Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau đây: - Phương pháp miêu tả: được sử dụng để miêu tả đặc điểm cấu tạo và định danh của hệ thống thuật ngữ
Trang 1ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
NGUYỄN THỊ KIM ANH
NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM THUẬT NGỮ
Y HỌC CỔ TRUYỀN VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC
Khóa: QH – 2015 - X
Hà Nội, 2017
Trang 2ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
NGUYỄN THỊ KIM ANH
NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM THUẬT NGỮ
Y HỌC CỔ TRUYỀN VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC
Trang 3LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan những vấn đề được trình bày trong bản luận văn, các
số liệu, kết quả và các dẫn chứng là do tôi tự tìm hiểu, có sự tham khảo, sưu tầm và kế thừa những nghiên cứu của các tác giả đi trước
Tôi xin chịu trách nhiệm trước pháp luật về những số liệu và về những nội dung đã được trình bày trong bản luận văn của mình
Hà Nội, ngày 20 tháng 7 năm 2017
TÁC GIẢ
Nguyễn Thị Kim Anh
Trang 4LỜI CẢM ƠN
Tôi xin gửi lòng biết ơn sâu sắc nhất tới thầy PGS TS Hà Quang Năng người đã tận tình hướng dẫn tôi trong suốt quá trình làm luận văn Đồng thời, tôi cũng xin gửi lời cảm ơn trân trọng nhất tới các thầy cô, bạn bè, đồng nghiệp và gia đình, đã quan tâm đóng góp ý kiến, động viên, khích lệ tôi
Luận văn của tôi chắc chắn còn nhiều thiếu sót, tôi rất mong được sự góp ý của các thầy cô, bạn bè, những người quan tâm đến vấn đề này để nội dung của luận văn được hoàn thiện hơn
Hà Nội, ngày 20 tháng 7 năm 2017
TÁC GIẢ
Nguyễn Thị Kim Anh
Trang 5MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
1 Lý do chọn đề tài 1
2 Lịch sử vấn đề 3
3 Mục đích nghiên cứu 4
4 Đối tượng, nhiê ̣m vu ̣ nghiên cứu 4
5 Tư liê ̣u và phương pháp nghiên cứu 4
6 Ý nghĩa và đóng góp của luận văn 5
7 Cấu trúc của luận văn 5
NỘI DUNG 6
Chương 1 MỘT SỐ CƠ SỞ LÍ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 6
1.1 Khái niệm thuật ngữ và những vấn đề có liên quan 6
1.1.1 Khái niệm thuật ngữ 6
1.1.2 Phân biệt thuật ngữ và danh pháp 9
1.1.3 Đặc điểm của thuật ngữ và những yêu cầu khi xây dựng thuật ngữ 12
1.1.4 Định danh ngôn ngữ và vấn đề xây dựng thuật ngữ 18
1.2 Tình hình nghiên cứu thuật ngữ trên thế giới và ở Việt Nam 19
1.3 Tổng quan về Y học cổ truyền Việt Nam và thuật ngữ Y học cổ truyền Việt Nam 24
1.3.1 Tổng quan về Y học cổ truyền Việt Nam 24
1.3.2 Thuật ngữ y học cổ truyền Việt Nam 29
1.3.3 Cách hiểu về thuật ngữ Y học cổ truyền 30
Tiểu kết 30
Chương 2 ĐẶC ĐIỂM CẤU TẠO THUẬT NGỮ Y HỌC CỔ TRUYỀN VIỆT NAM 32 2.1 Nhận diện thuật ngữ y học cổ truyền trong tiếng Việt 32
2.2 Các phương thức tạo thành thuật ngữ y học cổ truyền Việt Nam 34
2.2.1 Thuật ngữ hóa từ thông thường 35
2.2.2 Sao phỏng 35
2.2.3 Vay mượn thuật ngữ y học cổ truyền nước ngoài 35
2.3 Đặc điểm cấu tạo của thuật ngữ y học cổ truyền Việt Nam 36
2.3.1 Ngữ tố 36
2.3.2 Các kiểu cấu tạo thuật ngữ y học cổ truyền Việt Nam 37
Tiểu kết 50
CHƯƠNG 3 ĐẶC ĐIỂM ĐỊNH DANH CỦA THUẬT NGỮ Y HỌC CỔ TRUYỀN VIỆT NAM 53
Trang 63.1 Đặt vấn đề 53
3.2.1 Vấn đề định danh ngôn ngữ 55
3.2.2 Những đặc điểm cơ bản về định danh của thuật ngữ y học cổ truyền 56
3.2.3 Nội dung biểu đạt của các thuật ngữ y học cổ truyền 58
3.3 Các nội dung ngữ nghĩa của thuật ngữ y học cổ truyền Việt Nam 59
3.3.1 Các nhóm biểu thị cơ bản của thuật ngữ y học cổ truyền 59
3.3.2 Tên các loại bệnh, đối tượng, bộ phận cơ thể, thể bệnh 61
3.3.3 Trạng thái bệnh lý, phép điều trị, hội chứng, biểu hiện diễn biến của bệnh, nguyên nhân gây bệnh, thể chứng, huyệt mạch 61
3.3.4 Dụng cụ, y cụ, tính vị thuốc y học cổ truyền 63
3.4 Các đặc trƣng định danh của thuật ngữ y học cổ truyền Việt Nam 67
Tiểu kết 72
KẾT LUẬN 75
TÀI LIỆU THAM KHẢO 79
Trang 7MỞ ĐẦU
1 Lý do chọn đề tài
Cùng với sự phát triển của xã hội, tiếng Việt cũng phát triển mạnh mẽ, toàn diện Như một đòi hỏi khách quan và cũng là tất yếu của sự phát triển ngôn ngữ, một hệ thuật ngữ khoa học tiếng Việt ra đời, để đáp ứng nhu cầu giáo dục đào tạo và nghiên cứu khoa học Cũng vì thế, thuật ngữ là một trong những lĩnh vực trở thành đối tượng nghiên cứu cần thiết của Việt ngữ học
Việc xây dựng, tiếp nhận hệ thuật ngữ là một hoạt động quan trọng và cần thiết trong quá trình phát triển và đào tạo của các ngành khoa học
Cuốn Danh từ y dược Pháp – Việt xuất bản năm 1963, bước đầu đã đúc
kết được công tác xây dựng thuật ngữ y học kể từ Cách mạng tháng Tám năm
1945 và cả trước năm 1945 Kể từ khi cuốn Danh từ y học của tác giả Bác sĩ
Phạm Khắc Quảng và Lê Khắc Thiền ra đời, năm 1973 và năm 1976 cuốn Từ điển Y Dược được chỉnh lý bổ sung và xuất bản, đến nay, thuật ngữ khoa học, công nghệ nói chung và thuật ngữ y học nói riêng đã có những bước tiến bộ đáng kể
Từ trước đến nay, nói đến xây dựng, phát triển thuật ngữ, người ta đề cập đến nhiều con đường như: phiên âm, chuyển dịch, tiếp nhận thuật ngữ tiếng nước ngoài, cấu tạo thuật ngữ mới theo con đường hình thái cú pháp hoặc phái sinh ngữ nghĩa, chuyển chức năng – ngữ nghĩa Trong đó, con đường cấu tạo thuật ngữ mới có ý nghĩa quan trọng, vì nó sử dụng chất liệu ngôn ngữ dân tộc Chính vì vậy, việc đi sâu nghiên cứu các phương thức cấu tạo của hệ thuật ngữ Y học cổ truyển trong tiếng Việt là rất cần thiết, góp phần vào quá trình xây dựng và chuẩn hóa hệ thuật ngữ nói chung và hệ thuật ngữ Y học cổ truyền nói riêng, theo phương châm khoa học, quốc tế và dân tộc Mặt khác, hiểu rõ các đặc điểm cấu tạo của hệ thuật ngữ Y học cổ truyền tiếng Việt, cũng sẽ khẳng định vai trò của tiếng Việt trong lĩnh vực khoa học, góp phần vào quá trình truyền bá tri thức, phát triển khoa học ở Việt Nam
Trang 8Y học cổ truyền là một kho báu quý giá, mà nhân dân ta có được trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc và phát triển văn hóa Đó là thành quả của việc học hỏi, nghiên cứu Y học cổ truyền Trung Hoa của những nhà Nho Việt Nam, để chữa bệnh và làm thuốc phục vụ nhân dân
Thuật ngữ Y học cổ truyền là nguồn cung cấp lượng từ vựng và thuật ngữ về y học cổ truyền một cách cơ bản nhất, nhằm củng cố, chính xác hóa, nâng cao các kĩ năng đọc, hiểu và dịch các tài liệu y học cổ truyền được viết bằng tiếng Anh
Trong quá trình học tập, nghiên cứu và giảng dạy tiếng nước ngoài, tác giả nhận thấy những khó khăn của người học trong việc nhận biết, ghi nhớ và sử dụng thuật ngữ Khắc phục được khó khăn này, sẽ giúp cho người dạy và người học nắm bắt được quy luật, cấu tạo thuật ngữ, những đặc điểm trong tư duy ngôn ngữ của mỗi dân tộc
Là một giảng viên dạy ngôn ngữ tiếng Anh, trong một đơn vị đào tạo chuyên ngành về Y học cổ truyền hàng đầu cho cả nước, chúng tôi nhận thấy việc nâng cao kiến thức chuyên ngành về Y học cổ truyền là một điều hết sức hữu ích, không chỉ đối với những người dạy và học tiếng Anh chuyên ngành y học cổ truyền, mà cả đối với những người dạy và học tiếng Anh ở những chuyên ngành khác, để họ có thể mở rộng và nâng cao kiến thức của mình
Với những lí do trên, vấn đề “Nghiên cứu đặc điểm thuật ngữ y học cổ truyền Việt Nam” được chúng tôi chọn làm đề tài luận văn Thạc sĩ chuyên
ngành Ngôn ngữ học Trên cơ sở nghiên cứu các tài liệu có liên quan, các công trình nghiên cứu khoa học, kế thừa và vận dụng các thành quả nghiên cứu của các tác giả đi trước Đồng thời, căn cứ vào thực tế nghiên cứu, tác giả
đã nhận diện được, thấy các phương thức, các đặc điểm, các cấu tạo của thuật ngữ Qua đó nhận thấy ý nghĩa to lớn của thuật ngữ y học cổ truyền, để phục
vụ nhu cầu học tập và nghiên cứu khoa học, đáp ứng kịp tốc độ phát triển của khoa học kĩ thuật nước nhà và thế giới
Trang 92 Lịch sử vấn đề
Những thập niên cuối thế kỉ XX và những năm đầu thế kỉ XXI, là thời
kì phát triển mạnh mẽ nhất của thuật ngữ tiếng Việt Trong bối cảnh đất nước
ta chuyển từ nền kinh tế bao cấp sang nền kinh tế thị trường theo định hướng
xã hội chủ nghĩa, trong xu thế mở cửa hội nhập với không gian kinh tế khu vực và toàn cầu, trong điều kiện sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ trên thế giới, tiếng Việt đã không ngừng phát triển theo hướng hiện đại hóa, mở rộng chức năng, mở rộng phạm vi hoạt động
Trong lịch sử hiện đại, nước ta đã từng có bốn lần tiếng Việt đứng trước yêu cầu phát triển nhanh chóng, để phù hợp với sự chuyển mình của xã hội Việt Nam Lần thứ nhất là đầu thế kỉ XX, tiếng Việt đã có sự phát triển rất mạnh về từ vựng và cả một phần cú pháp Đặc biệt, trong thời kì này thuật ngữ khoa học bắt đầu được hình thành, chữ Quốc ngữ được truyền bá rộng rãi Lần thứ hai là sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, tiếng Việt giữ vai trò ngôn ngữ quốc gia Lần thứ ba là những năm 60 của thế kỉ XX, tiếng Việt bắt đầu bước vào quá trình hiện đại hóa Trong hoàn cảnh đó, hệ thống thuật ngữ
đã có những phát triển vượt bậc Ở thời kì này, Uỷ ban Khoa học kĩ thuật Nhà nước đã tổ chức biên soạn một loạt các từ điển đối dịch thuật ngữ cho hầu hết các ngành khoa học tự nhiên, khoa học kĩ thuật và khoa học xã hội Lần thứ tư
là sau năm 1975, đất nước thống nhất, tiếng Việt đã không ngừng phát triển theo hướng hiện đại hóa, mở rộng chức năng, mở rộng phạm vi hoạt động Trong giai đoạn này các từ điển thuật ngữ phát triển rầm rộ Theo thống kê của tác giả Chu Bích Thu, tính từ năm 1994 đến tháng 6 năm 1999, trong số
188 cuốn từ điển song ngữ đã được biên soạn, thì có tới 55 cuốn là từ điển đối dịch thuật ngữ… Qua bốn lần thay đổi, thuật ngữ tiếng Việt đã có những bước phát triển nhanh chóng cả về số lượng và chất lượng
Để tiếng Việt tiếp tục phát triển lên một tầm cao mới, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, chúng ta cần định ra chiến lược phát triển hợp lí, trong đó đặc biệt chú trọng đến việc xác định các
Trang 10nguyên tắc xây dựng và chuẩn hóa hệ thống thuật ngữ, đáp ứng kịp tốc độ phát triển của khoa học kĩ thuật nước nhà và thế giới
3 Mục đích nghiên cứu
Làm sáng tỏ đặc điểm về phương diê ̣n cấu ta ̣o, đặc điểm định danh của
hê ̣ thống thuâ ̣t ngữ y học cổ truyền trong tiếng Việt
4 Đối tượng, nhiê ̣m vu ̣ nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu hê ̣ thuâ ̣t ngữ y học cổ truyền tiếng Viê ̣t
4.2 Nhiê ̣m vụ nghiên cứu
- Hê ̣ thống hóa các quan điểm lý luâ ̣n về thuâ ̣t ngữ khoa ho ̣c trên thế giới và ở Viê ̣t Nam, qua đó xác lâ ̣p cơ sở lí luận cho việc nghiên cứu
- Phân tích đă ̣c điểm cấu ta ̣o , xác định các l oại mô hình kết hợp các ngữ tố để tạo thành thuật ngữ y học cổ truyền tiếng Viê ̣t
- Tìm hiểu đặc điể m đi ̣nh danh của thuâ ̣t ngữ y h ọc cổ truyền trong tiếng Viê ̣t về các mă ̣t: con đường hình thành, kiểu ngữ nghĩa và đă ̣c điểm cách thức biểu thi ̣ của thuâ ̣t ngữ
5 Tư liê ̣u và phương pháp nghiên cứu
5.1 Tư liê ̣u nghiên cứu
- Cuốn Danh từ thuật ngữ y – dược cổ truyền của tác giả Hoàng Bảo
Châu, Nguyễn Đức Đoàn, Nhà xuất bản Y học năm 2007 gồm 1857 thuật ngữ phần y học [63]
- Bài giảng Y học cổ truyền, tập 1 của tác giả Trần Thúy, Nhà xuất bản
Y học [64]
Ngoài ra, các thuật ngữ còn được thu thập từ những giáo trình y học cổ truyền học bằng tiếng Việt
5.2 Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau đây:
- Phương pháp miêu tả: được sử dụng để miêu tả đặc điểm cấu tạo và định danh của hệ thống thuật ngữ Y học cổ truyền tiếng Việt hiện nay
Trang 11- Phương pháp phân tích theo thành tố trực tiếp : được sử dụng để phân tích và miêu tả cấu trúc của thuâ ̣t ngữ Y học cổ truyền tiếng Viê ̣t theo các ngữ tố
- Phương pháp thống kê: được sử dụng để xác định số lượng thuật ngữ theo các ti ểu loại cấu tạo và kiểu định danh…, trên cơ sở đó luận văn rút ra các nhận xét mang tính định chất về từng khía cạnh được nghiên cứu của các thuật ngữ y học cổ truyền tiếng Việt Chúng tôi dựa vào cuốn Danh từ thuật ngữ Y – Dược cổ truyền làm tư liệu để triển khai các phương pháp trên
6 Ý nghĩa và đóng góp của luận văn
Có thể coi đây là sự thể nghiệm ban đầu nghiên cứu về vấn đề cấu tạo
và định danh thuật ngữ Y học cổ truyền trong tiếng Việt Luận văn đưa ra được danh sách các ngữ tố khác nhau để trả lời cho các câu hỏi: Hệ thuật ngữ
Y học cổ truyền trong tiếng Việt được tạo thành từ những ngữ tố nào và đặc điểm định danh của nó
7 Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, luận văn gồm có 03 chương, cụ thể như sau:
Chương 1: Một số cơ sở lí luận liên quan đến đề tài
Chương 2: Đặc điểm cấu tạo thuật ngữ Y học cổ truyền Việt Nam Chương 3: Đặc điểm định danh của thuật ngữ Y học cổ truyền Việt Nam
Trang 12NỘI DUNG Chương 1 MỘT SỐ CƠ SỞ LÍ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1 Khái niệm thuật ngữ và những vấn đề có liên quan
1.1.1 Khái niệm thuật ngữ
Lịch sử thuật ngữ được hình thành, phát triển không ngừng cùng với sự phát triển của các ngành khoa học và thu hút được sự quan tâm của các nhà ngôn ngữ học trên thế giới, cũng như ở Việt Nam Cùng với sự phát triển của các ngành khoa học, khối lượng các thuật nhữ ngày càng tăng lên Tuy nhiên, hiểu thế nào là thuật ngữ lại là vấn đề không đơn giản Hiện nay, trong ngôn ngữ học có một số lượng vô cùng lớn các định nghĩa khác nhau về thuật ngữ, thậm chí “về điều này có thể viết cả một cuốn sách”
Ở Việt Nam ta, các nhà ngôn ngữ học cũng hết sức quan tâm đến lĩnh vực thuật ngữ và đã đưa ra những định nghĩa khác nhau về thuật ngữ
Công trình “Sự phát triển của từ vựng nửa sau thế kỉ XX” (Hà Quang
Năng chủ biên, 2009) đã dành một chương nghiên cứu về thuật ngữ tiếng Việt, chỉ rõ những chặng đường phát triển của tiếng Việt và thuật ngữ tiếng Việt, nêu rõ những con đường hình thành thuật ngữ tiếng Việt cũng như những giải pháp cụ thể trong việc tiếp nhận thuật ngữ nước ngoài vào tiếng Việt [35]
Tác giả Đỗ Hữu Châu cho rằng thuật ngữ không chỉ biểu thị một khái niệm khoa học, mà còn chỉ tên một sự vật, một hiện tượng khoa học nhất định Thuật ngữ là những từ chuyên môn được sử dụng trong phạm vi một ngành khoa học, một nghề nghiệp hoặc một ngành kĩ thuật nào đấy Có thuật ngữ của ngành vật lí, hoá học, toán học, thương mại, ngoại giao v.v Sau này, năm 1981, ông nhấn mạnh hơn nữa chức năng của thuật ngữ: “Thuật ngữ khoa học, kĩ thuật bao gồm các đơn vị từ vựng dùng để biểu thị những sự vật, hiện tượng, hoạt động, đặc điểm trong những ngành kĩ thuật công nghiệp và trong những ngành khoa học tự nhiên hay xã hội” [6, tr.221- 222]
Trang 13Còn tác giả Hoàng Văn Hành đã chỉ rõ tính xác định của khái niệm mà thuật ngữ biểu thị trong hệ thống những khái niệm của một ngành khoa học nhất định: “Thuật ngữ là những từ ngữ dùng để biểu thị một khái niệm xác định thuộc hệ thống những khái niệm của một ngành khoa học nhất định Toàn bộ hệ thống thuật ngữ của các ngành khoa học hợp thành vốn thuật ngữ của ngôn ngữ” [20]
Theo Từ điển Tiếng Việt của tác giả Nguyễn Như Ý thì: “Thuật ngữ là
từ ngữ biểu thị một khái niệm xác định thuộc hệ thống những khái niệm của một ngành khoa học nhất định; còn gọi là danh từ khoa học, chuyên ngữ, chuyên danh: thuật ngữ toán học, thuật ngữ văn học” [61]
Định nghĩa thuật ngữ do Viện sĩ Vinogradov đưa ra được coi là một định nghĩa rất cơ bản và tin cậy trong giới thuật ngữ học Xô Viết: “Thuật ngữ không gọi tên khái niệm như một từ thông thường mà khái niệm được quy vào nó như thể khái niệm bị áp đặt vào thuật ngữ Và trong các từ điển, thuật ngữ không được giải thích mà chính là định nghĩa” [57, tr.13]
Qua các phân tích trên thì chúng tôi cho rằng: Thuật ngữ là những từ ngữ dùng để biểu thị một khái niệm xác định thuộc hệ thống những khái niệm của một ngành khoa học nhất định Toàn bộ hệ thống thuật ngữ của ngành khoa học hợp thành vốn thuật ngữ của ngôn ngữ
- Một số nhà ngôn ngữ học khác lại định nghĩa thuật ngữ nghiêng về chức năng của thuật ngữ Tác giả Gerd đã định nghĩa thuật ngữ như sau:
“Thuật ngữ là một đơn vị từ vựng - ngữ nghĩa có chức năng định nghĩa và được khu biệt một cách nghiêm ngặt bởi đặc trưng tính hệ thống, tính đơn nghĩa” [11, tr.3]
Việc các nhà nghiên cứu cho rằng thuật ngữ có chức năng gọi tên, đã gây nên một cuộc tranh luận trong giới ngôn ngữ học
Tác giả Reformatxkij nhận định rằng: “Chức năng định danh, đó là chức năng chung của tất cả các từ và vì vậy, nó không thể được đưa ra hàng chủ yếu khi xác định đặc điểm của thuật ngữ” [41, tr.133]
Trang 14Chúng tôi thấy trong số những từ trọn nghĩa, thuật ngữ là những từ đặc biệt về mặt ý nghĩa và cách dùng, vì rằng bên cạnh chức năng định danh (chức năng biểu thị các ý niệm này kia) mà những từ khác trong ngôn ngữ đảm nhiệm, thì chúng còn nổi bật lên chức năng định nghĩa của chúng nữa
Còn tác giả Vinogradov cũng đồng tình cho rằng thuật ngữ không chỉ đảm nhận chức năng định danh mà quan trọng là đảm nhận chức năng định nghĩa: “Từ đảm nhiệm chức năng định danh hay chức năng định nghĩa, tức là hoặc nó là phương tiện biểu thị rõ ràng và bấy giờ thì nó là một kí hiệu giản đơn, hoặc là một đơn vị định nghĩa theo lôgic, bấy giờ thì nó là một thuật ngữ” [57]
Dựa vào tư tưởng của các nhà ngôn ngữ, Vinogradov và Kapatnadze đã nhấn mạnh vai trò đặc biệt của thuật ngữ như sau: “Thuật ngữ không gọi tên khái niệm như từ thông thường mà là khái niệm được gán cho nó, giống như định nghĩa về nó Ý nghĩa của thuật ngữ là định nghĩa khái niệm, là cái định nghĩa được gán cho nó” [21, tr.136]
- Cách định nghĩa thuật ngữ từ góc độ “ký hiệu học” (semiotika): theo quan điểm của kí hiệu học thì thuật ngữ là kí hiệu – biểu đạt, được sử dụng như yếu tố của một mô hình kí hiệu thuộc một lĩnh vực tri thức hay hoạt động chuyên môn nhất định Các định nghĩa này cho phép đối lập thuật ngữ với các yếu tố từ vựng khác của ngôn ngữ tự nhiên mà không phải là thuật ngữ và các yếu tố từ vựng của ngôn ngữ nhân tạo
- Cách định nghĩa thuật ngữ từ góc độ “ngôn ngữ học”: Thực tế là phần lớn các đơn vị từ vựng được xem là thuật ngữ, đã trở thành như thế, được thu hút vào hệ thống thuật ngữ, là từ phạm vi từ vựng không chuyên biệt Cho nên một đơn vị từ vựng có thể tồn tại trong ngôn ngữ vừa như một thuật ngữ
vừa như một từ -phi thuật ngữ (netermin), ví dụ: nos (mũi người) – nos (mũi
tàu), passage (hành lang bán hàng) - passage (nét lướt, trong âm nhạc), nisha (cái hốc trên tường) – nisha (lỗ hổng, về môi trường)…[34, tr.2]
Trang 15- Đáng chú ý hơn cả là cách xác định theo “thuật ngữ học” đã định nghĩa thuật ngữ như sau: “Thuật ngữ là đơn vị từ vựng của một ngôn ngữ nhất định (dùng) cho những mục đích chuyên biệt, biểu đạt khái niệm chung - cụ thể hay trừu tượng, của lý thuyết thuộc một lĩnh vực chuyên môn nhất định của các tri thức hay hoạt động” Trong định nghĩa vừa nêu có nhấn mạnh mấy điểm quan trọng nhất như sau:
1) Thuật ngữ có tất cả các đặc trưng ngữ nghĩa và hình thức của từ và cụm từ của ngôn ngữ tự nhiên;
2) Thuật ngữ như ta thấy hiện diện chính là trong vốn từ vựng của các ngôn ngữ dùng cho những mục đích chuyên biệt, chứ không phải trong vốn từ vựng của một ngôn ngữ tự nhiên nào đó nói chung;
3) Trong vốn từ vựng của các ngôn ngữ dùng cho những mục đích chuyên biệt, thuật ngữ phục vụ với tư cách là phương tiện biểu đạt các khái niệm chuyên môn chung – là kết quả của sự tri nhận trong những phạm vi chuyên môn của các tri thức và (hay) hoạt động;
4) Thuật ngữ là yếu tố của các hệ thống thuật ngữ phản ánh (mô hình hóa) các lý thuyết mà nhờ các lý thuyết này miêu tả được các lĩnh vực chuyên môn – tức là các đối tượng của các ngôn ngữ dùng cho những mục đích chuyên biệt [12, tr.2]
Tóm lại, cách định nghĩa thuật ngữ từ góc độ thuật ngữ học xuất phát từ chỗ rằng: thuật ngữ là một đối tượng đặc biệt, khác với từ và cụm từ như là đối tượng của ngôn ngữ học Và mặc dù trong đa số trường hợp thuật ngữ học xem xét cũng các đơn vị từ vựng đó như là ngôn ngữ học, nhưng ở thuật ngữ
có những đặc trưng khác Đối với thuật ngữ có những yêu cầu chuẩn mực khác với những yêu cầu mà ngôn ngữ học đòi hỏi ở các đơn vị từ vựng khác
Và chỉ trong ý nghĩa đó có thể nói rằng: thuật ngữ - đó là những từ đặc biệt
1.1.2 Phân biệt thuật ngữ và danh pháp
Khi bàn về mối quan hệ giữa thuật ngữ và danh pháp, các nhà ngôn ngữ học đều cho rằng giữa thuật ngữ và danh pháp có sự khác biệt rõ ràng
Trang 16Danh pháp là một hệ thống các phù hiệu hoàn toàn trừu tượng và ước
lệ, mà mục đích duy nhất là ở chỗ cấp cho ta cái phương tiện thuận lợi nhất về mặt thực tiễn để gọi tên các đồ vật, các đối tượng không quan hệ trực tiếp với những đòi hỏi của tư duy lí luận hoạt động với những sự vật này
Tác giả Palamarchuk đã đi theo quan điểm này và chỉ rõ sự khác biệt giữa thuật ngữ và danh pháp:
Hệ thuật ngữ trước hết gắn với một hệ thống khái niệm của một khoa học cụ thể, còn danh pháp chỉ “dán nhãn hiệu hóa” cho đối tượng của khoa học mà thôi Vì vậy, danh pháp có thể coi là thể liên tục của các chữ cái (Vitamin A, Vitamin B…) hay là thể liên tục của các con số (MÁC 5, MÁC 8), và của mọi thứ dấu hiệu có tính cách ước lệ, tùy tiện khác, danh pháp không có tương quan giữa các khái niệm của khoa học Vì vậy, danh pháp không tiêu biểu cho hệ khái niệm của khoa học [38, tr.89-90]
So với hệ thuật ngữ, danh pháp là một phạm trù mới hơn rất nhiều Danh pháp của một ngành bất kì trong lịch sử tự nhiên cũng đều là một tập hợp các tên gọi các loại (hay tiểu loại) của ngành đó Khi chúng đã trở nên một tập hợp tương đối lớn, chúng phải được tổ chức một cách thật đặc biệt Tính khái niệm là đặc trưng quan trọng nhất của thuật ngữ Tính khái niệm ở danh pháp không thật rõ rệt như ở thuật ngữ Cái quan trọng đối với danh pháp là tính vật chất, hay tính đối tượng của nó, tùy thuộc vào các đặc trưng đối tượng đã gọi tên”
Ở Việt Nam sự phân biệt giữa thuật ngữ và danh pháp cũng là vấn đề được các nhà ngôn ngữ học quan tâm
Tác giả Nguyễn Như Ý cho rằng: “Danh pháp là những quy tắc đặt tên trong một nền khoa học hay tổng thể những tên gọi biểu đạt những sự vật đơn nhất, không gắn với hệ thống khái niệm của một khoa học cụ thể mà chỉ dán nhãn cho đối tượng của nó” [59, tr.235]
Nguyễn Thiện Giáp cho rằng: “Hệ thuật ngữ trước hết gắn liền với hệ thống các khái niệm của một khoa học nhất định Còn danh pháp là toàn bộ
Trang 17những tên gọi được dùng trong một ngành chuyên môn nào đó, nó không gắn trực tiếp với các khái niệm của khoa học này mà chỉ gọi tên các sự vật trong khoa học đó mà thôi” [13, tr.270] Ông cũng quan niệm rằng:
Về mặt chức năng, danh pháp giống với các tên riêng Về bản chất, danh pháp là tên riêng của các đối tượng Nếu như ở thuật ngữ, người ta nhấn mạnh chức năng định nghĩa của nó thì đối với danh pháp, chức năng gọi tên mới là quan trọng Thuật ngữ có thể được cấu tạo trên cơ sở các từ hoặc các hình vị có ý nghĩa sự vật cụ thể Nội dung của thuật ngữ ít nhiều tương ứng với ý nghĩa của các từ tạo nên chúng Còn danh pháp có thể được quan niệm
là một chuỗi kế tiếp nhau của các chữ cái (VitaminA, VitaminB v.v ) là một chuỗi các con số (MA 65, TU 104, MA 68) hay bất kì cách gọi tên võ đoán nào [13, tr.270]
Nguyễn Thiện Giáp cũng đưa ra một sơ đồ về vị trí thuật ngữ trong mối liên quan với từ và danh pháp như sau: Tín hiệu - danh pháp - thuật ngữ - từ [13, tr.271]
Nhìn sơ đồ, ta có thể thấy rằng thuật ngữ gần với từ hơn và chúng là những từ và cụm từ cố định, là tên gọi chính xác của các loại khái niệm và các đối tượng thuộc các lĩnh vực chuyên môn khác nhau; còn danh pháp gần với tín hiệu, là toàn bộ những tên gọi được dùng trong một ngành chuyên môn nào đó chứ không gắn trực tiếp với khái niệm của khoa học đó
Từ sự phân tích trên, ta có thể thấy sự khác biệt giữa thuật ngữ và danh pháp Tuy nhiên giữa thuật ngữ và danh pháp có tác động qua lại với nhau và
có thể chuyển hóa cho nhau
Tác giả Superanskaja quan niệm rằng: Trong ngôn ngữ, thuật ngữ và danh pháp có các số phận khác nhau Chúng được vay mượn theo các cách khác nhau và được dịch theo các phương thức khác nhau, được thay đổi theo các cách khác nhau vừa do quá trình chuyển hóa tự nhiên, vừa trong quá trình chuyển hóa đặc biệt Thật ra thì, giữa thuật ngữ và danh pháp không có ranh giới tuyệt đối, hai lớp từ vựng này tác động qua lại lẫn nhau, danh pháp, trong
Trang 18những trường hợp nhất định có thể chuyển thành thuật ngữ khi mà nó rơi vào trong hệ thống tự vựng khác Trong quá trình phát triển của nhiều ngành khoa học, các danh pháp riêng lẻ có thể trở thành thuật ngữ và từ chỉ đơn thuần là các đơn vị định danh, chúng đã trở thành các yếu tố của giao tiếp lôgic, tức thành thuật ngữ khoa học Do khả năng gọi tên ở danh pháp lớn hơn ở thuật ngữ, nên, hiển nhiên là các danh pháp có thể đi vào từ vựng một cách dễ dàng, như là một tập hợp các từ sử dụng được một cách tiềm tang [46, tr.161] Như vậy, có thể hiểu rằng, hê ̣ thuâ ̣t ngữ trước hết gắn liền với hê ̣ thống các khái niệm của một khoa học nhất định Còn danh pháp là toàn bộ những tên go ̣i được dùng trong mô ̣t ngành chuyên môn nào đó , nó không gắn trực tiếp với khái niê ̣m của khoa ho ̣c này mà chỉ go ̣i tên các sự vâ ̣t , đối tượng trong khoa ho ̣c đó mà thôi Chẳng hạn, trong y học cổ truyền các đơn vị như:
tâm (tim), thận, thiệt (lưỡi), can (gan), hầu (họng)… là thuật ngữ, cũng như các đơn vị: vọng (nhìn), văn (kể), vấn (hỏi), thiết (sờ, nắn)… còn Viện y học dân tộc… là danh pháp Tuy vậy, giữa thuật ngữ và danh pháp có mối quan hệ
qua lại và có thể chuyển hóa cho nhau
1.1.3 Đặc điểm của thuật ngữ và những yêu cầu khi xây dựng thuật ngữ
Các nhà ngôn ngữ học ở nước ngoài cũng như ở Việt Nam có nhiều quan điểm và ý kiến tranh luận về các đặc điểm của thuật ngữ Ở nước ngoài,
ý kiến về các tiêu chuẩn của thuật ngữ cũng rất khác nhau Chẳng hạn, dựa theo các công trình của nhà thuật ngữ học nổi tiếng Đ.S Lotte và Uỷ ban Khoa học Kĩ thuật thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô trước đây, tác giả S.I Korsunov và G Sumburuva đã nêu ra những yêu cầu sau:
- Trong một ngành không được có thuật ngữ đa nghĩa;
Trang 19vốn từ ngữ cổ truyền… và biến cải, xây dựng lại các thuật ngữ khoa học nhằm làm cho nó dễ hiểu, dễ nhớ
Như vậy, các nhà thuật ngữ học nước ngoài nhấn mạnh đến tính chính xác, tính ngắn gọn, tính hệ thống và tính đơn nghĩa của thuật ngữ và họ coi đấy là những đặc điểm tiêu biểu của thuật ngữ
Ở trong nước, tác giả Hoàng Xuân Hãn là người đầu tiên đưa ra một cách khá đầy đủ và có hệ thống các yêu cầu của một thuật ngữ: Tính chính xác, tính dễ nhớ, tính hệ thống, tính ngắn gọn, tính dân tộc [19, tr.11] Ngoài tính chính xác, tính hệ thống, tác giả Nguyễn Thiện Giáp [12, tr.45] còn chỉ ra thêm một đặc điểm cơ bản nữa của thuật ngữ là tính quốc tế
Các nhà khoa học nước ngoài và trong nước đã nêu rất nhiều đặc điểm của thuật ngữ, như thuật ngữ phải có tính chính xác, tính hệ thống, tính khoa học, tính quốc tế, tính dân tộc, tính đại chúng, tính ngắn gọn, tính đơn nghĩa
Sau đây, chúng tôi đi vào trình bày cụ thể hơn nội dung yêu cầu đối với thuật ngữ Đây chính là cơ sở để chúng ta xem xét, đánh giá việc xây dựng các thuật ngữ Y học cổ truyền tiếng Việt sau này
- Thuật ngữ phải chính xác
Tính chính xác là đặc điểm quan trọng nhất mà thuật ngữ cần phải có Thuật ngữ phải biểu đạt đúng khái niệm khoa học mà không gây nhầm lẫn Một thuật ngữ lí tưởng là thuật ngữ phản ánh được đặc trưng cơ bản, nội dung bản chất của khái niệm, tuy nhiên không thể đòi hỏi thuật ngữ phản ánh đầy
đủ mọi phương diện, mọi khía cạnh của khái niệm
Để có những thuật ngữ chính xác, cần cố gắng sao cho trong nội bộ một ngành khoa học chỉ nên có một thuật ngữ biểu hiện và ngược lại mỗi thuật ngữ chỉ được dùng để biểu hiện một khái niệm, có nghĩa là cần tránh hiện tượng đồng nghĩa Tuy nhiên, chúng ta không thể tuyệt đối hóa nguyên tắc này Có thể có trường hợp do sự phát triển của khoa học mà một thuật ngữ cũ vẫn còn song song tồn tại với thuật ngữ mới một thời gian trước khi bị loại
bỏ, v.v Đồng thời thuật ngữ nên có tính một nghĩa Hiện tượng một nghĩa
Trang 20cũng như việc tránh đồng nghĩa nghĩa là yêu cầu đối với các thuật ngữ cùng thuộc một ngành khoa học, còn giữa các ngành khoa học khác nhau mà đòi hỏi các thuật ngữ phải như vậy thì e không hoàn toàn thực tế Tác giả Nguyễn Đức Tồn còn gợi ý rằng:
Khi giữa các ngành khoa học khác nhau mà có những khái niệm về cơ bản giống nhau thì nên thống nhất dùng chung một thuật ngữ Chẳng hạn,
thuật ngữ function trong ngôn ngữ học thường dùng là chức năng, trong sinh vật học thường dùng là chức năng, trong sinh vật học cũng nên dùng thuật
ngữ ấy mà không nên đặt ra thêm thuật ngữ chức phận dễ gây hiểu lầm là chức vụ con người [51, tr.8]
Muốn có tính chất khoa học thì trước tiên thuật ngữ phải đảm bảo được tính chính xác, rõ ràng trong khoa học Mức chính xác khoa học yêu cầu thuật ngữ phải thể hiện đúng nội dung khái niệm khoa học một cách rõ ràng, rành mạch Một thuật ngữ chính xác tuyệt đối không làm cho người khác nghe hiểu sai hoặc nhầm lẫn từ khái niệm này sang khái niệm khác Tính chính xác của thuật ngữ được thể hiện ở mặt ngữ nghĩa của thuật ngữ Như chúng ta đã biết, trong khoa học các khái niệm, các định luật hay các công thức bắt buộc phải chính xác Trong khoa học không có khái niệm nào được hiểu không rõ ràng Khi nhắc tới khoa học, tính chính xác của thuật ngữ thể hiện ở chỗ nó được xác định theo giới hạn của ngành khoa học sử dụng nó
Muốn giải thích đúng nội dung của thuật ngữ, ta phải có sự hiểu biết tường tận về ngành khoa học có thuật ngữ đó Sử dụng chính xác thuật ngữ không dễ dàng gì đối với những người không phải chuyên môn Muốn làm tốt được điều này, đòi hỏi phải kết hợp chặt chẽ với những nhà chuyên môn thuộc lĩnh vực đó
- Thuật ngữ phải có tính hệ thống
Đặc điểm thứ hai của thuật ngữ là tính hệ thống Ngôn ngữ là một hệ thống tín hiệu Thuật ngữ là một bộ phận của từ vựng, nên thuật ngữ bắt buộc phải mang tính hệ thống Nói đến tính hệ thống của thuật ngữ khoa học kỹ
Trang 21thuật tức là đề cập tới cả hai góc độ nội dung và hình thức Nói cách khác là
hệ thống khái niệm và hệ thống ký hiệu Hơn nữa, mỗi lĩnh vực khoa học đều
có thuật ngữ thường do các chuyên gia đầu ngành của một ngành khoa học nào đó tập hợp rồi định vị trong từ điển thuật ngữ hay các sách tra cứu chuyên ngành Giá trị của thuật ngữ được xác định bởi mối quan hệ của nó với những thuật ngữ khác trong hệ thống ấy
Tính hệ thống là một tiêu chuẩn cần thiết đối với thuật ngữ Vì vậy, nói đến thuật ngữ là phải nói đến tính hệ thống
Các nhà ngôn ngữ học có cách hiểu khác nhau về tính hệ thống của thuật ngữ khoa học Thuật ngữ có tính hệ thống hai mặt: một mặt, nó là yếu tố của hệ thống thuật ngữ, mặt khác, nó lại là yếu tố của hệ thống ngôn ngữ
Còn tác giả Reformatxkij quan niệm rằng: “Những mối liên hệ giữa các khái niệm của hệ thống khái niệm tương ứng phải được phản ánh trong hệ thống thuật ngữ, tức là thuật ngữ của một ngành kiến thức phải có tính hệ thống” [41, tr.8]
Tác giả D.S Lotte cũng có quan điểm: “Nói đến tính chất hệ thống của thuật ngữ khoa học, chúng ta cần phải chú ý đến cả hai mặt: hệ thống thuật ngữ và hệ thống kí hiệu… Nói đến việc xây dựng một hệ thống thuật ngữ khoa học của một ngành nào đó thì không thể không nói đến việc xây dựng một sự tương ứng giữa hệ thống khái niệm và hệ thống kí hiệu” [30, tr.27]
Ở Việt Nam, một số nhà nghiên cứu cho rằng tính hệ thống là một đặc trưng về nội dung, một số khác lại cho đây là tiêu chuẩn về hình thức
Chúng tôi đồng tình với quan điểm cho rằng khi nói đến tính hệ thống của thuật ngữ cần phải chú ý đến cả hai mặt là hệ thống khái niệm (tức là xét
về nội dung) và hệ thống kí hiệu (xét về hình thức)
Theo tác giả Lưu Vân Lăng, khi xây dựng hệ thống thuật ngữ, trước khi đặt hệ thống kí hiệu (về hình thức) cần phải xác định cho được hệ thống khái niệm (về nội dung) của nó Không thể tách rời từng khái niệm ra để đặt thuật
Trang 22ngữ, mà phải hình dung, xác định vị trí của nó trong toàn bộ hệ thống khái niệm [26, tr.427]
Tính hệ thống của các biểu thị trong ngôn ngữ thường được thể hiện rõ ràng qua mối liên hệ liên tưởng và mối quan hệ ngữ đoạn của các tín hiệu trong ngôn ngữ Ví dụ: loạt thuật ngữ ngôn ngữ học được cấu tạo mở đầu
bằng yếu tố âm: âm vị, âm tố, âm tiết, âm đoạn, âm hưởng, âm điệu, âm vực,
v.v…
Như vậy, mỗi thuật ngữ không thể đứng biệt lập, mà bao giờ cũng chiếm một vị trí trong hệ thống khái niệm và là yếu tố của một hệ thống thuật ngữ nhất định Tính hệ thống của thuật ngữ giúp chúng ta có thể hiểu được thuật ngữ một cách chính xác, rõ ràng, do đó phải đặt thuật ngữ trong một hệ thống khái niệm hay một hệ thống thuật ngữ nhất định
- Thuật ngữ phải có tính quốc tế
Theo tác giả Nguyễn Đức Tồn: “Tính quốc tế là đặc điểm thuộc về bản thể của thuật ngữ, bởi vì vốn từ vựng riêng của từng ngôn ngữ mang sắc thái của dân tộc sử dụng ngôn ngữ đó, nhưng khoa học lại thuộc về tài sản tri thức chung của toàn nhân loại” [51, tr.9]
Tác giả Nguyễn Thiện Giáp cho rằng: “Thuật ngữ là bộ phận từ vựng đặc biệt biểu hiện những khái niệm khoa học chung cho những người nói các tiếng khác nhau Vì vậy, sự thống nhất thuật ngữ giữa các ngôn ngữ là cần thiết và bổ ích Chính điều này đã tạo nên tính quốc tế của thuật ngữ” [12, tr.274] Thông thường, khi nói đến tính quốc tế của thuật ngữ, người ta chỉ chú ý tới biểu hiện hình thức cấu tạo của nó: các ngôn ngữ dùng các thuật ngữ
giống hoặc tương tự nhau, cùng xuất phát một gốc chung Ví dụ: Điện thoại,
điện tín, điện tử v.v
Telephon (Pháp), Telephon (Đức), Telephon (Anh),
Theo tác giả Nguyễn Đức Tồn: “Tính quốc tế của thuật ngữ không phải chỉ được thể hiện ở mặt hình thức cấu tạo ngữ âm, mà còn thể hiện ở mặt hình thái bên trong của nó (nghĩa là cách chọn đặc trưng của sự vật, khái niệm…
Trang 23làm cơ sở định danh khi đặt thuật ngữ) [51, tr.9] Nói cụ thể hơn, tính quốc tế
về nội dung của thuật ngữ được thể hiện ở chỗ: cùng một khái niệm hay đối tượng trong một lĩnh vực khoa học, các ngôn ngữ chọn một đặc trưng nào đó
để làm cơ sở định danh và đưa vào thành phần cấu tạo của thuật ngữ làm thành hình thái bên trong của thuật ngữ
Ví dụ cách đặt tên bằng từ thông thường bộ phận của mắt trong các ngôn ngữ sau đây là có tính quốc tế về nội dung: con người - đồng tử - pupil (tiếng Anh) – pupille (tiếng Pháp) Trong ba ngôn ngữ Việt - Anh - Pháp, tên gọi bộ phận này của mắt là “con ngươi”, đều được đặt dựa vào hình ảnh con người in trong đó để gọi tên cho nó Hiện tượng sao phỏng thuật ngữ của các ngôn ngữ biểu hiện rõ nhất tính quốc tế của các thuật ngữ qua việc chọn đặc trưng định danh giống nhau [51, tr.9]
Ví dụ: Tiếng Anh: Liberalization of trade
Tiếng Pháp: Libéraepsation du commerce
Tiếng Việt: Tự do hóa mậu dịch
Trong quá trình chuyển dịch, tiếp thu các hệ thuật ngữ quốc tế nhằm xây dựng và phát triển hệ thuật ngữ tiếng Việt là một việc làm vô cùng ý nghĩa Trong quá trình chuyển dịch đó, chúng ta có thể “gia công” để làm giàu cho hệ thuật ngữ tiếng Việt còn non trẻ nhưng trong mọi trường hợp phải đảm bảo nguyên tắc chính xác, khoa học cho thuật ngữ Nếu vì tính dân tộc đại chúng mà phải chuyển dịch thuật ngữ một cách khiên cưỡng, rườm rà gây khó hiểu, không đảm bảo được tính chính xác khoa học thì nhất thiết chúng ta không làm
Các ngôn ngữ như tiếng Việt, Nhật, Hàn… xây dựng thuật ngữ phần lớn dựa trên cơ sở các yếu tố gốc Hán nên hầu hết các thuật ngữ trong các ngôn ngữ này đều mang yếu tố Hán Trong đó thuật ngữ ngành Y học cổ
truyền đa số mang yếu tố Hán - Việt Ví dụ: can – gan; phế - phổi; chi –
chân, tay…
Trang 24Tóm lại, tính quốc tế của thuật ngữ được thể hiện ở hai mặt: hình thức
và nội dung Mặt hình thức thường được chú ý hơn cả, vì thông thường, khi nói đến tính quốc tế của thuật ngữ, người ta thường chú ý đến mặt biểu hiện hình thức bên ngoài của nó Mặt nội dung tuy khó nhìn thấy hơn nhưng đó mới là biểu hiện phổ biến, căn bản, vì chúng biểu thị các khái niệm khoa học
là tri thức chung của cả nhân loại
- Thuật ngữ phải có tính ngắn gọn Thuật ngữ cũng như các từ thông thường nói chung mang tính chất định danh, một thuật ngữ dài dòng thì thường có tính chất miêu tả hay định nghĩa đối tượng Tính chất dài dòng này làm cho hệ thống kí hiệu của thuật ngữ bị hủy hoại, bị phá vỡ Vì vậy, muốn cho kết cấu của thuật ngữ được chặt chẽ, đảm bảo tính chất định danh của thuật ngữ thì về mặt hình thức, đòi hỏi thuật ngữ phải ngắn gọn, cô đọng
Ví dụ: Nhiệt: nóng (nghĩa thông thường) Trong y học cổ truyền, từ nhiệt có các nghĩa sau:
+ Nhiệt tà, yếu tố gây bệnh, có đặc điểm nóng, tính thăng phát, dễ làm
tổn thương khí, tổn thương tân dịch, tổn thương tâm
+ Một trong bát cương, nhiệt chứng với các triệu chứng chính: mặt đỏ,
mắt đỏ, người nóng thích mát, khát thích uống nước lạnh, nước đái ít, đỏ, phân khô vón, rêu lưỡi vàng khô, mạch sác
+ Một phép điều trị, phép ôn để tán hàn, ôn dương dùng thuốc nhiệt, yếu tố để chữa chứng do hàn gây nên theo ý “hàn giả nhiệt chí”
+ Tính (chất) của thuốc, một trong 4 khí của thuốc, ôn, nhiệt, có gốc từ mùa hạ dùng để tán hàn, ôn dương
1.1.4 Định danh ngôn ngữ và vấn đề xây dựng thuật ngữ
Định danh là gắn cho một kí hiệu ngôn ngữ một khái niệm – biểu niệm phản ánh những đặc trưng nhất định của một biểu vật- các thuộc tính, phẩm chất và quan hệ của các đối tượng và quá trình thuộc phạm vi vật chất và tinh thần, nhờ đó các đơn vị ngôn ngữ tạo thành những yếu tố nội dung của giao
Trang 25tiếp ngôn ngữ Nói một cách ngắn gọn, định danh cách đă ̣t tên go ̣i cho mô ̣t sự
vâ ̣t, hiê ̣n tượng, quá trình, tính chất, v.v…
Khi định danh một sự vật, hiện tượng, tính chất hay quá trình v.v… con người với tư cách là chủ thể định danh tiến hành quan sát, tìm hiểu,vạch ra một bộ phận đặc trưng nào đó có trong nó Nhưng để định danh, người ta chỉ chọn đặc trưng nào là tiêu biểu, dễ khu biệt với đối tượng, tính chất hay quá trình khác v.v và đặc trưng này đã có tên gọi trong ngôn ngữ
Quá trình định danh một sự vật, tính chất hay quá trình gồm hai bước: quy loại khái niệm và chọn đặc trưng khu biệt Nếu một trong hai bước này có
“biến thể” thì vật hay quá trình được định danh sẽ mang tên gọi khác nhau Người ta sử dụng quy tắc cấu tạo từ trong mỗi ngôn ngữ để thao tác với các đơn vị ngôn ngữ biểu thị các đặc trưng định danh đã được lựa chọn để tạo ra các từ hay thuật ngữ
Ví dụ: Bàng quang (loại), thấp nhiệt (đặc trưng định danh); bán thân (loại), bất toại (đặc trưng định danh), v.v…
1.2 Tình hình nghiên cứu thuật ngữ trên thế giới và ở Việt Nam
Trên thế giới, đã có nhiều nhiều công trình nghiên cứu thuật ngữ học
Ở Việt Nam, thuật ngữ khoa học tiếng Việt xuất hiện khá muộn do hậu quả của chế độ phong kiến và chính sách nô dịch văn hoá của thực dân Pháp Cho đến đầu thế kỷ XX, một số học giả Việt Nam đã bắt đầu chú ý đến việc xây dựng thuật ngữ Họ đã phát biểu quan niệm của mình trên các tờ báo xuất bản lúc đó
Vũ Công Nghị cũng phát biểu quan điểm tương tự trong bài viết của
mình “tiếng An – Nam có nghèo không?” đăng trên báo Nam phong số 59 năm 1922 Năm 1924 trên báo Hữu thanh số 15 năm 1922 trong bài “Về sự
dịch tiếng hóa học” Nguyễn Ứng cũng dựa vào tiếng Hán để đặt những thuật
ngữ hóa học Ví dụ: acide sulfurique (SO4H2) - lưu toan
acide sulfurenx (SO3H2) - lưu toan bạc
acide persulfurique - lưu toan quá
Trang 26Theo tác giả, không mượn tiếng Pháp được vì tiếng Pháp là tiếng có nhiều vần, có nhiều chỗ ta khó đọc, mà nên mượn chữ nho (tức chữ Hán), vì về triết học, kĩ nghệ Tầu dịch đúng và gần đủ, tiếng Tầu đồng chủng với tiếng ta
Trái lại, tác giả Nguyễn Văn Thịnh lại không tán thành quan niệm dùng chữ Hán để đặt thuật ngữ hóa học Ông nói rằng: “Nếu ta cứ mượn chữ Hán thì ngày kia thông dụng đã quen rồi, muốn sửa ắt là bất tiện” Học giả này chủ trương mượn tiếng Latin hay Hylạp như các tiếng trong thế giới mà phiên âm ra” chỉ không mượn tiếng Pháp, vì tiếng Pháp cũng mượn tiếng Latin hay Hy lạp, ta nên đi tới cội nguồn phải tốt hơn
Cho đến những năm 30, khi Đảng ta ra đời và lãnh đạo cách mạng Việt Nam, lúc này phong trào cách mạng nêu cao chủ trương đúng đắn “tranh đấu
vì tiếng nói, chữ viết” thì thuật ngữ khoa học mới dần dần đi vào tiếng ta Những thuật ngữ này lúc đầu chủ yếu là về khoa học xã hội, đặc biệt là về chính trị và triết học, về sau mới phát triển sang các ngành khoa học khác Đối với các mảng thuật ngữ khoa học kĩ thuật thì lúc đó “khoa học tạp chí” (1931 – 1933) đã có những đóng góp nhất định Lúc này, khuynh hướng chủ yếu là tiếp nhận dưới dạng phiên âm một số ít thuật ngữ của tiếng Hán và tiếng Pháp
Chẳng hạn, trên khoa học tạp chí số 39 năm 1932 tác giả Lê Văn Kim
đã phát biểu chủ trương “dùng ý nghĩa chữ Pháp mà dịch bằng chữ nho cho gọn gàng, đủ ý, nếu dịch ra được tiếng Nôm hay cho tiếng Pháp mà dịch vần gọn được vừa càng hay” Theo ông, đối với môn hóa học thì “bây giờ chúng
ta đang ở vào cái thời kì học theo, chỉ có phận sự dịch thuật, chưa tới trình độ đặt tên, thế thì cái phép tắc đặt tên ta chưa cần biết vội”
Khoảng hơn mười năm sau kể từ khi tờ Khoa học tạp chí ra đời, việc
đặt thuật ngữ mới được các nhà khoa học chú ý và phát biểu trong tờ Khoa học (1942-1943) Chúng tôi xin dẫn một vài ý kiến của các học giả thời đó
Tác giả Đặng Phúc Thông trên tạp chí Khoa học năm 1942 cho rằng
“dịch âm tiếng Pháp sang tiếng ta có nhiều điều không tiện” vì “tiếng Pháp
Trang 27thuộc loại đa âm mà tiếng mình thuộc về loại độc âm…” Ông chủ trương học tập lối Trung Quốc đã làm, vì các loại sách thì dịch ra chữ nho, một số dịch
âm, còn với hóa học thì theo cách đặt chữ nôm Ví dụ: bismuth thì đọc là
pi v.v…
Học giả Nguyễn Duy Thành, trong bài Bàn về cách đặt tiếng hóa học in
trên tạp chí Khoa học số 3 năm 1942 lại cho rằng, cách đặt thuật ngữ hóa học của Trung Quốc là không khoa học Ông đề nghị lấy các kí hiệu mà gọi Đối
với các hợp chất cũng cứ theo công thức mà gọi Ví dụ: MnO2 đọc là em-en
ô hai
Tác giả Đặng Văn Dư trong bài Một cách đặt tên ra tiếng Nam về khoa
học đăng trên tờ Khoa học số 5 năm 1942, lại chủ trương dùng lối nói lái để
đặt thuật ngữ
Trong số các học giả thời kỳ này, đáng chú ý nhất là quan điểm của
Hoàng Xuân Hãn với tác phẩm Danh từ khoa học Tiếp theo công trình của
Hoàng Xuân Hãn, một số học giả khác cũng đã bắt đầu biên soạn những tập thuật ngữ đối chiếu khác Chẳng hạn như tác giả Nguyễn Hữu Quán và Lê
Văn Căn với tác phẩm Danh từ thực vật, tủ sách nông học Việt Nam, Thuận Hoá 1945; tác giả Đào Văn Tiến với tác phẩm Danh từ vạn vật học, do Tổng
hội sinh viên Cứu quốc xuất bản sau Cách mạng Tháng 8, Hà Nội, 1945; hay
các tác phẩm khác: Danh từ y học của tác giả Lê Khắc Thiên và Phạm Khắc
Quảng, v.v
Cách mạng tháng Tám thành công, tiếng Việt đã được trả lại vị trí xứng đáng của nó - từ chỗ là ngôn ngữ của một dân tộc mất nước, tiếng Viết trở thành ngôn ngữ chính thức của một nhà nước độc lập có chủ quyền, được dùng rộng rãi trong tất cả mọi lĩnh vực xã hội, chính trị, kinh tế, văn hóa, quân sự, nghệ thuật… và được sử dụng làm phương tiện giảng dạy ở tất cả các cấp học Nhờ vậy, thuật ngữ khoa học cũng được phát triển mạnh mẽ Đặc biệt là sau ngày hòa bình lập lại (1954), miền Bắc tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội đã tạo ra bước phát triển mới cho thuật ngữ khoa học tiếng Việt
Trang 28Tuy vậy, khi xây dựng thuật ngữ, các nhà khoa học chưa có được một đường hướng chung thống nhất, quan điểm của họ cũng hết sức khác nhau Trước
tình hình đó, Ủy ban Khoa học Nhà nước đã cho ra Quy định tạm thời về
nguyên tắc biên soạn danh từ khoa học tự nhiên và một bản nguyên tắc xây
dựng thuật ngữ khoa học xã hội Hai bản quy định này đã phát huy được tác dụng nhất định, trong việc thúc đẩy các ngành chuyên môn xây dựng thuật ngữ theo một phương hướng thống nhất hơn Kết quả là rất nhiều tập thuật ngữ đối chiếu đã được xuất bản Thuật ngữ khoa học tiếng Việt đã có đủ để đáp ứng nhu cầu nghiên cứu, học tập và giảng dạy kể cả ở bậc trên đại học
Ở miền Nam, phải kể đến công lao của tác giả Lê Văn Thới – một nhà khoa học có nhiều nhiệt tình với công tác này Ông đã phát huy ảnh hưởng
của mình trong Ủy ban soạn thảo danh từ khoa học (1960) Ủy ban này đã
chính thức hóa bản nguyên tắc do tác giả Lê Văn Thới soạn thảo để dùng làm tài liệu hướng dẫn chính thức cho công việc xây dựng thuật ngữ ở miền Nam Bản nguyên tắc này được xây dựng khá công phu và đầy đủ hơn so với công trình của các tác giả đi trước Sau hơn mười năm áp dụng bản nguyên tắc này, hơn 50 cuốn thuật ngữ đối chiếu đã được biên soạn
Sau khi nước nhà được thống nhất, công tác xây dựng thuật ngữ tiếp tục được đẩy mạnh và phát triển trong phạm vi cả nước Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu to lớn đã đạt được, công tác nghiên cứu và xây dựng thuật ngữ ở nước ta không khỏi còn có những điểm phải hoàn thiện và thống nhất thêm Rất nhiều ý kiến của các nhà khoa học về vấn đề này đã được phát biểu
và đăng tải trên Tạp chí Ngôn ngữ Các ý kiến đều tập trung vào những vấn
đề chủ yếu sau: Những yêu cầu của thuật ngữ; Về phương thức đặt thuật ngữ; Vấn đề vay mượn thuật ngữ nước ngoài; Có nên chấp nhận một số chữ cái mới hay không để cho thuật ngữ phiên gần với diện mạo quốc tế mà không quá xa lạ với tiếng Việt
Trong hai năm 2009 – 2010 Viện Từ điển học và Bách khoa thư Việt
Nam đã thực hiện chương trình khoa học cấp Bộ “Một số vấn đề cơ bản về cơ
Trang 29sở lí luận và phương pháp luận biên soạn các loại gồm từ điển và bách khoa thư Việt Nam” (do PGS.TS Phạm Hùng Việt làm chủ nhiệm đề tài có bảy
nhánh đề tài Trong đề tài này có một nhánh nghiên cứu những vấn đề lí luận
và phương pháp luận biên soạn từ điển chuyên ngành và thuật ngữ (do PGS.TS Hà Quang Năng làm chủ nhiệm) Sau khi nghiệm thu, kết quả nghiên
cứu của nhánh đề tài này đã được xuất bản với tên gọi “Thuật ngữ học –
những vấn đề lí luận và thực tiễn” (Hà Quang Năng chủ biên NXB Từ điển
Bách Khoa, 2013) [36]
Như vậy, có thể thấy rằng các vấn đề thuật ngữ học được nghiên cứu ở Việt Nam chủ yếu là từ góc độ thực tiễn: xây dựng các thuật ngữ khoa học kĩ thuật Kết quả là nhiều cuốn thuật ngữ đối chiếu tiếng Việt và các ngôn ngữ nước ngoài đã được xuất bản Chưa có nhiều những công trình khảo cứu riêng
về hệ thống thuật ngữ của một chuyên ngành khoa học nhất định Theo chúng
tôi, những công trình như luận án Phó tiến sĩ của tác giả Lưu Vân Lăng Về
vấn đề xây dựng thuật ngữ khoa học bảo vệ năm 1987, tác giả Vũ Quang Hào
với Hệ thuật ngữ quân sự tiếng Việt - Đặc điểm và cấu tạo thuật ngữ, bảo vệ năm 1991 và luận án tiến sĩ của tác giả Nguyễn Thị Bích Hà So sánh cấu tạo
thuật ngữ kinh tế thương mại trong tiếng Nhật và tiếng Việt hiện đại bảo vệ
năm 2000 [17], Luận án tiến sĩ của tác giả Nguyễn Thị Kim Thanh về Khảo
sát Hệ thuật ngữ điện tử - viễn thông tiếng Việt [44] Luận án tiến sĩ của tác
giả Vương Thị Thu Minh về Khảo sát thuật ngữ y học tiếng Anh và cách
chuyển sang tiếng Việt bảo vệ năm 2006 [32], Luận án của tác giả Vũ Thị Thu
Huyền về Khảo sát thuật ngữ xây dựng trong tiếng Việt bảo vệ năm 2012
Gần đây có nhiều luận án nghiên cứu cấu tạo, định danh của các hệ thống thuật ngữ của nhiều ngành khoa học đã được thực hiện Chẳng hạn, Luận án
Nghiên cứu thuật ngữ báo chí tiếng Việt của Quách Thị Gấm; Luận án Nghiên cứu thuật ngữ toán, lý, hóa, tin học của Ngô Phi Hùng, Luận án Nghiên cứu thuật ngữ khoa học hình sự tiếng Việt của Nguyễn Quang Hùng Nhiều luận
án nghiên cứu đối chiếu thuật ngữ giữa các ngôn ngữ cũng đã được thực hiện
Trang 30như Luận án Đối chiếu thuật ngữ du lịch Anh – Việt của Lê Thanh Hà, Luận
án Đối chiếu thuật ngữ âm nhạc Việt – Anh của Vũ Thị Dung, v.v…
Tóm lại ở Việt Nam, các nhà nghiên cứu bàn nhiều đến: các tiêu chuẩn của thuật ngữ, phương thức đặt thuật ngữ, vấn đề vay mượn thuật ngữ nên như thế nào, nhất là việc phiên âm các thuật ngữ nước ngoài, vấn đề thống nhất thuật ngữ nói chung Nếu như nhiều từ điển thuật ngữ chuyên ngành đã được biên soạn và việc nghiên cứu lí luận về thuật ngữ của các chuyên ngành
đã có thì chưa có công trình lí luận nào dành cho việc nghiên cứu thuật ngữ y học cổ truyền tiếng Việt
Có thể nói rằng, đề tài của chúng tôi là công trình lí luận đầu tiên ở Việt Nam khảo cứu một cách tương đối toàn diện các thuật ngữ y học cổ truyền tiếng Việt
1.3 Tổng quan về Y học cổ truyền Việt Nam và thuật ngữ Y học cổ truyền Việt Nam
1.3.1 Tổng quan về Y học cổ truyền Việt Nam
Dân tộc Việt Nam ta đã có trên 4.000 năm lịch sử, có nhiều truyền thống xây dựng đất nước, đánh giặc giữ nước, phát triển văn hóa Nhân dân ta
có nhiều kinh nghiệm phòng bệnh, bảo vệ sức khỏe và đã có một nền y học cổ truyền không ngừng phát triển qua các thời kỳ lịch sử Có rất nhiều danh y và các tác phẩm y học nổi tiếng đã được xuất bản Tiêu biểu như Tuệ Tĩnh (thế
kỷ 13) có các tác phẩm sau:
- Bộ sách Nam dược thần hiệu: 11 quyển gồm 580 vị thuốc có trong
nước, 3873 bài thuốc chữa 182 chứng bệnh trong 10 khoa lâm sàng
- Quyển Hồng Nghĩa giác tư y thư: gồm 2 bài phú thuốc nam tóm tắt
công dụng 630 vị thuốc, 13 phương gia giảm phụ thêm bổ âm đơn 1 thiên dùng thuốc theo chứng và các thiên “y luận” về lý luận cơ bản, chẩn đoán học, mạch học Tuệ Tĩnh còn là người đầu tiên nêu cao khẩu hiệu “Nam dược trị nam nhân”, phổ biến y dược học một cách dễ hiểu, dễ làm để nhân dân tự chữa bệnh bằng các phương pháp xông, cứu, thuốc…
Trang 31- Hải Thượng Lãn Ông là tổng hợp những thành tựu của nền y học
Đông phương đến thế kỷ 18, áp dụng sáng tạo vào điều kiện thiên nhiên và bệnh tật ở nước ta, tổng kết hoàn chỉnh từ lý luận đến phương pháp chữa bệnh thành bộ sách Hải Thượng y tông tâm lĩnh gồm 28 tập chia làm 88 quyển, nội dung gồm các vấn đề về đạo đức người thầy thuốc, vệ sinh phòng bệnh, lý luận cơ sở, chẩn đoán học, mạch học các phương pháp luận trị… Ông tìm
thấy thêm 300 vị thuốc mới (Lĩnh Nam bản thảo) tổng hợp thêm 2854 bài
thuốc kinh nghiệm và luôn luôn khuyến khích các đồng nghiệp và học trò chú trọng các vị thuốc có trong nước để chữa bệnh Đến thời kỳ này, Hồ Chủ Tịch
là người hơn ai hết quan tâm đến vấn đề kết hợp nền y học hiện đại với nền y học cổ truyền của dân tộc để xây dựng nền y học Việt Nam
- Triết học phương Đông và ứng dụng trong y học
Học thuyết âm dương: sự vật luôn luôn có mâu thuẫn nhưng thống nhất với nhau, không ngừng vận động, biến hóa để phát sinh, phát triển và tiêu vong
Âm: tạng; tâm (phụ tâm bào),can, tỳ, phế, thận; kinh âm; huyết; bụng; trong; dưới…
Dương: phủ; tiểu trường,đởm,vị, đại trường, bàng quang, tam tiêu; kinh dương; khí; lưng; ngoài; trên…
- Tạng thuộc âm, do tính chất trong âm có dương nên còn phân ra phế
âm, phế khí; thận âm, thận dương; can huyết, can khí; tâm huyết (tâm âm), tâm khí (tâm dương) Phủ thuộc dương như vì trong dương có âm, cơ năng hoạt động thuộc dương…
Học thuyết ngũ hành Trong y học, học thuyết ngũ hành được ứng dụng
để quan sát quy nạp và nêu lên sự tương quan trong hoạt động sinh lý các tạng phủ, để chẩn đoán bệnh tật, để tìm tính năng và tác dụng thuốc, để tiến hành công tác bào chế thuốc men
Trang 32Lửa
Đỏ Khổ
Hạ Nam Tâm Tiểu trường Mạch Thiệt Mừng
Đất Vàng Cam Cuối hạ Trung ương
Tỳ
Vị Nhục Miệng
Lo
Kim loại Trắng Tân Thu Tây Phế Đại trường
Bì mao Mũi Buồn
Nước Đen Hàm Đông Bắc Thận Bàng quang Cốt Tai
Sợ
Sự sắp xếp các tạng phủ theo ngũ hành và sự liên quan của chúng đến ngũ vị, ngũ sắc, ngũ quan, thể chất và hoạt động về tình chí giúp cho việc học
về các hiện tượng sinh lý các tạng phủ dễ dàng, dễ nhớ
Ví dụ: can có quan hệ biểu lý với đởm, chủ về cân, khai khiếu ra mắt,
kích thích điều đạt, khi uất kết gây giận dữ…
Vị chua, màu xanh vào can; vị đắng, màu đỏ vào tâm; vị ngọt, màu vàng vào tỳ; vị cay, màu trắng vào phế; vị mặn, màu đen vào thận…
Học thuyết tiên thiên hợp nhất nói lên con người với hoàn cảnh tự nhiên xã hội luôn luôn mâu thuẫn và thống nhất với nhau Khí hậu, thời tiết
bốn mùa gồm lục khí: phong, hàn, thử, thấp, táo, hỏa luôn luôn có mặt theo
mùa tác động đến sức khỏe con người Khi sức khỏe yếu (chính khí hư), chúng sẽ trở thành những tác nhân gây bệnh bên ngoài gọi là tà khí Con người cần thích nghi với hoàn cảnh, chế ngự và cải tạo tự nhiên và xã hội để sinh tồn và phát triển Muốn vậy con người cần có sức khỏe, tinh thần phải vững vàng biểu hiện ở chính khí và các cơ năng thích ứng của cơ thể luôn quân bình giữa các mặt âm, dương, khí huyết, thần, tân dịch… Câu thơ bất hủ
Trang 33về rèn luyện sức khỏe của Tuệ Tĩnh: “Bế tinh, dưỡng khí, tồn thần, thanh tâm, quả dục, thủ chân, luyện hình”
Tạng phủ - kinh lạc
Học thuyết tạng phủ và học thuyết kinh lạc là bộ phận quan trọng trong
lý luận y học cổ truyền nhằm nghiên cứu sự hoạt động của các tạng, phủ, hệ thống kinh lạc và các bộ phận khác Nội dung gồm:
- Học thuyết tạng phủ: các tạng tâm, can, tỳ, phế, thận; các phủ: tiểu trường, đại trường, vị, đởm, bàng quang, tam tiêu; các hoạt động về tinh, khí, thần, huyết, tân dịch
- Hệ thống kinh lạc: cấu tạo và tác dụng của hệ kinh lạc
Học thuyết tạng phủ Tạng là các bộ phận cơ thể có nhiệm vụ chuyển hóa và tàng chữ tinh; khí: nguyên khí, tông khí, dinh khí, vệ khí; huyết; tân dịch và thần Có 5 tạng: tâm (phụ là tâm bào lạc), can, tỳ, phế, thận
Học thuyết kinh lạc Kinh lạc là tên gọi chung của kinh mạch và lạc mạch trong cơ thể Kinh lạc phân bố ra toàn thân, là con đường vận hành của
âm dương, khí huyết, tân dịch, khiến chocon người từ ngũ tạng, lục phủ, cân, mạch, cơ nhục, cốt… kết thành một chỉnh thể thống nhất
Mười hai kinh mạch chính
Tay: - 3 kinh âm:
+ Thủ thái âm phế + Thủ thiếu âm tâm +Thủ quyết âm tâm bào lạc
- 3 kinh dương:
+ Thủ thái dương tiểu trường + Thủ thái dương tam tiêu + Thủ dương minh đại trường
Chân: - 3 kinh âm:
+ Túc thái âm tỳ + Túc thiếu âm thận
Trang 34+ Túc quyết âm can
- 3 kinh dương:
+ Túc thái dương bàng quang + Túc thiếu dương đởm + Túc dương minh vị
Tám kinh mạch phụ
Nhâm mạch Đốc mạch Xung mạch Đới mạch
Âm duy mạch Dương duy mạch Dương kiểu mạch
Mười bốn kinh mạch thường dùng:
1 Thủ thái âm phế
2 Thủ quyết âm tâm bào lạc
3 Thủ thiếu âm tâm
4 Thủ dương minh đại trường
5 Thủ thiếu dương tam tiêu
6 Thủ thái dương tiểu trường
Biểu hàn, đau khớp do phong Chứng biểu hàn có ra mồ hôi Biểu nhiệt, phong nhiệt Phong đàm, biểu chứng kèm thêm đàm thấp
Lý hàn
Lý hàn, đau Hàn gây đau ở kinh mạch can
Trang 35Ứ huyết
Lý hư, khí huyết hư, âm hư
Âm hư, huyết hư sinh nội nhiệt Can thận âm hư, âm hư can uất Huyết hư kèm ứ huyết
Bệnh ở tỳ vị, bệnh mạn tính
1.3.2 Thuật ngữ y học cổ truyền Việt Nam
Kết quả khảo sát cho thấy hệ thống thuật ngữ y học cổ truyền Việt Nam được hình thành chủ yếu bằng con đường mượn thuật ngữ của Trung y Các tài liệu trong thời đại độc lập tự chủ, chủ yếu viết bằng chữ Hán và được phát âm theo âm Hán Việt Cũng có tài liệu viết bằng chữ Nôm, song cũng vẫn dùng để
giải thích từ ngữ y học như Nam dược quốc ngữ phú của Tuệ Tĩnh: Tuyết diêm
yêu thay cho Muối trắng, Hòn lanh gọi là Hoạt thạch, hạt Trai thay tên ngọc Trân châu, Kim bạc Ngân bạc nghĩa là vàng bạc lá, Thương nhĩ tử bóc hạt
nghĩa là Trái ké (đầu ngựa), Vỏ trái cau danh nghĩa rằng Đại phúc bì,…
Đến thời thuộc Pháp chữ quốc ngữ thay dần chữ Nho (chữ Hán) Ngoài các tài liệu viết bằng chữ Hán, đã có một số ít tài liệu viết bằng chữ quốc ngữ,
song thuật ngữ y học cổ truyền vẫn viết theo âm Hán Việt như: tâm, can, tì,
phế, thận, phong, hàn, thử, thấp, táo, hỏa…
Rất nhiều người tham gia viết và dịch sách y học cổ truyền Trong đó
có y, dược, hiện đại, cổ truyền, kinh nghiệm dân gian…có người biết chữ
Nho, có người không biết chữ Hán… và đã xuất hiện những từ như tim thay
Trang 36cho tâm, phổi thay cho phế, gan thay cho can, lách thay cho tì, gió thay
phong, lạnh thay hàn, nóng thay nhiệt, ẩm thay cho thấp, ráo thay cho táo, ngoài thay -cho biểu, trong thay cho lý, nghệ vàng thay cho khương hoàng, nghệ đen thay cho nga truật, dành dành thay cho chi tử, rễ tranh thay bạch mao căn, hạt táo chua thay cho toan táo nhân, củ (cỏ) gấu thay cho hương phụ… tạo nên sự không thống nhất về danh từ thuật ngữ y học cổ truyền và
giao tiếp chuyên môn Cũng cần thấy có một số từ ngữ được dung rộng rãi cả
âm Hán Việt lẫn chữ phổ thông
1.3.3 Cách hiểu về thuật ngữ Y học cổ truyền
Cho đến nay, thuật ngữ Y học cổ truyền vẫn còn là hệ thuật ngữ chưa được nghiên cứu đầy đủ cả về lý luận và thực tiễn ở nước ta Hiện mới chỉ có một số ít từ điển giải thích nhằm phục vụ cho bộ phận các nhà nghiên cứu, giáo viên, học viên và những người quan tâm đến chuyên ngành này, các bài nghiên cứu về vấn đề này là chưa có Tuy nhiên dựa trên các quan điểm của các nhà ngôn ngữ học về thuật ngữ, chúng tôi mạnh dạn đưa ra định nghĩa
như sau: Thuật ngữ y học cổ truyền là những từ và cụm từ cố định gọi tên
chính xác các loại khái niệm và các đối tượng thuộc lĩnh vực y học cổ truyền
Tiểu kết
Trong chương 1 của luận văn, tác giả đã trình bày các khái niệm về thuật ngữ; Phân biệt thuật ngữ và danh pháp; Đặc điểm của thuật ngữ và những yêu cầu khi xây dựng thuật ngữ; Định danh ngôn ngữ và vấn đề xây dựng thuật ngữ; Tình hình nghiên cứu thuật ngữ trên Thế giới và ở Việt Nam; Các phương pháp nghiên cứu dựa vào tư liệu cuốn Danh từ thuật ngữ Y Dược
cổ truyền của tác giả Nguyễn Đức Đoàn và Hoàng Bảo Châu; Tổng quan về
Y học cổ truyền Việt Nam và thuật ngữ Y học cổ truyền Việt Nam
Tác giả đã đưa ra quan điểm của các nhà ngôn ngữ học thế giới và các nhà Việt ngữ học khi bàn về thuật ngữ và ngôn ngữ chuyên ngành Luận văn
đã trích dẫn nhiều quan điểm của các nhà ngôn ngữ học trên thế giới Từ việc lĩnh hội và tổng hợp các quan điểm khác nhau về thuật ngữ, chúng tôi đi đến kết luận sau: Thuật ngữ là một bộ phận từ ngữ được phân chia theo phạm vi
Trang 37sử dụng, tư duy và các hoạt động khoa học kỹ thuật để diễn đạt các khái niệm khoa học
Những tính chất của thuật ngữ Nếu đi sâu phân tích và nghiên cứu thì thuật ngữ có nhiều tính chất Tuy nhiên trong luận văn này chúng tôi xin nêu
ra những tính chất mà chúng tôi cho là đặc trưng nhất: tính chính xác, tính hệ thống, tính quốc tế
Yêu cầu và tiêu chuẩn của thuật ngữ Việt Nam Thuật ngữ khoa học Việt Nam trước tiên phải thỏa mãn các tiêu chuẩn chung về thuật ngữ như đã nêu cụ thể trong luận văn, sau đó phải có màu sắc dân tộc, đảm bảo tính khoa học và tính đại chúng phải ngắn gọn, dễ dùng
Thuật ngữ y học cổ truyền: Thuật ngữ y học cổ truyền là những từ và cụm từ cố định gọi tên chính xác các loại khái niệm và các đối tượng thuộc lĩnh vực y học cổ truyền Trong luận văn này chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu thuật ngữ phần y của ngành y học cổ truyền
Trang 38Chương 2 ĐẶC ĐIỂM CẤU TẠO THUẬT NGỮ Y HỌC CỔ TRUYỀN VIỆT NAM 2.1 Nhận diện thuật ngữ y học cổ truyền trong tiếng Việt
Để miêu tả các đặc điểm cấu tạo và định danh của thuật ngữ y học cổ truyền tiếng Việt, việc nhận diện chúng là khâu đầu tiên hết sức quan trọng Các thuật ngữ y học cổ truyền tiếng Việt được luận văn nhận diện dựa trên những nguyên tắc sau đây
- Về mặt cấu tạo: mỗi thuật ngữ đều có cấu trúc nội tại của nó, thể hiện
bằng các yếu tố tạo nên thuật ngữ và các yếu tố này phải có quan hệ với nhau, mỗi yếu tố có một chức năng, nhiệm vụ riêng để tạo nên chỉnh thể thuật ngữ
- Về mặt ý nghĩa: thuật ngữ bao giờ cũng thể hiện một khái niệm hoàn
chỉnh, các yếu tố trong thuật ngữ mang một hoặc một số đặc trưng của khái niệm do thuật ngữ ấy biểu hiện
- Thuật ngữ phải là đơn vị định danh, nên nó phải có dạng là một từ
hoặc một ngữ Do vậy những cụm từ có chứa dấu câu trong nội bộ chứng tỏ chúng gồm nhiều ngữ, mang tính miêu tả, nên đều không phải là thuật ngữ chuẩn mực
Tóm lại, dưới dạng văn tự, các yếu tố cấu tạo trong một thuật ngữ không thể ngăn cách với nhau bằng các dấu câu Do đó, những cụm từ chứa dấu câu không được chúng tôi xem xét là những thuật ngữ y học cổ truyền tiếng Việt chuẩn mực
Trong luận văn này, chúng tôi áp dụng lí thuyết điển mẫu để chọn các thuật ngữ y học cổ truyền chuẩn để phân tích cấu tạo nội bộ của thuật ngữ Đối với các thuật ngữ có những yếu tố cấu tạo thừa cần được loại bỏ mà không ảnh hưởng đến nội hàm khái niệm được thuật ngữ biểu đạt sẽ không được coi là điển mẫu Việc loại bỏ những yếu tố thừa này làm cho thuật ngữ trở nên ngắn gọn hơn, chính xác hơn
Với quan niệm như vậy, những cụm từ chứa những yếu tố cấu tạo thừa
dư không được chúng tôi xem là những thuật ngữ y học cổ truyền chuẩn mực
Trang 39Thuật ngữ phải ngắn gọn, ngắn gọn là tiêu chí quan trọng của thuật
ngữ Những phụ từ, quan hệ từ như: các, những, và, với, về, v.v… tồn tại trong
thuật ngữ khiến thuật ngữ trở nên dài dòng, vi phạm nguyên tắc ngắn gọn của thuật ngữ Vì vậy, trong những thuật ngữ cụ thể có thể loại bỏ những yếu tố này trong cấu trúc nội bộ của thuật ngữ
Bên cạnh đó, luận văn cũng vận dụng quan niệm về yếu tố cấu tạo thuật ngữ của các nhà ngôn ngữ học Nga, đó là, mỗi yếu tố cấu tạo thuật ngữ biểu thị hoặc phản ánh nội dung hoặc một phần nội dung của khái niệm Do đó, một điều kiện cần là yếu tố cấu tạo thuật ngữ phải có nghĩa và chính vì vậy
mà các phụ từ, quan hệ từ như: các, những, của, với, và, v.v… không phải là
một yếu tố cấu tạo vì chúng không phản ánh nội dung nghĩa của khái niệm
Sự có mặt các phụ từ, quan hệ từ khiến cho các cụm từ chứa chúng cũng bị mất tính chất định danh, mang tính miêu tả, định nghĩa Vì vậy, những cụm từ
có chứa các phụ từ, quan hệ từ trong kết cấu nội bộ của chúng đều không phải
là thuật ngữ y học cổ truyền tiếng Việt chuẩn mực
Khi phân tích cấu tạo thuật ngữ y học cổ truyền trong tiếng Việt, các
mục từ được thu thập từ cuốn Danh từ thuật ngữ y dược cổ truyền phần y học
như đã đề cập ở phần mở đầu Chúng tôi đã phân tích 1857 đơn vị được coi là thuật ngữ chân chính, vì các thuật ngữ này đảm bảo các tiêu chí nhận diện mà chúng tôi đã trình bày ở trên
Ví dụ: phế chủ bì mao, ngũ hành, ngũ sắc chỉ bệnh, nội hàn, nội nhiệt,
phế, phá huyết, phế âm hư, phong hàn thấp tí, v.v…
Các đơn vị như được dẫn sau đây không được chúng tôi coi là thuật
ngữ chân chính mà chỉ là các ngữ giải thích vì chứa các dấu câu: phế chủ nhất
thân chi biểu; chính khí nội tồn, tà bất khả can; bàng châm, bàng châm thích;
tà chi sở tấu, kì khí tắc hư; phế chủ thông điều thủy đạo, dương hóa khí, âm thành hình Do đó, trong các phần ở chương 2 và chương 3, chúng tôi miêu tả
và phân tích 1857 thuật ngữ đáp ứng các nguyên tắc đã nêu, còn các đơn vị
Trang 40mà luận văn không coi là thuật ngữ chân chính sẽ được đề xuất cách chuẩn hóa bằng cách cấu tạo lại, tách ra thành nhiều thuật ngữ
2.2 Các phương thức tạo thành thuật ngữ y học cổ truyền Việt Nam
Khi bàn về những con đường tạo ra thuật ngữ, sau khi tổng hợp những nghiên cứu của các nhà ngôn ngữ học đi trước, Hoàng Văn Hành viết rằng:
“Nhìn một cách tổng quát, có thể thấy, thuật ngữ trong tiếng Việt, cũng như trong các ngôn ngữ đã phát triển khác hình thành nhờ ba con đường cơ bản là:
- Thuật ngữ hóa từ ngữ thông thường;
- Cấu tạo những thuật ngữ tương ứng với thuật ngữ nước ngoài bằng phương thức sao phỏng
- Mượn nguyên thuật ngữ nước ngoài, thường là những thuật ngữ có tính quốc tế” [20, tr.6]
Sager cũng cho rằng có ba phương thức tạo ra thuật ngữ mới trong tiếng Anh:
- Sử dụng các thuật ngữ hiện có trong ngôn ngữ chung
- Tạo thuật ngữ mới dựa trên nguồn thuật ngữ hiện có bằng các phương thức phụ gia, ghép, chuyển từ loại và viết tắt
- Tạo ra thuật ngữ mới cho ngôn ngữ chuyên ngành dựa trên các khái niệm mới [62, tr.71]
Lê Khả kế lại chỉ nêu lên hai phương thức xây dựng thuật ngữ:
- Đặt thuật ngữ trên cơ sở tiếng Việt;
- Tiếp nhận thuật ngữ nước ngoài vì theo ông, phương thức thuật ngữ hóa từ ngữ thông thường và cấu tạo những thuật ngữ tương ứng với thuật ngữ nước ngoài bằng phương thức sao phỏng thực ra chỉ là một [23, tr.142]
Dựa vào các con đường xây dựng thuật ngữ mà các nhà ngôn ngữ đi trước đã nghiên cứu và căn cứ vào kết quả khảo sát, phân tích hệ thuật ngữ y học cổ truyền tiếng Việt, chúng tôi nhận thấy rằng, các con đường hình thành thuật ngữ khoa học phổ biến nhất trong các ngôn ngữ nói chung được tạo ra bằng những con đường sau đây: