1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Nghiên cứu đặc điểm sinh thái làm tổ của cò bợ ardeola bacchus bonapar 1855 và cò trắng egretta garztetta linnaeus 1766 trên địa bàn xã cẩm lĩnh

37 2 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Nghiên Cứu Đặc Điểm Sinh Thái Làm Tổ Của Cò Bợ (Ardeola Bacchus Bonapar, 1855) Và Cò Trắng (Egretta Garztetta Linnaeus, 1766) Trên Địa Bàn Xã Cẩm Lĩnh
Tác giả Đặng Minh Tấn
Người hướng dẫn TS. Nguyễn Đắc Mạnh
Trường học Trường Đại Học Lâm Nghiệp
Chuyên ngành Quản Lý Tài Nguyên Rừng & Môi Trường
Thể loại khóa luận tốt nghiệp
Năm xuất bản 2017
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 37
Dung lượng 794,53 KB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG I TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU (9)
    • 1.1. Lược sử nghiên cứu chim ở nước ngoài (9)
    • 1.2. Lƣợc sử nghiên cứu chim ở Việt Nam (10)
    • 1.3. Lịch sử nghiên cứu loài Cò ở khu vực Cẩm Lĩnh (13)
  • Chương II ĐIỀU KIỆN CƠ BẢN CỦA XÃ CẨM LĨNH (14)
    • 2.1. Vị trí địa lý của xã Cẩm Lĩnh (14)
    • 2.2. Điều kiện tự nhiên của xã Cẩm Lĩnh (15)
      • 2.2.1. Địa hình (15)
      • 2.2.2. Khí hậu (15)
      • 2.2.3. Thủy văn (15)
    • 2.3. Điều kiện kinh tế - xã hội (15)
      • 2.3.1. Dân số (15)
      • 2.3.2. Cơ cấu kinh tế (16)
      • 2.3.3. Cơ sở hạ tầng của xã Cẩm Lĩnh (16)
  • CHƯƠNG III MỤC TIÊU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU (18)
    • 3.1. Mục tiêu nghiên cứu (18)
    • 3.2. Đối tƣợng nghiên cứu (18)
    • 3.3. Phạm vi nghiên cứu (18)
    • 3.4. Nội dung nghiên cứu (18)
    • 3.5. Phương pháp nghiên cứu (18)
  • CHƯƠNG IV KẾT QUẢ VÀ PHÂN TÍCH KẾT QUẢ (22)
    • 4.1 Các yếu tố hoàn cảnh nơi làm tổ của Cò trắng (22)
    • 4.2. Các yếu tố hoàn cảnh nơi làm tổ của Cò bợ (24)
    • 4.3. Mức độ cạnh tranh làm tổ của 2 loài Cò (25)
    • 4.4. Đánh giá tác động của con người tới sinh thái làm tổ của 2 loài Cò (30)
      • 4.4.1. Gây nhiễu loạn sinh cảnh sống (30)
      • 4.4.2. Phá hủy sinh cảnh sống (30)
    • 4.5. Đề xuất một số giải pháp bảo tồn các loài Cò ở khu vực xã Cẩm lĩnh (31)
  • CHƯƠNG V KẾT LUẬN VÀ TỒN TẠI- KHUYẾN NGHỊ (32)
    • 5.1. Kết luận (32)
    • 5.2. Tồn tại và Khuyến nghị ............................................................................ 25 TÀI LIỆU THAM KHẢO (32)
  • PHỤ LỤC (34)

Nội dung

TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

Lược sử nghiên cứu chim ở nước ngoài

Đông Dương, với cảnh quan thiên nhiên phong phú, đã thu hút sự chú ý của nhiều nhà Điểu học trong hơn 100 năm qua Nghiên cứu về động vật hoang dã, đặc biệt là chim, đã có sự tham gia của nhiều nhà sinh học quốc tế Tuy nhiên, kiến thức về động vật tại Đông Dương, đặc biệt là các loài chim, vẫn còn hạn chế Năm 1788, Gomolanh đã mô tả loài chim xanh nam bộ (Chloropsis cochinchinensis), và vào giữa thế kỷ XIX, một số loài chim khác cũng được phát hiện và mô tả thêm.

Sau khi chiếm đóng miền nam Đông Dương, người Pháp bắt đầu quan tâm đến việc nghiên cứu thiên nhiên khu vực này Mặc dù ban đầu không tổ chức các cuộc sưu tầm quy mô lớn, từ năm 1862 đến 1874, nhiều đợt nghiên cứu về chim đã được thực hiện bởi các nhà tự nhiên học nghiệp dư, thu thập một lượng mẫu vật lớn và gửi về Pháp để xác định.

Từ năm 1874 đến 1903, M.E Oustales cho xuất bản công trình “Chim Campuchia, Lào, Nam Bộ và Bắc Bộ Việt Nam” và từ năm 1905 đến năm

Năm 1907, Uxtale và Gecmanh đã xuất bản tập “Danh Sách Chim miền Nam Việt Nam, Nam Bộ” Trong khi đó, tại Bắc Việt Nam, Butan đã tổ chức sưu tầm chim và công bố kết quả trong tập “Mười năm nghiên cứu động vật”, ghi nhận 90 loài chim cùng với một số dữ liệu sinh học liên quan.

Vào năm 1918, Boden Klox đã tổ chức cuộc sưu tầm chim đầu tiên và công bố trong tập “Chim Trung Bộ và Nam Bộ Việt Nam”, ghi nhận 235 loài, trong đó có 34 loài mới cho khoa học Trong thời gian này, nhà điểu học người Nhật Kuroda cũng đã phân tích bộ sưu tập chim của S Txikia, phát hiện được 130 loài và các loài phụ.

Từ năm 1923 đến 1938, J Dơlacua, P Jabuio, J Grinuay và các đồng nghiệp đã thực hiện 7 cuộc sưu tầm lớn trên lãnh thổ Đông Dương, thu thập được 23 nghìn tiêu bản đáng kể Các tiêu bản này đã được đưa về Pháp để giám định và sau đó phân chia cho các viện bảo tàng lớn ở Pháp, Anh và Mỹ.

Năm 1940 Dolacua và Grinuay cho xuất bản danh sách chim thu thập được trong cuộc sưu tập lần thứ 7 gồm 224 loài và loài phụ

Từ năm 1941 đến 1950, nhiều sưu tập chim được thu thập ở Lào, Lạng Sơn và các địa phương khác ở miền Bắc Việt Nam đã được gửi đến phòng nghiên cứu động vật của Đại học tổng hợp Đông Dương để giám định Buaret đã phân tích và công bố các sưu tập này, trong đó có nghiên cứu đáng chú ý của Boliơ về chim ở Lào, với 6000 tiêu bản thuộc 505 loài và phân loài Trong 10 năm cuối, nhiều tác giả đã công bố các công trình thu thập chim ở Đông Nam Á, bao gồm 20 dạng mới được sưu tầm trên lãnh thổ Đông Dương Dựa vào các công trình này, vào năm 1951, J Delacour đã bổ sung lần thứ ba danh sách chim Đông Dương.

1085 loài và loài phụ, trong đó có 2 dạng mới.

Lƣợc sử nghiên cứu chim ở Việt Nam

Trước năm 1945, nghiên cứu về chim chủ yếu do người nước ngoài thực hiện Từ năm 1945 đến 1954, chiến tranh đã làm gián đoạn các hoạt động nghiên cứu tại Việt Nam Sau khi Bắc Việt Nam được giải phóng, một số nhà khoa học Việt Nam bắt đầu tiến hành nghiên cứu, trong đó nổi bật là các công trình của Võ Quý và Trần Gia Huấn (1960-1961), Võ Quý (1962-1966), Võ Quý và Đỗ Ngọc Quang (1965), cùng với Võ Quý và Alogiava N.C (1967 a, 1967 b) Ngoài ra, còn có nghiên cứu của Fiso và Lê Diên Dực (1966) về chim miền Bắc Việt Nam Tuy nhiên, hầu hết các công trình này chỉ đề cập đến khu hệ chim ở một số vùng nhỏ.

Tại Việt Nam, các tác giả chủ yếu tập trung vào việc nghiên cứu và phân loại các loài sinh vật, trong khi mối quan hệ giữa các loài và sinh cảnh vẫn chưa được chú trọng đầy đủ.

Năm 1971, Võ Quý đã công bố công trình “Sinh học các loài chim thường gặp ở Việt Nam”, tổng hợp kết quả nghiên cứu về đời sống của gần hai trăm loài chim phổ biến ở miền Bắc Việt Nam sau hơn bảy năm nghiên cứu Tác phẩm cung cấp thông tin chi tiết về nơi ở, thức ăn, sinh sản và tập tính của các loài chim, nhiều trong số đó có ý nghĩa kinh tế Mặc dù đây là một nghiên cứu có hệ thống và sát thực tế, do đối tượng nghiên cứu rộng lớn, tác giả không thể đi sâu vào từng loài, chỉ nêu rõ sinh cảnh và độ cao mà chưa mô tả cụ thể các đặc điểm sinh cảnh sống như tổ thành thực vật và vị trí tầng tán mà các loài chim ưa thích.

Sau chiến tranh giải phóng Miền Nam thống nhất đất nước, công trình

“Chim Việt Nam, Hình thái phân loại (Tập I, II) của Võ Quý (1975-1981) là công trình nghiên cứu đầu tiên về chim trên toàn lãnh thổ Việt Nam, tập trung vào các khía cạnh hình thái và phân loại.”

Trong những năm tiếp theo, Việt Nam đã phải khai thác mạnh mẽ diện tích rừng còn lại để đáp ứng nhu cầu dân số ngày càng tăng và khắc phục hậu quả chiến tranh Tuy nhiên, rừng Việt Nam đã bị tàn phá nặng nề, dẫn đến sự suy giảm nhanh chóng về số lượng và chất lượng động thực vật, bao gồm cả chim rừng Nhận thức được tầm quan trọng của rừng và những thiệt hại nghiêm trọng do mất rừng gây ra, năm 1986, Chính phủ Việt Nam đã thành lập 87 khu rừng đặc dụng với tổng diện tích khoảng 1.169.000 ha Dù vậy, hầu hết các hoạt động bảo tồn đều kém hiệu quả do thiếu kinh phí và cán bộ kỹ thuật.

5 nắm đƣợc thực trạng tài nguyên trong khu vực mình quản lý Mặt khác do nhân dân ta chƣa thoát khỏi cảnh đói nghèo

Những năm cuối của thế kỷ XX, cuốn “Danh lục chim Việt Nam” của

Võ Quý và Nguyễn Cử (1995) đã phát hành một bản danh lục quan trọng, giúp giải quyết khó khăn trong việc nhận diện các loài chim tại Việt Nam Danh lục này bao gồm 19 bộ, 81 họ và 828 loài chim đã được ghi nhận tính đến năm 1995 Mỗi loài đều được mô tả với các đặc điểm về hiện trạng và vùng phân bố, cung cấp thông tin quý giá cho nghiên cứu và bảo tồn.

Trong những năm gần đây, nhiều tổ chức quốc tế như Bảo tồn chim Quốc tế (Birdlife International), Tổ chức bảo tồn động, thực vật hoang dã quốc tế (FFI), Hiệp hội bảo tồn thiên nhiên Quốc tế (IUCN), Quỹ quốc tế bảo vệ thiên nhiên (WWF) và Ngân hàng thế giới (WB) đã đầu tư vào các dự án bảo tồn đa dạng sinh học tại Việt Nam, thúc đẩy mạnh mẽ công tác bảo tồn trên toàn quốc Sự đầu tư này đã dẫn đến việc thực hiện và xuất bản nhiều nghiên cứu về động vật hoang dã, góp phần phục vụ cho chiến lược đào tạo nguồn nhân lực trong lĩnh vực bảo tồn.

Trong chương trình hợp tác giữa Viện Điều Tra Quy hoạch rừng và tổ chức bảo vệ Chim quốc tế, đã phát hiện 2 loài chim mới cho khoa học tại các khu vực rừng đặc dụng, bao gồm Khướu ngọc linh (Garrulax ngoclinhensis) và Khướu vằn đầu đen (Actinodura sodangorum) Đây là những phát hiện mới đầu tiên về chim ở Việt Nam và Đông Nam Á trong 30 năm qua, đồng thời tái phát hiện một số loài như Mi núi bà (Crocias langbianis) và quần thể gà lôi Hà Tĩnh (Lophura hatinhensis).

Cuốn sách "Chim Việt Nam" của các tác giả Nguyễn Cử, Lê Trọng Trải và Karen Phillips là công trình nghiên cứu mới nhất về chim, giới thiệu hơn 500 loài trong tổng số gần 850 loài chim tại Việt Nam Mỗi loài được trình bày chi tiết với mô tả, phân bố, tình trạng, nơi ở và hình vẽ minh họa, nhằm cung cấp thông tin đầy đủ và hữu ích cho độc giả.

6 mục đích giúp người xem nhận dạng các loài chim ngoài thực địa, đây là tài liệu hướng dẫn tốt cho các nhà nghiên cứu

Nghiên cứu chim ở Đông Dương, đặc biệt là Việt Nam, đã có hơn 100 năm lịch sử, nhưng phần lớn các công trình nghiên cứu đều do người nước ngoài thực hiện, trong khi số lượng nhà nghiên cứu trong nước vẫn còn hạn chế Đến nay, Việt Nam đã ghi nhận 828 loài chim thuộc 81 họ và 19 bộ.

Lịch sử nghiên cứu loài Cò ở khu vực Cẩm Lĩnh

Nghiên cứu về các loài Cò tại xã Cẩm Lĩnh đóng vai trò quan trọng trong việc bảo tồn và phát triển chúng Khu vực Đồi Cò Ngọc Nhị, thuộc sở hữu của ông Phùng Văn Học ở thôn Ngọc Nhị, là trung tâm của các hoạt động nghiên cứu chuyên sâu về các loài Cò Các nghiên cứu này không chỉ tập trung vào các đề tài lớn mà còn góp phần nâng cao nhận thức về sự cần thiết bảo vệ các loài Cò trong khu vực.

ĐIỀU KIỆN CƠ BẢN CỦA XÃ CẨM LĨNH

Vị trí địa lý của xã Cẩm Lĩnh

Cẩm Lĩnh là một xã thuộc huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội, Việt Nam

Xã Cẩm Lĩnh có diện tích 26,63 km² và dân số 9.387 người vào năm 1999, với mật độ dân số đạt 352 người/km² Địa giới hành chính của xã Cẩm Lĩnh bao gồm: phía Đông giáp xã Thụy An và xã Tản Lĩnh; phía Tây và Tây Bắc giáp xã Tòng Bạt; phía Nam giáp xã Ba Trại; và phía Bắc giáp xã Vật Lại.

Bản đồ 2.1 Vị trí khu vực nghiên cứu (đánh dấu đỏ)

Điều kiện tự nhiên của xã Cẩm Lĩnh

Cẩm Lĩnh là một xã trung du nằm ở phía tây cuối dãy núi Hoàng Liên Sơn, có địa hình đồi gò thấp và bị chia cắt liên tục Khu vực này được phân chia thành hai vùng: vùng đồi cao nằm ở phía tây nam, tiếp giáp với xã lân cận.

Ba Trại có độ cao trung bình từ 30 – 80 m với địa hình gồ ghề, chiếm 168 ha, tương đương 26,8% diện tích toàn vùng Phía đông bắc là vùng gò và đồng ruộng thấp, diện tích 202 ha, chiếm 73,2% diện tích xã, nổi bật với các cánh đồng bằng phẳng xen lẫn đồi gò, đặc trưng của Xứ Đoài Hệ thống sông hồ kênh rạch tại đây phân bố đồng đều, bao gồm các sông nhỏ như sông Tích, Hồ Cẩm Quỳ, Hồ Suối Hai, Hồ Ngọc Nhị, Hồ Cẩm An và Đầm Long.

Cẩm Lĩnh có khí hậu cận nhiệt đới ẩm, với mùa đông khô lạnh và ít mưa, trong khi mùa hè nóng bức và mưa nhiều Nhiệt độ trung bình hàng năm tại đây tạo nên sự đa dạng về thời tiết, thu hút du khách đến khám phá.

23 °C Tháng 7 có nhiệt độ cao nhất trong năm, trung bình 27 - 29 °C, ngƣợc lại tháng 1 có nhiệt độ thấp nhất, trung bình 15,5 - 16,5 °C

Hồ Suối Hai là hồ nước ngọt nhân tạo nằm dưới chân núi Ba Vì, thuộc các xã Cẩm Lĩnh, Ba Trại, Thụy An và Tản Lĩnh, huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội Hồ này cung cấp nước cho sản xuất nông nghiệp và sinh hoạt của cư dân xã Cẩm Lĩnh.

Điều kiện kinh tế - xã hội

Xã Cẩm Lĩnh, thuộc huyện Ba Vì, cách trung tâm huyện khoảng 15km về phía Tây, có diện tích tự nhiên 26,62km2 Xã bao gồm 11 thôn và 7 cơ quan, đơn vị đóng quân, với tổng số 2.778 hộ gia đình và hơn 11.000 nhân khẩu.

Kinh tế xã phát triển mạnh mẽ với tổng giá trị sản xuất ước đạt 1.021 tỷ đồng và thu nhập ước đạt 407 tỷ đồng, tương đương thu nhập bình quân 34 triệu đồng/người/năm, đạt 103% kế hoạch Tổng sản lượng lương thực cây có hạt ước đạt 4.094 tấn, với bình quân lương thực đạt 341 kg/người/năm Cơ cấu kinh tế bao gồm nông, lâm nghiệp chiếm 57%, trong khi các ngành tiểu thủ công nghiệp, xây dựng, dịch vụ, du lịch và các ngành nghề khác chiếm 43%.

Biểu đồ 2.1 Biểu đồ cơ cấu kinh tế xã Cẩm Lĩnh

2.3.3 Cơ sở hạ tầng của xã Cẩm Lĩnh

Cẩm Lĩnh là một xã thuộc huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội, Việt Nam Xã Cẩm Lĩnh có địa giới hành chính rõ ràng: phía Đông giáp xã Thụy An và xã Tản Lĩnh, phía Tây và Tây Bắc giáp xã Tòng Bạt, phía Nam giáp xã Ba Trại, và phía Bắc giáp xã Vật Lại.

Cẩm Lĩnh nổi bật với nhiều danh lam thắng cảnh và di tích lịch sử - văn hóa nổi tiếng, bao gồm hồ Suối Hai và làng Việt cổ Ngọc Nhị Đặc biệt, khu vực Vô Khuy và Bằng Tạ gắn liền với truyền thuyết Sơn Tinh - Thủy Tinh, thu hút sự quan tâm của du khách.

Hồ Suối Hai là hồ nước ngọt nhân tạo tọa lạc dưới chân núi Ba Vì, thuộc các xã Cẩm Lĩnh, Ba Trại, Thụy An, và Tản Lĩnh, huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội.

43 kinh tế nông, lâm nghiệp ngành công nghiệp xây dựng, du lịch và các ngành khác

Hồ Suối Hai, được hoàn thành vào năm 1958, là một công trình xây dựng quan trọng từ thập niên 50 của thế kỷ 20, với diện tích mặt nước khoảng 10 km2 và dung tích khoảng 50 triệu m3 Công trình này phục vụ nhiều mục tiêu, bao gồm thủy lợi nhằm giải quyết vấn đề hạn hán tại vùng Ba Vì, khống chế dòng sông Tích, cải thiện môi trường và phát triển du lịch.

Khu du lịch Đầm Long - Bằng Tạ, nằm tại xã Cẩm Lĩnh, huyện Ba Vì, là một điểm đến hấp dẫn với hệ sinh thái phong phú Nơi đây không chỉ bảo tồn và phát triển rừng Bằng Tạ mà còn cải tạo Đầm Long thành khu du lịch sinh thái vui chơi giải trí Với hơn 400 loại cây, nhiều trong số đó là cây quý hiếm có tuổi thọ hàng trăm năm, khu rừng mang đến không gian thoáng mát và cảnh quan tuyệt đẹp Ngoài ra, khu vực này còn là nơi sinh sống của nhiều loài động vật như khỉ, hươu, nai, sóc, chồn và cò.

Rừng Cò Ngọc Nhị là điểm nhấn độc đáo trong du lịch Ba Vì và Cẩm Lĩnh, với những cánh đồng thẳng tắp và đồi núi xanh mướt Những chú Cò trắng nổi bật trên nền trời xanh, hòa quyện với màu xanh của thiên nhiên, tạo nên cảnh sắc bình yên mà các hiền triết xưa mong muốn Đồi Cò có diện tích lý tưởng 3,5 ha, được bao phủ bởi cây cối xanh tươi và những khóm tre Nơi đây, thuộc sở hữu của hai anh em họ Phùng, được xem là thánh địa của các loại Cò.

MỤC TIÊU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Mục tiêu nghiên cứu

Xác định mối liên hệ giữa đặc điểm sinh cảnh với sự xuất hiện của 2 loài Cò

Xác định các yếu tố hoàn cảnh chủ đạo ảnh hưởng đến quan hệ cạnh tranh giữa hai loài là rất quan trọng Các yếu tố này bao gồm điều kiện môi trường, nguồn tài nguyên và hành vi sinh thái của mỗi loài Để quản lý sinh cảnh sống của hai loài hiệu quả, cần đề xuất các giải pháp phù hợp nhằm duy trì sự cân bằng sinh thái và bảo vệ đa dạng sinh học Mục tiêu là tạo ra một môi trường sống bền vững, hỗ trợ sự phát triển và tồn tại của cả hai loài.

Đối tƣợng nghiên cứu

Đối tƣợng nghiên cứu của đề tài là sinh thái làm tổ của Cò trắng và

Phạm vi nghiên cứu

Về nội dung: Đề tài đánh giá tập tính làm tổ của Cò Tắng và Cò bợ

Về thời gian: Đề tài triển khai điều tra thực địa vào thời gian mùa xuân ; từ ngày 13 tháng 02 năm 2017 đến ngày 23 tháng 03 năm 2017

Nội dung nghiên cứu

Điều tra các yếu tố hoàn cảnh nơi làm tổ của Cò bợ Điều tra các yếu tố hoàn cảnh nơi làm tổ của Cò trắng

Hiện trạng công tác quản lý sinh cảnh sống của các loài Cò trên địa bàn xã Cẩm Lĩnh

Phương pháp nghiên cứu

1 Phân biệt tổ Cò bợ và tổ Cò trắng

Tổ Cò bợ nhỏ hơn tổ Cò trắng về mặt kích thước tổ Cò bợ trung bình có đường kính 20-25cm còn Cò trắng trung bình từ 30-35cm

Tổ Cò trắng và Cò bợ được làm từ cành tre, thường được xây dựng ở các khu vực tre dễ bị ngập nước khi trời mưa Mặc dù chúng có hình dạng tương tự, nhưng có thể phân biệt chúng qua kích thước của tổ.

2 Các yếu tố hoàn cảnh lựa chọn điều tra

Các khu vực làm tổ và tập trung nhiều Cò thường để lại dấu vết hoạt động như dấu chân, lông và phân Cò Dọc theo các khu vực có nước trong vườn Cò và gần nguồn nước, chúng ta thường thấy nhiều phân Cò, trong khi ở xa nguồn nước trong rừng, dấu vết này lại rất hiếm.

Sử dụng mật độ phân trắng có thể giúp xác định vị trí hình chiếu đứng từ trên xuống, nơi có nhiều Cò đậu nghỉ ngơi và làm tổ.

Từ ngày 13/02/2017 đến 23/03/2017, chúng tôi đã tiến hành điều tra thực địa tại Đồi Cò Ngọc Nhị, nơi có sự đa dạng về thực vật, chủ yếu là cây tre gai Quá trình điều tra bao gồm việc quan sát các dấu hiệu như phân Cò và nhìn lên để phát hiện tổ Cò trên cây.

Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi đã tiến hành quan sát các búi tre để xác định số lượng tổ chim, trong đó tổ lớn hơn thuộc về Cò trắng và tổ nhỏ hơn là của Cò bợ Chúng tôi đã xem xét và đo lường tổng cộng 7 yếu tố môi trường ảnh hưởng đến việc lựa chọn nơi làm tổ của các loài chim này.

2.1 Đo lường các yếu tố hoàn cảnh

Sử dụng thước dây và thước đo cao theo nguyên lý hình học Blume - leiss

1 Đặc điểm cây làm tổ có Hvn

2 Đặc điểm cây làm tổ có Hdc

3 Vị trí tổ trên cây

4 Khoảng cách từ tổ Cò đến mặt đất (m) :

5 Khoảng cách từ tổ Cò đến ngọn cây(m)

6 Khoảng cách từ tổ Cò đến đường mòn(m)

7 Khoảng cách từ tổ Cò đến khu dân cƣ(m)

8 Khoảng cách từ tổ Cò đến nguồn nước(m)

2.2 xử lý số liệu Đối với 7 yếu tố hoàn cảnh định lượng , chọn phương pháp phân tích thành phần chính ( PAC- Principal component Analysis)

Trong phân tích thống kê đa nguyên , để tìm ra yếu tố chủ yếu ảnh hưởng đến quá trình lựa chọn sinh cảnh làm tổ của loài Cò

Các phân tích thống kê đều thực hiện trên phần mềm SPSS 16.0

KẾT QUẢ VÀ PHÂN TÍCH KẾT QUẢ

Các yếu tố hoàn cảnh nơi làm tổ của Cò trắng

Cò trắng làm tổ theo hình thức tập đoàn và mùa sinh sản diễn ra từ tháng 4 đến tháng 9 Thời gian làm tổ kéo dài từ 8 đến 15 ngày, với mỗi lần đẻ từ 4 đến 6 quả trứng, và thời gian ấp trứng dao động từ 18 đến 20 ngày, trong đó cả chim trống và mái đều tham gia ấp Trong mùa sinh sản, chim trống và mái thay nhau kiếm ăn một cách riêng lẻ, trong khi ngoài mùa sinh sản, chúng thường bay đi kiếm ăn theo nhóm từ sáng đến tối.

Bằng phương pháp phân tích thành phần chính, nghiên cứu đã xác định 6 yếu tố ảnh hưởng đến việc lựa chọn sinh cảnh làm tổ của Cò trắng Tuy nhiên, chỉ 3 thành phần chính được chọn để phân tích, do phần mềm SPSS16.0 chỉ ra những thành phần quan trọng nhất, vì vậy không cần tiếp tục xem xét các thành phần còn lại.

Bảng 4.1 Giá trị đặc trƣng và tỷ lệ đóng góp của thành phần chính phân tích Thành phần chính

Tỷ lệ đóng góp Tích lũy (%)

Đặc trưng lựa chọn sinh cảnh làm tổ của Cò trắng được phân tích dựa trên ảnh hưởng của 6 yếu tố hoàn cảnh đến 3 thành phần chính, như thể hiện trong bảng 4.2.

Bảng 4.2 Ma trận hệ thống ảnh hưởng các yếu tố hoàn cảnh đối với 3 thành phần chính

Yếu tố Thành phần chính

1 Chiều cao vút ngọn của cây làm tổ

2 Chiều cao dưới cành của cây làm tổ

3 Cự ly từ tổ đến mặt đất 0,840 -0.018 -0.252

4 Cự ly từ tổ ngọn cây 0,101 0.906 -0.109

5 Cự ly từ tổ đến đường mòn 0,582 0.505 0.288

6 Cự ly từ tổ đến nguồn nước 0,163 -0.055 0.932

Theo bảng 4.1 và 4.2, tỷ lệ đóng góp của thành phần chính thứ nhất đạt 39,871%, với cự ly tới mặt đất, Hvn và Hdc có hệ số ảnh hưởng dương cao, phản ánh sự lựa chọn nơi làm tổ của Cò trắng Thành phần chính thứ hai có tỷ lệ đóng góp 19,947%, trong đó cự ly tới ngọn vây và cự ly tới đường mòn cũng có hệ số ảnh hưởng dương cao, cho thấy lựa chọn làm tổ của Cò trắng Cuối cùng, tỷ lệ đóng góp của thành phần chính thứ ba là 17,895%, với khoảng cách tới nguồn nước và khoảng cách tới đường mòn có hệ số ảnh hưởng dương cao, phản ánh vị trí làm tổ của Cò.

Các yếu tố hoàn cảnh nơi làm tổ của Cò bợ

Cò bợ sinh sản từ tháng 4 đến tháng 11 Thời gian làm tổ từ 6 - 10 ngày, mỗi lứa đẻ 4 đến 5 trứng Số ngày ấp trứng 15 đến 16 ngày

Qua việc xử lý số liệu bằng DTM, chúng tôi đã xác định 6 yếu tố ảnh hưởng đến việc lựa chọn sinh cảnh làm tổ của Còbợ Tuy nhiên, chỉ hai thành phần chính được chọn để phân tích, vì chúng thể hiện đặc trưng rõ ràng nhất theo kết quả của máy tính, do đó không xem xét các thành phần còn lại.

Bảng 4.3 Giá trị đặc trƣng và tỷ lệ đóng góp của thành phần chính phân tích

Tỷ lệ đóng góp Tích lũy (%)

Đặc trưng lựa chọn sinh cảnh làm tổ của Cò bợ được phân tích dựa trên 6 yếu tố hoàn cảnh ảnh hưởng đến hai thành phần chính, như thể hiện trong bảng 4.4.

Bảng 4.4 Ma trận hệ thống ảnh hưởng các yếu tố hoàn cảnh đối với 2 thành phần chính

Yếu tố Thành phần chính

1 Chiều cao vút ngọn của cây làm tổ 0.826 - 0.336

2 Chiều cao dưới cành của cây làm tổ 0.824 0.101

3 Cự ly từ tổ đến mặt đất 0.810 -0.247

4 Cự ly từ tổ ngọn cây 0.486 -0.169

5 Cự ly từ tổ đến đường mòn 0.283 0.944

6 Cự ly từ tổ đến nguồn nước 0.219 0.957

Theo bảng 4.3 và bảng 4.4, tỷ lệ đóng góp của thành phần chính thứ nhất đạt 39,684%, trong đó Hvn, Hdc và khoảng cách đến mặt đất có ảnh hưởng dương cao, cho thấy sự lựa chọn nơi làm tổ của Cò bợ Tỷ lệ đóng góp của thành phần chính thứ hai đạt 33,660%, với khoảng cách tới đường mòn và nguồn nước có hệ số ảnh hưởng dương cao nhất, phản ánh vị trí làm tổ của Cò bợ.

Mức độ cạnh tranh làm tổ của 2 loài Cò

 Xét tới yếu tố thứ nhất

Biểu đồ 4.1 Xét yếu tố đặc điểm Hvn của cây với số tổ xuất hiện

Biểu đồ cho thấy mức độ cạnh tranh giữa các cây có chiều cao từ 12-15m là rất lớn, với tổng số tổ của Cò trắng và Cò bợ đều đạt 38 tổ.

Những cây có Hvn từ 15,5-19m Còbợ làm tổ rất nhiều số tổ xuất hiện là 40 , tổ Còtrắng chỉ là 5 tổ mà thôi

Cây có Hvn 19-22,5 thể hiện mức độ cạnh tranh nhất định, tuy nhiên số lượng tổ xuất hiện ở các cây này rất ít Cụ thể, số tổ của Cò bợ và Cò trắng xuất hiện lần lượt là

Những cây có Hvn >",5m không có tổ xuất hiện

Xét tới yếu tố thứ 2

Biểu đồ 4.2 Đặc điểm Hdc của cây với số tổ xuất hiện

Biểu đồ cho thấy sự không cạnh tranh rõ ràng giữa hai loài Cò Số tổ Cò bợ là 72, gấp 1,5 lần so với 46 tổ Cò trắng, cho thấy cây có chiều cao từ 3-7,5m là lý tưởng cho Cò bợ làm tổ Ở cây có chiều cao từ 7,5-12m, Cò bợ có 5 tổ và Cò trắng có 2 tổ Tại cây có chiều cao từ 12-16,5m, Cò bợ có 8 tổ trong khi Cò trắng không có tổ nào Cuối cùng, ở cây có chiều cao lớn hơn 5m, số tổ của Cò bợ và Cò trắng lần lượt là 0 và 1.

Xét tới yếu tố thứ 3

Biểu đồ 4.3 Cự ly tới mặt đất với số tổ xuất hiện

Biểu đồ cho thấy sự cạnh tranh rõ rệt giữa Cò bợ và Cò trắng ở cự ly 9,5-13m, với số tổ của Cò bợ là 26, gần bằng với số tổ của Cò trắng là 29 Ở khoảng cách 6-9,5m, số tổ của Cò bợ xuất hiện lên tới 35, gấp đôi so với số tổ của Cò trắng.

17 tổ nên có thể thấy đây là cự ly thích hợp cho Cò bợ làm tổ

Khoảng 13-16,5m tổ Cò bợ xuất hiện cũng khá nhiều là 19 trong khi đó

Cò trắng chỉ là 2 tổ

Cuối cũng cự ly >,5m rất ít tổ xuất hiện và lần lƣợt Cò bợ 5 tổ Cò trắng 1 tổ

Xét tới yếu tố thứ 4

Biểu đồ 4.4 Cự ly tới ngọn cây và số tổ xuất hiện

Biểu đồ cho thấy sự cạnh tranh giữa Cò bợ và Cò trắng ở các cự ly khác nhau Tại cự ly 0,3-0,6m, Cò bợ có 20 tổ, trong khi Cò trắng có 25 tổ Ở cự ly 0,6-0,9m, Cò bợ chiếm ưu thế với 41 tổ, trong khi Cò trắng chỉ có 15 tổ, cho thấy Cò bợ rất ưa thích làm tổ ở cự ly này Tiếp theo, ở cự ly 0,9-1,2m, Cò bợ có 20 tổ so với 7 tổ của Cò trắng Cuối cùng, ở cự ly từ 1,2m trở lên, số tổ của Cò bợ và Cò trắng lần lượt là 4 và 2 tổ.

Tổ cò bợ cò trắng

Xét tới yếu tố thứ 5

Biểu đồ 4.5 Cự ly tới đường mòn với số tổ xuất hiện

Cự ly tới đường mòn mức độ cạnh tranh ở khoảng 36,75-47,5 số tổ của

Cò bợ và Cò trắng đều chọn những khoảng cách tổ khác nhau Ở cự ly 26-36,75m, Cò bợ có 41 tổ, trong khi Cò trắng chỉ có 22 tổ Tại cự ly 47,5-58,25m, số tổ của Cò trắng là 14, gấp đôi so với 7 tổ của Cò bợ Cuối cùng, ở cự ly lớn hơn 58,25m, chỉ có 24 tổ Cò bợ xuất hiện, cho thấy đây là khoảng cách ưa thích của loài này.

Xét tới yếu tố thứ 6

Biểu đồ 4.6 Khoảng cách tới khu dân cƣ với số tổ xuất hiện

Tổ cò bợ cò trắng

10 khoảng cách khu dân cư

Biểu đồ cho thấy mức độ cạnh tranh giữa Cò bợ và Cò trắng ở các khoảng độ cao khác nhau Tại khoảng 651-677,5m, Cò bợ có 12 tổ, trong khi Cò trắng có 16 tổ Ở khoảng 598-624,5m, Cò bợ chiếm ưu thế với 25 tổ so với 11 tổ của Cò trắng Tại khoảng 624,5-651m, Cò bợ xuất hiện rất nhiều với 34 tổ, trong khi Cò trắng chỉ có 12 tổ Cuối cùng, ở độ cao trên 677,5m, số tổ của Cò bợ và Cò trắng lần lượt là 14 và 10.

Xét tới yếu tố thứ 7

Biểu đồ 4.7 Cự ly tới nguồn nước với sự xuất hiện của tổ

Biểu đồ cho thấy mức độ cạnh tranh giữa hai loài Cò bợ và Cò trắng cao nhất ở khoảng cách 19-29,25m, với số tổ của Cò bợ là 52 và Cò trắng là 35 Ở khoảng cách 29,25-39,5m, số tổ của Cò bợ giảm xuống còn 6, trong khi Cò trắng có 14 tổ Tại khoảng cách 39,5-49,75m, Cò bợ chỉ có 4 tổ, còn Cò trắng không xuất hiện tổ nào Cuối cùng, ở khoảng cách lớn hơn 49,75m, Cò bợ có 23 tổ, trong khi Cò trắng vẫn không có tổ xuất hiện.

0 0 cự ly tới nguồn nước

Tổ cò bợ cò trắng

Đánh giá tác động của con người tới sinh thái làm tổ của 2 loài Cò

4.4.1.Gây nhiễu loạn sinh cảnh sống

Sự phát triển cơ sở hạ tầng tại xã đã gây ra sự suy giảm sinh cảnh, khi các hoạt động như sử dụng phương tiện cơ giới và chặt phá rừng để xây dựng đường xá diễn ra gần gũi với môi trường sống của loài Cò Điều này dẫn đến việc lấn chiếm sinh cảnh, ảnh hưởng tiêu cực đến sự tồn tại của loài này.

Cò sẽ cảm thấy không an toàn ở nơi cƣ trú làm tổ sinh sản của chúng

Tại đồi Cò Ngọc Nhị, một trong những yếu tố gây nhiễu loạn đáng chú ý là tiếng ồn và sự hoảng loạn do khách tham quan tạo ra, ảnh hưởng đến các loài Cò.

.Ngoài ra việc kiếm củi hay phát bỏ các bụi cây cũng là một yếu tố nhiễu loạn nhƣng rất nhỏ mà thôi

Vùng đất ngập nước trong sinh cảnh này tương tự như các sinh cảnh khác, nhưng hoạt động của con người thay đổi theo mùa nước Vào mùa ngập, người dân chủ yếu tập trung vào nuôi trồng thủy sản và chăn nuôi gia cầm Trong khi đó, vào mùa nước cạn, các hoạt động chủ yếu là trồng lúa, hoa màu ngắn ngày và chăn thả gia súc.

Các hoạt động của con người trong khu vực dân cư ảnh hưởng đáng kể đến sinh cảnh sống của Cò Việc chặt phá cây rừng, xây dựng nhà cửa và trang trại, đặc biệt là tuyến đường mới được xây dựng gần đồi Cò, đã tác động tiêu cực đến môi trường sống của loài chim này.

Tác động đến môi trường , lấn chiếm sinh cảnh sống , làm nhiễu loạn đến sinh cảnh sống của Cò

4.4.2 Phá hủy sinh cảnh sống

Sinh cảnh của cò hiện nay đang bị suy giảm nghiêm trọng do tác động của con người, với diện tích rừng ngày càng thu hẹp và sự thay đổi của các sinh cảnh tự nhiên.

Môi trường sống đang bị suy giảm nghiêm trọng do các hoạt động của con người, bao gồm chặt cây để lấy gỗ, canh tác nông nghiệp, chăn nuôi gia súc, cùng với quá trình đô thị hóa và biến đổi khí hậu.

Chúng ta không nên phá hủy sinh cảnh sống vì khi môi trường bị tàn phá, cây cối, động vật và các loài sinh vật khác sẽ mất đi nơi cư trú, dẫn đến sự suy giảm đa dạng sinh học và hệ sinh thái Sự hủy hoại này không chỉ ảnh hưởng đến các loài mà còn tác động tiêu cực đến cuộc sống của con người, gây ra mất cân bằng sinh thái và ảnh hưởng đến nguồn tài nguyên thiên nhiên.

24 giảm khả năng chịu tải , khả năng chứa vì vậy sự suy giảm quần thể và tuyệt chủng rất rễ xảy ra.

Đề xuất một số giải pháp bảo tồn các loài Cò ở khu vực xã Cẩm lĩnh

Qua việc phân tích các yếu tố hoàn cảnh và mức độ cạnh tranh làm tổ chúng tôi có 1 số kiến nghị nhƣ sau:

 Nếu chỉ muốn Còbợ đến sinh sản làm tổ mà không bị cạnh tranh với

Đối với các cây có chiều cao từ 3-7,5m, nên giữ nguyên để thu hút cò trắng Cò bợ thường làm tổ ở độ cao từ 6-9m, vì vậy việc tạo ra tổ nhân tạo là cần thiết để khuyến khích chúng quay lại làm tổ nhiều hơn Ngoài ra, cò bợ cũng ưa thích làm tổ ở khoảng cách từ 19-29,25m gần nguồn nước, do đó nếu ao nước ở xa, cần mở rộng diện tích ao để đáp ứng sở thích làm tổ của chúng.

Và những cây có Hvn từ 12-15,5m là nơi 2 loài cạnh tranh nhau làm thì ta nên loại bỏ những cây có đặc điểm nhƣ vậy

Để thu hút Cò trắng làm tổ mà không bị Cò bợ cạnh tranh, có thể tạo tổ nhân tạo ở độ cao từ 9,5 đến 13 mét Tuy nhiên, việc này không khả thi do điều kiện không cho phép.

Chúng tôi đã loại bỏ các cây có khoảng cách đến ngọn cây từ 0,6-0,8m, nơi xuất hiện nhiều tổ Cò bợ, nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn cho Cò trắng trong việc làm tổ.

Để thu hút cả Cò bợ và Cò trắng đến làm tổ, cần giữ lại những cây có chiều cao từ 3-7,5m Đồng thời, ưu tiên khoảng cách nguồn nước từ 19-29,25m, vì đây là điều kiện lý tưởng cho cả hai loài Cò này.

Ngày đăng: 23/06/2021, 17:36

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w