1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Pháp luật nhượng quyền thương mại và thực tiễn giải quyết tranh chấp tại hoa kỳ bài học kinh nghiệm cho việt nam

89 31 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Pháp luật nhượng quyền thương mại và thực tiễn giải quyết tranh chấp tại hoa kỳ bài học kinh nghiệm cho việt nam
Tác giả Bùi Võ Phương Thảo
Người hướng dẫn TS. Trần Việt Dũng
Trường học Trường Đại Học Luật Thành Phố Hồ Chí Minh
Chuyên ngành Luật Quốc Tế
Thể loại Khóa luận tốt nghiệp
Năm xuất bản 2012
Thành phố Thành phố Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 89
Dung lượng 1,23 MB

Nội dung

hỗ trợ từ bên nhượng quyền, một trong những nghĩa vụ chính của bên nhận quyền trong quan hệ kinh doanh này.1.1.2 Khái niệm nhượng quyền thương mại của Hội đồng thương mại liên bang Hoa K

Trang 1

BÙI VÕ PHƯƠNG THẢO

PHÁP LUẬT NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI VÀ THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TẠI HOA KỲ

BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT CHUYÊN NGÀNH LUẬT QUỐC TẾ

TP.HCM 2012

Trang 2

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT

PHÁP LUẬT NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI VÀ THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TẠI HOA KỲ

BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM

SINH VIÊN THỰC HIỆN: BÙI VÕ PHƯƠNG THẢO

KHÓA 33 – MSSV: 0855050154 GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN: TS TRẦN VIỆT DŨNG

TP HỒ CHÍ MINH, 2012

Trang 3

NGHIỆM CHO VIỆT NAM” là kết quả của quá trình học tập và nghiên cứu của tác giả tại Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh Để hoàn thành được khóa luận tốt nghiệp này, ngoài những cố gắng nỗ lực của bản thân tác giả, không thể không kể đến sự hỗ trợ từ TS Trần Việt Dũng với những hướng dẫn khoa học và góp ý bổ ích của thầy Tác giả xin gửi lời tri ân trân trọng nhất tới thầy cùng tập thể các thầy cô trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, những người đã luôn tận tình giúp đỡ và

hỗ trợ cho tác giả trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu của tác giả tại trường

Tác giả cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất đến gia đình và bạn

bè của tác giả, những người luôn ở bên cạnh động viên và hỗ trợ nhiệt tình nhất cho tác giả trong quá trình học tập và nghiên cứu vừa qua

BÙI VÕ PHƯƠNG THẢO

Trang 4

HOA KỲ: BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM” là công trình nghiên cứu

của cá nhân tác giả Tất cả các tài liệu và thông tin được sử dụng trong bài viết đều đã được chú thích và trích dẫn đầy đủ

Mọi thắc mắc về nội dung bài viết vui lòng liên hệ tác giả qua địa chỉ email phuongthao.bv90@gmail.com

Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 7 năm 2012

BÙI VÕ PHƯƠNG THẢO

Trang 5

2 Mục tiêu và đối tượng nghiên cứu 4

3 Tình hình nghiên cứu của đề tài 4

4 Phạm vi nghiên cứu 5

5 Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong khóa luận 5

6 Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài 5

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI 6

1.1 Khái niệm nhượng quyền thương mại 6

1.1.1 Khái niệm nhượng quyền thương mại của một số tổ chức quốc tế trong lĩnh vực nhượng quyền thương mại 6

1.1.2 Khái niệm nhượng quyền thương mại của Hội đồng thương mại liên bang Hoa Kỳ (Federal Trade Commission) 9

1.1.3 Khái niệm nhượng quyền thương mại trong pháp luật Việt Nam 10

1.1.4 Đặc điểm cơ bản của nhượng quyền thương mại 11

1.2 Tranh chấp trong hoạt động kinh doanh nhượng quyền thương mại 12

1.2.1 Nguyên nhân dẫn đến tranh chấp trong nhượng quyền thương mại 12

1.2.2 Nhận dạng những lý do làm phát sinh tranh chấp giữa các chủ thể trong quan hệ kinh doanh nhượng quyền thương mại 16

1.2.3 Một số tranh chấp phổ biến trong hoạt động kinh doanh nhượng quyền 17

1.2.4 Khả năng các dạng tranh chấp phổ biến này sẽ phát sinh tại Việt Nam 19

Tiểu kết chương 1 22

CHƯƠNG 2: TRANH CHẤP VỀ QUYỀN SỬA ĐỔI NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA HỆ THỐNG NHƯỢNG QUYỀN TRONG THỜI HẠN HỢP ĐỒNG 23

2.1 Quy định của pháp luật Việt Nam 23

2.1.1 Quy định của pháp luật nhượng quyền thương mại 23

Trang 6

2.2.2 So sánh pháp luật nhượng quyền thương mại Hoa Kỳ và Việt Nam 27

2.3 Thực tiễn tranh chấp và giải quyết tranh chấp tại Hoa Kỳ 28

2.4 Hướng hoàn thiện pháp luật Việt Nam và kinh nghiệm cho các doanh nghiệp kinh doanh nhượng quyền thương mại 34

2.4.1 Hướng hoàn thiện pháp luật nhượng quyền thương mại tại Việt Nam 35

2.4.2 Một số lưu ý đối với các doanh nghiệp kinh doanh nhượng quyền 36

Tiểu kết chương 2 37

CHƯƠNG 3: TRANH CHẤP VỀ BÍ MẬT KINH DOANH TRONG NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI 38

3.1 Quy định của pháp luật Việt Nam 39

3.2 Quy định về bí mật kinh doanh trên thế giới và theo pháp luật Hoa Kỳ trong so sánh với quy định của pháp luật Việt Nam 40

3.2.1 Quy định về bí mật kinh doanh của Hiệp định TRIPS 40

3.2.2 Quy định về bí mật kinh doanh theo pháp luật Hoa Kỳ 41

3.2.3 So sánh quy định của Hiệp định TRIPS và pháp luật Hoa Kỳ về bí mật kinh doanh với quy định pháp luật Việt Nam 42

3.3 Thực tiễn tranh chấp và giải quyết tranh chấp tại Hoa Kỳ 44

3.3.1 Liên quan đến tính không phổ biến của bí mật kinh doanh 45

3.3.2 Liên quan đến nghĩa vụ kiểm soát thông tin của bên nhượng quyền 47

3.4 Hướng hoàn thiện pháp luật Việt Nam và kinh nghiệm cho các doanh nghiệp kinh doanh nhượng quyền thương mại 50

3.4.1 Hướng hoàn thiện các quy định pháp luật Việt Nam 51

3.4.2 Một số lưu ý đối với chủ sở hữu bí mật kinh doanh trong quá trình kinh doanh nhượng quyền 52

Tiểu kết chương 3 54

Trang 7

quyền của bên nhượng quyền được hưởng phí nhượng quyền hình thành trong tương lai

theo pháp luật Hoa Kỳ và pháp luật Việt Nam 57

4.1.1 Tổng quan về phí nhượng quyền trong nhượng quyền thương mại 57

4.1.2 Quy định của pháp luật Việt Nam và pháp luật Hoa Kỳ về quyền của bên nhượng quyền liên quan đến phí nhượng quyền hình thành trong tương lai 58

4.2 Thực tiễn tranh chấp và giải quyết tranh chấp tại Hoa Kỳ 59

4.3 Hướng hoàn thiện pháp luật Việt Nam và kinh nghiệm cho các doanh nghiệp kinh doanh nhượng quyền thương mại 66

Tiểu kết chương 4 68

KẾT LUẬN CHUNG 69

TÀI LIỆU THAM KHẢO i

A-VĂN BẢN PHÁP LUẬT i

LUẬT VIỆT NAM i

ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ i

LUẬT HOA KỲ i

B - SÁCH, BÀI VIẾT VÀ BẢN ÁN ii

TIẾNG VIỆT ii

TIẾNG ANH iii

CÁC BẢN ÁN iii

WEBSITES iv

PHỤ LỤC 1: CÁC KHÁI NIỆM VÀ QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT NƯỚC NGOÀI vi

PHỤ LỤC 2: TRÍCH DẪN CÁC BẢN ÁN xi

Trang 8

LỜI MỞ ĐẦU

1 Lý do chọn đề tài

“Sự lặp lại của thành công”, “Cho phép người khác thành công giống như chúng

ta đã thành công” là những cái tên thường đi kèm khi nhắc đến loại hình kinh doanh franchise hay còn gọi là nhượng quyền thương mại, mô hình kinh doanh mới du nhập vào Việt Nam từ những năm 90 của thập niên trước và hiện đang thu hút rất nhiều sự quan tâm của giới kinh doanh trong và ngoài nước

Nhượng quyền thương mại mang đến cho người đầu tư những lợi thế kinh doanh đáng kể trong thời buổi kinh tế cạnh tranh hiện nay, đặc biệt là với các doanh nghiệp mới bắt đầu kinh doanh và các thương hiệu nổi tiếng có tham vọng phát triển toàn cầu Trong quan hệ kinh doanh này, bên nhượng quyền có cơ hội phát triển được thương hiệu của mình thông qua hệ thống nhượng quyền tại nhiều vùng lãnh thổ khác nhau, tận dụng lợi thế của doanh nghiệp bản địa Việc đầu tư nhượng quyền cũng tạo ra độ an toàn khá cao cho bên nhận quyền do lợi thế kinh doanh thương hiệu đã nổi tiếng Theo một thống kê tại Hoa Kỳ, trung bình chỉ khoảng 23% các doanh nghiệp kinh doanh độc lập có thể tồn tại sau năm năm kinh doanh, trong khi con số này là 92% đối với các doanh nghiệp kinh doanh nhượng quyền thương mại.1 Tại Đông Nam Á, nhượng quyền thương mại bắt đầu phát triển từ thập niên 90, đầu tiên tại Malaysia, sau đó là Singapore, Thái Lan hiện nay mô hình kinh doanh này đã phát triển rất thành công.2Tuy nhiên, kinh doanh nhượng quyền thương mại không hoàn toàn là sự đảm bảo của thành công Các quy định tạo nên lợi thế cạnh tranh trong loại hình kinh doanh này đều

có tính hai mặt của nó Xu hướng của người nhượng quyền luôn muốn kiểm soát hệ thống kinh doanh của mình một cách thống nhất, ngược lại người nhận quyền muốn

1 Lý Quý Trung, “Mua franchise – Cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam”, NXB Trẻ (2006)

2 http://baohothuonghieu.com/banquyen/tin-chi-tiet/lich-su-nhuong-quyen-thuong-mai/514.html (truy cập ngày 25/4/2012)

Trang 9

giữ bản sắc riêng của mình và thoát ly ở mức độ có thể so với các quy định bắt buộc chính là nguồn gốc làm nảy sinh rất nhiều tranh chấp về nhượng quyền thương mại.3 Tại Việt Nam hiện nay, nhượng quyền thương mại vẫn còn là một lĩnh vực mới

mẻ mặc dù nó đã thâm nhập vào nước ta từ giữa những năm 1990.4 Nhượng quyền thương mại bắt đầu phát triển mạnh mẽ kể từ sau khi Luật Thương mại của Quốc hội

số 36/2005/QH11 ngày 14 tháng 6 năm 2005 (“Luật Thương mại 2005”) chính thức

đưa loại hình kinh doanh mới này vào điều chỉnh trong hệ thống pháp luật Việt Nam,

và tiếp sau đó là sự kiện Việt Nam gia nhập vào Tổ chức thương mại thế giới WTO năm 2007 Tính đến năm 2006 chỉ có 23 hệ thống nhượng quyền thương mại tại Việt Nam thì trong vòng năm năm sau kể từ năm 2006 – 2011 (sau khi pháp luật nhượng quyền thương mại Việt Nam ra đời), nhượng quyền thương mại ở nước ta đã phát triển lên đến 96 hệ thống, tăng gấp 4 lần so với giai đoạn phát triển mười năm đầu.5

Việt Nam cũng đã nỗ lực xây dựng và phát triển hành lang pháp lý cho hoạt động kinh doanh nhượng quyền thương mại với cơ sở pháp lý nền tảng là Chương VI, Mục 8 của Luật Thương mại 2005 Các quy định liên quan của Luật Thương mại 2005 tiếp tục được giải thích và chi tiết hóa tại Nghị định của Chính phủ số 35/2006/NĐ-CP ngày 31 tháng 3 năm 2006 quy định chi tiết Luật Thương mại về hoạt động nhượng quyền

thương mại (“Nghị định 35”) và Thông tư của Bộ Thương mại số 09/2006/TT-BTM

ngày 25 tháng 5 năm 2006 hướng dẫn đăng ký hoạt động nhượng quyền thương mại

(“Thông tư 09”) nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư tiếp cận và phát triển

nhượng quyền thương mại tại Việt Nam

Tuy nhiên pháp luật nhượng quyền thương mại Việt Nam hiện nay còn khá đơn giản và chưa được cụ thể Ngoài một số quy định chi tiết về hướng dẫn đăng ký đầu tư

3

Nguyễn Hồng Thanh (2009) “Nhượng quyền thương mại – Một số lưu ý cho các nhà nhận quyền”

nhan-quyen.html] (truy cập ngày 11/5/2012)

[http://www.vnbrand.net/Nhuong-quyen-thuong-hieu/nhuong-quyen-thuong-mai-mot-so-luu-y-cho-cac-nha-4 http://www.vietfranchise.com/index.php?Module=Content&Action=view&id=289 (truy cập ngày 04/7/2012)

5 http://giaoduc.net.vn/The-thao/Bong-da-VN/VFF-khong-nhuong-quyen-thuong-mai-cho-AVG/99980.gd (truy cập ngày 26/4/2012)

Trang 10

đã được ban hành nhằm kịp thời đáp ứng làn sóng đầu tư nhượng quyền ào ạt tại Việt Nam trong thời gian qua, các quy định còn lại hầu như chỉ được nêu rất khái quát và đa phần hướng đến cho các bên tự thỏa thuận khi ký kết hợp đồng, đặc biệt các quy định

về quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ hợp đồng, các quy định về chấm dứt hợp đồng và giải quyết tranh chấp còn rất hạn chế

Hoa Kỳ là nơi bắt nguồn cho sự phát triển của nhượng quyền thương mại và cũng

là nơi pháp luật nhượng quyền thương mại lần đầu tiên xuất hiện Việc kinh doanh nhượng quyền tại đây phát triển mạnh mẽ dẫn đến (1) các tranh chấp đã xảy ra ở quốc gia này là rất phong phú và điển hình Đáng chú ý hơn nữa (2) Hoa Kỳ hiện nay đang

là quốc gia đầu tư chủ yếu trong lĩnh vực này tại Việt Nam,6 do bản chất của nhượng quyền thương mại là mang tính thống nhất nên (3) các dạng hợp đồng nhượng quyền thương mại của các thương hiệu từ Hoa Kỳ sẽ được áp dụng tương tự tại Việt Nam khi

họ đầu tư nhượng quyền tại Việt Nam Với ba lý do như trên thì rõ ràng các tranh chấp

đã xảy ra tại Hoa Kỳ rất có khả năng sẽ lại xuất hiện tại Việt Nam trên con đường phát triển nhượng quyền thương mại của mình hiện nay

Chính vì các lý do nêu trên, tác giả chọn đề tài “PHÁP LUẬT NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI VÀ THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TẠI HOA KỲ: BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM” để thực hiện khóa luận tốt nghiệp của mình, dựa vào thực tiễn giải quyết một số tranh chấp nhượng quyền thương mại điển hình tại Hoa Kỳ - quốc gia đang dẫn đầu thế giới trong lĩnh vực này để rút ra bài học kinh nghiệm và đưa ra định hướng hoàn thiện pháp luật Việt Nam, thúc đẩy nhượng quyền thương mại nước ta phát triển toàn diện hội nhập với thế giới

6 Theo thống kê của Bộ Công Thương, hiện nay có 79 thương hiệu nước ngoài đang thực hiện nhượng quyền thương mại tại Việt Nam, trong đó Hoa Kỳ dẫn đầu với 23 thương hiệu, tiếp theo là Singapore với 18 thương hiệu và sau đó là Anh, Canada với 5 thương hiệu, Úc, Italy, Hàn Quốc với 4 thương hiệu

[http://tttm.vecita.gov.vn/Default.aspx?itemid=67] (truy cập ngày 11/5/2012)

Trang 11

2 Mục tiêu và đối tượng nghiên cứu

Mục tiêu đặt ra của đề tài là dựa vào thực tiễn xét xử tranh chấp nhượng quyền thương mại tại Hoa Kỳ để đưa ra hướng hoàn thiện hệ thống pháp luật nhượng quyền thương mại tại Việt Nam, đồng thời rút ra một số kinh nghiệm thực tiễn áp dụng cho các doanh nghiệp Việt Nam trong quan hệ kinh doanh nhượng quyền thương mại hiện nay, đặc biệt là các quan hệ kinh doanh với đối tác Hoa Kỳ

Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là một số vấn đề pháp lý về nhượng quyền thương mại tại Việt Nam, Hoa Kỳ và các tranh chấp điển hình trong loại hình kinh doanh này tại Hoa Kỳ hiện nay

3 Tình hình nghiên cứu của đề tài

Trong thời gian qua, từ thực tiễn nhượng quyền thương mại phát triển mạnh mẽ tại Việt Nam đã có khá nhiều bài viết chuyên khảo cũng như các khóa luận tốt nghiệp, luận văn thạc sỹ nghiên cứu về lĩnh vực này, cụ thể như Khóa luận tốt nghiệp “Nhượng quyền kinh doanh tại Việt Nam – Thực trạng và giải pháp” của tác giả Nguyễn Minh Châu năm 2006, Luận văn “Hợp đồng nhượng quyền thương mại theo pháp luật Việt Nam” của tác giả Hồ Vĩnh Long năm 2006, bài viết “Hoàn thiện khung pháp lý về nhượng quyền thương mại” của Tiến sĩ Bùi Ngọc Cường đăng trên Tạp chí nghiên cứu lập pháp số 103, tháng 8 năm 2007 và một số các bài nghiên cứu khác Đa phần các bài nghiên cứu trên đều tập trung viết về mặt kinh tế của việc kinh doanh nhượng quyền,

về bản chất của hợp đồng nhượng quyền thương mại và về các quy định pháp luật điều chỉnh hoạt động nhượng quyền thương mại tại Việt Nam hiện nay Tính đến thời điểm hiện nay chưa có đề tài nghiên cứu nào tập trung phân tích về các vấn đề mâu thuẫn, tranh chấp có khả năng phát sinh trong quan hệ kinh doanh nhượng quyền thương mại giữa các bên, đặc biệt là tranh chấp với các đối tác nước ngoài - mặc dù đây là một vấn

đề quan trọng và cần thiết có sự nghiên cứu, điều chỉnh của pháp luật nhằm đảm bảo quan hệ nhượng quyền thương mại diễn ra một cách phù hợp và giúp các doanh nghiệp

Trang 12

Việt Nam tránh vướng phải những rủi ro không đáng có do thiếu kiến thức và kinh nghiệm về pháp luật nhượng quyền thương mại trong quá trình kinh doanh của mình

4 Phạm vi nghiên cứu

Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, khóa luận sẽ tập trung nghiên cứu và phân tích ba vấn đề pháp lý mang tính điển hình và đã có nhiều tranh chấp trong thực tiễn kinh doanh nhượng quyền thương mại như sau:

(1) Quyền sửa đổi những quy định của hệ thống nhượng quyền trong thời

hạn hợp đồng;

(2) Bí mật kinh doanh trong nhượng quyền thương mại;

(3) Phí nhượng quyền hình thành trong tương lai

5 Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong khóa luận

Trong khóa luận, tác giả sử dụng ba phương pháp cơ bản là tổng hợp, phân tích và

so sánh các quy định pháp luật về nhượng quyền thương mại của Việt Nam và Hoa Kỳ; tác giả cũng sẽ vận dụng phương pháp phân tích án lệ để tìm hiểu các thực tiễn tranh chấp và giải quyết tranh chấp trong hoạt động kinh doanh nhượng quyền thương mại tại Hoa Kỳ, từ đó so sánh và rút ra bài học kinh nghiệm cho pháp luật Việt Nam

6 Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài

Trong giai đoạn hiện nay khi nhượng quyền thương mại đang trên đà phát triển và

sẽ tiếp tục lớn mạnh tại Việt Nam cũng như trên thế giới, đề tài nghiên cứu này sẽ góp phần giúp cho hoạt động kinh doanh nhượng quyền thương mại tại Việt Nam, đặc biệt

là các quan hệ nhượng quyền thương mại có yếu tố nước ngoài phát triển tích cực; doanh nghiệp Việt Nam kinh doanh nhượng quyền có điều kiện nhận biết được các trường hợp có khả năng phát sinh mâu thuẫn, tự bảo vệ mình tránh vướng phải tranh chấp và thiệt hại trong quá trình kinh doanh Trên cơ sở đó bài viết cũng đưa ra phương hướng hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia trong lĩnh vực nhượng quyền thương mại, thúc đẩy loại hình kinh doanh này phát triển lâu dài và bền vững tại Việt Nam

Trang 13

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI

1.1 Khái niệm nhượng quyền thương mại

1.1.1 Khái niệm nhượng quyền thương mại của một số tổ chức quốc tế trong lĩnh vực nhượng quyền thương mại

Nhượng quyền thương mại là một loại hình kinh doanh mới và hiện đang phát triển rất mạnh mẽ đưa nhiều thương hiệu vươn rộng ra khỏi biên giới lãnh thổ quốc gia mình phát triển khắp thế giới Kinh doanh nhượng quyền thương mại đòi hỏi sự giao thương

và liên kết giữa các nhà đầu tư trong từng khu vực cũng như trên toàn cầu Nhiều tổ chức nhượng quyền thương mại trên thế giới đã được thành lập với mục đích là cầu nối giúp thương nhân của các quốc gia khác nhau tìm hiểu được thông tin về những hệ thống nhượng quyền mình mong muốn tiến hành đầu tư cũng như thúc đẩy kinh doanh nhượng quyền phát triển toàn cầu Với những tôn chỉ mục đích hoạt động khác nhau, các tổ chức này tiếp cận nhượng quyền thương mại dưới những góc độ khác nhau, do vậy mỗi tổ chức có một khái niệm riêng về nhượng quyền thương mại

Hiệp hội nhượng quyền thương mại quốc tế (International Franchise

Organisation),7 một tổ chức đại diện cho nhượng quyền thương mại lớn nhất và lâu đời nhất trên phạm vi toàn cầu hiện nay có cách tiếp cận về khái niệm nhượng quyền thương mại như sau:

Nhượng quyền thương mại là một thỏa thuận hoặc sự cấp phép giữa hai thực thể độc lập về mặt pháp lý, trong đó cho phép một người hoặc một nhóm người (bên nhận quyền) quyền được kinh doanh một sản phẩm hoặc dịch vụ dưới nhãn hiệu hoặc tên thương mại của một doanh nghiệp khác (bên nhượng quyền), bên nhận quyền được quyền tiến hành kinh doanh một sản phẩm hoặc dịch vụ theo phương thức kinh doanh của bên nhượng quyền và bên nhận

7 Hiệp hội nhượng quyền thương mại quốc tế hiện đại diện cho hơn 1.300 hệ thống nhượng quyền và 10.000 đơn

vị nhận quyền trên toàn thế giới Trải qua lịch sử phát triển hơn năm mươi năm, Hiệp hội đã thực hiện được nhiều hoạt động nhằm bảo vệ, tăng cường và thúc đẩy nhượng quyền thương mại phát triển trên toàn thế giới Theo http://en.wikipedia.org/wiki/International_Franchise_Association (truy cập ngày 31/5/2012)

Trang 14

quyền có nghĩa vụ phải trả cho bên nhượng quyền những khoản phí cho các quyền này; bên nhượng quyền có nghĩa vụ phải cung cấp các quyền nói trên và

hỗ trợ cho các bên nhượng quyền.8

Với nội dung của định nghĩa trên, có thể thấy Hiệp hội nhượng quyền thương mại quốc tế cho rằng nhượng quyền thương mại là một thỏa thuận giữa các bên, đồng thời nhấn mạnh vào mối quan hệ độc lập, ràng buộc của bên nhượng quyền và bên nhận quyền; khái niệm cũng đã nêu được những đối tượng của thỏa thuận nhượng quyền là nhãn hiệu, tên thương mại và phương thức kinh doanh của bên nhượng quyền Tuy nhiên khái niệm chưa nêu được một đặc trưng của nhượng quyền thương mại là tính đồng bộ (uniformity) của hệ thống nhượng quyền, bên nhận quyền có nghĩa vụ tuân thủ đúng các quy định của toàn hệ thống dưới sự kiểm soát của bên nhượng quyền

Theo quan điểm của Hội đồng nhượng quyền thương mại thế giới (World

Franchise Council), tổ chức phi lợi nhuận của các Hiệp hội nhượng quyền thương mại

các quốc gia trên thế giới, nhượng quyền thương mại được định nghĩa là “một chiến lược phát triển thương mại dựa trên mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau giữa các thương nhân độc lập, bên nhượng quyền và các bên nhận quyền, trong đó bên nhượng quyền

và bên nhận quyền cam kết cùng nhau hướng đến thành công chung của cả hai bên”.9

Khái niệm của Hội đồng nhượng quyền thương mại thế giới xem nhượng quyền thương mại như một hoạt động thương mại, “một chiến lược phát triển thương mại” Nội dung khái niệm đưa ra khá đơn giản, chỉ khái quát được hai chủ thể chính trong quan hệ kinh doanh là bên nhượng quyền và bên nhận quyền mà chưa làm nổi bật được quyền và nghĩa vụ của các bên cũng như những đặc trưng cần phân biệt giữa loại hình kinh doanh phức tạp này với các hình thức kinh doanh khác

Trang 15

Liên đoàn nhượng quyền thương mại châu Âu (European Franchise Federation)

trong khi đó đưa ra khái niệm về nhượng quyền thương mại như sau:

Nhượng quyền thương mại là một hệ thống tiếp thị hàng hóa và/hoặc dịch vụ và/hoặc công nghệ dựa trên sự hợp tác chặt chẽ và liên tục giữa các doanh nghiệp độc lập và tách biệt về mặt pháp lý và tài chính, bên nhượng quyền và các bên nhận quyền riêng lẻ của bên nhượng quyền, theo đó bên nhượng quyền cấp cho bên nhận quyền riêng lẻ của mình quyền và đồng thời áp đặt nghĩa vụ phải tiến hành kinh doanh theo quan niệm của bên nhượng quyền

Quyền được cấp cho phép và bắt buộc bên nhận quyền, nhằm đổi lại sự bù đắp

về mặt tài chính trực tiếp hoặc không trực tiếp, sử dụng tên thương mại và/hoặc nhãn hiệu thương mại và/hoặc dấu hiệu dịch vụ, bí quyết kinh doanh, phương thức kinh doanh và phương thức kỹ thuật, hệ thống thủ tục và các quyền công nghiệp và/hoặc các quyền sở hữu trí tuệ khác, được giúp đỡ thông qua các hỗ trợ thương mại và kỹ thuật liên tục, trong khuôn khổ và theo thời hạn của một hợp đồng nhượng quyền thương mại bằng văn bản được ký kết giữa các bên nhằm mục đích này.10

Theo quan điểm của Liên đoàn nhượng quyền châu Âu, nhượng quyền thương mại phải được xem là một hoạt động thương mại, “một hệ thống tiếp thị hàng hóa và/hoặc dịch vụ và/hoặc công nghệ” Khái niệm nhượng quyền thương mại do Liên đoàn nhượng quyền châu Âu đưa ra đã đề cập tới một số đặc tính cơ bản của hoạt động nhượng quyền, bao gồm chủ thể, đối tượng, quyền và nghĩa vụ của các bên, đặc biệt khái niệm nhấn mạnh tới yếu tố nghĩa vụ bên nhận quyền phải tuân thủ những quy định thống nhất của hệ thống nhượng quyền Tuy vậy khái niệm lại không đề cập đến vấn

đề phí nhượng quyền mà bên nhận quyền phải trả để có thể nhận được các quyền và sự

10 Quy tắc đạo đức nhượng quyền thương mại của châu Âu (European Codes of Ethics for Franchising) Phần II.IV.1 (sửa đổi, bổ sung ngày 05/12/2003) (Nguyên văn bằng tiếng Anh được cung cấp trong phần Phụ lục 1)

Trang 16

hỗ trợ từ bên nhượng quyền, một trong những nghĩa vụ chính của bên nhận quyền trong quan hệ kinh doanh này.

1.1.2 Khái niệm nhượng quyền thương mại của Hội đồng thương mại liên bang Hoa Kỳ (Federal Trade Commission)

Hội đồng thương mại liên bang Hoa Kỳ đưa ra khái niệm về nhượng quyền thương mại trong Phần 16 CFR 436 (FTC Rules, 16 CFR 436 - Disclosure Requirements and Prohibitions Concerning Franchising and Business Opportunities) như sau:

Nhượng quyền thương mại là bất kỳ một quan hệ thương mại liên tục hoặc một thỏa thuận, không phân biệt tên được gọi, trong đó các điều khoản của thỏa thuận hoặc của hợp đồng quy định, hoặc bên nhượng quyền thương mại cam kết hoặc tuyên bố, bằng cách nói miệng hoặc bằng văn bản, rằng:

(1) Bên nhận quyền có quyền tiến hành kinh doanh dưới thương hiệu được nhận diện hoặc có liên kết với bên nhượng quyền, hoặc được quyền cung cấp, bán, hoặc phân phối hàng hóa, dịch vụ hoặc các loại mặt hàng được nhận diện hoặc có liên kết với thương hiệu của bên nhượng quyền;

(2) Bên nhượng quyền sẽ có quyền kiểm soát chặt chẽ phương thức hoạt động của bên nhận quyền, hoặc cung cấp sự trợ giúp đáng kể trong phương thức hoạt động của bên nhận quyền; và

(3) Để có thể tiến hành hoạt động kinh doanh nhượng quyền, bên nhận quyền phải thanh toán hoặc cam kết thực hiện việc thanh toán theo yêu cầu cho bên nhượng quyền hoặc các chi nhánh của nó.11

Hội đồng thương mại liên bang Hoa Kỳ, tương tự như Tổ chức nhượng quyền thương mại thế giới, đưa ra khái niệm nhượng quyền thương mại là một dạng thỏa thuận hợp đồng Nội dung khái niệm khá chi tiết và tập trung quy định quyền và nghĩa

vụ của mỗi bên trong quan hệ hợp đồng Ngược lại với khái niệm của Liên đoàn

11 Quy định về nhượng quyền thương mại của Hội đồng thương mại liên bang Hoa Kỳ, 16 CFR 436.1(h)

(Nguyên văn bằng tiếng Anh được cung cấp trong phần Phụ lục 1)

Trang 17

nhượng quyền châu Âu, khái niệm này nhấn mạnh nghĩa vụ về phí nhượng quyền của bên nhận quyền, tuy nhiên lại không quy định nghĩa vụ tuân thủ những quy định thống nhất của toàn hệ thống nhượng quyền khi được tiến hành kinh doanh dưới thương hiệu

mà bên nhượng quyền chuyển nhượng

1.1.3 Khái niệm nhượng quyền thương mại trong pháp luật Việt Nam

Tại Việt Nam, nhượng quyền thương mại chính thức được luật hóa năm 2005 trong Luật Thương mại 2005 với các quy định cơ bản tại Mục 8, Chương VI về Một số hoạt động thương mại cụ thể khác Hiện nay, hoạt động kinh doanh nhượng quyền thương mại được hướng dẫn chi tiết tại Nghị định 35 và Thông tư 09

Luật Thương mại 2005 đưa ra khái niệm về nhượng quyền thương mại tại Điều 284 như sau:

Nhượng quyền thương mại là hoạt động thương mại, theo đó bên nhượng quyền cho phép và yêu cầu bên nhận quyền tự mình tiến hành việc mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ theo các điều kiện sau đây:

(1) Việc mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ được tiến hành theo cách thức

tổ chức kinh doanh do bên nhượng quyền quy định và được gắn với nhãn hiệu hàng hoá, tên thương mại, bí quyết kinh doanh, khẩu hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh doanh, quảng cáo của bên nhượng quyền;

(2) Bên nhượng quyền có quyền kiểm soát và trợ giúp cho bên nhận quyền trong việc điều hành công việc kinh doanh

Với khái niệm này, pháp luật Việt Nam xem nhượng quyền thương mại là một dạng hoạt động thương mại gắn liền với các đối tượng thuộc quyền sỡ hữu trí tuệ của bên nhượng quyền Nội dung khái niệm tập trung vào quyền và nghĩa vụ của bên nhượng quyền Một khía cạnh quan trọng chưa được làm rõ trong khái niệm của Điều 284 là nghĩa vụ của bên nhận quyền phải trả phí nhượng quyền để được sử dụng quyền thương mại của bên nhượng quyền Đây là một nghĩa vụ chính của bên nhận quyền khi tham gia vào quan hệ kinh doanh nhượng quyền thương mại và theo tác giả thì vấn đề

Trang 18

này cần thiết phải được bổ sung vào khái niệm để thể hiện được một cách khái quát nội hàm của hoạt động kinh doanh đặc thù này

1.1.4 Đặc điểm cơ bản của nhượng quyền thương mại

Với những nội dung được phân tích nêu trên, ta có thể thấy khái niệm nhượng quyền thương mại hiện nay là không đồng nhất, hầu như mỗi hệ thống pháp luật đều có định nghĩa khác nhau, và mỗi khái niệm có những điểm mạnh riêng tùy thuộc vào quan điểm của các nhà làm luật Tuy nhiên có thể nhận thấy tất cả các khái niệm đều có nêu những yếu tố cấu thành đặc trưng của nhượng quyền thương mại như sau:

(1) Nhượng quyền thương mại là một hoạt động thương mại

Một số khái niệm trên thế giới cho rằng nhượng quyền thương mại là thỏa thuận, là hợp đồng giữa các bên; tuy nhiên theo quan điểm của tác giả, nhượng quyền thương mại là một hoạt động thương mại, tương tự như các hoạt động mua bán hàng hóa, hoạt động cung ứng dịch vụ hoặc xúc tiến thương mại… theo quy định của Luật Thương mại 2005 Hợp đồng nhượng quyền thương mại là thỏa thuận của các bên liên quan đến hoạt động kinh doanh nhượng quyền thương mại;

những đối tượng thuộc đặc quyền thương mại của bên nhượng quyền (chủ yếu liên quan tới các quyền sở hữu trí tuệ) như nhãn hiệu hàng hoá, tên thương mại, bí quyết kinh doanh, phương thức kinh doanh…;

hoặc tổ chức có đầy đủ năng lực pháp luật, độc lập về mặt pháp lý, ít nhất bao gồm hai bên là bên nhượng quyền và bên nhận quyền;

Bên nhượng quyền cho phép bên nhận quyền tiến hành hoạt động kinh doanh dựa trên các quyền thương mại của mình và có nghĩa vụ phải hỗ trợ, hướng dẫn hoạt động kinh doanh của bên nhận quyền trong suốt thời gian nhượng quyền

Trang 19

Bên nhượng quyền có quyền kiểm soát hoạt động kinh doanh của bên nhận quyền, đảm bảo phù hợp với hệ thống nhượng quyền và được nhận phí nhượng quyền

Bên nhận quyền được quyền sử dụng các đối tượng bên nhượng quyền chuyển giao

để tiến hành kinh doanh và phải tuân thủ đúng các quy định của hệ thống nhượng quyền đã được thông báo trước khi ký hợp đồng nhượng quyền

Bên nhận quyền phải trả phí nhượng quyền (phí ban đầu và phí định kỳ) cho bên nhượng quyền để có thể được bắt đầu và duy trì việc kinh doanh nhượng quyền

1.2 Tranh chấp trong hoạt động kinh doanh nhượng quyền thương mại

Nhượng quyền thương mại là một loại hình kinh doanh mang lại nhiều lợi thế cho các bên tham gia cũng như đáp ứng được tối đa nhu cầu của người tiêu dùng trong thời buổi kinh tế khó khăn hiện nay Tuy nhiên kinh doanh nhượng quyền không đảm bảo một sự thành công hoàn hảo Do mang trong mình rất nhiều ưu điểm cũng như lợi thế kinh doanh nên tính chất của nhượng quyền thương mại rất phức tạp và tiềm ẩn nhiều rủi ro mà nếu các bên không cẩn thận trong quá trình kinh doanh hoặc không lường trước được các tình huống có thể phát sinh thì tranh chấp sẽ rất dễ xảy ra

1.2.1 Nguyên nhân dẫn đến tranh chấp trong nhượng quyền thương mại

Trong kinh doanh, tranh chấp tiềm ẩn như một vấn đề tự nhiên và tất yếu mà kinh doanh nhượng quyền thương mại cũng không thuộc trường hợp ngoại lệ Có rất nhiều

lý do làm phát sinh tranh chấp trong quan hệ kinh doanh, một trong những lý do đó là

sự hạn chế của hệ thống pháp luật điều chỉnh hợp đồng thương mại hiện nay Pháp luật đóng vai trò quan trọng trong việc xác định quyền và nghĩa vụ cơ bản của các bên trong quan hệ kinh doanh và chế tài cho những vi phạm liên quan, vì vậy sự yếu kém

và chưa hoàn thiện của các quy định pháp luật sẽ dẫn tới khả năng các bên vi phạm hợp đồng Bên cạnh đó, các bên hiện nay chưa có sự quan tâm đúng mực đến việc soạn thảo hợp đồng, dẫn đến các quy định trong hợp đồng còn lỏng lẻo, không chặt chẽ và

Trang 20

khi mâu thuẫn xảy ra các bên không thống nhất được cách giải quyết, nảy sinh tranh chấp Một lý do khác là không phải lúc nào trong quá trình kinh doanh các bên cũng tuân thủ theo đúng quy định của pháp luật và các thỏa thuận hợp đồng một cách nghiêm chỉnh, điều này cũng là cơ sở làm mâu thuẫn phát sinh Trong thực tiễn quan

hệ kinh tế, số lượng các tranh chấp thường gia tăng t lệ thuận với sự gia tăng của khối lượng các giao dịch Đáng chú ý là trong lĩnh vực kinh doanh thương mại quốc tế, khi

mà các bên có sự khác biệt về ngôn ngữ, đặc điểm văn hóa và cả tập quán kinh doanh thì khả năng xảy ra tranh chấp lại càng gia tăng

Đối với lĩnh vực nhượng quyền thương mại, các tranh chấp còn có thể phát sinh từ các yếu tố đặc thù khác, như tính dài hạn của hợp đồng, sự phức tạp trong quy trình chuyển giao các quyền thương mại và sự phức tạp trong quan hệ giữa bên nhượng quyền và bên nhận quyền

1.2.1.1 Hợp đồng mang tính chất dài hạn

Hợp đồng nhượng quyền thương mại thông thường là những hợp đồng dài hạn Bên nhận quyền sẽ không sẵn sàng đầu tư cơ sở vật chất cho một cửa hàng kinh doanh nhượng quyền nếu họ không có được bảo đảm rằng họ có thể sử dụng những quyền thương mại của bên nhượng quyền trong thời gian dài và thu được lợi nhuận từ nguồn vốn lớn mà mình đã đầu tư.12 Đi kèm trong suốt quá trình thực hiện hợp đồng là các nghĩa vụ phải thực hiện thường xuyên hoặc định kỳ ràng buộc cả hai bên Vậy với thời hạn hợp đồng lâu dài như lý giải ở trên, khả năng hai bên vi phạm các nghĩa vụ hoặc xảy ra mâu thuẫn trong quá trình thực hiện hợp đồng là rất cao

1.2.1.2 Hợp đồng bao gồm việc chuyển giao các quyền thương mại

Về cơ bản “…hoạt động NQTM [nhượng quyền thương mại] thực chất là hoạt động chuyển giao quyền kinh doanh (quyền thương mại) gắn liền với quyền sở hữu trí tuệ, bao gồm cả quảng cáo, tiêu chuẩn hàng hoá, đào tạo người lao động, khuyến mại,

12

Lê Nết, Vũ Thanh Minh, “Hợp đồng nhượng quyền thương mại”, LCT Lawyers, tr 5

Trang 21

Trong hợp đồng nhượng quyền luôn có điều khoản bắt buộc quy định về vấn

đề chuyển quyền thương mại, bao gồm việc chuyển giao các đối tượng quyền sở hữu công nghiệp của bên nhượng quyền cho bên nhận quyền.14 Tuy nhiên pháp luật Việt Nam về nhượng quyền thương mại hiện nay không có quy định cụ thể điều chỉnh vấn

đề này mà dẫn chiếu đến áp dụng pháp luật về sở hữu công nghiệp, cụ thể là Luật Sở hữu trí tuệ của Quốc hội số 50/2005/QH11 ngày 29 tháng 11 năm 2005, sửa đổi bổ

sung theo Luật số 36/2009/QH12 ngày 19 tháng 6 năm 2009 (“Luật Sở hữu trí tuệ 2005”) và các văn bản hướng dẫn thi hành,15 do vậy quan hệ kinh doanh nhượng quyền thương mại sẽ phải đồng thời chịu sự điều chỉnh của pháp luật về sở hữu trí tuệ - một lĩnh vực đang gặp khó khăn trong việc thực thi trên thực tế tại Việt Nam hiện nay.16

Theo ông Albert Kong - Giám đốc điều hành Công ty Asiawide Franchise, một

chuyên gia về nhượng quyền thương mại ở Châu Á thì "[v]ấn đề vướng lớn nhất ở thị trường N [ iệt Nam là quản lý sở hữu trí tuệ khi nhượng quyền thương mại."17 Thực

tế tại Việt Nam hiện nay, quyền sở hữu trí tuệ chưa được xã hội quan tâm đúng mực cũng như chưa được Nhà nước bảo hộ một cách thích đáng Do vậy một khi nhượng quyền thương mại phát triển, kèm với việc chuyển giao các đối tượng quyền sở hữu công nghiệp và kết hợp với hiện trạng bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ ở nước ta như hiện nay, mâu thuẫn và tranh chấp trong loại hình kinh doanh mới này sẽ rất dễ phát sinh và gây thiệt hại cho các bên

17 http://www.vietfranchise.com/index.php?Module=Content&Action=view&id=279&Itemid=15 (truy cập ngày 03/5/2012)

Trang 22

1.2.1.3 Mối quan hệ giữa bên nhượng quyền – bên nhận quyền

Một thực tế hiện nay là tuy kinh doanh nhượng quyền thương mại đã xuất hiện tại Việt Nam được hơn một thập niên và đang phát triển rất sôi động, nhiều người vẫn còn nhầm lẫn hình thức kinh doanh này với một số loại hình kinh doanh tương đồng như hoạt động cấp li-xăng hay chuyển giao công nghệ và đặc biệt là hình thức kinh doanh chuỗi cửa hàng của cùng một công ty – bên nhận quyền bị nhầm lẫn là nhân viên của bên nhượng quyền, dẫn đến khả năng có thể phát sinh nhiều mâu thuẫn tai hại

Đặc điểm nổi bật nhất của kinh doanh nhượng quyền là sự đồng bộ giữa các cửa hàng nhượng quyền từ nhãn hiệu, chất lượng sản phẩm, dịch vụ, cơ sở vật chất cho đến đồng phục của nhân viên… Sự giống nhau đến y đúc như vậy làm cho nhiều người nhầm tưởng các cửa hàng này là của chung một công ty Mặc dù thực tế là bên nhượng quyền và bên nhận quyền có mối quan hệ rất chặt chẽ; tuy nhiên mọi hoạt động của cửa hàng là do bên nhận quyền tự bỏ tiền đầu tư và đứng ra làm chủ Bên nhượng quyền và bên nhận quyền là hai thực thể pháp lý độc lập, không có mối quan hệ ràng buộc như chủ cửa hàng - nhân viên làm thuê trong quan hệ kinh doanh chuỗi cửa hàng

Điểm cần lưu ý thứ hai là trong quan hệ kinh doanh nhượng quyền thương mại, bên nhượng quyền có nhiều quyền hạn cũng như nhiều trách nhiệm với hoạt động của cửa hàng nhượng quyền hơn quan hệ cấp phép li-xăng hay chuyển giao công nghệ Trong quan hệ kinh doanh nhượng quyền, bên nhượng quyền có quyền yêu cầu và kiểm soát việc bên nhận quyền thực hiện kinh doanh theo đúng quy định của hệ thống nhượng quyền Đồng thời, trong suốt quá trình nhượng quyền, bên nhận quyền có quyền yêu cầu sự hỗ trợ, hướng dẫn trực tiếp từ bên nhượng quyền để đảm bảo kinh doanh có hiệu quả Ngược lại, trong hợp đồng cấp phép li-xăng, người cấp phép chỉ quan tâm đến khoản phí li-xăng họ thu được và giám sát liệu giấy phép của họ có được

sử dụng đúng mục đích hay không.18 Còn “[t]rong hoạt động chuyển giao công nghệ,

18

Xem Lý Quý Trung (2006), chú thích số 1

Trang 23

về nguyên tắc, sau khi chuyển giao công nghệ xong, bên chuyển giao sẽ không còn nghĩa vụ hỗ trợ/hoặc kiểm soát thêm đối với bên nhận chuyển giao…”19 Như vậy, mối quan hệ của bên nhượng quyền và bên nhận quyền không giống như mối quan hệ của các bên trong hợp đồng li-xăng hay hợp đồng chuyển giao công nghệ Kinh doanh nhượng quyền thương mại đòi hỏi sự hợp tác và kết nối chặt chẽ hơn giữa các bên tham gia

Có thể thấy bản chất của hợp đồng nhượng quyền thương mại rất phức tạp, nó chứa đựng nhiều ưu điểm so với các loại hình kinh doanh khác, dẫn tới lợi thế kinh doanh rất lớn cho các bên, hạn chế được nhiều rủi ro trong kinh doanh Tuy nhiên đi kèm với các ưu thế cạnh tranh đó là nguy cơ tiềm ẩn mâu thuẫn rất cao mà nếu như các doanh nghiệp không lường trước được và không có biện pháp đề phòng thì khi xảy ra tranh chấp, bên bị thiệt hại sẽ phải gánh chịu những hậu quả rất nặng nề

1.2.2 Nhận dạng những lý do làm phát sinh tranh chấp giữa các chủ thể trong quan hệ kinh doanh nhượng quyền thương mại

Khi tham gia vào quan hệ nhượng quyền thương mại, bên nhượng quyền và bên nhận quyền đều hướng đến những mục đích riêng khác nhau Một bên mong muốn nhân rộng thương hiệu của mình ra thị trường, tập trung vào đầu tư phát triển và giữ vững chất lượng thương hiệu Bên kia lại hướng đến mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận trong kinh doanh Do vậy các dạng tranh chấp phát sinh từ mỗi bên là khác nhau Căn cứ vào chủ thể làm phát sinh tranh chấp, ta có thể liệt kê các dạng tranh chấp

có thể phát sinh trong hoạt động kinh doanh nhượng quyền thương mại như sau:

- Các tranh chấp phát sinh từ bên nhượng quyền gồm: bên nhận quyền

không tuân thủ đúng quy định của hệ thống nhượng quyền, chậm trả phí

19 Nguyễn Hải Vân “Nhượng quyền thương mại – Nhận diện sự khác biệt với một số hình thức kinh doanh khác”

[http://www.vietfranchise.com/index.php?Module=Content&Action=view&id=284&Itemid=15] (đăng nhập ngày 04/5/2012)

Trang 24

nhượng quyền, hoặc vi phạm các quy định về vấn đề bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với các quyền thương mại của bên nhượng quyền

- Các tranh chấp phát sinh từ bên nhận quyền gồm: bên nhượng quyền vi

phạm các quy định tiết lộ thông tin về hệ thống nhượng quyền, bên nhận quyền không đồng ý với các yêu cầu sửa đổi quy định của hệ thống nhượng quyền, bên nhượng quyền không hỗ trợ, hướng dẫn bên nhận quyền trong quá trình kinh doanh nhượng quyền

Ngoài ra còn một số tranh chấp khác có thể phát sinh liên quan đến các quy định hạn chế cạnh tranh trong nhượng quyền thương mại, vấn đề chấm dứt hoặc gia hạn hợp đồng, vấn đề chuyển giao hợp đồng nhượng quyền, v.v…

1.2.3 Một số tranh chấp phổ biến trong hoạt động kinh doanh nhượng quyền 1.2.3.1 Tranh chấp về quyền sửa đổi những quy định trong hệ thống kinh doanh nhượng quyền của bên nhượng quyền trong thời hạn của hợp đồng

Bản chất của hợp đồng nhượng quyền thương mại là mang tính thống nhất và tồn tại trong nó những quy định bắt buộc mà khi ký kết hợp đồng, bên nhận quyền phải nhất trí với những nội dung đó, đồng thời phải có nghĩa vụ tuân thủ đúng những quy định đã cam kết trong suốt quá trình thực hiện hợp đồng Tuy nhiên, trong thời gian thực hiện hợp đồng đã ký, do nhu cầu thực tế phát sinh, bên nhượng quyền có thể yêu cầu bên nhận quyền sửa đổi những quy định trong hệ thống nhượng quyền mà hai bên

đã thỏa thuận trước đây nhằm phù hợp với sự chuyển biến của nền kinh tế - xã hội và đảm bảo tính thống nhất của toàn hệ thống nhượng quyền

Tranh chấp phát sinh khi bên nhận quyền không đồng ý với các yêu cầu sửa đổi đó của bên nhượng quyền và bị bên nhượng quyền chấm dứt hợp đồng nhượng quyền trước thời hạn Mâu thuẫn ở đây là liệu bên nhượng quyền có quyền được sửa đổi những quy định trong hệ thống nhượng quyền trong thời hạn của hợp đồng, nếu

Trang 25

bên nhận quyền không đồng ý hay không, và nếu bên nhượng quyền được quyền sửa đổi thì pháp luật có đặt ra những thủ tục hay hạn chế nào hay không

1.2.3.2 Tranh chấp về bí mật kinh doanh trong hoạt động kinh doanh nhượng quyền thương mại

Khi hai bên ký hợp đồng nhượng quyền thương mại đồng nghĩa với việc bên nhượng quyền đồng ý chuyển giao quyền sử dụng một số đối tượng thuộc quyền sở hữu trí tuệ của mình cho bên nhận quyền, như nhãn hiệu hàng hóa, tên thương mại, khẩu hiệu, biểu tượng kinh doanh,… và đặc biệt là những thông tin được coi là bí mật kinh doanh của công ty Khác với các đối tượng sở hữu trí tuệ khác, bí mật kinh doanh không được pháp luật bảo hộ thông qua việc đăng ký với cơ quan nhà nước có thẩm quyền mà chủ yếu do chủ sở hữu bí mật kinh doanh tự mình bảo vệ dưới sự bảo hộ của

nhà nước và pháp luật

Mâu thuẫn trong dạng tranh chấp này là việc xác định bí mật kinh doanh trong nhượng quyền thương mại, có phải mọi thông tin bên nhượng quyền cung cấp cho bên nhận quyền đều được coi là bí mật kinh doanh và bên nhượng quyền trong quá trình chuyển giao bí mật kinh doanh cho bên nhận quyền phải thực hiện những biện pháp gì

để đảm bảo bí mật kinh doanh của mình được pháp luật bảo hộ khi có vi phạm xảy ra

1.2.3.3 Tranh chấp về phí nhượng quyền hình thành trong tương lai

Do bên nhận quyền vi phạm nghĩa vụ quy định trong hợp đồng, bên nhượng quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng và kiện ra tòa yêu cầu bên nhận quyền bồi thường thiệt hại Bên nhượng quyền cho rằng do lỗi của bên nhận quyền nên hợp đồng không được tiếp tục thực hiện, dẫn đến bên nhượng quyền bị thiệt hại về khoản phí nhượng quyền hình thành trong tương lai mà họ đáng lẽ sẽ được hưởng nếu hợp đồng không bị chấm dứt trước thời hạn, do đó bên nhận quyền có lỗi phải bồi thường

Tranh chấp xảy ra khi bên nhận quyền không đồng ý bồi thường theo yêu cầu của bên nhượng quyền với lý do hợp đồng chấm dứt là do quyết định của bên nhượng

Trang 26

quyền, bên nhận quyền không có nghĩa vụ bồi thường phí nhượng quyền hình thành trong tương lai cho bên nhượng quyền khi hợp đồng nhượng quyền đã chấm dứt Vậy quyền lợi của bên nhượng quyền lúc này được pháp luật bảo vệ như thế nào

Trên đây là ba dạng tranh chấp mang tính đặc trưng trong quan hệ kinh doanh nhượng quyền thương mại Do các đặc điểm khác biệt của loại hình kinh doanh mới này so với các hình thức kinh doanh thông thường trước đây, các nhà làm luật cũng như các doanh nghiệp khi mới bắt đầu kinh doanh chưa thể lường trước được hết các tình huống, mâu thuẫn có khả năng phát sinh trên thực tế Vậy trong điều kiện hoàn cảnh của Việt Nam hiện nay khi loại hình kinh doanh nhượng quyền này đã được du nhập về và đang phát triển rất mạnh mẽ, các doanh nghiệp cũng như các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần thiết tiến hành nghiên cứu liệu các tranh chấp tương tự có khả năng xảy ra trong quá trình kinh doanh nhượng quyền thương mại tại thị trường nước

ta hay không, từ đó có định hướng phát triển hệ thống quy định pháp luật, hạn chế các nguy cơ làm phát sinh mâu thuẫn, thúc đẩy nhượng quyền thương mại phát triển

1.2.4 Khả năng các dạng tranh chấp phổ biến này sẽ phát sinh tại Việt Nam

Trước hết ta có thể thấy, trong tiến trình phát triển, sự vận động thay đổi luôn là xu hướng chung của mọi thời đại Quá trình phát triển kinh tế - xã hội làm thay đổi định hướng thị hiếu tiêu dùng, mua sắm của người dân, các công nghệ mới liên tục được cập nhật, các doanh nghiệp không ngừng ra sức cải tiến phương thức kinh doanh của mình nhằm tăng cường tính cạnh tranh với các đối thủ trên thị trường, trong đó doanh nghiệp kinh doanh nhượng quyền thương mại không phải là trường hợp ngoại lệ Tại Việt Nam, nền kinh tế hiện đang trên đà phát triển rất mạnh mẽ, nhu cầu điều chỉnh các quy định của hệ thống nhượng quyền trong quá trình kinh doanh tại thị trường mới này là không thể tránh khỏi Đồng thời, kinh nghiệm thực tiễn cho ta thấy vấn đề sửa đổi quy định của hệ thống nhượng quyền thường được hai bên xem xét, thỏa thuận và đưa vào điều khoản cam kết trong hợp đồng Tuy nhiên, văn hóa kinh doanh tại Việt Nam lại

Trang 27

chưa thật sự coi trọng việc soạn thảo hợp đồng, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, hơn nữa do chưa có được kinh nghiệm về loại hình kinh doanh quá mới mẻ này, nên vấn đề cam kết về việc sửa đổi những quy định của hệ thống nhượng quyền thường

sẽ không được doanh nghiệp Việt Nam xem xét một cách toàn diện, dẫn đến các mâu thuẫn và tranh chấp sẽ rất dễ dàng xảy ra một khi có bất kỳ sự chuyển biến kinh tế - xã hội nào làm ảnh hưởng đến việc kinh doanh của bên nhượng quyền

Thứ hai, tại thị trường Việt Nam hiện nay, đa phần các doanh nghiệp nước ta tham gia kinh doanh nhượng quyền với tư cách là bên nhận quyền thương hiệu nước ngoài Tuy nhiên với thực tế phát triển nhượng quyền thương mại mạnh mẽ trong nước cũng như trên thế giới, các doanh nghiệp Việt trong tương lai không xa sẽ không chỉ dừng lại ở việc kinh doanh thương hiệu nước ngoài mà thay vào đó là tham vọng phát triển rộng khắp các thương hiệu của quốc gia mình thông qua loại hình kinh doanh mới này Nhượng quyền thương mại mang lại rất nhiều cơ hội lớn nhưng cũng không ít thách thức cho các doanh nghiệp Việt Nam Với số kinh nghiệm ít ỏi cùng với thực trạng văn hóa kinh doanh tại nước ta hiện nay, vấn đề bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ sẽ là một rào cản quan trọng mà bên nhượng quyền cần phải xem xét khi tiến hành nhượng quyền thương hiệu cho các bên nhận quyền Bí mật kinh doanh là những thông tin mang lại cho bên nhượng quyền lợi thế cạnh tranh nhất định trên thị trường, do vậy nó luôn là mục tiêu dòm ngó và bị đe dọa tiếp cận từ các đối thủ cạnh tranh Nếu như nhãn hiệu, tên thương mại hoặc kiểu dáng công nghiệp thường sẽ được bên nhượng quyền đăng

ký bảo hộ tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền; thì riêng bí mật kinh doanh, theo quy định của pháp luật sở hữu trí tuệ, không được đăng ký bảo hộ mà chủ sở hữu phải tự mình thực hiện các hành vi bảo vệ cần thiết Mặc dù pháp luật Việt Nam hiện hành đã ban hành những quy định điều chỉnh quyền và nghĩa vụ của các bên liên quan, tuy nhiên các quy định này hầu như chưa được người dân coi trọng thực hiện và việc áp dụng chế tài cũng chưa thật sự hiệu quả trên thực tế Hơn nữa, thực trạng quản lý yếu

Trang 28

kém cũng như tâm lý lơ là trong việc thực thi các quyền sở hữu trí tuệ của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay sẽ góp phần không nhỏ thúc đẩy các mâu thuẫn về bí mật kinh doanh trong kinh doanh nhượng quyền thương mại phát sinh

Tiếp theo đó, do thực tế hiện nay nhượng quyền thương mại đang phát triển mạnh

mẽ tại Việt Nam và được coi là ngành kinh doanh thời thượng, các doanh nghiệp Việt Nam rất hăng hái tham gia vào thị trường tiềm năng này mà chưa có được sự nghiên cứu, chuẩn bị kỹ lưỡng, cân nhắc khả năng của mình có phù hợp và đáp ứng được yêu cầu của bên nhượng quyền hay không Trong khi đó thực tế là không phải quan hệ nhượng quyền nào cũng thuận lợi và đem lại lợi ích cho cả đôi bên Ta có thể thấy một

số ví dụ như thương hiệu Gloria Jean‟s tại Việt Nam, theo bà Phi Vân, người đã đưa thương hiệu cà phê nổi tiếng này về phát triển ở nước ta thì hiện nay sau sáu năm kinh doanh nhượng quyền, Gloria Jean‟s Việt Nam vẫn chưa đạt được điểm hòa vốn như dự tính ban đầu20 hoặc như “một đối tác nhượng quyền của Kinh Đô Bakery đã phải thanh

lý hợp đồng trước thời hạn do khi quyết định ký kết họ không lường trước được những khó khăn như kinh phí duy trì hoạt động thời gian đầu, vị trí kinh doanh chưa hợp lý, hiệu quả bước đầu không như mong muốn…”.21 Nếu tiềm lực tài chính của doanh nghiệp nhận quyền Việt Nam không đủ mạnh để theo đuổi phát triển thương hiệu nhượng quyền thì việc đứt gánh giữa đường là rất dễ xảy ra và kéo theo đó nhiều hệ quả không như mong muốn Thực tiễn hiện nay nhiều tranh chấp liên quan đến phí nhượng quyền hình thành trong tương lai đã phát sinh tại Hoa Kỳ cũng như tại Anh,

Úc và một số quốc gia khác khi bên nhượng quyền chấm dứt hợp đồng nhượng quyền trước thời hạn và yêu cầu bên nhận quyền phải bồi thường phí nhượng quyền trong tương lai mà đáng ra bên nhượng quyền sẽ được hưởng nếu hợp đồng không bị chấm

20 http://www.nhuongquyenvietnam.com/news/newsexdetails/2100/gloria-jeans-nan-giai-voi-cua-ai-viet-nam.htm (truy cập ngày 21/5/2012)

21 http://nhipcaudautu.vn/article.aspx?page=2&id=111-tai-sao-nen-nhuong-quyen-thuong-mai-luc-nay? (truy cập ngày 21/5/2012)

Trang 29

dứt nửa chừng Vậy một khi các thương hiệu nước ngoài đầu tư vào Việt Nam, nếu các doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình nhượng quyền thương hiệu không đáp ứng được yêu cầu của bên nhượng quyền dẫn đến phải chấm dứt hợp đồng trước thời hạn thì tương tự tại quốc gia của mình, bên nhượng quyền cũng sẽ yêu cầu bên nhận quyền Việt Nam phải trả khoản phí nhượng quyền hình thành trong tương lai này, nguy cơ tranh chấp phát sinh là không thể tránh khỏi

Tiểu kết chương 1

Trên thực tế, trong quan hệ thương mại tại thị trường Việt Nam hiện nay cũng như trong tương lai có thể sẽ phát sinh rất nhiều các loại hình tranh chấp khác nhau Tuy nhiên, trong tất cả các tranh chấp đó, ba dạng tranh chấp liên quan đến (1) việc sửa đổi các quy định của hệ thống nhượng quyền trong thời hạn hợp đồng, (2) bí mật kinh doanh trong quan hệ kinh doanh nhượng quyền và (3) phí nhượng quyền hình thành trong tương lai là các tranh chấp đặc thù của quan hệ kinh doanh nhượng quyền Chúng phát sinh do bản chất đặc trưng của nhượng quyền thương mại, dẫn đến các dạng mâu thuẫn cần giải quyết là không giống với bất kỳ loại hình kinh doanh nào trước đây Hơn nữa do lịch sử văn hóa kinh doanh cũng như điều kiện phát triển của Việt Nam hiện nay, khi mà rất nhiều các thương hiệu nước ngoài sẽ “đổ bộ” vào đầu tư nhượng quyền trong thời gian sắp tới, ba dạng tranh chấp nêu trên là những trường hợp đặc biệt, mà theo đánh giá của tác giả thì nó rất có khả năng sẽ xảy ra trong thực tế kinh doanh nhượng quyền thương mại ở nước ta, tương tự như đã xảy ra tại các quốc gia khác trong quá trình phát triển kinh doanh nhượng quyền của họ nếu như ta không kịp thời ban hành các quy định pháp lý điều chỉnh phù hợp Chính vì vậy pháp luật Việt Nam cần thiết phải có sự nghiên cứu cụ thể từ kinh nghiệm thực tiễn nhượng quyền thương mại tại các quốc gia đi trước và đưa ra phương hướng điều chỉnh các quy định hiện hành Các vấn đề này sẽ được tác giả tìm hiểu và phân tích cụ thể trong các chương tiếp theo

Trang 30

CHƯƠNG 2: TRANH CHẤP VỀ QUYỀN SỬA ĐỔI NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA HỆ THỐNG NHƯỢNG QUYỀN TRONG THỜI HẠN HỢP ĐỒNG

Trong kinh doanh nhượng quyền thương mại, tính đồng bộ của các hệ thống nhượng quyền là một trong những yếu tố quan trọng nhất góp phần tạo nên sự thành công của hoạt động kinh doanh Để đạt được sự đồng bộ này đòi hỏi các bên nhận quyền khi tiến hành kinh doanh phải tuân thủ chặt chẽ các quy định theo cam kết với bên nhượng quyền Tuy nhiên thực tế thì thị hiếu của người tiêu dùng luôn có sự thay đổi theo thời gian, các doanh nghiệp không thể giữ mãi phương thức kinh doanh của mình trong một thời gian dài mà cần thiết phải có sự đầu tư phát triển nhằm đáp ứng với sự tiến lên của xã hội, và từ đó nảy sinh nhu cầu sửa đổi các quy định của hệ thống nhượng quyền thương mại

Trong chương 2 này, tác giả sẽ phân tích và so sánh các quy định pháp lý của Việt Nam và Hoa Kỳ liên quan đến quyền sửa đổi những quy định trong hệ thống nhượng quyền của bên nhượng quyền, đồng thời dựa vào các tranh chấp đã thực tế phát sinh tại Hoa Kỳ cũng như những phương hướng giải quyết đã được áp dụng để đánh giá lại các quy định pháp luật Việt Nam hiện hành và tìm ra hướng hoàn thiện

2.1 Quy định của pháp luật Việt Nam

2.1.1 Quy định của pháp luật nhượng quyền thương mại

Hiện nay, vấn đề sửa đổi quy định của hệ thống kinh doanh nhượng quyền trong quá trình thực hiện hợp đồng giữa các bên không được quy định trong Luật Thương mại 2005 cũng như trong Nghị định 35 Tại Bản giới thiệu về nhượng quyền thương

mại được ban hành kèm theo Thông tư 09 (“Bản giới thiệu NQTM”), văn bản quy

định một số thông tin bắt buộc mà bên nhượng quyền phải công khai cho bên dự kiến nhận quyền biết trước khi tiến hành ký hợp đồng, liên quan đến nghĩa vụ của bên nhận quyền phải mua hoặc thuê những thiết bị để phù hợp với hệ thống kinh doanh do bên

Trang 31

nhượng quyền quy định có điều khoản bắt buộc công khai “Liệu có thể chỉnh sửa những quy định của hệ thống kinh doanh nhượng quyền thương mại không”22 và “Nếu được phép chỉnh sửa hệ thống kinh doanh nhượng quyền thương mại, nói rõ cần những thủ tục gì”23 Ngoài ra, Nghị định 35 Điều 8 khoản 2 cũng có quy định về nghĩa vụ của

bên nhượng quyền như sau: “Bên nhượng quyền có trách nhiệm thông báo ngay cho tất

cả các Bên nhận quyền về mọi thay đổi quan trọng trong hệ thống nhượng quyền thương mại làm ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh theo phương thức nhượng quyền thương mại của Bên nhận quyền.” Tuy nhiên thay đổi như thế nào được xem là “quan

trọng” và “làm ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh theo phương thức nhượng quyền thương mại của Bên nhận quyền” hiện nay chưa có quy định hướng dẫn

Vậy, với các quy định như trên, trong quan hệ kinh doanh nhượng quyền thương mại theo quy định của pháp luật Việt Nam, các bên cần thiết phải thỏa thuận vấn đề cho phép hay không việc sửa đổi quy định của hệ thống nhượng quyền Tuy nhiên giới hạn bắt buộc thỏa thuận chỉ trong phạm vi bên nhận quyền phải mua hoặc thuê những thiết bị để phù hợp với toàn hệ thống kinh doanh, trong khi đó hệ thống kinh doanh nhượng quyền còn bao gồm rất nhiều các yếu tố khác như chất lượng, giá thành sản phẩm, các chương trình ưu đãi hoặc chiến lược kinh doanh… mà các yếu tố này cũng

có thể sẽ được quy định đồng nhất trên toàn hệ thống nhượng quyền (theo từng loại hình nhượng quyền) và nếu một trong các yếu tố này thay đổi cũng sẽ có khả năng gây ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh bình thường của bên nhận quyền

2.1.2 Các quy định khác có liên quan

Quay về các quy định điều chỉnh hợp đồng nói chung, Bộ luật Dân sự của Quốc hội

số 33/2005/QH11 ngày 14 tháng 6 năm 2005 (“Bộ luật dân sự 2005”) Điều 423 khoản

1 quy định “Các bên có thể thoả thuận sửa đổi hợp đồng và giải quyết hậu quả của việc sửa đổi, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác” Theo như quy định này, bên

22 Bản giới thiệu về nhượng quyền thương mại được ban hành kèm theo Thông tư số 09, Phần B, Mục V, Điều 2

23

Xem chú thích số 22, Điều 3

Trang 32

nhượng quyền có quyền sửa đổi các quy định của hệ thống nhượng quyền trong quá trình thực hiện hợp đồng nếu thỏa thuận được với bên nhận quyền, ngược lại nếu hai bên không thể đạt được thỏa thuận thì việc sửa đổi là không phù hợp Điều này có nghĩa là quyền của bên nhượng quyền đối với chính hệ thống nhượng quyền của mình

bị hạn chế và chỉ được thực hiện việc điều chỉnh nếu có sự đồng ý của bên nhận quyền

Vậy, với các quy định của pháp luật Việt Nam hiện nay, ta có thể thấy tư duy của nhà

làm luật đã đặt vấn đề này vào thẩm quyền thỏa thuận của các bên (có thể thỏa thuận trước hoặc trong quá trình thực hiện hợp đồng, khi phát sinh nhu cầu cần sửa đổi) Việc sửa đổi chỉ được lưu ý bắt buộc thỏa thuận trong một trường hợp như đã được phân tích tại Mục 2.1.1, còn lại rất nhiều các trường hợp có khả năng thay đổi khác hiện nay vẫn chưa được pháp luật điều chỉnh

2.2 Quy định của pháp luật Hoa Kỳ trong so sánh với pháp luật Việt Nam

2.2.1 Tổng quan về hệ thống pháp luật nhượng quyền thương mại tại Hoa Kỳ

Tại Hoa Kỳ, mỗi tiểu bang có riêng một hệ thống pháp luật độc lập áp dụng trong phạm vi lãnh thổ của bang mình Bên cạnh các phần chung được điều chỉnh tại Quy định của Hội đồng thương mại liên bang Hoa Kỳ (FTC Rules), nhượng quyền thương mại còn được quy định tại một số văn bản khác nhau phụ thuộc vào hệ thống pháp luật của mỗi tiểu bang Tuy nhiên, nhìn chung quy định của các tiểu bang hiện nay đều khá tương đồng về những vấn đề cơ bản điều chỉnh hoạt động kinh doanh nhượng quyền thương mại

Pháp luật nhượng quyền thương mại tại Hoa Kỳ hiện nay chủ yếu điều chỉnh ba nội dung sau: (1) các quy định về việc công khai tiết lộ thông tin của hệ thống nhượng quyền; (2) các quy định về đăng ký nhượng quyền thương mại; và (3) mối quan hệ giữa bên nhượng quyền và bên nhận quyền Trong đó, phần (1) được quy định và

Trang 33

hướng dẫn chi tiết trong cả luật liên bang24

và luật các bang, phần (2) và (3) được điều chỉnh bởi các quy định riêng của từng bang.25

Về mối quan hệ giữa bên nhượng quyền và bên nhận quyền, đa số các tiểu bang đều ban hành những quy định hạn chế quyền của bên nhượng quyền trong việc sửa đổi các quy định của hệ thống nhượng quyền, cụ thể như sau:

Tại bang California, Bộ luật Doanh nghiệp, Luật kinh doanh nhượng quyền thương mại quy định bên nhượng quyền không được quyền tiến hành các sửa đổi quan trọng (material modification) liên quan đến hợp đồng nhượng quyền thương mại trước khi thực hiện việc thông báo bằng văn bản cho bên nhận quyền về yêu cầu thay đổi trong thời hạn năm ngày làm việc trước khi quyết định sửa đổi có hiệu lực áp dụng với bên nhận quyền, và bên nhận quyền, thông qua thông báo bằng văn bản chậm nhất là năm ngày làm việc kể từ ngày thỏa thuận sửa đổi dự kiến có hiệu lực, có quyền hủy bỏ thỏa thuận liên quan đến việc sửa đổi.26 Luật nhượng quyền thương mại tại các bang North Dakota và Tennessee cũng có các quy định hạn chế tương tự.27

Tại bang Hawaii, Luật đầu tư nhượng quyền thương mại quy định việc yêu cầu sửa đổi của bên nhượng quyền không được là sửa đổi quan trọng và hệ quả của việc sửa đổi phải đảm bảo cơ hội thành công cho bên nhận quyền, vì lợi ích chung của toàn

hệ thống nhượng quyền, đồng thời yêu cầu sửa đổi không được bất hợp lý (unreasonable) và mang tính độc đoán (arbitrary).28

http://franchiselaw.net/startups/usfranchiselawbasics.html (truy cập ngày 09/7/2012)

26 Điều 31101(c)(2) và Điều 31125(d) Bộ luật Doanh nghiệp của bang California (California Corporate Code) (Nguyên văn bằng tiếng Anh được cung cấp trong phần Phụ lục 1)

27 Điều 51-19-04(d) Bộ luật Century của bang North Dakota (North Dakota Century Code), Điều 47-25-1505 Bộ luật của bang Tennessee đã được chú giải (Tennessee Code Annotated)

28 Điều 482E-4(b) và Điều 482-6(2)(H) Đạo luật của bang Hawaii đã được sửa đổi (Hawaii Revised Statutes) (Nguyên văn bằng tiếng Anh được cung cấp trong phần Phụ lục 1)

29 Điều 455.1506 Luật đầu tư nhượng quyền thương mại của bang Michigan, Điều 56:10-7(e) Luật của bang New Jersey (New Jersey Statutes Annotated), Điều 19-28.1-6 Pháp luật chung của bang Rhode Island

(General Laws of Rhode Island)

Trang 34

2.2.2 So sánh pháp luật nhượng quyền thương mại Hoa Kỳ và Việt Nam

Với các quy định nêu trên, ta có thể thấy pháp luật nhượng quyền thương mại tại các tiểu bang của Hoa Kỳ hiện nay đã ban hành được một số quy định điều chỉnh vấn

đề sửa đổi các quy định của hệ thống nhượng quyền trong quan hệ kinh doanh của các bên Các quy định của mỗi bang là khác nhau, tuy nhiên nhìn chung tất cả đều tập trung điều chỉnh hai nội dung chủ yếu: (1) thủ tục tiến hành việc sửa đổi của bên nhượng quyền và thời hạn chấp nhận hoặc từ chối của bên nhận quyền; và (2) điều kiện được sửa đổi áp dụng cho bên nhượng quyền Tại Việt Nam hiện nay, vấn đề này chưa được quy định trực tiếp trong pháp luật nhượng quyền thương mại mà được hướng dẫn cho các bên tự thỏa thuận tại Bản giới thiệu NQTM, tuy nhiên những quy định của hướng dẫn này cũng chưa thật sự đầy đủ và chưa bao hàm được toàn diện các yếu tố của hệ thống nhượng quyền

Điểm chung của pháp luật Việt Nam và pháp luật Hoa Kỳ hiện nay là cho phép các bên tự thỏa thuận quyết định tiến hành việc sửa đổi, xuất phát từ bản chất của hợp đồng phải đảm bảo sự tự do thỏa thuận giữa các bên Tuy nhiên, theo pháp luật Hoa Kỳ, các bên chỉ được tiến hành thỏa thuận trong giới hạn pháp luật đã đặt ra; trong khi đó tại Việt Nam pháp luật chỉ đặt ra quy định bắt buộc thỏa thuận mà không có các quy định hướng dẫn thi hành trên thực tế cũng như giới hạn áp dụng, dẫn đến hệ quả khi các bên vận dụng quy định này sẽ có khả năng phát sinh hai trường hợp: (1) các bên lúng túng không biết thỏa thuận như thế nào do chưa có quy định pháp lý để làm cơ sở áp dụng; hoặc (2) bên nhượng quyền, thường ở vị thế cao hơn, sẽ áp đặt những thỏa thuận sửa đổi bất lợi cho bên nhận quyền Và cả hai trường hợp trên đều là nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn phát sinh trong quá trình kinh doanh nhượng quyền của các bên sau này Với những so sánh trên, ta có thể nhận thấy hệ thống các quy định pháp luật tại Việt Nam hiện nay còn đơn giản và chưa được toàn diện như hệ thống quy định của các bang tại Hoa Kỳ về cùng vấn đề này Sự đơn giản của hành lang pháp lý hiện hành có

Trang 35

thể sẽ tạo ra những rào cản lớn cho việc điều chỉnh một cách hiệu quả các quan hệ nhượng quyền thương mại phức tạp trong bối cảnh phát triển hiện nay

2.3 Thực tiễn tranh chấp và giải quyết tranh chấp tại Hoa Kỳ

Thực tiễn kinh doanh nhượng quyền thương mại cho ta thấy các sửa đổi thực tế phát sinh trong quá trình kinh doanh, cũng như theo dự đoán của các bên khi thỏa thuận ký kết hợp đồng kinh doanh nhượng quyền thương mại phần lớn là vì lợi ích phát triển chung của cả hai bên, tuy nhiên đôi khi vẫn có những trường hợp bên nhượng quyền muốn tiến hành việc sửa đổi vì lợi ích riêng của mình, theo chiều hướng thỏa mãn tối đa nhu cầu của người tiêu dùng thông qua kênh hệ thống nhượng quyền

và từ đó phát triển mở rộng thương hiệu của mình Xu hướng này có thể ban đầu mang lại nhiều khách hàng hơn cho hệ thống nhượng quyền nhưng lâu dài sẽ ảnh hưởng đến

sự phát triển bền vững của bên nhận quyền, dẫn đến nhiều mâu thuẫn phát sinh

Với những quy định trong hệ thống pháp luật nhượng quyền thương mại Hoa Kỳ theo như tác giả đã phân tích ở trên, bên nhận quyền dường như được bảo vệ hơn trong mối quan hệ nhượng quyền – nhận quyền liên quan đến vấn đề sửa đổi các quy định của hệ thống nhượng quyền thương mại Tuy nhiên trong thực tiễn xét xử các tranh chấp liên quan đến vấn đề này tại Hoa Kỳ, các cơ quan xét xử của các tiểu bang vẫn có

xu hướng bảo vệ quyền lợi của bên nhượng quyền

Trong vụ tranh chấp In re Conoco Phillips Co Service Station Rent Contract,30

bên nhượng quyền yêu cầu tăng tiền thuê và đòi bên nhận quyền trả tiền phí xử lý thẻ tín dụng khi hai bên thỏa thuận gia hạn hợp đồng nhượng quyền thương mại Bên nhận quyền không đồng ý với các yêu cầu sửa đổi đó và kiện ra tòa cho rằng bên nhượng quyền đã vi phạm Điều 31101 của Luật đầu tư nhượng quyền thương mại bang California (xem thêm Mục 2.2) Tòa án quận của liên bang tại California bác bỏ yêu cầu của bên nhận quyền với lý do Điều 31101 không được áp dụng trong trường hợp

30

In re Conoco Phillips Co Service Station Rent Contract, 2010 WL 2231875 (N.D Cal June 2, 2010)

Trang 36

gia hạn hợp đồng nhượng quyền thương mại; đồng thời đưa ra giải thích về quy định tại Điều 31101 như sau: Bên nhận quyền, sau khi nhận được thư thông báo về việc sửa đổi từ bên nhượng quyền, kể cả những sửa đổi quan trọng, được lựa chọn một trong hai giải pháp sau: (1) phản đối các sửa đổi đó và rời bỏ hệ thống nhượng quyền hoặc (2) chấp nhận yêu cầu sửa đổi của bên nhượng quyền và tiếp tục kinh doanh theo các quy định mới Điều 31101 không quy định cho bên nhận quyền quyền được khởi kiện đòi bồi thường khi không chấp nhận yêu cầu sửa đổi từ bên nhượng quyền.31

Một ví dụ khác là vụ kiện Trail Burger King, Inc v Burger King of Miami, Inc.,32 bên nhượng quyền trong quá trình kinh doanh muốn điều chỉnh một số quy định tiêu chuẩn của hệ thống nhượng quyền, trong đó có yêu cầu bên nhận quyền tăng thêm

số lượng thịt trong bánh hamburger Bên nhận quyền không đồng ý với yêu cầu đó và kiện ra tòa cho rằng những quyết định sửa đổi như vậy cần phải được hai bên lập thành một thỏa thuận đồng ý (mutual agreement) bằng văn bản Tuy nhiên, tòa không chấp nhận lập luận của bên nhận quyền và đưa ra quan điểm như sau: Mục tiêu mà hợp đồng nhượng quyền thương mại hướng đến là sự đồng bộ giữa các cửa hàng của thương hiệu Burger King; và để đạt được mục tiêu đó, hợp đồng cho phép bên nhượng quyền được đặt ra các tiêu chuẩn và các chi tiết, đặc điểm kỹ thuật mà các bên nhận quyền có nghĩa

vụ phải tuân theo, nếu bên nhận quyền không đồng ý thực hiện, hợp đồng nhượng quyền thương mại với bên nhận quyền đó sẽ bị chấm dứt Đáng lưu ý là mặc dù tranh chấp này được xét xử trước khi các quy định về nhượng quyền thương mại của Hội đồng thương mại liên bang Hoa Kỳ cũng như quy định của các bang được ban hành, kết quả xét xử này hiện vẫn được dẫn chiếu đến để áp dụng trong nhiều vụ tranh chấp sau này, điển hình như vụ tranh chấp Economou v Physicians Weight Loss Centers of

Trang 37

America, 756 F Supp 1024 (N.D Ohio 1991), tranh chấp La Quinta Corp v Heartland Props LLC 603 F.3d 327, 337-38 (6th Cir 2010).33

Với hai ví dụ trên, ta có thể thấy quan điểm của các Tòa án khi tiến hành xét xử hướng đến bảo vệ quyền lợi cho bên nhượng quyền mà không xem xét đến các thiệt hại

có thể xảy ra cho bên nhận quyền khi phải thực hiện theo yêu cầu sửa đổi của bên nhượng quyền Tuy nhiên, đó chỉ mới là một mặt của hoạt động xét xử trong thực tiễn tại Hoa Kỳ hiện nay Đường lối giải quyết tranh chấp này hiện nay là không thống nhất, mỗi tòa có một cách giải thích vấn đề khác nhau (different analyses) và dẫn đến nhiều kết quả xét xử không thống nhất (different outcomes)

Ngược lại với cách giải quyết thiên về bảo vệ bên nhượng quyền như các tranh chấp được giới thiệu ở trên, chỉ một số rất ít các tranh chấp khác đi theo hướng bảo vệ

quyền lợi bên nhận quyền, điển hình là tranh chấp Bird Hotel Corp v Super 8 Motels, Inc.34 Trong hợp đồng nhượng quyền thương mại, hai bên có thỏa thuận như sau:

BÊN NHƯỢNG QUYỀN và BÊN NHẬN QUYỀN cùng nhận thức được sự sáng suốt và tính thực tế của tất cả các quy định áp dụng cho hệ thống nhượng quyền cần thiết phải được sửa đổi, bổ sung theo thời gian như kinh nghiệm thực tiễn đã cho thấy, do đó hai bên đồng ý rằng BÊN NHƯỢNG QUYỀN có quyền xem xét lại hoặc sửa đổi, bổ sung các quy định của hệ thống nhượng quyền áp dụng thống nhất cho toàn hệ thống Super 8 Motels, bao gồm cả các khách sạn do BÊN NHƯỢNG QUYỀN sở hữu và đứng ra thành lập, và BÊN NHẬN QUYỀN đồng ý tuân thủ theo đúng các sửa đổi, bổ sung đó.35

Theo thỏa thuận đó, bên nhượng quyền yêu cầu các bên nhận quyền phải áp dụng chương trình khuyến mãi mới của hệ thống, trong đó cho phép những người tham gia được quy đổi điểm thưởng và sử dụng cho những dịch vụ khác nhau của hệ thống

33 James W Denision, “Why it‟s tough to have hard-and-fast-rules about operations manuals”, Franchise Law

Journal, Volume 30, Number 4, Spring 2011, tr 241

34 Bird Hotel Corp v Super 8 Motels, Inc., 2010 WL 572741 (D.S.D Feb 16, 2010)

35

Xem chú thích số 34, tr 10 (Nguyên văn bằng tiếng Anh được cung cấp trong phần Phụ lục 2)

Trang 38

nhượng quyền, bao gồm khuyến mãi miễn phí một đêm ở tại khách sạn của bên nhận quyền hoặc bất kỳ khách sạn nào khác trong toàn hệ thống Và bên nhận quyền phải trả cho bên nhượng quyền thêm một khoản tiền tương đương năm phần trăm (5%) của

“tổng số tiền phòng thu được” (gross room sales) để tham gia vào chương trình mới.36

Bên nhận quyền Bird Hotel Corp đã phản đối quy định mới này của hệ thống nhượng quyền và kiện ra tòa cho rằng việc bên nhượng quyền yêu cầu bên nhận quyền phải chấp nhận các sửa đổi của hệ thống mới được tiếp tục kinh doanh nhượng quyền của Bird Hotel là không phù hợp với thỏa thuận ban đầu của các bên trong hợp đồng Trong quá trình xét xử, bên nhượng quyền căn cứ vào điều khoản bên nhận quyền cam kết chấp nhận các sửa đổi, bổ sung ở trên để phản đối yêu cầu của bên nhận quyền Tuy nhiên, Tòa án quận của liên bang đặt tại South Dakota đưa ra phân tích như sau:

…các điều khoản của Hợp đồng không quy định cho bên Super 8 được áp đặt thêm khoản phí 5 phần trăm trên tổng số tiền phòng thu được lên các thành viên TripRewards khi họ tham gia vào chương trình khách hàng thân thiết Hợp đồng chỉ quy định cho phép bên nhượng quyền được thu bên nhận quyền một khoản phí tương đương 2 phần trăm, không phải 7 phần trăm để tham gia vào chương trình khách hàng thân thiết của hệ thống nhượng quyền 37

Điều khoản cam kết chấp nhận sửa đổi liên quan đến hệ thống nhượng quyền mà bên nhượng quyền đưa ra ở trên không quy định cho phép bên nhượng quyền được đơn phương đưa ra một khoản phí mới cao hơn thỏa thuận ban đầu của hai bên Hơn nữa, tòa án đồng ý với bên nhận quyền rằng sửa đổi này không được coi là sửa đổi quy định trong hệ thống nhượng quyền theo như thỏa thuận đã cam kết của các bên mà là sự sửa đổi điều khoản quan trọng của hợp đồng và cần có sự đồng ý của bên nhận quyền trước

36 Theo thỏa thuận ban đầu, bên nhận quyền chấp nhận tham gia chương trình khuyến mãi của hệ thống với các quy định yêu cầu bên nhận quyền phải trả cho bên nhượng quyền hai phần trăm (2%) số tiền phòng và giảm giá mười phần trăm (10%) tiền phòng cho khách hàng tham gia chương trình

37

Xem chú thích số 34, tr 11-12 (Nguyên văn bằng tiếng Anh được cung cấp trong phần Phụ lục 2)

Trang 39

khi được tiến hành Với các lý do nêu trên, Tòa án liên bang South Dakota đưa ra kết luận rằng bên nhượng quyền đã vi phạm hợp đồng và yêu cầu của bên nhượng quyền

áp đặt một khoản phí mới cao hơn thỏa thuận ban đầu của hai bên lên bên nhận quyền

là không phù hợp (impermissible) và không được chấp nhận

Một số vụ tranh chấp khác lại được Tòa xem xét trên cơ sở “sửa đổi hợp lý” và

“thiện chí” Điển hình tại tranh chấp Beilowitz v General Motors Corp.,38

hợp đồng nhượng quyền thương mại giữa hai bên có thỏa thuận cho phép bên nhận quyền được phân phối sản phẩm của General Motors không giới hạn trong bất kỳ địa giới hành chính nào trong thời hạn hai mươi năm Đến năm 2002, bên nhượng quyền tiến hành một chiến lược marketing mới và yêu cầu hạn chế lại phần địa giới hành chính bên nhận quyền được phép kinh doanh Quyết định sửa đổi của bên nhượng quyền theo như nhận định của Tòa liên bang tại New Jersey là không hợp lý vì quy định mới này yêu cầu bên nhận quyền phải hy sinh khoản lợi nhuận về doanh số tương đương 1 triệu đô

la và chấp nhận khoản thiệt hại từ 1 đến 1,6 triệu đô la để áp dụng chương trình mới của bên nhượng quyền trong vòng ba năm đầu

Đây rõ ràng là một „quy định không hợp lý‟ theo Đạo luật của bang New Jersey về hoạt động kinh doanh nhượng quyền thương mại [NJFPA] khi yêu cầu một bên nhận quyền tiến hành kinh doanh với những thiệt hại về tài chính trên thực tế để bên nhượng quyền thực hiện một chiến lược marketing mới và chưa được kiểm chứng”.39

Do vậy, căn cứ vào quy định hạn chế các sửa đổi bất hợp lý trong pháp luật của bang (Điều 56:10-7(e) N.J.Stat.Ann.), Tòa quyết định rằng yêu cầu sửa đổi quy định trong hệ thống nhượng quyền của General Motors Corp dẫn đến hệ quả làm thiệt hại

về mặt tài chính cho bên nhận quyền là không hợp lý và không được chấp nhận.40

38 Beilowitz v General Motors Corp., 233 F Supp 2d 631, 643-44 (D.N.J 2002)

39 Nguyên văn bằng tiếng Anh được cung cấp trong Phụ lục 2

40 Edward Wood Dunham, Kimberly S Toomey, “The Evolution of the Species: Successfully Managing

Franchise System Change”, Franchise Law Journal, Volume 24, Number 4, Spring 2005, tr 237

Trang 40

Tóm lại, như tác giả đã phân tích tại Mục 2.2, do đặc điểm riêng của hệ thống

pháp luật Hoa Kỳ, quy định về pháp luật nhượng quyền thương mại tại các tiểu bang của Hoa Kỳ là khác nhau, từ đó dẫn đến đường lối giải quyết của tòa án trên thực tế là không thể đòi hỏi sự tương đồng một cách tối đa Tuy nhiên, nghiên cứu tìm hiểu thực tiễn giải quyết tranh chấp, tác giả nhận thấy hầu như các quy định pháp luật về hạn chế sửa đổi quy định của hệ thống nhượng quyền trong pháp luật Hoa Kỳ hiện nay chưa được áp dụng thật sự hiệu quả trên thực tế Đa phần các tòa án khi xét xử dạng tranh chấp này phải sử dụng các phân tích về hợp đồng hoặc tư duy từ bản chất của nhượng quyền thương mại để giải quyết vấn đề Một số quy định về thủ tục tiến hành việc sửa đổi theo luật nhượng quyền thương mại bang California tưởng chừng như là hợp lý và

hỗ trợ được cho bên nhận quyền thì cuối cùng lại được Tòa án giải thích theo hướng hoàn toàn khác, mà hướng giải thích này dường như đã đi quá xa so với các quy định pháp luật liên quan và không bảo vệ được quyền lợi cho bên nhận quyền trong trường hợp họ muốn phản đối ý chí áp đặt của bên nhượng quyền Chỉ trong một số tranh chấp gần đây, Tòa án áp dụng các quy định pháp luật New Jersey về “tính hợp lý” và “thiện chí” của yêu cầu điều chỉnh các quy định trong hệ thống nhượng quyền để giải quyết tranh chấp nhượng quyền một cách phù hợp và có hiệu quả Cách giải quyết này theo quan điểm của tác giả là hợp lý và sẽ không dẫn đến nguy cơ làm phát sinh nhiều tranh cãi về sau như hai hướng giải quyết của các Tòa án trên

Một lưu ý nữa là do nhận thức được các quy định của pháp luật Hoa Kỳ hiện nay không thật sự hiệu quả trên thực tế nên trong một số hợp đồng nhượng quyền thương mại tại Hoa Kỳ trong thời gian gần đây đã có các quy định thỏa thuận về việc sửa đổi những quy định của hệ thống nhượng quyền Tuy nhiên đa phần các thỏa thuận này đều hướng đến công nhận cho bên nhượng quyền có toàn quyền quyết định việc sửa đổi trong mọi trường hợp Đây là một thỏa thuận bất lợi cho bên nhận quyền, vì trong điều kiện thời hạn hợp đồng nhượng quyền lâu dài, cam kết này sẽ tạo cơ hội cho

Ngày đăng: 20/04/2021, 22:41

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w