.414 khẩu
Xã Thanh Luận có 150 hộ, 857 khẩu
Xã Lục Sơn có 79 hộ, 242 khẩu
Xã An lạc có 600 hộ, 2.000 khẩu
Các hộ gia đình tại xã Thanh Luận, Thanh Sơn, Lục Sơn và An Lạc chủ yếu phụ thuộc vào nông nghiệp, bao gồm trồng trọt, chăn nuôi và thu hái lâm sản phụ Nhiều hộ vẫn duy trì nguồn sống chính từ rừng, cho thấy tầm quan trọng của tài nguyên thiên nhiên trong đời sống của họ.
Như trên đã nêu, các hộ gia đình có nghề chính là sản xuất nông nghiệp
Tại xã Thanh Sơn, bình quân đất ruộng nước chỉ đạt 2 sào/người, trong khi xã Thanh Luận là 1,8 sào/người, xã Lục Sơn và An Lạc đều có 2,5 sào/người Phương thức canh tác chủ yếu là quảng canh, dẫn đến năng suất lúa thấp, chỉ đạt 361kg lương thực/người/năm Điều này khiến đồng bào thường xuyên thiếu ăn và gặp khó khăn trong cuộc sống Để cải thiện tình hình, họ thường phải dựa vào rừng và trồng cây công nghiệp như chè và cây ăn quả.
Khu bảo tồn thiên nhiên Tây Yên Tử có 4 đội sản xuất lâm nghiệp thuộc 2 công ty Sơn Động và Mai Sơn, bao gồm đội Thanh Sơn, đội Chía, đội Nước Vàng và đội Đá Ngang Hiện tại, các đội sản xuất đang đối mặt với nhiều khó khăn, khi mỗi đội chỉ có 2-3 cán bộ quản lý bảo vệ rừng Các hoạt động sản xuất kinh doanh lâm nghiệp chủ yếu được thực hiện qua liên doanh với các hộ gia đình nhằm trồng và bảo vệ rừng theo chương trình dự án 661, trong đó đội Thanh Sơn thuộc Công ty TNHH một thành viên lâm nghiệp cũng tham gia.
Sơn Động vẫn còn khai thác rừng tự nhiên năm 2000 = 846,5 m 3 , năm 20011.401m 3 Công việc khai thác chủ yếu thuê nhân công tại chỗ
Trong những năm gần đây, phong trào trồng rừng đã được đẩy mạnh, với nhiều hộ gia đình tự đầu tư vốn để trồng rừng Mặc dù có sự tham gia của các hộ gia đình và tổ chức trong việc giao đất và khoán rừng, nhưng do nguồn vốn hạn chế, vẫn chưa hình thành được các vùng rừng nguyên liệu tập trung.
Ngành lâm nghiệp đang chuyển đổi từ mô hình nhà nước sang mô hình xã hội, nhằm khuyến khích sự tham gia của nhiều thành phần trong việc bảo vệ và phát triển rừng.
3.2.2.3 Các ngành sản xuất khác: Chưa phát triển
3.2.3 Hiện trạng xã hội và cơ sở hạ tầng
Xã Thanh Luận, Thanh Sơn, Lục Sơn có đường ôtô 289 đi qua, nhưng chất lượng đường kém do nhiều sống suối, gây khó khăn cho việc di chuyển, đặc biệt vào mùa mưa Hệ thống đường trong khu vực bảo tồn chủ yếu là đường lâm nghiệp và đường vận chuyển than, nhưng đã lâu không được bảo trì, dẫn đến tình trạng xuống cấp nghiêm trọng.
Như đã trình bày ở trên, lưu vực các suối còn nhiều rừng, nên suối ở đây quanh năm có nước, đảm bảo nguồn nước cho nông nghiệp, sinh hoạt
3.2.3.3 Y tế, giáo dục và văn hoá:
Khu vực rừng cấm đã chứng kiến sự phát triển đáng kể khi nhiều nơi đã được cung cấp điện và máy phát điện nước Điện cao thế đã đến các xã như Thanh Sơn, Thanh Luận, và Lục Sơn, giúp các hộ gia đình cải thiện đời sống với nhà cửa khang trang và tài sản giá trị như ti vi và xe máy Nhận thức của người dân cũng đã tiến bộ, với sự hiện diện của trường học, trạm xã và chợ Đồng Đỉnh, chợ Nòn, tạo điều kiện thuận lợi cho việc mua bán và trao đổi hàng hóa.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
Hiện trạng rừng hiện có khu vực nghiên cứu
4.1.1 Đặc điểm các loại rừng
Diện tích rừng tự nhiên trong KBT là 11.632,4 ha, chiếm 91% diện tích có rừng, trong đó bao gồm các tra ̣ng thái như sau:
Rừng giàu có diện tích 2.222,2 ha, chiếm 19% tổng diện tích rừng tự nhiên, phân bố chủ yếu tại các xã Lục Sơn, Tuấn Mậu và An Lạc Các loài thực vật chủ yếu trong khu vực này bao gồm cây Sến.
Rừng có độ tàn che trên 0,8, chiều cao trung bình từ 18-25m và đường kính bình quân cây rừng đạt 25-30cm, với trữ lượng M từ 210-230 m³/ha Đây là loại rừng quý hiếm, chứa nhiều nguồn gen đặc hữu, cần được bảo vệ để phát huy vai trò trong việc bảo vệ môi trường, bảo tồn đa dạng sinh học, cũng như phục vụ cho nghiên cứu khoa học và du lịch sinh thái.
Rừng trung bình có diện tích 3.243,6 ha, chiếm 27% diện tích rừng tự nhiên, phân bố tại các xã Lục Sơn, An Lạc, Tuấn Mậu và Thanh Luận Rừng có cấu trúc 4-5 tầng, độ tàn che từ 0,6-0,8, chiều cao trung bình đạt 16-18m, và đường kính trung bình của cây từ 20-25 cm Trữ lượng bình quân rừng dao động từ 110-190 m³/ha, với các loài cây ưu thế như Lim xanh, Gụ lau, Đinh, cùng với Xoan đào, Dẻ cau, Mai vàng và một số lô rừng hỗn giao gỗ như Vầu, sặt, Giang, hình thành sau khai thác và nương rẫy.
Rừng nghèo có diện tích 1.923,1 ha, chiếm 16% diện tích rừng tự nhiên, phân bố chủ yếu tại các xã Lục Sơn, Tuấn Mậu và Thanh Luận Rừng này chủ yếu nằm ở khu vực phục hồi sinh thái và xung quanh khu dân cư, trên một số đỉnh giồng ven các bờ suối Cấu trúc rừng đa dạng với 2-4 tầng, độ tàn che từ 0,4-0,6, chiều cao trung bình đạt 9-11m và đường kính trung bình của cây rừng.
Rừng có đường kính cây chủ yếu từ 12-14 cm, với rất ít cây đạt kích thước 40-50 cm Trữ lượng bình quân của rừng dao động từ 80-90 m³/ha Các loài thực vật chính bao gồm Ràng ràng xanh, Nóng, Giẻ Trám trắng, Nhọc, Chẹo và Ngát, trong khi dưới tán rừng có nhiều dây leo và bụi rậm.
Rừng phục hồi có diện tích 3.739,9 ha, chiếm 32% tổng diện tích rừng tự nhiên, chủ yếu phân bố tại phân khu phục hồi sinh thái Rừng này có cấu trúc 2-3 tầng với độ tàn che từ 0,3-0,5, chiều cao cây phổ biến từ 7-11m và đường kính trung bình từ 12-16 cm Trữ lượng bình quân đạt 20-30 m³/ha, với các loài thực vật chủ yếu như Giẻ, Re, Thẩu tấu, Sau sau, Chẹo, Ba soi, và Hoắc quang.
Rừng hỗn giao có diện tích 477 ha, chiếm 4% tổng diện tích rừng tự nhiên, phân bố chủ yếu trong vùng phục hồi sinh thái và các khu vực khe suối sâu Đây là loại rừng kết hợp giữa các loài gỗ và cây Vầu, Sặt, Giang, với cấu trúc 2-3 tầng và độ tàn che từ 0,7-0,8 Thực vật trong rừng rất đa dạng, mặc dù bị tác động nhẹ, nhưng tầng dưới có mật độ cây họ tre nứa khá cao, từ 2.000-2.500 cây/ha.
Rừ ng tre, nứa: Diê ̣n tích 26,6 ha, chiếm tỉ lệ không đáng kể, phân bố chủ yếu ở các khe suối Trữ lượng bình quân 5.000-6.000 cây/ ha
Rừng trồng có diện tích 1.037,6 ha, chiếm 9% tổng diện tích rừng, trong đó diện tích rừng trồng chứa lượng gỗ khoảng 17,8% Loài cây chủ yếu được trồng là keo, với mô hình trồng chủ yếu là trồng thuần loài.
4.1.2 Đặc điểm cơ bản của các trạng thái rừng
Dựa trên dữ liệu từ 04 ô tiêu chuẩn diện tích 0,1ha và 12 ô tiêu chuẩn 400m2, nghiên cứu đã phân tích các lâm phần rừng tự nhiên và rừng phục hồi sau nương rãy và khai thác Theo phân loại trạng thái của Loschau (1960), khu vực nghiên cứu được xác định có hai trạng thái là IIIA1 và IIIA2 Các đặc trưng định lượng cho thấy số lượng cây gỗ dao động từ 725 đến 1150 cây/ha, với trữ lượng từ 106,3 đến 170,3 m3/ha.
IIIA1 Trạng thái IIIA2 có mật độ biến động trong khoảng từ 560 – 770 cây/ha với trữ lượng 187,3 – 282,3 m 3 /ha
Bảng 4.1 Một số đặc trưng định lượng các trạng thái rừng
Rừng tự nhiên chủ yếu bao gồm các loài cây lá rộng thường xanh, hình thành do con người khai thác lạm dụng gỗ và quá trình bỏ hoang nương rẫy Rừng phân bố rộng rãi, chiếm diện tích lớn trong khu vực nghiên cứu, nằm ở độ cao từ 100 - 300 m Cấu trúc rừng hỗn giao nhiều tầng, thường có bốn tầng với hai tầng cây gỗ, hai tầng cây bụi và thảm thực vật tươi tốt Thành phần thực vật chủ yếu là cây lá rộng thường xanh, với số loài cây gỗ dao động từ 35 – 40, trong đó các loài chủ yếu thuộc họ Vang (Caesalpiniaceae), họ Thầu dầu (Euphorbiaceae), họ Dẻ (Fagaceae), và họ Cam (Rutaceae).
Lớp cây bụi với đại diện gồm những loài như Trọng đũa (Ardisia quinquegona), Phèn đen (Phyllanthus reticulatus), Sang (Zanthoxylum nitidum), Lấu (Psychotria reevesii)…
The grass layer consists of various plant species, including ferns such as Dryopteris sp., Eclipta prostrata, Lygodium flexuosum, Rubus cochinchinensis, Smilax china, Calamus pseudoscutellaris, and Achyranthes aspera These plants contribute to the biodiversity and ecological balance of their habitats.
Hình 4.1 Hình ảnh 1 - Trạng thái rừng III A1
Rừng nằm ở độ cao từ 360 m đến 582 m đã bị ảnh hưởng bởi khai thác trái phép các loài cây gỗ quý như Lim xanh, Lim vàng, Sên mật, và Táu mật, cùng với các lâm sản ngoài gỗ như Lá khôi và Huyết đằng Mặc dù số lượng cá thể bị khai thác không nhiều, nhưng cấu trúc và hoàn cảnh rừng đã thay đổi, chủ yếu là giảm trữ lượng và biến đổi kết cấu lớp cây con, ảnh hưởng đến quá trình tái sinh Rừng thường có năm tầng, bao gồm ba tầng cây gỗ, tầng cây bụi và thảm thực vật, với từ 37 đến 45 loài cây gỗ được ghi nhận trong các ô tiêu chuẩn đo đếm.
Hình 4.2 Ảnh 2 – Trạng thái rừng III A2
Lớp cây gỗ gồm chủ yếu các loài thuộc họ Thầu dầu (Euphorbiaceae), họ
Dẻ (Fagaceae), họ Dâu tằm (Moraceae), họ Long não (Lauraceae), họ Vang (Caesalpiniaceae), họ Trinh nữ (Mimosaceae), họ Kim giao (Podocarpaceae), họ Dầu (Dipterocarpaceae)…
Lớp cây bụi có các loài như Thường sơn (Dichroa febrifuga), Lấu (Psychotria reevesii), Nhót rừng (Elaeagnus bonii)…
Lớp cỏ có các loài như cỏ Ba cạnh (Cyperus trialatus), Bòng bong (Lygodium flexuosum), Ngấy hương (Rubus cochinchinensis),…
Nghiên cứu đặc điểm cấu trúc tầng cây cao các trạng thái rừng
4.2.1.1 Tổ thành theo trị số IV%
Theo Thái Văn Trừng (1978)[32], trong một lâm phần, loài cây nào đó chiếm trên 50% tổng số cá thể tầng cây cao thì nhóm loài đó được coi là
30 nhóm loài ưu thế, đây là những cơ sở quan trọng để xác định loài hoặc nhóm loài ưu thế
Bảng 4.2 Kết quả kiểm tra thuần nhất các ô tiêu chuẩn trong các xã hợp thực vật
Xã hợp TV Số loài ưu thế Số ô χ 2 tính χ 2 0,05 bảng
Chúng tôi đã thống kê các loài và cá thể cây gỗ ở tầng cây cao và tầng cây nhỡ trong hai trạng thái thảm thực vật thứ sinh phục hồi tự nhiên có chỉ số IV > 5% Kết quả phân loại thảm thực vật cho thấy trạng thảm thực vật IIIA1 có hai kiểu xã hợp thực vật (IIIA1-1 và IIIA1-2), trong khi trạng thái thảm thực vật IIIA2 có hai kiểu xã hợp thực vật khác (IIIA2-1 và IIIA2-2) Để tính toán tổ thành các xã hợp thực vật trong các trạng thái rừng, chúng tôi đã kiểm tra tính thuần nhất dựa trên trị số IV% của các loài ưu thế từ các ô tiêu chuẩn trong từng xã hợp thực vật, và kết quả được thể hiện trong bảng 4.2.
Kết quả kiểm tra cho thấy trị số χ² tính toán ở các ô tiêu chuẩn thuộc các trạng thái thảm thực vật đều nhỏ hơn χ² 0,05 bảng, chứng tỏ các mẫu kiểm tra là thuần nhất Điều này cho thấy các ô tiêu chuẩn đại diện cho các trạng thái thảm thực vật nghiên cứu có tính đồng nhất về chỉ tiêu số IV% của các loài ưu thế.
Bảng 4.3 Tổ thành các XHTV thuộc trạng thái rừng III A1
STT Loài ưu thế N (cây) IV%
* Trạng thái rừng IIIA1: Có hai xã hợp thực vật là IIIA1-1 và IIIA1-2 tổ thành các xã hợp thực vật trạng thái IIIA1 được thể hiện ở bảng 4.3
Xã hợp thực vật IIIA1-1 được phân bố rộng rãi và phổ biến trong các trạng thái rừng phục hồi tại khu vực nghiên cứu Nhóm loài ưu thế trong khu vực này bao gồm sáu loài cây quan trọng: Chẹo (Engelhardtia roxburghiana), Thầu tấu (Aporosa dioica), Trám trắng (Canarium album), Chò chỉ (Parashorea chinensis), Xoan đào (Prunus arborea) và Lim xanh.
(Erythrophleum fordii), tổng IV% của các loài này là 77,4% Số loài trong các ô tiêu chuẩn 400 m 2 biến động trong khoảng 19 – 22 loài
Xã hợp thực vật IIIA1-2 trong xã hợp này, có 5 loài ưu thế: Lim xanh (Erythrophleum fordii), De vàng (Lithocarpus tubulosus), Vạng trứng
(Endospermum chinense), Dẻ đỏ (Lithocarpus ducampii), Xoan đào (Prunus arborea) có tổng trị số IV% là 73,46% Số loài trên các ô tiêu chuẩn 400 m 2 biến động trong khoảng từ 21 – 24 loài
Chỉ số IV% là tiêu chí quan trọng phản ánh mức độ đa dạng sinh học và tính ổn định của hệ sinh thái rừng, từ đó giúp lựa chọn biện pháp kinh doanh rừng phù hợp Trong tổ thành rừng, các loài ưa sáng và chịu bóng thời gian đầu không có sự khác biệt lớn, với các loài cây chiếm ưu thế như Lim xanh (Erythrophleum fordii), Xoan đào (Prunus arborea), và Chẹo tía (Engelhardtia roxburghiana) thường xuyên xuất hiện Đồng thời, một số loài cây tiên phong như Thành ngạnh (Cratoxylum cochinchinense), Hu đay (Trema orientalis), và giền (Xylopia vielana) cũng thường xuyên hiện diện trong các xã hợp thực vật.
* Trạng thái rừng IIIA2: có hai xã hợp thực vật là IIIA2-1 và IIIA2-2 Tổ thành các xã hợp thực thuộc trạng thái rừng IIIA2 được trình bày ở bảng 4.4
Xã hợp thực vật IIIA2-1 có 6 loài tham gia vào công thức tổ thành gồm: Lim xanh (Erythrophleum fordii), Táu mật (Vatica cinerea), Chẹo
(Engelhardtia roxburghiana), dẻ đỏ (Lithocarpus ducampii), hà nu (Ixonanthes reticulata), Bứa (Garcinia oblongifolia), với tổng IV% là 59,8% số loài trên các ô tiêu chuẩn 400 m 2 biến động trong khoảng từ 27 – 32 loài
Xã hợp thực vật IIIA2-2 bao gồm 7 loài tham gia vào công thức tổ thành, trong đó có Côm tầng (Elaeocarpus griffithii), Dẻ đỏ (Lithocarpus ducampii), Vạng trứng (Endospermum chinense), Kháo vàng (Machilus bonii Lecomte), và Bứa.
Garcinia oblongifolia và De vàng (Lithocarpus tubulosus) chiếm tổng IV% đạt 62,5% trong khu vực nghiên cứu Số loài trong ô tiêu chuẩn 400 m² dao động từ 31 đến 34 loài Ngoài các xã hợp thực vật chính, còn tồn tại những xã hợp thực vật nhỏ khác trong khu vực này.
Bảng 4.4 - Tổ thành các XHTV thuộc trạng thái rừng III A2
STT Loài ưu thế N (cây) IV%
Xã hợp Trâm trắng (Syzygium wightianum) + Thông tre (Podocarpus neriifolius) + Kháo vàng (Machilus bonii) Với các loài ưu thế gồm táu mật
(Vatica cinerea), Thông tre (Podocarpus neriifolius), Sến mật (Madhuca pasquieri), các loài Trâm trắng (Syzygium wightianum), Thông tre
Xã hợp Táu mật (Vatica cinerea) + Thông tre (Podocarpus neriifolius) +
Dẻ gai ấn độ (Castanopsis indica) loài ưu thế là Thông tre (Podocarpus neriifolius), Táu mật (Vatica cinerea), Dẻ gai ấn độ (Castanopsis indica),
Côm tầng (Elaeocarpus griffithii) có tổng số IV% biến động trong khoảng từ
43 – 47 % tuy nhiên đây là xã hợp thực vật chiếm diện tích nhỏ phân bố ở khu vực Đồng Thông, không phổ biến nên đề tài không nghiên cứu sâu
Tổ thành thực vật ở các ưu hợp rừng khác nhau có sự tương đồng đáng kể, với các loài cây ưu thế sinh thái như Dẻ đỏ (Lithocarpus ducampii), Bứa (Garcinia oblongifolia), Vạng trứng (Endospermum chinense), Lim xanh (Erythrophleum fordii), và Kháo vàng (Machilus bonii Lecomte) thường xuyên xuất hiện Tuy nhiên, một số loài cây nhỏ và ít số lượng như Thành ngạnh (Cratoxylum cochinchinense) và Hu đay (Trema orientalis) không bao giờ xuất hiện trong tổ thành thực vật.
Bảng 4.5 - Đặc trưng chính của các trạng thái rừng
STT Ưu hơp TV N (cây/ha) G (m 2 /ha) M (m 3 /ha)
Kết quả nghiên cứu cho thấy các đặc trưng về N, G, M ở các xã hợp thực vật có sự khác biệt rõ rệt, ngay cả trong cùng một trạng thái rừng Trong xã hợp thực vật IIIA1, mặc dù mật độ cây cao, tổng G và M lại thấp, cho thấy quy luật chung là số lượng cây nhiều nhưng đường kính nhỏ dẫn đến trữ lượng không cao Ngược lại, ở các xã hợp thuộc trạng thái IIIA2, mặc dù mật độ tương đương, tổng G và M vẫn khác nhau, cho thấy sự tác động của các yếu tố bên ngoài đến cấu trúc rừng Điều này nhấn mạnh sự cần thiết phải nghiên cứu đặc điểm của từng xã hợp thực vật để đề xuất các biện pháp lâm sinh phù hợp cho việc khoanh nuôi và bảo vệ.
4.2.1.2.Tổ thành theo nhóm gỗ
Kết quả tính toán tổ thành theo trị số IV% cho từng nhóm gỗ cho thấy trong xã hợp thực vật IIIA1, tỷ lệ tổ thành các nhóm gỗ chủ yếu tập trung ở nhóm V – VII, với biến động từ 12,2 - 37,1% Ngược lại, nhóm gỗ tốt I và II có tỷ lệ thấp hơn, chỉ dao động từ 5,9 - 9,7% Điều này chứng tỏ rằng trong quá trình diễn thế đi lên, các loài gỗ tốt đang sinh trưởng và phát triển, trong khi các nhóm gỗ trung bình và xấu, vốn là những loài cây tiên phong, đang dần được thay thế bởi các loài cây thuộc nhóm I – III.
Xã hợp thực vật IIIA2 cho thấy tỉ lệ trị số IV% theo nhóm gỗ không có sự biến động lớn, với nhóm gỗ I, II, III chiếm 36,2% Trong đó, nhóm gỗ II có sự biến động từ 22,7% đến 26,3%, trong khi nhóm gỗ IV – VI có sự biến động lớn nhưng chiếm đến 49,4% Nhóm gỗ VII và VIII có trị số IV% là 15,6% Theo nghiên cứu của Lê Văn Sáu (1996), tại vùng Kon Hà Nừng, trữ lượng tự nhiên cho thấy 12% gỗ tốt (nhóm I, II, III), 52% gỗ trung bình (nhóm IV, V, VI) và 36% gỗ tạp xấu (các nhóm còn lại).
Bảng 4.6 - Tổ thành theo nhóm gỗ ở các trạng thái thảm thực vật Ưu hợp
Trị số IV% theo nhóm gỗ
I II III IV V VI VII VIII
Hình 4.3 - Tỉ lệ tổ thành (IV%) theo nhóm gỗ ở các trạng thái rừng
Theo Trần Cẩm Tú (1999), tại rừng Hương Sơn – Hà Tĩnh, tỷ lệ nhóm gỗ II và III chiếm 22,96%, trong khi nhóm gỗ IV, V và VI chiếm 40,62%, các nhóm gỗ còn lại là 36,45% Nguyễn Thành Mến (2005) cũng cho thấy, ở các xã hợp thực vật IV và IIIB rừng tỉnh Phú Yên, tỷ lệ nhóm gỗ I, II, III bình quân là 15,59%, nhóm gỗ IV, V và VI chiếm 49,84%, còn nhóm VII và VIII chiếm 34,57% Dữ liệu này cho thấy tỷ lệ gỗ tốt ở khu vực nghiên cứu cao hơn so với vùng Kon Hà Nừng và các vùng như Hương Sơn – Hà Tĩnh, Phú Yên Hình 4.1 minh họa quy luật phân bố tổ thành theo nhóm gỗ, chủ yếu tập trung ở nhóm gỗ II và nhóm gỗ VI, VII.
4.2.2 Cấu trúc mật độ và độ tàn che của các trạng thái rừng
Mật độ bình quân của các xã hợp thực vật thuộc trạng thái rừng IIIA1 là
950 cây/ha, và ở các xã hợp thực vật thuộc trạng thái rừng IIIA2 bình quân là
Mật độ cây trồng đạt 695 cây/ha, với các lâm phần thuộc trạng thái rừng IIIA1 đang trong giai đoạn phát triển mạnh, dẫn đến quá trình tỉa thưa diễn ra tích cực Trong khi đó, trạng thái rừng IIIA2 tuy ổn định nhưng chịu ảnh hưởng đáng kể từ con người, làm cấu trúc rừng bị phá vỡ.
4.2.2.2 Mật độ loài cây ưu thế
Trong các lâm phần nghiên cứu, các ô tiêu chuẩn 400 m² ghi nhận được từ 29 đến 38 loài cây gỗ, với số lượng cá thể của các loài thường phân tán không nhiều trên đơn vị diện tích Tính toán chỉ số IV% được trình bày trong bảng 4.3 và 4.4 cho thấy sự phân bố này.
Trong xã hợp thực vật IIIA1 mật độ bình quân loài Trám trắng (Canarium album), Chò chỉ (Parashorea chinensis) là 225 cây/ha tiếp đến là Lim xanh
Trong xã hợp thực vật IIIA2, loài Lim xanh (Erythrophleum fordii) có mật độ lớn nhất với 80 cây/ha, tiếp theo là Dẻ đỏ (Lithocarpus ducampii) cũng với 80 cây/ha Các loài khác như Côm tầng (Elaeocarpus griffithii), Chò chỉ (Parashorea chinensis) và Kháo vàng (Machilus bonii) xuất hiện với mật độ 70 cây/ha Những loài còn lại thường có mật độ từ 10 đến 30 cây/ha.
4.2.2.3 Hình thái phân bố cây trên mặt đất rừng
Kết quả nghiên cứu hình thái phân bố cây trong rừng cho thấy có hai kiểu phân bố chính là ngẫu nhiên và cách đều, không có kiểu phân bố cụm Kiểu phân bố cách đều chủ yếu xuất hiện ở trạng thái rừng IIIA2 và xã hợp thực vật IIIA1-2, trong khi xã hợp thực vật IIA1-1 lại có kiểu phân bố ngẫu nhiên.
Nghiên cứu một số quy luật kết cấu lâm phần
4.3.1 Phân bố số loài cây theo cấp kính
Phân bố số lượng loài theo cỡ kính phản ánh rõ đặc trưng cấu trúc tổ thành và khả năng đáp ứng yêu cầu kinh doanh bền vững của rừng Nghiên cứu sự phân bố số NL/D1.3 giúp đánh giá chính xác hơn về cấu trúc tổ thành rừng, từ đó đề xuất các hướng điều chỉnh phù hợp với mục đích khoanh nuôi.
Sự sinh trưởng của các loài cây trong rừng tự nhiên rất đa dạng, ngay cả trong cùng một loài, do điều kiện sống khác nhau dẫn đến tốc độ sinh trưởng không đồng đều Điều này tạo ra sự phân hóa lớn về đường kính giữa các cá thể, không chỉ trong cùng một loài mà còn giữa các loài khác nhau Thêm vào đó, sự khác biệt về tuổi tác của các cá thể trong quần xã cũng góp phần vào sự phân hóa này Kết quả nghiên cứu về phân bố số loài theo cấp đường kính trong hai trạng thái thảm thực vật thứ sinh phục hồi tự nhiên được trình bày trong bảng 4.10.
Bảng 4.10 - Phân bố số loài cây theo cấp kính của trạng thái rừng
Cấp đường kính (cm) III A1 III A2
Trạng thái rừng IIIA1 cho thấy sự phân bố số loài theo nhóm đường kính giảm dần khi đường kính tăng lên, điều này chỉ ra rằng trong quá trình phát triển của quần xã thực vật rừng, có sự đào thải các loài và bổ sung những loài mới Để tăng cường khả năng phục hồi của quần thể rừng, cần thực hiện các biện pháp loại bỏ những loài cây gỗ tạp không có giá trị, nhằm tạo điều kiện cho các loài cây có giá trị phát triển mạnh mẽ hơn.
Phân bố số lượng loài cây theo cỡ kính ở trạng thái IIIA1 tuân theo hàm Weibull với các tham số α = 0,9 và λ = 0,23170 Kết quả phân tích cho thấy rằng sự phân bố này là giảm dần khi đường kính tăng, với số loài tập trung chủ yếu ở cỡ đường kính 6 – 10 cm, đạt 43 loài Tuy nhiên, số lượng loài giảm mạnh ở cấp kính 11 – 15 cm, và chỉ còn một loài duy nhất ở cấp kính 36 – 40 cm, điều này được xác nhận bởi giá trị χ² n 6,40729 < χ² 05(k=3)= 7,8147.
Kết quả phân tích mô phỏng phân bố NL/D theo hàm Weibull với α = 1,1 và λ = 0,04442 cho thấy trạng thái rừng IIIA2 có phân bố số loài cây theo đường kính giảm dần Cụ thể, số loài cây tập trung chủ yếu ở cấp kính nhỏ từ 6 đến 15 cm, trong khi số loài giảm dần khi cấp kính tăng lên, đặc biệt ở các cấp kính lớn hơn.
50 cm số loài giảm chỉ còn 1 đến 2 loài
Hình 4.4 - Phân bố loài cây theo cấp kính trạng thái III A1
In the studied forest sections, the tree species with a diameter greater than 66 cm include White Dó (Canarium album), Hanu (Ixonanthes reticulata), Green Lim (Erythrophleum fordii), Sweet Tau (Vatica cinerea), and Honey Sến (Madhuca pasquieri).
Dẻ đỏ (Lithocarpus ducampii) và Chò chỉ (Parashorea chinensis) là những loài cây có kích thước nhỏ, hiếm khi vượt quá 42 cm Các loài khác như Trâm tía (Syzygium cinereum), Dung giấy (Symplocos laurina), Thị rừng (Diospyros decandra), Bứa (Garcinia oblongifolia) và Ngát (Gironniera subaequalis) thường có kích thước dưới 66 cm Những loài này tạo thành tầng ưu thế sinh thái trong hệ sinh thái rừng.
Hình 4.5 - Phân bố loài cây theo cấp kính trạng thái IIIA 2
4.3.2 Phân bố số cây theo chiều cao
Kết quả nghiên cứu về quy luật phân bố số cây theo chiều cao được trình bày trong bảng 4.11 và hình 4.4, 4.5 cho thấy rằng quy luật chung của phân bố N/H tại các xã hợp thực vật là xu hướng giảm dần khi chiều cao cây tăng lên.
Xã hợp thực vật IIIA1-1 cho thấy số lượng cây ở cấp chiều cao đầu thường thấp hơn so với các cấp chiều cao liền kề, với sự tập trung chủ yếu ở khoảng 10,5 – 16,5 m Số lượng cây giảm nhanh ở các cấp chiều cao tiếp theo do cạnh tranh mạnh mẽ, đặc biệt ở cấp chiều cao 34,5 - 37,5 chỉ còn 2 cây, tương đương khoảng 20 cây/ha Kết quả mô phỏng quy luật phân bố N/H theo hàm Weibull cho thấy phân bố có đỉnh lệch trái tại cấp chiều cao 13,5 với các tham số α = 1,9 và λ = 0,01066; đồng thời kiểm định χ² cho thấy giá trị 4,92638 nhỏ hơn 12,59159, cho thấy sự giảm nhanh ở các cấp chiều cao tiếp theo.
Bảng 4.11- Phân bố N/H ở các trạng thái rừng, xã hợp thực vật trên ÔTC 1000m 2 Trạng thái III A1-1 Trạng thái III A2-1
Phân bố của rừng non đang phát triển ổn định cho thấy quá trình cạnh tranh về không gian dinh dưỡng giữa các loài cây trong xã hợp thực vật Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của Lê Đồng Tấn (1999) về quá trình phục hồi rừng bằng khoanh nuôi tại Sơn La.
Xã hợp thực vật IIIA2-1 có sự phân bố cây tập trung ở độ cao từ 13,5 - 19,5 m, do tác động của khai thác trái phép trong quá khứ đã tạo ra các khoảng trống trong rừng, giúp các loài cây tiên phong phát triển nhanh chóng Ngoài ra, các loài cây gỗ chịu bóng cũng bắt đầu phát triển tốt trong điều kiện này Tại khu vực này, số lượng cây đạt chiều cao ≥ 31,5 m là 90 cây/ha.
Hình 4.6 – Phân bố N/H – xã hợp thực vật III A1-1
Hình 4.7 – Phân bố N/H – xã hợp thực vật III A2-1
Quy luật phân bố theo hàm Weibull với α = 1,95 và λ = 0,00527 cho thấy phân bố N/H có một đỉnh tại chiều cao 16,5 m và một đỉnh phụ ở 31,5 m, sau đó giảm chậm ở các cấp chiều cao tiếp theo Kết quả nghiên cứu này tương đồng với kết luận của Nguyễn Thành Mến (2005) về cấu trúc rừng tự nhiên lá rộng thường xanh ở Phúc Yên và Lê Sáu (1996) trong nghiên cứu đặc điểm cấu trúc rừng ở Kon Hà Nừng – Tây Nguyên.
4.3.3 Phân bố số cây theo cấp kính
Kết quả nghiên cứu về phân bố N/D ở các trạng thái thảm thực vật, được trình bày trong bảng 4.12 và hình 4.5 cùng 4.6, cho thấy rằng phân bố theo đường kính tuân theo quy luật giảm dần Cụ thể, số lượng cây tập trung chủ yếu ở cấp kính I, giảm mạnh ở cấp kính II, sau đó giảm chậm hơn ở các cấp kính tiếp theo, với chỉ 1 cây ở cấp kính VIII cho trạng thái IIIA1-1 và 4 cây ở các cấp kính từ X đến XIII cho trạng thái IIIA2-1.
Hình 4.8 - Phân bố N/D – Trạng thái III A1-1
Mô phỏng phân bố N/D theo hàm Weibull với α = 0,9; λ = 0,17684; χ 2 n 7,65440 < χ 2 05(k=3)= 7,8147 cho thấy:
Đường biểu diễn phân bố N/D của trạng thái IIIA1-1 cho thấy sự giảm mạnh từ cấp I xuống cấp II, sau đó giảm chậm dần ở các cấp đường kính tiếp theo Cụ thể, số cây ở cấp kính I và II chiếm 61,4%, trong khi số cây ở cấp kính III – V chiếm 31,8%, và số cây có đường kính ≥ 31 cm chỉ chiếm 6,8%.
Bảng 4.12- Phân bố N/D ở các trạng thái rừng, xã hợp thực vật trên ÔTC 1000m 2
Cấp đường kính (cm) III A1-1 III A2-1
Phân bố N/D ở trạng thái IIIA2-1 theo hàm Weibull với α = 0,9 và λ = 0,09139 cho thấy đường cong phân bố giảm mạnh từ cấp I xuống cấp II, sau đó giảm chậm dần Đặc biệt, có hai đỉnh phụ xuất hiện ở cấp V và cấp VII Kết quả kiểm định χ² cho thấy χ² n = 2,32439 < χ² 05(k=3) = 7,8147, xác nhận tính chính xác của mô hình phân bố này.
53 cây ở cấp I và II chiếm 46,8%, số cấp ở cấp III – IX chiếm 48,1%, số cây ở cấp kính D ≥ 51 cm chiếm 5,2%
Hình 4.9 - Phân bố N/D – Trạng thái III A2-1
4.3.4 Tương quan giữa chiều cao và đường kính
Đề xuất một số biện pháp quản lý và phát triển bền vững tài nguyên rừng tại khu vực nghiên cứu
Để quản lý và sử dụng hiệu quả các trạng rừng khác nhau, cần áp dụng các biện pháp kỹ thuật lâm sinh phù hợp với đặc trưng của từng loại rừng Dựa trên nghiên cứu hiện tại tại các ô tiêu chuẩn, chúng tôi đề xuất một số biện pháp kỹ thuật lâm sinh đa dạng cho từng trạng thái rừng nhằm nâng cao hiệu quả nuôi dưỡng và bảo vệ rừng.
Rừng hiện nay cần được khoanh nuôi và bảo vệ, đồng thời áp dụng biện pháp chăm sóc để phát triển bền vững Việc khai thác tận thu các cây già cỗi giúp tránh tình trạng cây đổ, gãy, ảnh hưởng đến cây xung quanh và tạo điều kiện cho sự tái sinh Đối với trạng thái rừng IIIA1, cần thực hiện các biện pháp bảo vệ kết hợp với việc trồng bổ sung cây đặc sản dưới tán rừng Cần chặt các cây gỗ ít giá trị như thành ngạnh, sau sau, thầu tấu, và định kỳ phát dây leo, cây bụi để làm giàu rừng Những biện pháp này sẽ nâng cao giá trị rừng, biến rừng nghèo, rừng hỗn giao trữ lượng thấp thành rừng tự nhiên nhiều tầng với chất lượng tốt hơn.
Biện pháp làm giàu rừng từng lô bao gồm điều chỉnh mật độ cây, chặt bỏ cây phi mục đích để tạo điều kiện cho cây gỗ phát triển, tỉa cành và phát luống dây leo, cây bụi nhằm nâng cao chất lượng rừng.
Trồng bổ sung làm giàu rừng theo rạch với chiều rộng rạch từ 4-8m, mỗi rạch sẽ trồng một hàng cây con có chiều cao từ 0,8-1,0m.
Mật độ trồng bổ sung xác định từ 300-500 cây/ha tùy theo chất lượng và mật độ rừng hiện có
Loài cây trồng bổ sung: Bằng các loài cây như: Lim xanh (Erythrophleum fordii), Trám trắng (Canarium album), Dè vàng (Machilus velutina) và các loài dược liệu
Trạng thái IIIA2 tập trung vào việc điều tiết tổ thành tầng cây cao nhằm tăng sản lượng gỗ có giá trị kinh tế, thông qua việc tỉa thưa và khai thác trung gian các loài cây không đáp ứng nhu cầu kinh tế và phòng hộ Các sản phẩm gỗ được tận dụng cho xây dựng và nguyên liệu giấy sợi như Chẹo tía (Engelhardtia roxburghiana) và Bứa (Garcinia oblongifolia) cũng được khai thác Đồng thời, việc làm giàu rừng bằng các loài cây bản địa có giá trị kinh tế như Trám trắng (Canarium album), Lim xanh (Erythrophleum fordii) và Trám chim (Canarium tonkinense) cũng được chú trọng.
Giữ lại cây tái sinh có giá trị kinh tế hiện có trên các trạng thái rừng như Lim xanh (Erythrophleum fordii), Trám trắng (Canarium album), Dè vàng
Để giảm thiểu tác động tiêu cực của con người đối với rừng, cần tăng cường quản lý và bảo vệ rừng Việc tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức cho người dân về vai trò quan trọng của rừng sẽ giúp họ ý thức hơn trong việc bảo vệ và tham gia vào các hoạt động sản xuất lâm nghiệp.
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Trong các trạng thái rừng số lượng cây gỗ biến động trong khoảng từ 725 -
Mật độ cây trồng đạt 1150 cây/ha với trữ lượng từ 106,3 - 170,3 m³/ha trong trạng thái IIIA1 Trong khi đó, trạng thái IIIA2 có mật độ biến động từ 560 – 770 cây/ha với trữ lượng 187,3 – 282,3 m³/ha Công thức tổ thành bao gồm từ 5 – 7 loài, với tổng IV% biến động từ 73,46 - 77,4% ở trạng thái IIIA1, và ở trạng thái IIIA2, số loài ưu thế từ 6 - 7 loài với tổng IV% đạt 59,8% - 62,5%.
Xã hợp thảm thực vật IIIA1 có tỉ lệ tổ thành các nhóm gỗ chủ yếu từ nhóm gỗ V – VII, dao động từ 12,2% đến 37,1% Trong khi đó, xã hợp thực vật IIIA2 cho thấy tỉ lệ trị số IV% theo nhóm gỗ I, II, III chiếm 36,2%, nhóm gỗ IV – VI đạt 49,4%, và nhóm gỗ VII và VIII có trị số IV% là 15,6%.
Mật độ cây trung bình trong các xã hợp thực vật trạng thái IIIA1 đạt 950 cây/ha, trong khi đó, ở trạng thái IIIA2, mật độ này giảm xuống còn 695 cây/ha Tại các lâm phần nghiên cứu, đã thực hiện tổng hợp các ô tiêu chuẩn 400 m² để thống kê.
Hình thái phân bố cây trong rừng chủ yếu ở trạng thái IIIA2 và IIIA1-2, trong khi xã hợp IIIA-1 có kiểu phân bố ngẫu nhiên.
Xã hợp thực vật IIIA1-1: Kiểm tra 5 cặp quan hệ hỗ trợ, với χ 2 > 3,84, ρ 3,84 và ρ < 0, trong khi các cặp còn lại có mối quan hệ ngẫu nhiên với χ² < 3,84 Tổng cộng, có bảy cặp có quan hệ hỗ trợ nhau với 0 ≤ ρ < 1 và bảy cặp loài có xu hướng cạnh tranh (ρ < 0).
Trạng thái rừng IIIA1 có cấu trúc 4 tầng, bao gồm tầng A1, A2, tầng cây bụi (B) và tầng cây bụi thảm tươi (C), đặc trưng cho thảm thực vật rừng phong phú và đa dạng.
Trong giai đoạn phục hồi mạnh, rừng IIIA2 có cấu trúc gồm năm tầng: tầng A1, A2, A3, tầng cây bụi (B) và tầng cây bụi cùng thảm tươi (C).
Xã hợp thực vật IIIA1-1 cho thấy quy luật phân bố N/H theo hàm Weibull với một đỉnh lệch trái tại chiều cao 13,5, với các tham số α = 1,9 và λ = 0,01066 Giá trị thống kê χ² n là 4,92638, nhỏ hơn χ² 05(k=6) = 12,59159, cho thấy sự giảm nhanh ở các cấp chiều cao tiếp theo.
Xã hợp thực vật IIIA2-1 cho thấy quy luật phân bố theo hàm Weibull với các tham số α = 1,95 và λ = 0,00527 Kết quả kiểm định chi bình phương χ² n = 2,55686 nhỏ hơn χ² 05(k=6) = 12,59159, cho thấy tính hợp lệ của mô hình phân bố này Phân bố N/H có một đỉnh chính tại chiều cao 16,5 m và một đỉnh phụ tại chiều cao 31,5 m, sau đó phân bố giảm dần ở các cấp chiều cao tiếp theo.
Phân bố N/D ở các trạng thái rừng tuân theo quy luật phân bố giảm, mô phỏng phân bố N/D theo hàm Weibull với α = 0,9; λ = 0,17684; χ2n = 7,65440
< χ205(k=3)= 7,8147 cho thấy: xã hợp IIIA1-1 phân bố giảm, giảm mạnh từ cấp I xuống cấp II sau đó giảm chậm dần ở cấp đường kính tiếp sau Số cây ở cấp kính
I và II chiếm 61,4%, số cây ở cấp kính III – V chiếm 31,8% còn lại số cây có D