1. Trang chủ
  2. » Cao đẳng - Đại học

GD day nghe o Nhat Ban

32 2 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 32
Dung lượng 221,64 KB

Nội dung

Như vậy, có thể hiểu, trước khi nền kinh tế tri thức được xác lập vào những năm cuối thập kỷ 1990, học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở cưỡng bách có thể vào đi vào học trường “cao đẳng k[r]

(1)Giáo dục dạy nghề Nhật Bản: Chìa khóa vào đại hóa Kinh nghiệm đào tạo kỹ thuật cấp giáo dục phổ cập Hồng Lê Thọ A Bắt đầu từ Minh Trị Duy Tân… Từ chiến hạm Mỹ đô đốc Commodore Perry dẫn đầu kéo đến cảng Uraga thuộc Edo (Tokyo) gây sức ép, Nhật buộc phải mở cửa, bãi bỏ chính sách bế quan tỏa cảng kéo dài suốt 200 năm để giao thương Ngày 31/3/1854 sau kí kết hoà ước với Mỹ, lịch sử nước Nhật đã chuyển sang thời kỳ mới, đó là công cải cách Minh trị Duy Tân bắt đầu vào năm 1868 sau Thiên hoàng Komei (Mutsuhito) thâu tóm quyền lực nội trị mối Với tư để cải cách toàn diện chính trị, xã hội, giáo dục… chính quyền Minh Trị sức “hiện đại hóa” đất nước theo tư tưởng “thoát á nhập âu”—cách hội nhập vào trào lưu giới thống trị đó tổ chức lại xã hội, cải cách giáo dục khoa bảng từ chương theo lối Khổng-Mạnh sang giáo dục tiên tiến lấy kinh nghiệm Hoa kỳ và các nước phát triển Châu âu (Đức, Pháp, Hòa Lan…) để xây dựng mô hình giáo dục quốc gia phù hợp với chủ trương “Khai hoá văn minh” (Bunmei Kaika): Đối với chúng ta, người sống phương Đông, trừ chúng ta có tâm vững muốn chống lại xu văn minh phương Tây Nhưng liệu chúng ta có thể chống đỡ không, còn không, tốt là chúng ta hãy cùng chia sẻ chung số mệnh với văn minh Nếu quan sát kĩ lưỡng tình hình giới nay, nhận thấy chúng ta không tài nào kháng cự lại công dội văn minh này Vậy chúng ta không cùng bơi trên mặt biển, cùng tạo làn sóng, sức xây dựng và hưởng thụ thành văn minh ấy?” (Thoát Á Luận, 16/3/1885—Fukuzawa Yukichi) Đến nay, Nhật Bản đã trải qua lần cải cách giáo dục cách qui mô, chịu ảnh hưởng lớn Mỹ (cố vấn tiếng là hai ông David Muray và Marrion Mc Carell Scott thời Minh Trị Duy Tân và đoàn tham vấn giáo dục chính phủ Hoa Kỳ sau chiến thứ hai) các chính sách và biện pháp cải cách cụ thể Chỉ năm kể từ nắm quyền bính(1868), thống đất nước, kết thúc nạn (2) cát phiên bang, năm 1872 Minh Trị thiên hoàng đã áp dụng chính sách “hiện đại hóa” chế độ giáo dục và chính thành công việc cải cách nầy đã tạo tiền đề to lớn để cải cách toàn xã hội, hay nói khác Minh Trị đã dùng Giáo dục để nâng cao dân trí thông qua việc hoàn thiện hệ thống giáo dục mới, đó chủ yếu phổ cập hoá cấp tiểu học trên toàn lãnh thổ đồng thời bước xây dựng giáo dục cấp (trung học sở) và (trung học phổ thông) trọng tâm là ưu tiên tổ chức trường chuyên tu, dạy nghề cho thiếu niên và trung cấp chuyên nghiệp cách có hiệu (xem bảng thống kê số trường và các loại trường từ năm 1873-1962), lấy đó làm đòn bẩy để xây dựng xã hội “phương tây kiểu Nhật Bản” mới, phù hợp với xu phát triển và lúc các cường quốc tranh cấu xé Trung Hoa Hệ thống giáo dục Nhật Bản sửa đổi liên tục nhằm thực hai ưu tiên là cưỡng bách giáo dục nhằm phổ cập hóa hệ thống giáo dục tiểu học (năm 1920 đạt 99% phổ cập tiểu học) và lập các loại trường dạy nghề cho niên đồng thời tổ chức đào tạo qua các khoá chuyên tu (nông, công, lâm, ngư nghiệp, thủy sản, dệt…) cấp trung học sở Hai ưu tiên này đã tạo bước việc hình thành lực lượng công nhân là người gánh vác kế hoạch phát triển chắn cho việc “hiện đại hoá” (tiếng Nhật sử dụng thuật ngữ “Cận đại hoá”) kinh tế và xã hội suốt kỷ “Đây là tiền đề hệ thống giáo dục ngày nay, hệ thống mà nhân tố cấu thành đặt đúng vị trí nó cách minh bạch”[1] đó vai trò lao động có kỹ và kỷ luật đã xác lập suốt quá trình công nghiệp hoá Mặt khác chủ trương phát triển giáo dục cấp cao làm đầu tàu đã quan tâm,và hình thành sớm: đó là hệ thống đại học và sau đại học với các “Trường Chuyên Môn”(không kể loại trường Cao đẳng Chuyên môn dành cho học sinh học hết cấp 2)[2] đó đóng góp hữu hiệu các chuyên gia từ các nước tiên tiến đánh giá cao, giữ vai trò trọng yếu chiến lược “hiện đại hoá” giáo dục nói chung và công cách mạng kỹ nghệ nói riêng Minh Trị Duy Tân Chính quyền Minh Trị quan tâm xây dựng bước hệ thống giáo dục đại học trường đại học “hoàng gia” công lập, thành lập từ năm 1877, trên nước (Tokyo, Kyoto, Kyushu, Tohoku, Hokkaido, Ôsaka) và cho phép thành lập đại học tư thục (Waseda, Keio, Doshisha…) từ các “trường chuyên môn” (dạy nghề) bước vào kỷ 20 Nói tóm lại, trước nguy đe doạ bị các cường quốc phương tây “thuộc địa hóa” vào hậu bán kỷ 19, biện pháp “thông minh” Minh Trị Thiên hoàng là chọn đường “hội nhập” để ứng phó, tách mình khỏi ảnh hưởng số phận Trung Quốc và Triều Tiên, cướp thời mở cửa với các liệt cường phương tây để nhanh chóng đưa Nhật phát triển thành cường quốc ngang ngửa trên vũ đài quốc tế chúng ta đã thấy qua hai chiến tranh (3) Nhật – Thanh (1894) và chiến tranh Nhật – Nga (1905) chiến lược “Phú quốc Cường binh” kéo dài hai trận chiến I(1914-1918) và II (1939-1945) bùng nổ sau nầy! Với tư tưởng và chủ trương đầy tham vọng nêu trên, từ đầu Nhà nước Minh Trị đã “quản lý” chặt chẽ, theo sát chính sách và biện pháp cải cách giáo dục (với mục đích nhanh chóng sản sinh lớp công nhân có tay nghề thích hợp và cần thiết cho phát triển với tinh thần “trách nhiệm” thái độ lao động triệt để mà chúng ta đã thấy qua thành công to lớn và việc quản lý chất lượng hàng hóa sản xuất sau này) đưa Nhật Bản từ vị trí nước nông nghiệp, lạc hậu kỹ thuật từ cuối kỷ 19 sang thành nước có công nghiệp phát triển rực rỡ từ năm 60 kỷ trước mặc dù là kẻ bại trận liên tiếp hai chiến tranh giới, phải tháo bỏ chế độ quân phiệt và trả lại “tô giới” Triều Tiên, Trung quốc, Đài loan và quân và chế độ thực dân các nước Đông nam Á Có người cho hệ thống giáo dục Nhật Bản thời Minh Trị mô theo hệ thống quản lý giáo dục Pháp thiết lập “Trường Chuyên Môn” (như là Grandes Ecoles Pháp) tiền thân hệ thống đại học sau này Nhưng xét phần “Tư thục” thì có ý kiến mạnh mẽ kết luận Nhật chịu nhiều ảnh hưởng Mỹ nhìn vào thành công rực rỡ quá trình hình thành hệ thống Trường tư thục qua mô hình “Lan học” (1858) đầu tiên theo giáo dục phương tây (người Nhật gọi là “Lan học” tức học theo Hoà Lan thay vì gọi là Tây học VN) sau này phát triển thành Đại Học Keio (1920) Fukuzawa Yukichi (1835-1901), nhà tư tưởng và giáo dục tiếng khởi xướng và sáng lập với hợp tác chặt chẽ Hoa Kỳ Thực tế cho thấy vào cuối hậu bán kỷ 19 đã có nhiều đoàn chuyên gia cấp cao Nhật Bản, tổng cộng 48 người ( đặc biệt là Iwakura Tomomi , đại sứ làm việc Mỹ 1860, Châu Âu lần vào năm 1862 và lần vào năm 1863) lặn lội các nước từ Mỹ sang Châu Âu từ tháng 12/1871 đến tháng 9/1872 để tìm kiếm phương cách đổi qua việc học tập kinh nghiệm Mỹ y khoa, luật (tuy có phần lạc hậu so với Châu âu), kỹ thuật quân sự; sang Châu âu để học công nghiệp và giáo dục kỹ thuật nước Anh, y tế Hòa Lan, tổ chức chính quyền theo kiểu Đức… Trong số nầy có người đã trở thành thủ tướng, trưởng quan trọng sau nầy chính quyền Minh trị Ito Hirobumi, Okubo Toshimichi, Kido Takayoshi… cho nên kết luận Nhật Bản hấp thu kinh nghiệm nhiều nước Âu-Mỹ để xây dựng cho mình chế độ giáo dục đại là điều không thể chối cãi (Wataru Hasegawa tlđd) Tuy nhiên phải khách quan thừa nhận Nhật đã dần dà hình thành giáo dục tiên tiến cho thân mình trên sở kế thừa giá trị truyền thống kết hợp với tư tưởng tiên tiến nước ngoài thời cách hiệu quả, (4) đó vai trò lãnh đạo tuyệt đối và cương chính quyền Minh Trị đã trở thành nhân tố định dẫn đến thành công công cải cách Vì hai chữ “thoát Á” Fukuzawa Yukichi hàm ý nghĩa là Nhật phải rời bỏ tư tưởng hủ lậu và lỗi thời triết học phương đông, mặc cho mình áo tây phương phù hợp với thời đại cách mạng kỹ nghệ, “chúng ta không có thể thoát khỏi trì trệ lạc hậu cũ kĩ nước Nhật Bản mà còn có thể đặt lại trật tự trên toàn Châu Á” (Fukuzawa Yukichi), mà giữ giá trị văn hóa truyền thống, tôn thờ nhà vua, lễ giáo phong kiến… thể qua cách ứng phó nhạy bén và mềm dẻo người Nhật, thí dụ việc “đón” tết theo lịch tây phương “ăn” tết theo kiểu đông phương là điển hình cho thấy thức thời này, hay tồn và phát triển lễ hội truyền thống, không mang màu sắc lai căng Điều đáng lưu ý là trước “Chế độ Giáo dục” chính thức ban hành vào năm 1872 thì từ bắt tay soạn thảo năm trước đó, Chính phủ đã lập hội đồng gồm học giả “tây học”, người theo Hán học và Quốc học, cán hành chính(cũng là nhà giáo theo Tây học) đó Ủy viên xuất thân học từ Pháp chiếm vị trí quan trọng (ngoài còn có các vị học từ Đức, Anh, Hòa Lan có ảnh hưởng không nhỏ) Thực tế này chứng tỏ từ đầu Nhà nước Minh trị đã vận dụng khả để tiếp cận với giáo dục tiên tiến các nước cách cương quyết, buộc các tầng lớp xã hội, sĩ nông công thương, nam nữ phải học (tiểu học), hủy bỏ chế độ ưu tiên cho tầng lớp quí tộc.[3] Như vậy, có thể nói bình đẳng giáo dục Nhật Bản đã xác lập sớm, mặc dù chính quyền đương thời qui định là phụ huynh phải toán học phí, và nhà nước chịu phần chi phí cho chương trình giáo dục dạy nghề học trình Mặt khác, đây là lần đầu tiên khái niệm “trường chuyên môn” (dạy nghề) xuất luật nầy bổ sung vào năm sau (1873) B Cải cách giáo dục lần thứ Ngày 11 tháng năm 1889 “Hiến Pháp Đế chế Đại Nhật Bản” đầu tiên ban hành (năm Minh Trị thứ 22) xác nhận quyền “tham chính” (được quyền tham gia vào quốc hội, bầu cử, ứng cử…) nhân dân chế độ tam quyền phân lập (hành pháp, lập pháp và tư pháp) mặc dù đặt Thiên Hoàng Minh Trị vị trí tuyệt đối, mang tư cách “thần” Thần đạo, có quyền ban bố sắc lệnh hay mệnh lệnh bất chấp luật pháp hành, bắt đầu cho chính sách độc đoán đưa đến chủ nghĩa phát xít cực đoan sau nầy Mặt khác, với chính sách “Gầy dựng công nghiệp” thực 20 năm kể từ “duy tân”, Nhật đã hội đủ điều kiện để nhảy vào cách mạng kỹ nghệ (5) vào năm 1890 Bộ trưởng Giáo dục Inoue Kowashi đã đẩy mạnh giáo dục-dạy nghề công nghiệp, đưa chương trình giáo dục “Thực nghiệp-kỹ thuật và khoa học kết hợp” với tham gia giảng dạy nhiều chuyên gia nước ngoài, thích ứng với phát triển cách mạng xảy vũ bão không Nhật Bản mà trên toàn giới vào năm cuối kỷ 19 Hàng loạt trường chuyên môn, trường giáo dục thực nghiệp (là loại trường dạy nghề sau tốt nghiệp tiểu học) đời Ngoài còn có trường Thanh niên (đào tạo nghề ngắn hạn) đời năm 1899, từ số trăm năm 1870 đã vọt lên số hàng chục nghìn khắp nước suốt thời kỳ dài từ 1903-1947 theo lệnh lập “trường chuyên môn” ban hành năm 1903; lệnh này cho phép địa phương linh hoạt xây dựng trường đào tạo ngành nghề phù hợp với điều kiện và nhu cầu mình Trường dạy nghề tư thục có điều kiện phát triển không kém, chí có nơi trường dạy nghề người nước ngoài xây dựng đã trở nên phổ biến, lấn át hệ thống đào tạo nghề công lập với tỷ lệ công-tư 4/6 hay 3/7 C Cải cách giáo dục lần Nhật Bản thực cải cách giáo dục lần thứ hai dự kiếm soát G.H.Q (Tổng hành dinh huy quân đội đồng minh, tướng Mac Arthur Mỹ làm tư lệnh) sau Hiến pháp “dân chủ” mới, loại bỏ quyền lực tuyệt đối Thiên Hoàng, ban hành vào ngày 3/11/1946 Cải cách lần này qui định áp dụng chế độ giáo dục cưỡng bách năm Nhật bản, nâng cấp khả đào tạo sở dạy nghề hoàn thiện hệ thống giáo dục đại học theo khuyến cáo phía Hoa kỳ Từ thời điểm nầy, chúng ta thấy số thống kê trường trung học sở (cấp 2) hay trung học phổ thông (cấp 3) tăng nhanh cách đáng kể Các “trường chuyên môn” thời quân phiệt trước đây bị huỷ bỏ thay “trường dạy nghề” nâng cấp trở thành trường đại học lập Năm 1961, Nhật Bản thay đổi qui định hệ thống giáo dục dạy nghề Luật giáo dục, cho phép lập “trường cao đẳng chuyên nghiệp” với học trình năm (gồm năm trung học phổ thông và năm chuyên tu) cùng tồn song song với trường dạy nghề đã có Năm 1975, để đáp ứng yêu cầu nhân lực, Bộ Giáo dục Nhật Bản cho phép thành lập trường “chuyên tu kỹ thuật” gọn nhẹ và tập trung đào tạo cán kỹ thuật nhằm bổ sung cho hệ thống “đại học ngắn hạn”(2-3 năm) hay hệ thống đại học chính qui với học trình năm Mục đích là để giảm bớt sức ép tranh thi vào cửa hẹp đại học nhân trưởng thành tăng đột biến (“baby boom” sau chiến thứ hai), và tạo hội cho học sinh bị rớt các kỳ thi tuyển vào đại học vào (6) trường dạy nghề với thời gian học ngắn Như vậy, có thể hiểu, trước kinh tế tri thức xác lập vào năm cuối thập kỷ 1990, học sinh tốt nghiệp trung học sở (cưỡng bách) có thể vào vào học trường “cao đẳng kỹ thuật ”(5 năm), học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông (cấp 3) có thể theo học trường “chuyên tu ”(1-2 năm) hay liên thông, chuyển qua học năm cuối cùng “Cao đẳng kỹ thuật” hay vào “Cao đẳng chuyên nghiệp”(2-3 năm) với khả tìm việc làm dễ dàng vì có nghề và kỹ người có trình độ năm đại học hay đại học “ngắn hạn” 2, năm (Tanki Daigaku với giáo trình chung chung không hiệu quả, chủ yếu là lớp học ban đêm hay lớp dành cho phụ nữ với môn nữ công gia chánh, giáo viên tiểu học, máy móc khí đơn giản…) Tỷ lệ học sinh phổ thông và học sinh học nghề (1937-1952) Năm Phổ thông Tỷ lệ(%) 1937 1938 1939 1940 1941 1942 1943 1944 1945 1946 1947 1948 1949 1950 1951 1952 780.053 818.796 866.979 938.601 1.037.729 1.146.153 1.352.770 1.428.820 1.432.335 1.636.646 620.622 788.631 1.035.001 1.249.001 1.393.898 1.455.370 65,2 64,8 64,1 59,5 61,5 61,7 63,4 63,6 63,5 68,0 69,9 66,1 64,7 65,4 64,3 62,8 Thực Nghiệp(học nghề) 416.949 443.947 486.141 638.901 649.940 712.116 782.096 816.245 823.413 770.664 307.605 404.067 563.631 662.034 774.339 862.559 Tỷ lệ (%) 34,8 35,2 35,9 40,5 38,5 38,3 36,6 36,4 36,5 32,0 33,1 33,9 35,3 34,6 35,7 37,2 Tổng cộng 1.197.002 1.262.743 1.353.120 1.577.502 1.687.669 1.858.269 2.134.866 2.245.065 2.256.248 2.407.290 928.227 1.192.698 1.598.632 1.911.035 2.168.237 2.317.929 Nhận xét: Sau tốt nghiệp trung học sở tỷ lệ học sinh học nghề chiếm 33-40% phổ thông chiếm 6170% và khuynh hướng tỷ lệ học nghề trên 30% kéo dài 1980 bắt đầu giảm dần Điểm đáng tham khảo là không phải tốt nghiệp đại học là tìm việc làm, trừ số ngành đặc biệt, khan dịch thuật, thương mại, công nghệ thông tin, Ngân hàng…là ngành nghề có mức tăng trưởng cao thời kỳ kinh tế phát triển Báo cáo năm 2006 OECD Giáo dục nhận xét Nhật Bản là nước đứng đầu các nước nhóm nầy đào tạo cấp giáo dục phổ cập số lượng lẫn chất lượng 89% học sinh Nam (bình quân OECD là 82%) và 60% nữ (OECD là 65%) tốt nghiệp trung học phổ thông có việc làm, số nam học sinh tốt nghiệp trung học sở (cưỡng bách) thì 79% có việc làm và nữ là 53% (7) (vẫn cao bình quân OECD) trường hợp không học tiếp lên cấp 3.[4] Hiện tượng nầy khá giống với tình hình khan lao động có kỹ Việt Nam, nhiều em sinh viên khoa khí, hoá chất, vật liệu… tốt nghiệp trường Đại học Bách Khoa tiếng không kiếm việc làm nên phải chuyển nghề, học lại hay thất nghiệp kéo dài vì thiếu kỹ cụ thể Thậm chí có em học lúc hai ba ngành các đại học khác có mảnh trên giấy! D Khái quát hệ thống giáo dục Nhật Bản Trong năm gần đây, thành tựu rực rỡ công nghiệp và phát triển kinh tế Nhật Bản đã gây nhiều chú ý trên giới Mặc dù có nhiều quan tâm dành cho công nghiệp và giáo dục, còn ít nghiên cứu có liên quan việc đào tạo kỹ thuật cấp giáo dục phổ cập Nhật Bản Vì ngoài phần miêu tả lịch sử dạy nghề hình thành thời kỳ Minh Trị Duy Tân, phần nêu rõ tình trạng và thách thức tương lai việc đào tạo kỹ thuật Nhật Bản Sở dĩ là vì có mối quan hệ khắng khít các vấn đề đào tạo kỹ thuật trường cấp sở với các môn Kỹ thuật và đào tạo kỹ (lý thuyết) trường trung học phổ thông và liên thông với Cao đẳng chuyên nghiệp sau tốt nghiệp cấp phổ thông (8) Chú thích bổ sung bảng 1: Trong mục các loại trường kỹ thuật, có loại đào tạo sau:  Loại đào tạo năm cho các em tốt nghiệp Trung học sở (gọi là Trung học Kỹ thuật hay Trung học Chuyên nghiệp, kết hợp giáo dục phổ cập và dạy nghề) và  Loại năm (THKT + năm) gọi là Cao đẳng kỹ thuật), khác với trường Cao Đẳng Việt Nam, mở cho học sinh sau THPT mà thôi  Trường đào tạo chuyên ngành y tế cộng đồng, y tá, dược tá, chăm sóc người già…của nhà nước (2-3 năm theo yêu cầu môn)  Trường chuyên tu (tư nhân) là sở dạy nghề cụ thể Hớt tóc, Cắm hoa, dạy tiếng nước ngoài, thư đạo, văn hóa đời sống, đầu bếp…Thường là 1-2 năm , nằm ngoài hệ thống đào tạo giáo dục nhà nước (9)  Ngoài còn có Trung tâm Huấn luyện Nghề (của quận huyện thành phố…) công lập là sở đào tạo nghề mới(hoàn toàn miễn phí) cho người muốn đổi nghề, hưu…không giới hạn tuổi tác để giải tình trạng thất nghiệp (xóa đói giảm nghèo Việt nam) Như trên đã nói, cấu trúc hệ thống giáo dục công Nhật Bản sau Thế Chiến II dựa theo mô hình hệ thống giáo dục Hoa Kỳ Bảng cho thấy phân loại các loại trường chủ yếu mô hình giáo dục Nhật Bản Cơ sở hệ thống giáo dục Nhật Bản đại là giáo dục phổ cập năm, mang tính cưỡng bách Chế độ cưỡng bách giáo dục với năm này gồm năm trường tiểu học và năm trường trung học sở (cấp 2) Trên thực tế, tất (gần 100%) học sinh Nhật Bản hoàn tất chương trình giáo dục phổ cập (cưỡng bách) này Sau tốt nghiệp cấp 2, khoảng 95% học sinh tiếp tục lên cấp phổ thông chọn vào trường trung học kỹ thuật, hay trương chuyên tu để học nghề cụ thể Trong số đó, có khoảng 2% học sinh bỏ học trước tốt nghiệp vì lý tật bệnh, tìm cách đời sớm… (Sách Trắng Bộ giáo dục, khoa học và văn hoá, niên khóa 1991) Tỷ lệ người biết chữ cao trên giới có thể xem là thành tựu đáng nể giáo dục Nhật Bản từ sau Thế Chiến II, số người Nhật trẻ tuổi gia nhập vào lực lượng lao động với trình độ văn hoá cao nhiều so với trước đây Vào năm 1950, 45.2% học sinh Nhật tốt nghiệp cấp 2, tức là sau hoàn tất chương trình giáo dục cưỡng bách, bắt đầu làm việc độ tuổi 15, còn 43% học sinh vào trung học phổ thông để tiếp tục học Hiện tỷ lệ học tiếp trung học phổ thông đã đến mức 9597% Cũng lý đó, lực lượng lao động Nhật Bản ba thập kỷ 1960-1980 là pha trộn người lao động lớn tuổi với trình độ văn hoá thấp tay nghề cao, ngày càng giảm dần và người lao động trẻ tuổi có trình độ văn hóa cao ngược lại tay nghề kém phải “đào tạo lại” sau thu nhận vào xí nghiệp Chương trình giảng dạy thời kỳ chuyển tiếp Không giống Hoa Kỳ, hệ thống giáo dục công lập Nhật Bản chiếm đa số tuyệt đối, 95%-98% cấp tiểu học và phổ thông sở, và lại nhà nước quản lý tập trung Mọi chương trình giảng dạy cho bậc tiểu học, cấp sở và phổ thông trung học ban hành và quản lý chặt chẽ Bộ giáo dục Cứ khoảng 10 năm, Bộ giáo dục lại ban hành giáo trình và sách giáo khoa theo tiêu chuẩn mới, với nội dung chi tiết hướng dẫn viết cụ thể cho môn học trường tiểu học và các trường cấp để hướng dẫn cho giáo viên Những đề nghị cho việc chỉnh sửa các (10) chương trình giảng dạy và sách giáo khoa đề các hội đồng chuyên môn khác bao gồm các chuyên gia giáo trình, giáo sư các trường đại học, giáo viên, thành viên các ban ngành giáo dục địa phương và bậc thức giả có kinh nghiệm khác xã hội Tương tự vậy, cải tiến chương trình đào tạo kỹ thuật Nhật Bản sau Thế Chiến II có thể xem xét bối cảnh giai đoạn theo lộ trình phát triển kinh tế: 1-Thời kỳ tái thiết (1950-1960) 2-Thời kỳ phát triển tốc độ cao (1960-1974) 3-Thời kỳ kinh tế ổn định (1975-1979) 4-Thời kỳ quốc tế hoá kinh tế (1980-1995) 5-Thời kỳ “Kinh tế tri thức” (1995-thế kỷ 21) Bảng đây cho thấy các điều kiện kinh tế-xã hội với đặc tính thời kỳ, và tỷ lệ phần trăm tốt nghiệp phổ thông trung học và số người học cấp cao Bảng Phát triển kinh tế xã hội và đào tạo dạy nghề (1950-1990) Thời kỳ Các điều kiện kinh tế xã hội Số học sinh lên cấp Vào caođẳng chuyên nghiệp / đại học Tái thiết kinh tế (1) Thiếu thốn nhà và thức ăn 43.0%(1950) 51.5%(1955) 10.1%(1955) Phát triển cao kinh tế (2) Tăng trưởng khoa học và kỹ thuật 57.7%(1960) 70.7%(1965) Tăng trưởng nhanh kinh tế (khoảng 10%) 82.1%(1970) 10.3%(1960) 17.1%(1965) 24.0%(1970) Khủng hoảng dầu (1971 & 74) Kinh tế phát triển chậm và ổn định (3-5%) 91.9%(1975) 34.2%(1975) 94.0%(1980) 31.9%(1980) Sự phát triển vi điện tử và công nghiệp dịch vụ 94.1%(1985) Sự quốc tế hoá kinh tế 30.5%(1985) Kinh tế ổn định (3) Quốc tế hoá (4) (11) 94.7%(1989) 30.6%(1989) Việc xây dựng môn giáo dục dạy nghề kỹ thuật là môn bắt buộc Chính sách tích cực giáo dục đào tạo nghề Nhật Bản có quá trình lịch sử lâu dài Trong bài diễn văn Hạ viện vào năm 1894, Inoue Kowashi, Bộ trưởng Giáo dục Nhật Bản phát biểu: “Chúng ta có thể thấy rõ ràng là chạy đua trên giới chủ yếu là phát triển công nghiệp không phải là quân Nền khoa học chúng ta đã phát triển cách thoả đáng, việc đào tạo kỹ thuật thì còn mức độ thấp Tình trạng này giống quân đội có đầy đủ các chiến thuật tốt lại không đủ binh lực chiến đấu (Passin,1982) Việc Bộ trưởng Giáo dục Nhật Bản gợi lên hình ảnh quân đội dựa trên bối cảnh chiến tranh Nhật-Thanh (1894-1895) với hàm ý Nhật Bản phải có sức mạnh kỹ thuật có thể thực chiến lược “Phú quốc cường binh” Tư nầy đã thể rõ rệt chiến tranh Nhật-Nga bùng nổ vào 10 năm sau đó với thắng lợi nước Nhật hùng mạnh Trong thời gian nầy, luật giáo dục dạy nghề quốc gia đầu tiên đời, tạo bước chuyển biến mạnh mẽ vấn đề đạo tạo nguồn lao động có kỹ đã đề cập trên Từ năm 1899, các ngành nông nghiệp, thuỷ sản, rừng và các chương trình công nghiệp chính thức đưa vào chương trình trung học cấp Tuy có thay đổi chủ trương giáo dục sau chiến với khuyến cáo phía Mỹ việc dạy nghề nhà trường tiếp tục xác lập trở lại từ năm 1958 Giáo dục hướng nghiệp cấp phổ cập với nội dung tóm tắt sau:   Từ năm 1958, giáo dục hướng nghiệp, dạy nghề đã đưa vào trường phổ thông trung học phổ thông và lẫn trường cấp Mặc dù khái niệm hướng nghiệp trường trung học phổ cập hỗn hợp (vừa dạy chữ vừa dạy nghề) là mục tiêu cải cách giáo dục dạy nghề Hoa Kỳ, nó chưa trở thành mẫu hình chiếm ưu Nhật Bản Khoảng phân nửa các trường phổ thông trung học Nhật Bản cung cấp các chương trình lý thuyết, trường còn lại chia loại: trường hỗn hợp (vừa dạy chữ vừa dạy nghề) và trường dạy nghề (phỏng theo mô hành Bộ Giáo dục Hoa Kỳ, 1987) Nói cách khác, hầu hết các trường phổ thông trung học Nhật Bản cung cấp các chương trình lý thuyết nhằm chuẩn bị cho học sinh bước lên bậc học cao mà không có các khoá học hướng nghiệp hay dạy nghề cụ thể Vì thế, hầu hết các học sinh Nhật Bản tham gia vào các khoá học hướng nghiệp dạy nghề cụ thể không đủ trình độ nghề nghiệp (12)  nên phải theo học tiếp số môn các trường dạy nghề cao đẳng chuyên nghiệp kỹ thuật hay trường chuyên tu kỹ thuật Thí dụ năm học 1990, có khoảng 26% học sinh trung học phổ thông tham gia vào các lớp học hướng nghiệp, dạy nghề tức khoảng ¼ số học sinh rời ghế nhà trường phổ thông để vào trường cao đẳng chuyên nghiệp kỹ thuật (hoặc chuyên tu kỹ thuật) và tỷ lệ nầy có khuynh hướng tăng lên 30% vào năm Theo Bảng 2, suốt thời kỳ tái thiết kinh tế sau chiến thứ hai, khoảng phân nửa học sinh cấp (phổ thông sở) bắt đầu xã hội làm việc sau tốt nghiệp Ở giai đoạn nầy, môn học giáo dục hướng nghiệp-dạy nghề là môn học bắt buộc tất học sinh nam và học sinh nữ các trường cấp sở, bao gồm các môn học liên quan đến nông nghiệp, công nghiệp, thương mại và kinh tế gia đình Chương trình giảng dạy đa dạng tuỳ theo qui mô trường và phụ thuộc vào địa phương Một mục tiêu giáo dục hướng nghiệp dạy nghề là đào tạo tay nghề thông qua học tập (lý thuyết) từ kinh nghiệm thực tế Việc đưa vào các môn đào tạo kỹ thuật Sự kiện Liên Xô phóng thành công vệ tinh “Sputnik” vào quỹ đạo, đánh dấu bước ngoặt khoa học-kỹ thuật loài người việc chinh phục không gian, giống các quốc gia khác trên giới, Nhật Bản đã ý thức tầm quan trọng việc đẩy mạnh phát triển các chương trình giáo dục khoa học và kỹ thuật Một chính sách chính phủ Nhật Bản áp dụng vào cuối năm 1957 là việc đưa các môn kỹ thuật thành môn bắt buộc tất các trường cấp sở bắt đầu vào năm 1958.[5] Với việc đưa chương trình đào tạo kỹ thuật vào các trường cấp sở, môn giáo dục hướng nghiệp dạy nghề đã có trước đây chuyển sang các trường phổ thông trung học (cấp 3) là môn học tự chọn Vào năm 1958, mục tiêu chủ yếu môn đào tạo kỹ thuật trường cấp sở là nhằm giúp học sinh nắm các kỹ thông qua kinh nghiệm sáng tạo/sản xuất, am hiểu công nghệ đại, và thúc đẩy hiểu biết và thái độ cần thiết để ứng dụng:   thông qua kinh nghiệm thiết kế và thực hành, nuôi dưỡng các kỹ thuyết trình, sáng tạo, và thái độ hợp lý giải việc thông qua kinh nghiệm sản xuất/điều hành máy móc/thiết bị, giúp học sinh hiểu mối quan hệ mật thiết công nghệ và sống, và nuôi dưỡng mối quan tâm phát triển công nghệ và ứng dụng sống hàng ngày Nội dung chủ yếu bao gồm thiết kế và đồ hoạ; chế biến gỗ và nghề kim loại; máy móc, điện tử, và chăn nuôi trồng trọt… Chương trình đào tạo công nghệ phân phối với tổng số 105 cấp lớp trường cấp sở (13) Vào năm 1960, chính phủ Nhật Bản bắt đầu nhân đôi số lượng các trường trung học kỹ thuật Trong suốt thời kỳ này, các trường kỹ thuật năm gọi là trường Cao đẳng chuyên nghiệp dành cho học sinh tốt nghiệp cấp THCS thành lập Bộ Giáo dục[6] Nhằm đáp ứng tình trạng thiếu hụt giáo viên môn kỹ thuật có tay nghề, các trường cao đẳng sư phạm kỹ thuật năm đã thành lập để bổ sung Tất các chính sách này liên quan đến “Chương trình nhân đôi thu nhập quốc gia” nhằm đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế Nhật Bản Vào khoảng đầu thời kỳ này, Bộ Giáo dục đã gửi chuyên gia phụ trách chương trình đào tạo và giảng dạy lĩnh vực giáo dục kỹ thuật đến Hoa Kỳ thu thập thông tin và kinh nghiệm các môn học liên quan đến kỹ thuật[7] để xây dựng chương trình đào tạo giáo viên dạy nghề, kỹ thuật cao đáp ứng yêu cầu thiếu hụt trầm trọng giáo viên dạy trường cao đẳng chuyên nghiệp Các trường cao đẳng này liên kết với khoa kỹ thuật công nghệ các trường đại học công lập Nhật Bản Trong suốt năm 1960, trường cao đẳng đào tạo nghề này thu nhận khoảng 900 sinh viên/ năm và sau năm đào tạo bổ sung, lực lượng giáo viên dạy nghề tăng thêm cách nhanh chóng từ 15.00020.000 người nhìn trên qui mô nước với hàng trăm sở đào tạo sư phạm dạy nghề liên thông Đưa vào các môn học sở và hội bình đẳng giáo dục Trong suốt thời kỳ phát triển tăng tốc kinh tế, tỷ lệ phần trăm học sinh Nhật Bản tiếp tục vào trường trung học phổ thông và các cấp học cao tiếp tục tăng mạnh Tuy nhiên, kiến thức và kỹ cần có nơi làm việc lại thay đổi cách sâu sắc Trong các lĩnh vực liên quan đến kỹ thuật, các nhà tuyển dụng mong muốn nhân viên họ có khả linh hoạt và khả có thể tiếp tục đào tạo cao Trong suốt thời kỳ này, Bộ Giáo dục đưa các môn học sở học, đồ họa, toán trung cấp… vào các khoá học dạy nghề kỹ thuật và đồng thời đưa vào các khoá học tổng quát kỹ và kinh nghiệm làm việc quản lý chất lượng, kế hoạch, kỹ thuật thống kê kho tàng…vào trường cao đẳng chuyên nghiệp Mặt khác, các vấn đề liên quan đến hội bình đẳng “giới” giáo dục trung học trở nên cấp thiết Trong thời kì này, tất học sinh nam tham gia vào các lớp đào tạo kỹ thuật, tất học sinh nữ tham gia vào các lớp kinh tế gia đình Nhằm mang đến hội học tập công nhau, đầu năm 1977, Bộ Giáo dục yêu cầu tất học sinh nam tham gia vào ít lớp kinh tế gia đình và tất học sinh nữ tham gia vào ít lớp đào tạo kỹ thuật Ở các trường phổ thông trung học, học sinh theo học chương trình hướng nghiệp dạy nghề kỹ thuật bắt buộc phải học các môn sở “cơ sở kỹ thuật”, “toán kỹ thuật”, và “thực hành” Mục đích môn (14) học này là nhằm tăng cường kiến thức và kỹ học sinh, sử dụng tài liệu và phương pháp giảng dạy và cập nhật giáo trình.[8] Đồng thời môn học các kỹ và kinh nghiệm làm việc đưa vào các khoá học tổng quát cho tất học sinh các cấp phổ cập Việc đưa môn “Cơ công nghệ thông tin” vào trường cấp và “Dự án nghiên cứu độc lập” vào trường phổ thông trung học Để đáp ứng thay đổi nơi làm việc và ngoài xã hội, Bộ Giáo dục đã khởi xướng vài thay đổi vào cuối năm 1980 Một thay đổi chủ yếu là đưa môn học lý thuyết máy tính vào chương trình giáo dục kỹ thuật trường cấp (không phải cấp VN) Mục tiêu chính môn học này là nhằm giúp học sinh hiểu vai trò và chức máy tính, và phát triển lực sử dụng máy tính và thông tin Nội dung chủ yếu bao gồm máy tính và xã hội, phần cứng máy tính, và các ứng dụng phần mềm máy tính Dù môn tin học không phải là bốn môn học bắt buộc (chế biến gỗ, điện tử, thực phẩm, đời sống gia đình) nó là môn các em chọn nhiều Theo kết nghiên cứu Bộ Giáo dục Nhật (1991), có 76% sinh viên muốn học lớp tin học này Đối với cấp phổ thông trung học, Bộ Giáo dục đã điều chỉnh lại các lớp kỹ thuật để khuyến khích phát triển các kỹ và linh động ứng dụng Trong các môn học bản, Bộ Giáo dục khuyến khích sử dụng máy vi tính cho môn khoa học và toán học Tất các sinh viên học nghề phải học môn công nghệ thông tin có liên quan đến chuyên ngành họ xử lý thông tin nông nghiệp và xử lý thông tin kinh tế gia đình Một nội dung chấn chỉnh quan trọng các lớp kỹ thuật cấp phổ thông trung học là phần giới thiệu các lớp giải vấn đề phức hợp “cơ điện tử”, “ứng dụng điện tử” và nghiên cứu dự án độc lập/ bắt buộc Mục tiêu chính yếu lớp điện tử là để nâng cao hiểu biết các kiến thức và kỹ điện tử (cơ học và điện tử) Bảng trình bày các công cụ và máy móc bản, máy cảm biến, máy chuyển A/D, mạch logic, thiết bị truyền động, học và dụng cụ dẫn lực Mục tiêu Nội dung Cơ học: đạt các kiến thức và kỹ 1) Sự kết hợp học và điện tử các máy móc và dụng cụ học, đào tạo kỹ ứng dụng vào thực tiễn 2) Các nguyên lý và đặc điểm thiết bị cảm biến 3) Thiết bị cảm biến và máy vi (15) tính; đổi tương tự; mạch logic, tín hiệu 4) Đặc điểm và các dạng cấu truyền động 5) Điều khiển cấu truyền động 6) Cơ học và dụng cụ dẫn lực Nói chung, Nhật đã có xu hướng ngày càng nghiêng đào tạo kỹ thuật và đào tạo nghề Tuy nhiên, phương pháp rộng và kém “tập trung vào môn cụ thể”, kết đem lại có thể là kinh nghiệm giáo dục dàn trải nông cạn Mục đích nghiên cứu dự án độc lập là làm cho sinh viên hiểu sâu và kết hợp các kiến thức và kỹ năng, thông qua việc làm quen với nghiên cứu các phương pháp giải vấn đề và các dự án công nghiệp Các nội dung chính bao gồm thiết kế, sản xuất, nghiên cứu, thí nghiệm, nghiên cứu thực tiễn nơi làm việc, các chứng nghề cấp chuyên ngành Những ví dụ các dự án bao gồm thiết kế và sản xuất robot và các mô hình điều khiển từ xa.[9] Các phương pháp đào tạo kỹ thuật Ngay từ đầu, phương pháp giảng dạy kỹ thuật Nhật theo thực nghiệm, dựa trên phương pháp luận việc lập trình Các lớp kỹ thuật thường chia thành lớp lý thuyết và lớp thực hành Các lớp thực hành (thí nghiệm) thường có ít sinh viên các lớp lý thuyết Trung bình lớp học gồm 40 học viên Gần đây, các hoạt động lập trình cố gắng kết hợp các lĩnh vực kỹ thuật khác với nội dung lý thuyết tương ứng phù hợp Hỗ trợ cho đào tạo kỹ thuật Luật “Khuyến khích đào tạo nghề” ban hành vào năm 1951 Qua đó, thông qua Bộ Giáo dục, Chính phủ xúc tiến các chương trình đào tạo công nghệ, và khuyến khích chính quyền địa phương hỗ trợ cho công tác này Sau hoàn thiện chương trình giảng dạy chuẩn, Bộ Giáo dục ban hành các tiêu chuẩn trang thiết bị đào tạo kỹ thuật và đào tạo dạy nghề kỹ thuật tương ứng Chính phủ trợ cấp các trường trung học phổ thông (trường tư) gần phần ba ngân sách dành cho đào tạo dạy nghề kỹ thuật và các trang thiết bị Giáo viên dạy nghề các trường trung học phổ thông quốc gia và trường công lĩnh thêm trợ cấp hàng tháng 10% lương theo Luật trợ cấp đào tạo nghề năm 1957, tức là cao mức lương công chức cùng ngạch ngành nghề khác (16) Đào tạo giáo viên giáo viên giảng dạy Việc đào tạo giáo viên giảng dạy công nghệ và đào tạo nghề kỹ thuật chủ yếu là các trường Đại học kỹ thuật khoa công nghệ các trường đại học quốc gia Do công nghệ luôn thay đổi nhanh chóng nên việc tổ chức tập huấn cho các giáo viên kỹ thuật và đào tạo dạy nghề kỹ thuật là cần thiết Sau lần chỉnh sửa chương trình giảng dạy (thường có chu kỳ 10 năm), Bộ Giáo dục lên kế hoạch và thực với ngân sách nhà nước các chương trình tập huấn các giáo viên giảng dạy Một ví dụ điển hình là nỗ lực chuẩn bị lực lượng 16.000 giáo viên kỹ thuật để giảng dạy các khóa vi tính Trong giai đoạn đầu chương trình, có khoảng 160 giáo viên kỹ thuật tập huấn tuần chương trình đào tạo toàn phần Sau khoảng thời gian năm, cở sở đào tạo 480 giáo viên đầu đàn, đáp ứng nhu cầu giáo viên giảng dạy kỹ thuật các trường phổ cập Ngoài tuần đào tạo chuyên sâu, các giáo viên này có nghĩa vụ tự nghiên cứu vi tính Mỗi gíao viên đã tập huấn địa phương mình và đào tạo lại các giáo viên kỹ thuật khác địa phương Chương trình đào tạo giáo viên giảng dạy cấp địa phương tiếp tục thực năm (từ 1988 đến 1992) đã đáp ứng cách hoàn hảo yêu cầu giáo viên kỹ thuật Nhật.[10] Các trung tâm đào tạo kỹ thuật Trong 47 tỉnh, thành phố Nhật, nơi có ít trung tâm đào tạo gồm khoa đào tạo công nghệ/công nghiệp (cả công nghệ thông tin) Đây là không kể loại trường chuyên tu/chuyên môn dạy nghề tư nhân chiếm tỷ lệ 80%90% tổng số trường dạy nghề trên nước, đó ngành công nghệ thông tin chiếm đa số tuyệt đối Ở vài tỉnh lớn có các trung tâm đào tạo công nghệ thông tin và kỹ thuật hoạt động độc lập Các trung tâm này có chức đào tạo giáo viên giảng dạy, hoàn thiện tài liệu giảng dạy và nghiên cứu phương pháp giảng dạy Để sử dụng hiệu các nguồn ngân sách nhà nước, các trung tâm đào tạo các tỉnh trang bị các trang thíêt bị đắt tiền các hệ thống máy vi tính quy mô lớn và các trung tâm khí đại Duyệt sách và trợ cấp cho sách giáo khoa bắt buộc Các loại sách giáo khoa sử dụng các trường giáo dục bắt buộc và các trường phổ thông trung học các công ty xuất tư nhân biên soạn và phát hành theo kiểm định và chấp thuận Bộ Giáo dục Tất các sách giáo khoa bắt buộc, sách giảng dạy kỹ thuật, phát miễn phí cho học sinh Ví dụ văn khí đã duyệt phải có nội dung liên quan trực tiếp tới nội dung (17) Bảng Những thách thức đào tạo công nghệ Nhật GS Musuda (Nhật) và GS Sterm (Mỹ) cho Nhật Bản đứng trước thách thức lớn việc đào tạo công nghệ, khả giải thách thức đó là nhân tố định chất và hiệu việc đào tạo công nghệ tương lai.[11] Đó là: (a) Áp lực kiểm tra đầu vào Tại Nhật bản, các kỳ thi kiểm tra đầu vào gắt gao có ý nghĩa quan trọng giáo dục, là các kỳ thi tuyển sinh vào học các trường đại học có uy tín Chính vì việc thi đậu vào các trường đại học có uy tín đem lại nhiều thuận lợi sau này mà các bậc cha mẹ khuyến khích em mình chuẩn bị học tập tốt từ còn nhỏ Các kỳ thi tuyển sinh đại học quốc gia có môn chính: toán, tiếng Anh, tiếng Nhật, khoa học tự nhiên, khoa học nhân văn, không có nội dung công nghệ, kinh tế gia đình, mỹ thuật giáo dục y tế Vì vậy, các bậc cha mẹ có khuynh hướng xem là môn phụ so với các môn có nội dung thi các kỳ thi tuyển sinh Điều nầy vô hình trung phủ nhận giá trị việc học môn kỹ thuật hay môn mỹ thuật…ở bậc trung học sở, dẫn đến việc các em học sinh xem nhẹ môn học này giáo trình (b) Khó khăn thay đổi chương trình Quãng thời gian 10 năm để thay đổi chương trình cho phù hợp với thay đổi kỹ thuật và môi trường làm việc là quá dài Đây là thách thức đặc biệt quan trọng đào tạo kỹ thuật nội dung đào tạo kỹ thuật luôn có quan hệ mật thiết với giới kỹ thuật và môi trường (kỹ thuật) nơi làm việc Bắt nhịp tăng trưởng cải tiến và phát minh công nghệ thông tin, các ngành sản xuất chế biến hay phương thức quản lý là thách đố, buộc các nhà giáo dục phải có chính sách ứng phó linh hoạt hơn, là kinh tế tri thức đã bắt đầu hình thành giới phẳng nhiều nhà khoa học đã lên tiếng năm cuối kỷ 20 Cơ chế cứng nhắc chương trình đào tạo sách giáo khoa không cập nhật trở thành rào cản vô hình cho cập nhật, nhằm đáp ứng yêu cầu thực tế sau trường (c) Đào tạo kỹ thuật và hội bình đẳng đào tạo Vào thập niên 1990, Nhật Bản bắt đầu thí nghiệm tuần làm việc ngày thay vì ngày Chính vì tuần học tập học sinh các cấp (18) rút ngắn Trong suốt năm học 1992-1993, các trường Nhật đã cho nghỉ học ngày thứ bảy tháng Điều này đồng nghĩa với việc giảng dạy ít Tháng 4/2002, Bộ Giáo dục đưa đề cương cải cách chương trình mới, cắt giảm 30% nội dung giảng dạy phù hợp với thời gian học tập rút ngắn, với ngày tuần, nhằm tạo thoải mái (yutori) học tập sau nhiều tệ nạn học đường bùng nổ từ thập niên 80 (nạn bỏ học, chọc phá, bỏ lớp, bạo lực…) Đây số người xem là cải cách giáo dục lần thứ ba Người ta lo ngại áp lực nặng nề kỳ thi tuyển sinh vào đại học, sinh viên phải học nhiều lớp luyện thi (juku) Việc giảm thời gian học trường đã đặt thách thức quan trọng cho việc đào tạo kỹ thuật và kinh tế gia đình Để đảm bảo tính công cho nam và nữ, Bộ Giáo dục đã cho giảm 50% thời lượng giảng dạy môn kỹ thuật và kinh tế gia đình Mặc dù ngày càng có nhiều sinh viên nam và nữ học môn kỹ thuật và kinh tế gia đình thời gian dành cho chúng ít Điều nầy nói lên thực tế là phải nâng cao khả “tự học” em sau lên lớp trường, đó vênh học lực cùng cấp học rõ vì nỗ lực cá nhân em khác nhau, đây là điểm nan giải chủ trương “công bằng” học tập và đào tạo không có biện pháp khắc phục (d) Thiếu nguồn cho đào tạo kỹ thuật Tương tự các nước khác, việc đào tạo kỹ thuật Nhật Bản gặp khó khăn vì thiếu nguồn, tài chính lẫn nhân lực trước thực tế ngành nghề ngày càng đa dạng, phong phú phát triển kinh tế và quốc tế hoá giao thương Đào tạo kỹ thuật yêu cầu phải có đầu tư tài chính vào các trang thiết bị và tài liệu giảng dạy quan trọng là việc tuyển chọn giáo viên kỹ thuật giảng dạy phù hợp với tình hình ngày càng trở nên khó khăn hơn, là kinh tế bước vào thời kỳ đa quốc tịch và đa phương hoá Mối liên kết chặt chẽ kỹ thuật kinh tế các quốc gia trên giới ngày càng khắng khít đồng thời cọ xát sức mạnh kỹ thuật lẫn tài chính các xí nghiệp đa quốc gia ngày càng trở nên nóng bỏng đó nguồn nhân lực đào tạo nghề có trình độ quốc tế, biết giảng dạy tiêng Anh trở nên khan Tình hình Nhìn chung lượng học sinh cấp chọn học đại học (4 năm) chiếm tỷ lệ cao (41,8%); là các trường chuyên tu / cao đẳng chuyên nghiệp (18,2%) số đó tỷ lệ chọn học chuyên tu (chỉ học nghề) là 88,9% Điều này cho thấy khuynh hướng chọn học nghề cụ thể (chuyên tu) chiếm đa số tuyệt đối em tốt nghiệp trung học phổ thông mà không vào đại học(18,2%): (19) Số học sinh tốt nghiệp cấp vào: Trường Cao đẳng/Chuyên tu 213.075 (18,2 %) Đại học năm 489.848 (41,8 %) Đại học ngắn hạn (2-3 năm) 83.217 (7,1 %) (Thống kê năm 1989, Niên giám Giáo dục, Bộ GD NB) Mặt khác tổng số 3.441 trường cao đẳng/chuyên tu thì 93,9% thuộc hệ dân lập trường nhà nước có 11 trường (0,3%) và số trường công lập (của tỉnh, thành, quận huyện) có 199 trường (0,58%) Đây là số phản ánh xu hướng học nghề, chuyên tu ngày càng tư nhân hoá cao đáp ứng đa dạng việc đào tạo nghề cho niên Số học sinh trung học sở (cấp 2) tiến thẳng lên cấp phổ thông học nghề thay vì chuyển hướng học nghề từ trung học sở (cấp 2) năm 1960 Hơn nhìn vào ngành nghề cụ thể thì các ngành công nghiệp và văn hoá-giáo dưỡng là môn chiểm tý lệ cao cả, từ 15-17% không kể ngành y tế chiếm tỷ lệ vượt trội 31-34%, ngoài ngành vệ sinh công cộng đạt 12-14% ngành nông nghiệp còn 0,5 %, phản ánh khuynh hướng “ly nông” rõ rệt Điểm đáng chú ý là lượng học sinh vào học các trường đại học ngắn hạn (2-3 năm) đã giảm sút so với số học sinh lên chuyên tu/cao đẳng chuyên nghiệp Ở đại học ngắn hạn,học sinh nữ chiếm 70% vì các môn học nữ công gia chính, kế toán, quản lý nghiệp vụ văn phòng, sinh ngữ…là môn học chủ yếu Dù có thay đổi này, chúng ta có thể kết luận việc đào tạo nghề qua các trường chuyên tu hay cao đẳng còn chiếm tỷ lệ khá lớn 18-19% Nếu so với năm 197585, với tỷ lệ là 30-32%, thì tỷ lệ này có sụt giảm việc giảm này chủ yếu là kinh tế Nhật Bản đã chuyển sang sản xuất nước ngoài, đặc biệt các dây chuyền công nghệ lắp ráp kim khí điện máy, khí, hoá chất…, qua đường xuất kỹ thuật hay đầu tư nước ngoài,tăng nhanh 20 năm qua (xem bảng thống kê 2006) Số trường* Tổng cộng 3.441 Nhà nước (BGD) 11 Công lập (địa phương) 199 Dân lập 3.231 Số học sinh 100% 749.996 0,3% 918 0,58% 28.230 93,9% 720.848 100% 0,1% 3,8% 96,1% (20) Trong đó: Số trường Số học sinh (% ) là tỷ lệ trên tổng số trường CT* 552 (% ) là tỷ lệ trên tổng số trường CT* 42.466 Khoa Cao đẳng (16.7%) 2.996 (5.7%) 667.070 Khoa chuyên môn (87,1%) 222 (88,9%) 40.460 Khoa tổng quát (6,5%) (5,4%) E Lời kết Qua phân tích khái quát trên, chúng ta có thể nhận thức mối quan tâm các nhà xây dựng chính sách giáo dục Nhật Bản Họ tìm cách đẩy mạnh việc hướng nghiệp-đào tạo dạy nghề cho lứa tuổi trung học sở lẫn trung học phổ thông với nhiều phương cách linh hoạt nhằm đáp ứng kịp thời nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội Nhật Bản cách hợp lý đường lối chiến lược “Kỹ thuật Lập quốc”, nghĩa là dùng khoa học kỹ thuật để vươn tới, xây dựng đất nước Nhật hùng mạnh Kỹ thuật thay vì đường lối “Phú quốc Cường Binh” thời “công nghiệp hoá” Minh Trị Duy Tân Tất nhiên, việc cải cách giáo dục là lộ trình không có điểm dừng chân, phát triển nấc theo yêu cầu và đặc điểm phát triển giai đoạn vì khả “tự làm mới” giáo dục chính là chìa khoá mở khả phát triển cho tương lai, vực dậy tiềm sáng tạo người—thế hệ mới—không ngăn chận khả tụt hậu quốc gia chúng ta thấy kinh nghiệm đau đớn và chua xót các nước Tây âu đã thua kém Nhật Bản, Đức hay Hoa Kỳ… nào hai thập kỷ qua giáo dục-phát triển kỹ thuật nước này không bắt kịp thời đại “vi tính hoá”(IT) và “rô bô hoá” khoa học kỹ thuật Lối giáo dục “nhân văn” cũ xưa đã trở thành lạc hậu trước bước tiến đột phá công nghệ mặt trên giới, đòi hỏi phải xây dựng hệ thống giáo dục theo văn hoá-nhân văn phù hợp với “thế giới phẳng” ngày Nhịp bước “10 năm cải tiến giáo dục” lần Nhật (có nghĩa là sách giáo khoa có giá trị sử dụng 10 năm thay đổi nhằm bắt kịp tốc độ phát triển, định hướng và dự báo nguồn nhân lực xã hội tương lai) đã bị các nhà nghiên cứu nước phê phán phát xuất từ gương thất bại nầy Châu âu, luôn đòi hỏi chính phủ, cụ thể là Bộ Giáo dục-Văn hoá-Khoa học ngày phải dốc sức duyệt lại với chu kỳ ngắn cho phù hợp và cập nhật Trong đó VN, sách giáo khoa thay đổi xoành (21) xoạch bị phê phán là dường nhằm mục đích tăng nguồn thu bán sách nhà xuất độc quyền nhà nước không vì mục đích cải tiến chương trình Thế giới đã có nhiều thay đổi bước vào kỷ 21, mối quan hệ quốc tế ngày trật tự và hệ thống đó Việt nam đã là thành viên nhiều tổ chức và cấu quốc tế Thiết nghĩ ý kiến và kinh nghiệm Nhật việc đào tạo tầng lớp công nhân có kỹ thích ứng với tốc độ phát triển nêu trên hi vọng đem lại cách nhìn cho giáo dục nước ta giai đoạn hội nhập và cạnh tranh gay gắt Một thời kỳ mà nhu cầu lao động có kỹ và kỹ thuật cao trở thành đòi hỏi thiết, mang tính sống còn nước có kinh tế vốn không bền vững (nhập siêu liên tục năm vừa qua là thí dụ), chưa bắt kịp nhịp điệu tăng tốc các nhà đầu tư nước ngoài nước Việt nam có hội để biển lớn 2/2008 Phụ lục thống kê Bảng Số lượng và chủng loại trường học, 1873 – 1962 Thống kê các loại trường học từ Minh Trị đến năm 1962 (Number of Schools by Type of School, 1873-1962) Trung học phổTrường trung học chuyên thông Nữ nghiêp ng học - Cao đẳng dạy nghề Trường sư phạm Trung học cấpTrung học cấpTrung học cấp 26 45 91 82 110 Đại học Cao đẳng sưTrường đào tạoĐại học (hệ thố phạm giáo viên (theo hệ thống cũ) - - - (22) - 10 95 93 - - - 105 70 - - 12 14 15 14 16 101 87 74 68 76 - - - 84 105 74 73 71 1 1 2 2 1 1 - 9 18 22 23 26 25 25 78 63 66 46 45 - - 64 85 75 66 64 1 1 2 1 - - 19 25 31 29 37 26 23 23 23 37 46 47 47 47 47 - - 7 7 43 45 58 47 20 1 1 1 3 - - Bảng Số lượng và chủng loại trường học, 1873 - 1962 (tiếp tục 1) Trường dạy nghề sau tiểu học Trung học phổTrường trung thông Nữ học chuyên nghiêp o g Trung học sở Cao đẳng dạy nghề Trường sư phạm Trung cấp họcTrung cấp họcTrung cấp Đại học Cao đẳngTrường đào tạoĐại học (h sư phạm giáo viên thống mới) (theo hệ thống cũ) học 19 55 56 103 74 82 96 121 157 28 14 15 19 26 37 33 56 77 90 47 47 47 47 47 - - 7 6 41 35 52 50 51 1 1 2 2 2 1 1 - 113 108 151 222 430 169 190 218 242 258 34 37 52 70 80 109 121 150 172 228 47 49 53 64 57 - - 6 8 48 49 52 61 66 2 2 3 3 - 1.349 1.684 2.743 4.811 4.919 269 267 271 281 287 91 96 100 114 133 240 260 272 312 368 61 64 66 67 69 - - 8 8 47 59 63 64 66 3 2 3 8 7 - 4.751 6.192 6.111 6.740 7.395 296 306 311 314 317 169 178 193 260 299 403 495 481 507 519 76 78 80 83 86 - - 8 8 67 76 79 86 88 3 4 4 4 6 6 - 8.014 8.343 8.909 9.697 318 319 331 325 390 346 396 378 531 541 541 571 88 90 92 93 - - 8 8 86 88 88 90 4 4 4 4 4 - (23) 10.781 329 395 599 93 - - 94 4 - Bảng Số lượng và chủng loại trường học, 1873 - 1962 (tiếp tục 2) Trường nghề sau học giáo ường dạy tiểu Trung học phổTrường trung thông Nữ học chuyên nghiêp Trung học sở Trường phạm Cao đẳng dạy nghề sưTrung cấp họcTrung cấp họcTrung cấp Đại học Cao đẳng sưTrường đào tạoĐại họ phạm giáo viên thống (theo hệ thống cũ) học 12.213 13.338 14.332 14.830 14.879 337 345 368 385 422 420 432 514 580 618 608 683 676 683 714 98 93 94 94 95 - - 12 15 17 22 96 97 101 106 116 16 18 26 4 4 4 23 38 - 14.975 15.056 15.316 15.300 15.361 434 492 602 618 632 685 746 805 832 895 745 772 797 853 877 98 99 99 102 102 - - 25 38 29 31 31 131 129 126 129 147 31 32 34 37 37 4 4 48 51 56 62 66 - 15.297 15.254 15.248 16.085 16.091 645 655 667 558 558 940 970 975 980 963 912 967 996 1.003 1.024 104 106 105 104 100 - - 31 32 32 32 32 153 156 162 163 170 40 46 46 46 47 4 4 64 67 64 57 50 - 15.140 23.306 16.705 17.043 17.397 564 585 597 568 565 976 970 974 985 995 1.041 1.069 1.253 1.304 1.364 109 103 102 101 101 - - 32 32 32 32 32 171 175 177 178 178 45 45 45 45 45 4 4 48 50 50 52 54 - 17.761 20.164 20.493 20.868 21.670 665 573 600 633 677 989 1.019 1.095 1.125 1.163 1.380 1.422 1.479 1.487 1.513 102 102 103 103 103 - - 32 32 32 32 32 176 188 193 206 202 45 46 47 47 48 4 4 56 58 63 69 73 - Bảng Số lượng và chủng loại trường học, 1873 - 1962 (tiếp tục 3) Trường dạy nghề sau tiểu học Niê Mẫu n giáo khó a Tiểu họcGiáo dục thường xuyên) Trung Trường Cao học phổtrung đẳng thông học dạy Nữ chuyên nghề Trung nghiêp Trường Trung Trung Trung học sư phạm học cấphọc cấphọc cấp sở Đại học (theo hệ thống cũ) Cao đẳng sư phạm Trường Đại họcĐại Trường Trường đào tạo(hệ học đặc biệt chuyên giáo thống ngắn tu viên mới) kỳ (24) 194 194 194 194 194 2.076 26.325 18.034 727 1.899 1.991 66 - - 33 218 45 80 - - 141 936 2.006 26.880 15.970 813 1.283 1.858 66 - - 33 286 44 76 - - 141 636 1.789 26.332 15.144 778 1.872 1.743 66 - - 33 309 44 79 - - 116 507 1.303 25.388 12.092 793 1.413 1.583 58 - - 32 327 43 76 - - 153 615 1.480 24.997 11.810 794 1.401 1.528 55 15.715 - 30 368 43 78 - - 137 1.000 194 194 195 195 195 1.539 25.237 - 14 46 56 16.285 3.575 39 361 64 63 12 - 138 1.455 1.787 25.638 - - 55 14.200 4.180 39 361 74 65 176 - 143 3.422 2.100 25.878 - - - - 65 14.165 4.292 225 60 65 201 142 151 4.190 2.455 26.066 - - - - - 13.858 4.477 - 83 18 203 150 154 5.144 2.837 26.577 - - - - - 13.744 4.506 - 20 - - - 220 206 152 5.507 195 195 195 195 195 3.420 26.566 - - - - - 13.635 4.572 - 19 - - - 225 228 175 6.071 4.471 26.884 - - - - - 13.775 4.606 - - - - 327 261 178 6.741 5.431 26.880 - - - - - 13.767 4.607 - - - - 228 264 181 7.305 6.141 26.967 - - - - - 13.724 4.576 - - - - - 265 268 186 7.732 6.623 26.983 - - - - - 13.622 4.577 - - - - - 331 269 196 8.075 195 195 196 196 196 6.837 26.964 - - - - - 13.360 4.599 - - - - - 234 269 205 8.015 7.030 26.916 - - - - - 13.186 4.616 - - - - - 239 272 216 8.063 7.307 26.858 - - - - - 12.988 4.598 - - - - - 245 240 226 8.060 7.360 26.741 - - - - - 12.649 4.602 - - - - - 250 280 243 8.061 7.516 26.615 - - - - - 12.447 4.632 - - - - - 291 306 263 7.562 Nguồn: Sách Trắng Giáo Dục 1963, Bộ Giáo Dục Nhật Những điểm quan trọng có thể nhận thấy qua bảng thông kê nầy: (1) Ngay từ năm đầu, chính quyền Minh Trị đã tích cực phổ cập hóa giáo dục học qua số trương tiểu học ngày càng tăng cao, và Nhật Bản luôn trì trên 30.000 trường thuộc hệ công lập (2) Từ năm 1903 đến năm 1947 số trường Thanh Niên (dạy nghề) và trường Chuyên môn, Dạy nghề tăng vọt lên mức 15.000-18.000 trường (cho niên đã tốt nghiệp tiểu học) từ số 400 trường năm 1902, và Dạy nghề lên 1.500 trường(vào năm 1947) và hệ chuyên tu (hay trung học chuyên nghiệp đặc biệt hình thành sớm hơn, đã có từ năm 1878 và tăng vọt vào năm sau chiến thứ hai, đạt mức 4.500-5.000 trường và ngày số nầy đã lên tới hàng vạn đó 90% là trường chuyên tu dân lập (3) Sau chiến thứ hai, từ năm 1947, Nhật tăng tốc hệ thống giáo dục cấp trung học sở (cấp 2) và cấp phổ thông (cấp 3) (25) (4) Số trường đại học thành lập nhanh thời hậu chiến (thứ hai) trên sở nâng cấp các trường chuyên môn sẵn có, gọi là “đại học tân lập” Bảng Tỷ lệ học sinh tiểu học tốt nghiệp và lên cấp trên (3/1989) Nam Nữ 1.048.917 1.000.554 Học sinh tiểu học tốt nghiệp Tổng cộng 2.049.471 Tháng 3.1989 Số học sinh lên trung học (100%) 972.590 (100%) 958.191 (100%) 1.930.781 Số học sinh vào trung học (92,7%) 9.383 (95,8%) 1.156 (94,2%) 10.539 chuyên nhiệp Số học sinh học tiếp (0,9%) 981.973 (0,1%) 959,347 (0,5%) 1.941.320 (93,6%) (95,9%) (94,7%) lên cao (2+3) Bảng Số sở đào tạo và số học sinh theo loại trường(tháng 5/1989) Loại trường Mẫu giáo Tiểu học Trung học sở (cấp 2) Trung học phổ thông(cấp 3) Cao đẳng kỹ thuật Đại học ngắn hạn Đại học Trong đó trên đại học Trường đặc biệt(tàn tật) Chuyên tu Dạy nghề Tổng cộng Số trường Tỷ lệ nam Tỷ lệ nữ Số học sinh 15.080 24.851 11.264 5.511 62 584 499 303 938 3.254 3.570 65.613 50,9 51,2 51,2 50,4 92,8 8,9 73,6 84,7 62,5 47,3 50,6 52,0 49,1 48,8 48,8 49,6 7,2 91,1 26,4 15,3 37,5 52,7 49,4 48,0 2.037.614 9.608.627 5.619.297 5.644.376 51.966 461.849 2.066.962 85.263 95.008 741.628 442.186 26.767.567 Nguồn: Technical and Vocational Education in Japan Bảng Các loại trường ngày Nhật (2006) giáo Số trường 13.825 Học chính khoá 110.833 Số học 1.72 (26) học ng học sở(cấp 2) ng học phổ thông(cấp 3) ờng đặc biệt cho người tàn tật đẳng chuyên nghiệp kỹ thuật học ngắn hạn(Junior colleges) học ờng Chuyên tu nghề 22.878 10.992 5.385 1.006 64 469 744 3.441 1.729 417.862 228.264 247.796 65.058 4.471 11.279 164.483 42.224 10.404 Nguồn: Bộ Giáo dục-Văn hoá-thể thao-khoa học-kỹ thuật 1/5/2006 Nhận xét: Số trường Tiểu học và Trung học sở ít thay đổi kể từ cải cach giáo dục lần & trước đây Trung học chuyên nghiệp kỹ thuật giảm hẳn số sinh viên học Đại học tăng cao và hệ chuyên tu + Dạy nghề mức trên 5.000 sở có giảm so với thống kê năm 1989 cách thống kê sở dạy nghề khác Phần thống kê kết cải cách giáo dục lần (sau chiến thứ hai) Tỷ lệ học sinh cấp lên Cao Đẳng, Đại học Nhật 2,9 % (1947) 38 % (1960) 60 % (1975) 81.3 % (2006) Phản ánh Nhật bước vào kinh tế Tri thức Bảng Lượng sinh viên vào cấp học cao trên đại học (1950 – 80) tham khảo 7.18 3.60 3.49 10 20 2.85 74 14 (27) Nguồn: trên Nhận xét: số Thạc sĩ trường tư cao Thạc sĩ trường công Tiến sí thì ngược lại Biểu đồ Số học sinh tốt nghiệp cấp vào giáo dục bậc cao (1950 – 1980) (28) Nguồn: trên Nhận xét: Số học sinh vào trường Cao đẳng chuyên nghiệp (kỹ thuật) và đại học ngắn hạn tương Số học sinh vào Đại học thấp mặc dù nhìn chung thì loại nầy tăng nhanh thập kỷ(1950-1980) Bắt đầu từ thập kỷ 90 thì số sinh viên theo học đại học ngắn ngày (hơn 70% là nữ giới) có khuynh hướng giảm sút rõ rệt Biểu đồ 2: Khuynh hướng nhận việc và tìm việc cho học sinh tốt nghiệp phổ thông Nhật (29) Nguồn: Bộ Lao động-Y tế và Phúc lợi Nhật Bản/Văn phòng Bảo hiểm Lao động Nhận xét: 1985-1988: số chỗ trống ngang với số học sinh tốt nghiệp cấp xin việc (tỷ lệ 1:1) 1989-1995: số chỗ trống hẳn nhu cầu xin việc 1995-1999: tỷ lệ trở lại 1:1 2000-2005: số chỗ trống bắt đầu ít số người xin việc, từ năm 2000, kinh tế Nhật Bản bước vào giai đoạn kinh tế tri thức, nhu cầu lao động có học vấn (đại học hay cao đảng kỹ thuật) cao Biểu đồ 3: Các giả thuyết giải thích cho suy giảm nhu cầu tuyển dụng lao động tốt nghiệp phổ thông và lao động trẻ tuổi Nhật Bản (30) Tư liệu tham khảo (1)Bộ giáo dục, khoa học và văn hóa (1991) Gakko kihon chosa [Basic School Statistics] (2)Passin, H (1982) Xã hội và giáo dục Nhật Bản Tokyo: Kodansha (31) (3)Stern, S & Matsuda, T (1988, April) Nhật Bản đào tạo học sinh kỹ thuật và máy tính School Shop, 47(9) (4)Suzuki, H & Murata, S (1990) Gijutsu kyoiku no rekishi to tenbo “Triển vọng nghiên cứu lịch sử đào tạo kỹ thuật” Tokyo: Nichibun (5)Tamura, S., Arai, I & Murata, S (1985) Kinrotaiken gakushu no nerai to jissen [Mục tiêu và thực tiễn việc học tập kinh nghiệm lao động] Tokyo: Gyosei (6)U.S Department of Education (1987) Giáo dục Nhật Bản ngày Washington D.C (7) The evolution of social policy in Japan Okada Konosuke, WB 2003 (8) The Impact of New Technology To Japanese Vocational Education Shigeru Nakayama, UNESCO 1991 (9) Vocational Content in Mass Higher Education Roger Goodman et al (Oxford Univ.) (10) Hội Trí thức Meirokusha và tư tưởng khai sáng Nhật bản(Vietsciences) Vĩnh Sính (11) Nihon no Sangyo Kakumei(Iwanami shoten)”Cách mạng kỹ nghệ Nhật bản” Oe Shinobu (12) Meijiishin No Kyoikushi(Mizusawa Shoten)”Lịch sử giáo dục thời Minh Trị Duy Tân” Oe Shinobu (13) Kyoiku Hakusho—Sách Trắng Giáo dục –(Thống kê) 1963,85,90,2000,2005 Mombu Kagaku Gijitsu Sho(Bộ giáo dụckhoa học kỹ thuật Nhật bản) (32) [1] Japan’s System of Post-Secondary Education—Hasegawa Wataru, Columbia University [2] Trường Cao đẳng Chuyên môn(Koto senmon gakko) là trường dành cho học sinh sau tốt nghiệp cấp 2, tồn khoảng thời gian 1947-65 Từ “Cao đẳng” đây có nghĩa là cấp tiếng Nhật, không có nghĩa VN là cấp học sau tốt nghiệp phổ thông ngày [3] Tầng lớp quí tộc gồm “Hoa tộc” là hoàng thân quốc thích, lãnh chúa, và người có công với triều đình Tầng lớp này từ 1867 đổi thành đẳng cấp Công, Hầu, Bá, Tử Nam tước Châu âu Việc phân chia đẳng cấp này kết thúc vào năm 1947 [4] Education at a Glance 2006 (OECD) [5] Coi chú thích [6] Coi chú thích trên [7] Suzuki, H & Murata, S (1990) Gijutsu kyoiku no rekishi to tenbo [Lịch sử và quan điểm đào tạo kỹ thuật Tokyo: Nichibun [8] Suzuki, H & Murata, S (1990) Gijutsu kyoiku no rekishi to tenbo “Triển vọng nghiên cứu lịch sử đào tạo kỹ thuật” Tokyo: Nichibun [9] Bộ Giáo dục, khoa học và văn hóa (1989) Kotogakko gakushu shidoyoryo [Upper secondary course of study] Tokyo: Murata [10] Stern, S & Matsuda, T (1988, April) Nhật Bản đào tạo học sinh kỹ thuật và máy tính School Shop, 47(9), 41-43 [11] Stern, S & Matsuda Tlđd (33)

Ngày đăng: 16/06/2021, 03:50

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w