Sự điều chỉnh chậm trễ cơ cấu xuất khẩu tr-ước những biến động của thị trường thế giới, việc thiếu một khu vực tư nhân rộng lớn và sự kém hiệu quả của các doanh nghiệp Nhà nước đang làm
Trang 1ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
Trang 2ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
HÀ NỘI, 2004
Trang 3MỤC LỤC
Chương 1: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn chung về cạnh tranh
và năng lực cạnh tranh xuất khẩu
7
1.1 Tổng quan chung về lý thuyết cạnh tranh 7 1.1.1 Khái lược về các lý thuyết cạnh tranh 7 1.1.2 Năng lực cạnh tranh – các cấp độ nghiên cứu và yếu tố ảnh
hưởng
9
1.2 Cạnh tranh xuất khẩu trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế 14 1.2.1 Vai trò của cạnh tranh trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế 14 1.2.2 Các tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh xuất khẩu 17 1.2.3 Các yếu tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh xuất khẩu trong
bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế
1.3.4 Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp 32
Chương 2: Thực trạng năng lực cạnh tranh xuất khẩu của Việt
Nam
35
2.1 Các yếu tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh xuất khẩu của
Việt Nam thời kỳ 1991 – 2001
35
2.1.2 Chính sách thương mại và cơ chế khuyến khích xuất khẩu 39
2.1.4 Cơ sở hạ tầng và dịch vụ hỗ trợ xuất khẩu 43 2.1.5 Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp 45
2.2 Đánh giá năng lực cạnh tranh xuất khẩu của Việt Nam 49
2.2.3 Tính tương thích trên thị trường xuất khẩu 53 2.2.4 Khả năng tiếp cận thị trường nước ngoài 55 2.2.5 Năng lực cạnh tranh phản ảnh qua tỷ giá hối đoái thực 57 2.2.6 Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp 58
2.3 Tác động của năng lực cạnh tranh tới hiệu quả xuất khẩu của 60
Trang 4Việt Nam thời kỳ 1991 – 2003
2.3.2 Chuyển dịch cơ cấu hàng hoá xuất khẩu 61 2.3.3 Chuyển dịch cơ cấu thị trường xuất khẩu 67
Chương 3: Quan điểm và giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh
tranh xuất khẩu của Việt Nam
74
3.1 Những bối cảnh mới và yêu cầu đặt ra cho xuất khẩu của Việt
Nam
74
3.1.1 Những xu hướng phát triển chủ yếu của kinh tế thế giới và khu
vực trong những năm tới
74
3.1.2 Lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam và những yêu
cầu đặt ra cho xuất khẩu
76
3.1.3 Định hướng phát triển xuất khẩu của Việt Nam trong thời kỳ tới 78
3.2 Quan điểm về nâng cao năng lực cạnh tranh xuất khẩu của Việt
3.2.4 Xử lý tốt mối quan hệ giữa Nhà nước và thị trường nhằm tạo
môi trường thuận lợi cho việc nâng cao năng lực cạnh tranh
83
3.3 Một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh xuất
khẩu của Việt Nam
85
3.3.1 Tạo dựng môi trường thể chế cho cạnh tranh 85
3.3.3 Hoàn thiện chính sách thương mại và khuyến khích xuất khẩu 88 3.3.4 Cải thiện khu vực tài chính, ngân hàng 90
3.3.6 Phát triển cơ sở hạ tầng và dịch vụ cho xuất khẩu 93 3.3.7 Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp 93
Trang 5DANH MỤC BẢNG BIỂU, ĐỒ THỊ Bảng biểu
Bảng 2.1 Tỷ lệ đóng góp của các thành phần kinh tế trong
tổng kim ngạch xuất khẩu
38
Bảng 2.2.Vốn đầu tư phát triển phân theo thành phần kinh tế 39 Bảng 2.3 Chỉ số lợi thế so sánh hiển thị của Việt Nam 51 Bảng 2.4 Chi phí cơ sở hạ tầng của Việt Nam 52 Bảng 2.5 Chỉ số tương thích thương mại của Việt Nam 54 Bảng 2.6 Tỷ giá danh nghĩa và thực tế của Việt Nam 57 Bảng 2.7 Độ co giãn của cầu đối với hàng xuất khẩu của Việt
Nam theo giá cạnh tranh và thu nhập
Đồ thị 2 Chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo mức độ chế biến 64
Đồ thị 3 Cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam thời kỳ 1994 -2002:
Một cách nhìn mới
67
Trang 6DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT Tiếng Anh:
ADB – ( Asian Development Bank) Ngân hàng phát triển châu Á
ASEAN – (Association of South East Asian Nations) Hiệp hội các quốc gia
Đông Nam Á
FDI – (Foreign Direct Investment) Đầu tư trực tiếp nước ngoài
GCI - (Growth Competitiveness Index) Chỉ số Năng lực cạnh tranh tăng
trưởng
CCI - (Current Competitiveness Index) Chỉ số Năng lực cạnh tranh hiện
hành
IMF – (International Monetary Fund) Quỹ tiền tệ quốc tế
R&D – (Research & Development) Nghiên cứu và phát triển
WB – (World Bank) Ngân hàng Thế giới
WEF – (World Economic Forum) Diễn đàn kinh tế thế giới
WTO – (World Trade Organisation) Tổ chức thương mại thế giới
Tiếng Việt:
DNNN - Doanh nghiệp Nhà nước
DNVVN – Doanh nghiệp vừa và nhỏ
ĐTNN - Đầu tư nước ngoài
Trang 7MỞ ĐẦU
1 Sự cần thiết phải nghiên cứu đề tài:
Phát triển xuất khẩu là định hướng chiến lược quan trọng của Đảng và Chính phủ Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước Với những chính sách đổi mới, xuất khẩu của Việt Nam đã đạt được những bước tiến đáng kể Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu thời kỳ 1991 - 2002 đạt mức bình quân 23%/năm, đóng góp phần quan trọng vào tăng trưởng kinh tế đất nước
Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam từ những năm cuối thập niên 90 tới nay đã giảm đi so với đầu thời kỳ đổi mới, một phần do những thay đổi bất lợi trên thị trường thế giới, một phần do những yếu kém nội tại của nền kinh tế Việt Nam
Độ mở cửa lớn hơn của Việt Nam đã khiến cho nền kinh tế dễ bị tổn thương hơn trước những thay đổi của thị trường quốc tế và nâng cao tầm quan trọng của năng lực cạnh tranh xuất khẩu Các cam kết phải thực hiện trong lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế càng làm tăng sức ép cạnh tranh đối với hàng xuất khẩu Việt Nam Sự điều chỉnh chậm trễ cơ cấu xuất khẩu tr-ước những biến động của thị trường thế giới, việc thiếu một khu vực tư nhân rộng lớn và sự kém hiệu quả của các doanh nghiệp Nhà nước đang làm giảm năng lực cạnh tranh của Việt Nam trên nhiều thị trường xuất khẩu chính và ảnh hưởng đến tính bền vững trong tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam
Trong khi đó, nhiều đối thủ cạnh tranh của Việt Nam đã liên tục cải thiện chế độ thương mại, tự do hoá môi trường đầu tư, lành mạnh hoá khu vực tài chính và cải thiện khu vực dịch vụ cơ sở hạ tầng…cũng như ký kết các Hiệp định ưu đãi thương mại song phương, thực hiện các chương trình xúc tiến xuất khẩu quy mô nhằm tăng năng lực cạnh tranh cho hàng hoá, dịch vụ xuất khẩu Tất cả những điều đó đã làm năng lực cạnh tranh của Việt Nam giảm tương đối trên thị trường quốc tế Những ưu thế Trung Quốc có được khi gia nhập WTO cùng với những lợi thế sẵn có trong cạnh tranh xuất khẩu của Trung Quốc càng làm tăng áp lực cạnh tranh đối với Việt Nam
Trong những năm tới, Việt Nam sẽ phải tiếp tục đẩy mạnh quá trình hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới với việc thực thi các cam kết AFTA và các cam kết thương mại đa phương và song phương khác cũng nh-
ư tiếp tục đàm phán để gia nhập WTO Để hội nhập hiệu quả thì điều kiện tiên quyết là nâng cao năng lực cạnh tranh xuất khẩu
Trang 8Trong bối cảnh đó, việc đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh xuất khẩu của Việt Nam và tìm ra những giải pháp cần thiết để nâng cao năng lực cạnh tranh trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế là hết sức cần thiết để đạt mục tiêu đề ra cho tăng trưởng xuất khẩu của Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001 - 2010
2 Tình hình nghiên cứu đề tài:
Trong những năm qua, đã có nhiều công trình nghiên cứu năng lực cạnh tranh về một số loại hàng hoá, dịch vụ của Việt Nam trước những thay
đổi trong thị trường trong nước và quốc tế, trong đó phải kể đến: “Tính cạnh
tranh: quan niệm về các khung khổ phân tích’’ (Võ Trí Thành, 1999); Khảo sát sức cạnh tranh của hàng hoá“ (Vụ kế hoạch, Bộ Thương mại, 1999);
“Nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá và dịch vụ Việt Nam“ (Uỷ ban quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế, 2002); “Nâng cao năng lực cạnh
tranh quốc gia“ (Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, 2002) Tuy
nhiên, các công trình nghiên cứu đó tập trung vào phân tích năng lực cạnh tranh của các nhóm hàng hoá và dịch vụ trong trạng thái tĩnh, chủ yếu là đánh giá hiện trạng năng lực cạnh tranh của từng nhóm hàng riêng biệt dựa trên lợi thế so sánh
Vì vậy, cần phải có những nghiên cứu tiếp tục, có tính khái quát về năng lực cạnh tranh xuất khẩu chung của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, từ đó tạo cơ sở để đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao năng lực của hàng xuất khẩu Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới
3 Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:
Mục đích nghiên cứu của luận văn này là phân tích năng lực cạnh tranh xuất khẩu của Việt Nam và đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao năng lực của hàng xuất khẩu Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc
tế Với mục đích đó, nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra là:
- Hệ thống hoá lý luận về cạnh tranh và cạnh tranh xuất khẩu;
- Phân tích kinh nghiệm quốc tế về nâng cao năng lực cạnh tranh xuất khẩu và rút ra những bài học cho Việt Nam;
- Phân tích thực trạng xuất khẩu của Việt Nam, làm rõ tác động của các yếu tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh xuất khẩu của Việt Nam trong
Trang 9bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và đánh giá tổng quát về năng lực cạnh tranh xuất khẩu của Việt Nam
- Đề xuất các giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh xuất khẩu của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế
4 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là năng lực cạnh tranh xuất khẩu của hàng hoá Việt Nam nói chung và các yếu tố ảnh hưởng đến năng lực
cạnh tranh này Phạm vi nghiên cứu của luận văn là hoạt động xuất khẩu của
Việt Nam trong thời gian từ 1991 - 2003, tập trung vào xuất khẩu các hàng hoá hữu hình
5 Phương pháp nghiên cứu:
Để giải quyết nội dung của đề tài, trong quá trình nghiên cứu luận văn
sử dụng phương pháp nghiên cứu phổ biến được áp dụng trong nghiên cứu khoa học kinh tế: phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử Với đối tượng nghiên cứu của đề tài, luận văn đặc biệt lưu tâm đến các phương pháp cụ thể như áp dụng phương pháp đối chiếu so sánh để nghiên cứu kinh nghiệm của một số nước trên thế giới nhằm phục vụ cho việc giải quyết những vấn đề đặt ra cũng như phân tích cơ sở lý luận của các lý thuyết cạnh tranh, từ đó tiếp cận với nội dung nghiên cứu của luận văn trong bối cạnh hội nhập kinh tế và các điều kiện của Việt Nam
6 Những đóng góp mơí của luận văn:
- Hệ thống hoá những vấn đề lý luận chủ yếu về cạnh tranh và cạnh tranh xuất khẩu;
- Đánh giá tổng quát về năng lực cạnh tranh xuất khẩu của Việt Nam trên cơ sở phân tích thực trạng xuất khẩu của Việt Nam và những yếu tố ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh xuất khẩu của Việt Nam thời kỳ 1991 - 2002
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh xuất khẩu của Việt Nam
7 Kết cấu của luận văn:
Luận văn được kết cấu thành 3 chương (ngoài phần mở đầu và kết luận):
- Chương 1: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn chung về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh xuất khẩu
Trang 10- Chương 2: Thực trạng năng lực cạnh tranh xuất khẩu của Việt Nam
- Chương 3: Quan điểm và giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh xuất khẩu của Việt Nam
Trang 11
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CHUNG
VỀ CẠNH TRANH VÀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH XUẤT KHẨU
1.1 Tổng quan chung về lý thuyết cạnh tranh
1.1.1 Khái lược về các lý thuyết cạnh tranh:
Trong kinh tế, hiện tượng cạnh tranh xuất hiện đồng thời với sự ra đời
và phát triển của nền sản xuất hàng hoá Trong lịch sử phát triển của nền kinh tế thế giới, khái niệm cạnh tranh được định nghĩa theo nhiều cách khác
nhau
Những người theo trường phái Trọng nông - trường phái kinh tế học
cổ điển đầu tiên - đã phát hiện ý nghĩa của cạnh tranh thông qua sự biến động giá cả Theo quan điểm của họ thì "giá tự nhiên" bao hàm lao động chứa trong sản phẩm và địa tô Một khi trên thị trường xuất hiện một đột biến nào đó thì giá cả thị trường có thể chênh lệch với "giá tự nhiên" ít nhất
là trong ngắn hạn Khi đó, cạnh tranh sẽ đóng vai trò tích cực trong việc điều chỉnh lượng cung cầu và làm cho giá thị trường trở lại mức của "giá tự nhiên"
Cùng với quá trình phát triển của tư duy kinh tế, lý thuyết cạnh tranh cũng ngày càng được hoàn thiện hơn như một nhân tố quan trọng đem lại sự tăng trưởng và phát triển kinh tế Adam Smith là người đầu tiên đưa ra những lý thuyết tương đối hoàn chỉnh về cạnh tranh Luận thuyết của ông dựa trên ý tưởng về vai trò của "bàn tay vô hình" qua sự điều chỉnh biến động của giá thị trường và được thể hiện rõ nét qua mô hình cạnh tranh hoàn hảo Trong môi trường cạnh tranh hoàn hảo, mục tiêu của doanh nghiệp là tối đa hoá lợi nhuận và của người tiêu dùng là tối đa hoá tiện ích của mình, trên cơ sở đó thị trường sẽ phân bổ tối ưu các nguồn lực khan hiếm A.Smith cũng đề cao vai trò của cạnh tranh trong ngoại thương, cho rằng “điều có lợi chủ yếu trong việc tự do phát triển ngoại thương là có thể xuất khẩu sản phẩm dư thừa trong nước và nhập khẩu nguyên liệu cần thiết, từ đó có thể
mở rộng sản xuất và hoàn thiện phân công lao động” [1,68]
Lý thuyết cạnh tranh hiện đại bắt nguồn từ lý thuyết về lợi thế so sánh Lý thuyết này dựa vào sự khác nhau về các yếu tố sản xuất như lao động, vốn, tài nguyên giữa các quốc gia và một quốc gia sẽ có lợi thế cạnh
Trang 12tranh trong những ngành sử dụng nhiều yếu tố sản xuất mà quốc gia đó tương đối dồi dào Lý thuyết này cho thấy các quốc gia có thể xác định những ngành, những sản phẩm mà quốc gia có lợi thế để phân bổ hiệu quả các nguồn lực và nâng cao lợi ích từ hoạt động ngoại thương Tuy nhiên, lý thuyết này không đủ để giải thích tại sao các doanh nghiệp, các ngành lại thành công trên thị trường quốc tế với sự khác biệt về sản phẩm, về công nghệ và lợi thế nhờ quy mô trong kinh tế thị trường hiện đại
Đầu những năm 1940, lý thuyết “cạnh tranh hiệu quả” được xây dựng trên cơ sở luận điểm của nhà kinh tế Mỹ J M Clack : những nhân tố không hoàn hảo trên thị trường có thể được sửa chữa bằng những nhân tố không hoàn hảo khác Chẳng hạn, tính không hoàn hảo của thị trường do có ít người cung ứng sẽ được cải thiện phần nào nhờ nhân tố không hoàn hảo khác như sự thiếu tường minh của thị trường và tính đa dạng của hàng hoá, bởi vì chính tính không hoàn hảo này sẽ làm giảm sự phụ thuộc lẫn nhau trong chính sách giá giữa các hãng ở thị trường tập quyền, tạo điều kiện cho các hoạt động cạnh tranh mang lại kết quả Clack đã tiếp thu luận điểm của Schumpeter - cạnh tranh phải bằng sản phẩm mới, bằng kỹ thuật mới, bằng nguồn cung ứng mới và bằng hình thức tổ chức mới - để xây dựng lý thuyết cạnh tranh hiệu quả Theo đó, siêu lợi nhuận mà các doanh nghiệp tiên phong đạt được trên cơ sở lợi thế nhất thời vừa là hệ quả, vừa là tiền đề của cạnh tranh Lợi nhuận này không nên xoá bỏ ngay lập tức mà chỉ nên giảm dần để doanh nghiệp có thể có điều kiện thời gian tạo ra một sự đổi mới, cải tiến khác Ông cho rằng tính hiệu quả của cạnh tranh được đo bằng sự giảm giá, tăng chất lượng hàng hoá cũng như hợp lý hoá trong quy trình sản xuất [1,117]
Một trong những lý thuyết cạnh tranh được biết đến nhiều nhất trong những năm 80 tới nay là lý thuyết về lợi thế cạnh tranh của M.Porter M Porter đã nghiên cứu cạnh tranh dưới nhiều giác độ - năng lực cạnh tranh quốc gia, chiến lược cạnh tranh ngành, lợi thế cạnh tranh của các chuỗi giá trị, cạnh tranh trong nước và cạnh tranh quốc tế Lý thuyết của Porter về lợi thế cạnh tranh giải thích hiện tượng thương mại quốc tế ở góc độ doanh nghiệp tham gia cạnh tranh quốc tế và qua đó đã khắc phục được những thiếu sót trong lý thuyết lợi thế so sánh của trường phái cổ điển Khác với các lý thuyết cạnh tranh trước đây chủ yếu chỉ thiên về nghiên cứu điều kiện kinh tế vĩ mô, lý thuyết của Porter nêu bật vai trò của doanh nghiệp trong cạnh tranh quốc tế và ảnh hưởng của các yếu tố vĩ mô tới môi trường cạnh
Trang 13tranh của doanh nghiệp M Porter cũng phân biệt khái niệm lợi thế cạnh tranh và khái niệm lợi thế so sánh, theo đó “lợi thế so sánh là một khái niệm kinh tế học, còn lợi thế cạnh tranh là khái niệm của khoa học quản lý Lợi thế so sánh có liên quan tới cơ chế giá cả thị trường còn lợi thế cạnh tranh liên quan đến doanh nghiệp/ ngành, nhấn mạnh đến cạnh tranh phi giá cả Lý luận về lợi thế so sánh sử dụng phương pháp cân bằng tổng quát và cân bằng tĩnh trong khi lợi thế cạnh tranh phân tích ở trạng thái động Xét ở góc độ phân công quốc tế, lợi thế so sánh có tác dụng quyết định, xét ở góc độ cạnh tranh ngành thì lợi thế so sánh và lợi thế cạnh tranh ngành cùng quyết định
vị thế quốc tế và xu thế phát triển của các ngành Theo M.Porter, sức cạnh tranh của một quốc gia phụ thuộc vào sức cạnh tranh của các ngành trong nền kinh tế Sức cạnh tranh của một ngành lại xúat phát từ năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong ngành: khả năng đổi mới công nghệ, sản phẩm, cung cách quản lý của ngành và môi trường kinh doanh Các đầu vào quan trọng đối với hoạt động sản xuất của nền kinh tế không đơn thuần chỉ
là lao động, vốn, tài nguyên thiên nhiên mà còn là những đầu vào do chính doanh nghiệp hoặc Chính phủ tạo ra
Nhìn chung, sự phát triển của lý thuyết cạnh tranh gắn liền với quá trình phát triển của nền kinh tế thị trường, thể hiện quá trình nhận thức về cạnh tranh theo sự phát triển của các hình thái thị trường Trong nền kinh tế thị trường, quá trình cạnh tranh cũng luôn được thúc đẩy phát triển bởi các đối tượng tham gia cạnh tranh luôn tìm cách nâng cao năng lực cạnh tranh của mình trước các đối thủ khác nhằm đạt được vị thế cao hơn trên thị trường
1.1.2 Năng lực cạnh tranh - các cấp độ nghiên cứu và yếu tố ảnh hưởng
Trong thực tế, tồn tại rất nhiều khái niệm khác nhau về năng lực cạnh tranh được xem xét từ các góc độ khác nhau Có thể phân biệt năng lực cạnh tranh của quốc gia với năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và năng lực cạnh tranh của sản phẩm, dịch vụ
* Năng lực cạnh tranh quốc gia:
Có nhiều khái niệm về năng lực cạnh tranh của một quốc gia Theo lý thuyết lợi thế tuyệt đối của Ricardo, một quốc gia có năng lực cạnh tranh hơn các quốc gia khác bởi sự trội hơn về một hay một vài yếu tố Ông cho rằng, năng lực cạnh tranh của một nước là một hệ thống gồm nhiều yếu tố
Trang 14liên quan với nhau, có tác động qua lại và bổ sung cho nhau Các yếu tố này
là nền móng, chỗ dựa cho các công ty, tạo nên lợi thế cạnh tranh trên một lĩnh vực cụ thể mà nước đó có lợi thế về tài nguyên
M Porter lại đưa ra khái niệm về năng lực cạnh tranh của một quốc gia dựa trên năng suất lao động Porter cho rằng "Khái niệm có ý nghĩa nhất về năng lực cạnh tranh ở cấp quốc gia là năng suất lao động Năng suất sản xuất phụ thuộc vào môi trường cạnh tranh của mỗi nước Theo Porter, trong nền kinh tế ngày càng toàn cầu hoá thì giá trị bản thân các yếu tố thiên phú của các yếu tố sản xuất ngày càng giảm và muốn đạt được năng suất cao thì phải tạo ra môi trường kinh doanh cho doanh nghiệp và các thể chế đồng bộ để có thể sử dụng hiệu quả các yếu tố sản xuất [22,21-28]
Theo khái niệm hiện đại của Diễn đàn Kinh tế Thế giới (World Economic Forum-WEF), năng lực cạnh tranh của một quốc gia là năng lực của một nền kinh tế có thể tạo ra tăng trưởng bền vững trong môi trường kinh tế đầy biến động của thị trường thế giới
Phương pháp đánh giá năng lực cạnh tranh quốc gia của WEF là phương pháp nghiên cứu năng lực cạnh tranh được sử dụng rộng rãi nhất hiện nay Cho đến năm 1999, WEF đánh giá năng lực cạnh tranh quốc gia theo 8 nhóm tiêu chí:
Nhóm 1: Độ mở cửa nền kinh tế, bao gồm các chỉ tiêu như thuế quan
và các hàng rào phi thuế quan, chính sách tỷ giá hối đoái;
Nhóm 2: Vai trò và hoạt động của Chính phủ, bao gồm: mức độ can thiệp của Nhà nước, năng lực của Chính phủ, quy mô của Chính phủ, thuế
và mức độ trốn thuế, chính sách tài khoá;
Nhóm 3: Các yếu tố về tài chính, bao gồm khả năng thực hiện các hoạt động trung gian tài chính, hiệu quả cạnh tranh, rủi ro tài chính, đầu tư
và tiết kiệm;
Nhóm 4: Các yếu tố về công nghệ bao gồm chỉ số về năng lực phát triển công nghệ trong nước, khai thác công nghệ thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài, hoặc phát triển công nghệ thông qua các kênh chuyển giao khác;
Nhóm 5: Các yếu tố về kết cấu hạ tầng bao gồm bưu chính viễn thông, giao thông, cơ sở hạ tầng khác;
Nhóm 6: Quản trị bao gồm các chỉ số về quản lý nguồn nhân lực và quản trị không liên quan đến nguồn nhân lực;
Trang 15Nhóm 7: Các yếu tố về lao động, bao gồm các chỉ số về trình độ tay nghề và năng suất lao động, độ linh hoạt của thị trường lao động, hiệu quả của các chương trình xã hội;
Nhóm 8: Các yếu tố về thể chế gồm các chỉ số về chất lượng các thể chế pháp lý, các luật và các văn bản pháp quy khác
Từ năm 2000, WEF điều chỉnh lại các nhóm tiêu chí, quy thành ba nhóm lớn là: sáng tạo kinh tế, khoa học công nghệ, tài chính, quốc tế hoá, trong đó trọng số của sáng tạo kinh tế, khoa học công nghệ đã tăng mạnh từ 1/9 lên 1/3, với hai chỉ số mới - Chỉ số Năng lực cạnh tranh tăng trưởng (Growth Competitiveness Index- GCI) và Chỉ số Năng lực cạnh tranh hiện
hành (Current Competitiveness Index- CCI)
Chỉ số năng lực cạnh tranh tăng trưởng đo lường các nhân tố góp phần cho mức tăng trưởng GDP trên đầu người Có 3 chỉ số có tác động lớn tới năng lực cạnh tranh tăng trưởng đó là: 1 Chỉ số Sáng tạo kinh tế, bao gồm đổi mới, chuyển giao và lan toả công nghệ và các thể chế hỗ trợ; 2 Chỉ số Tài chính đo lường tính hiệu quả của hệ thống tài chính thông qua tỷ lệ tiết kiệm và đầu tư và 3 Chỉ số quốc tế đo mức độ hội nhập kinh tế của quốc gia với phần còn lại của thế giới Chỉ số Năng lực cạnh tranh tăng trưởng được tính bằng cách lấy bình quân giản đơn từ 3 chỉ số này
Chỉ số năng lực cạnh tranh quốc gia hiện hành CCI được xây dựng trên nền tảng kinh tế vi mô và gồm hai nhóm chỉ số cấu thành là: Chỉ số Trình độ chiến lược và hoạt động của doanh nghiệp, được đánh giá qua trình
độ công nghệ sản xuất, mức độ hoạt động tiếp thị, tính đặc thù của sản phẩm
và tiếp cận thị trường quốc tế và Chỉ số Chất lượng môi trường kinh doanh của quốc gia (Quality of the Business Environment), được hình thành từ 4 nhóm nhân tố: 1 Các điều kiện đầu vào sản xuất; 2 Các điều kiện nhu cầu;
3 Các ngành công nghiệp hỗ trợ và liên quan; 4 Chiến lược, cấu trúc doanh nghiệp và cạnh tranh [24, 4-5]
Theo các tiêu chí đánh giá hiện đại, những yếu tố truyền thống được coi là quyết định đối với năng lực cạnh tranh của một quốc gia như tài nguyên thiên nhiên, lao động rẻ nhưng không được đào tạo, đồng tiền giá trị thấp hay ưu đãi khuyến khích của Chính phủ về thuế hay giá không còn đóng vai trò quan trọng như trước và vai trò của những yếu tố này sẽ còn giảm đi với sự phát triển của kinh tế tri thức
* Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp:
Trang 16Điểm chung nhất của hầu hết các khái niệm cạnh tranh xét từ phạm vi của doanh nghiệp là sức mạnh cạnh tranh dựa trên cơ sở chi phí thấp, sản phẩm tốt, công nghệ cao hoặc là tổ hợp của các yếu tố này Thông thường, một nhà sản xuất thường được coi là có năng lực cạnh tranh nếu có khả năng cung ứng một sản phẩm có chất lượng cao với mức giá thấp hơn so với các đối thủ cạnh tranh, thể hiện qua năng lực tồn tại, duy trì hay gia tăng lợi nhuận, thị phần trên thị trường cạnh tranh của các sản phẩm và dịch vụ của doanh nghiệp
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp gắn bó chặt chẽ với năng lực cạnh tranh quốc gia Một mặt, năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp cao
sẽ làm tăng năng lực cạnh tranh quốc gia Mặt khác, năng lực cạnh tranh quốc gia, thể hiện qua môi trường kinh doanh, các chính sách kinh tế vĩ mô, ảnh hưởng quyết định đến năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp, của các sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp
Ưu thế cạnh tranh của một nhà sản xuất so với các đối thủ cạnh tranh trong một ngành công nghiệp được thể hiện trên hai mặt: ưu thế cạnh tranh bên trong (ưu thế về chi phí) và ưu thế cạnh tranh bên ngoài (ưu thế về mức
độ khác biệt hoá)
-Ưu thế cạnh tranh bên trong là ưu thế được thể hiện trong việc làm giảm các chi phí sản xuất, chi phí quản lý của nhà sản xuất và tạo ra sản phẩm có giá thành thấp hơn so với giá thành của các đối thủ cạnh tranh
- Ưu thế cạnh tranh bên ngoài là ưu thế dựa vào chất lượng khác biệt của sản phẩm mà nhà sản xuất tạo ra so với các sản phẩm của đối thủ cạnh tranh Chất lượng khác biệt của sản phẩm phụ thuộc vào năng lực marketing của nhà sản xuất Ưu thế cạnh tranh bên ngoài tạo cho nhà sản xuất quyền lực thị trường
Có nhiều cách tiếp cận khác nhau đối với năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Theo Oral Singer và Kettani, các yếu tố xác định năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp bao gồm 3 yếu tố: Sự thành thạo về kỹ năng công nghiệp, chi phí liên quan đến kỹ năng, môi trường kinh tế của công ty Những yếu tố này phản ánh mặt mạnh của các nhà sản xuất riêng biệt vừa trên cơ sở các yếu tố do tác động của các chính sách, vừa trên cơ sở các yếu
tố thị trường Theo Van Duren, Martin và Westargen, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp được đo bằng: Chỉ số về năng suất lao động, bao gồm năng suất lao động và tổng năng suất các yếu tố sản xuất (TFP); Chỉ số về
Trang 17công nghệ, bao gồm các chỉ số về chất lượng, sự khác biệt; Đầu vào và các chi phí khác, như giá cả đầu vào và hệ số chi phí các nguồn lực [1,104-105]
M.Porter đã đưa ra khái niệm cạnh tranh mở rộng, theo đó năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp phụ thuộc vào năm nhân tố: các đối thủ tiềm năng, sản phẩm thay thế, người cung ứng, khách hàng, những đối thủ cạnh tranh trong ngành (Mô hình hình thoi của Porter) M.Porter đã chỉ ra các yếu
tố chính có mối quan hệ với nhau như trong mô hình có vai trò quan trọng quyết định năng lực cạnh tranh quốc tế của doanh nghiệp [22,146]
* Năng lực cạnh tranh của hàng hoá, dịch vụ:
Năng lực cạnh tranh của hàng hoá, dịch vụ được đo bằng thị phần của hàng hoá hay dịch vụ trên thị trường Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp thể hiện qua năng lực cạnh tranh của các hàng hoá, dịch vụ mà doanh nghiệp kinh doanh Vì vậy, các yếu tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của hàng hoá, dịch vụ trong thương mại quốc tế bao hàm các yếu tố từ phạm vi doanh nghiệp, ngành công nghiệp đến phạm vi quốc gia như:
- Điều kiện hay tình trạng về nhân tố sản xuất như nguồn nhân lực, tài nguyên thiên nhiên, vốn, kết cấu hạ tầng, tiềm năng khoa học kỹ thuật Cần phân biệt các loại yếu tố đầu vào khác nhau: đầu vào cơ bản (basic), cao cấp (advanced); đầu vào chung (generalized), đầu vào chuyên biệt (specialyzed), và lưu ý rằng mỗi một dạng đầu vào tạo nên lợi thế cạnh tranh khác nhau
- Tình trạng và nhu cầu trong nước đối với sản phẩm và dịch vụ: Hai thuộc tính cơ bản của cầu trong nước có ảnh hưởng lớn tới lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp là: (1) Tính chất của nhu cầu khách hàng; (2) Dung lượng và phương thức biến chuyển của nhu cầu
Tính chất của nhu cầu trong nước xác định cách thức doanh nghiệp nhận thức, lý giải và phản ứng trước nhu cầu của người mua Có thể phân biệt 3 đặc điểm nổi bật trong tính chất của cầu có tác động đáng kể đến lợi thế cạnh tranh: (a) Sự phân đoạn cấu trúc của cầu; (b) Độ am hiểu của khách hàng và (c) Nhu cầu dự đoán của khách hàng
Dung lượng và phương thức biến chuyển của nhu cầu trong nước có tác động trực tiếp đến lợi thế cạnh tranh trong một ngành Khi thị trường trong nước có dung lượng hay quy mô lớn có thể tạo ra lợi thế cạnh tranh trong những ngành có lợi ích kinh tế nhờ quy mô, do khuyến khích các
Trang 18doanh nghiệp trong nước tích cực đầu tư, sản xuất quy mô lớn, phát triển công nghệ và nâng cao năng suất
Để phân tích khả năng cạnh tranh của hàng hoá và dịch vụ, người ta thường sử dụng mô hình tổng Porter - Dunning Mô hình này được thể hiện thông qua cấu trúc sau đây:
Mối liên kết giữa các nhân tố quyết định lợi thế cạnh tranh
Mô hình này kết hợp được tất cả các yếu tố tác động đến khả năng của hàng hoá và dịch vụ cả cấp độ quốc gia và quốc tế, cả phân tích tĩnh và phân tích động Tuy nhiên, việc áp dụng mô hình này thường rất khác nhau Khó khăn lớn nhất là không thể đề cập đến tất cả các yếu tố và lượng hoá chúng, đặc biệt là ở các nước đang phát triển do hạn chế về thống kê Dó đó, người
ta thường chỉ lựa chọn những yếu tố chủ yếu, có tác động lớn để phân tích năng lực cạnh tranh của các sản phẩm hàng hoá và dịch vụ
1.2 CẠNH TRANH XUẤT KHẨU TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP KINH
CHIẾN LƯỢC CÔNG
TY, CƠ CẤU VÀ ĐỐI
THỦ CẠNH TRANH
Tình trạng về cầu trong nước
Điều kiện/tình trạng
về nhân tố sản xuất
Yếu tố bất thường
Thực trạng các ngành bổ trợ và liên quan
Chính phủ
Trang 19Như vậy, trên bình diện xã hội, cạnh tranh mang tính tích cực do nó thúc đẩy quá trình thải loại những thành viên yếu kém trên thị trường, duy trì và phát triển những thành viên tốt nhất, và qua đó tạo ra sự phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực xã hội Trên bình diện quốc tế, chính cạnh tranh đã thúc ép các doanh nghiệp mở rộng, tìm kiếm thị trường với mục đích tiêu thụ sản phẩm, đầu tư huy động vốn và lao động, phát triển công nghệ, hoàn thiện kỹ năng quản lý trên thị trường quốc tế Thông qua cạnh tranh quốc tế, các doanh nghiệp thấy được lợi thế so sánh, lợi thế cạnh tranh cũng như các điểm yếu kém của mình để hoàn thiện, xây dựng các chiến lược kinh doanh trên thị trường quốc tế
Trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế, cạnh tranh là tác nhân quan trọng khuyến khích sự thay đổi thể chế của các quốc gia Cạnh tranh tạo ra nhu cầu phải xây dựng các thể chế hiệu quả hơn Tự do hoá thương mại là
ưu tiên của các quốc gia trong việc thúc đẩy cạnh tranh trên các thị trường sản phẩm Mức độ mở cửa thị trường ở các nước công nghiệp sẽ góp phần tạo động lực để phát triển thị trường và thể chế ở các nước đang phát triển Ngay cả những tiêu chuẩn quốc tế trong thương mại cũng có tác động
khuyến khích thương mại thông qua việc hạn chế tính thiếu hiệu quả trong thương mại quốc tế
Cạnh tranh giữa các cá thể trên thị trường, giữa các doanh nghiệp trong mỗi thị trường, giữa các cá nhân gắn chặt với thể chế của mỗi Chính phủ và thúc đẩy sự thay đổi thể chế của các cơ quan quyền lực Nhà nước Khi cạnh tranh tăng lên, các thể chế truyền thống dựa trên các chuẩn mực cũ
có thể trở nên không đầy đủ hay không phù hợp, đòi hỏi phải xây dựng các thể chế mới hoặc cải thiện chất lượng các thể chế sẵn có Cạnh tranh trên thị trường sản phẩm có thể dẫn tới sự thay đổi thể chế trên thị trường lao động
và các doanh nghiệp cạnh tranh với nhau trên thị trường sản phẩm bắt buộc phải tăng tính hiệu quả, đồng thời có động cơ để vận động các nhà hoạch định chính sách thực hiện các thay đổi thể chế để làm giảm chi phí của các doanh nghiệp Cạnh tranh giữa các nước và giữa các doanh nghiệp nước ngoài cũng gây áp lực để thay đổi các thể chế kinh doanh trong mỗi nước và trong quan hệ kinh tế giữa các nước Trong nền kinh tế hiện đại, nhìn chung các Chính phủ dựa vào cạnh tranh nhiều hơn để đạt được các kết quả thị trường mong muốn nhưng trong một số trường hợp, các thể chế hạn chế cạnh tranh cũng là cần thiết để thúc đẩy sự phát triển thị trường như sự bảo
hộ nhất định đối với các công nghệ mới hay kiểm soát mức độ cạnh tranh
trong lĩnh vực tài chính ngân hàng
Trang 20Nhân tố trung tâm của cạnh tranh trên thị trường sản phẩm là sự tự do của các doanh nghiệp trong việc sử dụng các nguồn lực tại nơi mà họ chọn
và trao đổi các nguồn lực tại mức giá mà họ chọn Cạnh tranh trên thị trường sản phẩm làm tăng hiệu quả, năng suất cũng như tốc độ tăng trưởng năng suất trong nền kinh tế bằng cách tạo động cơ để buộc các nhà quản lý phải giảm chi phí, đổi mới và cải tiến việc sắp xếp, tổ chức quản lý Tăng trưởng năng suất, đến lượt nó, là một trong những nguồn chính để tạo ra tăng trưởng kinh tế quốc gia Ở các nước công nghiệp, tăng trưởng năng suất thường là kết quả của các tiến bộ công nghệ trong khi ở các nước đang phát triển, tăng trưởng năng suất gắn liền với công nghệ nhập vào thông qua thương mại, đầu tư trực tiếp nước ngoài, cấp phép sử dụng và các liên doanh
Tại các nước đang phát triển, với năng lực hạn chế và có ít các thể chế
hỗ trợ thì các nhà hoạch định chính sách phải ưu tiên hàng đầu cho việc tự
do gia nhập và rút lui của các doanh nghiệp và buộc các doanh nghiệp phải đối mặt với cạnh tranh quốc tế Các rào cản về sự gia nhập và rút lui khỏi thị trường của các doanh nghiệp được coi là rào cản thể chế chủ yếu đối với cạnh tranh trong nước của các nước đang phát triển, thậm chí ngay cả ở khu vực sản xuất sản phẩm xuất khẩu, ví dụ như các rào cản đối với các hoạt động trong một số lĩnh vực sản xuất hàng xuất khẩu hay những hạn chế trong việc tiếp cận nguồn tư liệu nhập khẩu
Các thể chế trong nước thúc đẩy cạnh tranh bao gồm luật cạnh tranh
và các cơ quan điều tiết cạnh tranh Chính phủ đưa ra các thể chế để giải quyết các vấn đề liên quan tới các rào cản làm hạn chế cạnh tranh trên các thị trường sản phẩm Tại các quốc gia mà nguồn lực bị hạn chế, Chính phủ
có thể thu lợi từ việc tập trung xoá bỏ các rào cản đối với sự gia nhập và rút lui trên thị trường và mở cửa nền kinh tế để tiếp nhận sự cạnh tranh quốc tế trước khi tập trung vào việc xây dựng các thể chế cạnh tranh, đặc biệt là trong các khu vực có khả năng xuất nhập khẩu
Bản thân cải cách thương mại quốc tế có thể được xem là sự cải cách
về thể chế Thương mại quốc tế thúc đẩy cạnh tranh trong các thị trường Sự
mở cửa đối với thương mại quốc tế cũng tạo ra áp lực đối với Chính phủ để cải cách các quy định về thị trường sản phẩm và thị trường các nhân tố sản xuất trong nước, những qui định làm xói mòn năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong việc đối phó với áp lực cạnh tranh từ nước ngoài Tuy nhiên, tác động của nguồn cạnh tranh này bị hạn chế và chỉ tập trung chủ
Trang 21yếu vào các hàng hoá có tham gia xuất nhập khẩu Mở cửa ra thị trường thế giới đóng vai trò trung tâm trong việc thúc đẩy cạnh tranh ở thị trường trong nước Hàng hoá nhập khẩu trực tiếp tạo ra áp lực cạnh tranh trên thị trường trong nước Áp lực này cũng được đưa vào một cách gián tiếp thông qua xuất khẩu do các doanh nghiệp trong nước phải cạnh tranh trên thương trường quốc tế
Trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế hiện đại, lý thuyết cạnh tranh cũng thay đổi từ cạnh tranh dựa vào lợi thế sang cạnh tranh dựa vào quy chế
Sự khác nhau rõ rệt nhất giữa lý thuyết truyền thống và lý thuyết cạnh tranh hiện đại là lý thuyết cạnh tranh hiện đại đã chứng minh vai trò của Chính phủ trong điều kiện kinh tế quy mô và thị trường không hoàn hảo và đi đến kết luận: trong điều kiện cạnh tranh quốc tế hiện nay, Chính phủ và doanh nghiệp các nước có thể dùng các chính sách, chiến lược để tác động vào chênh lệch thương mại và lợi nhuận Trong điều kiện toàn cầu hoá, khi chính sách của các quốc gia tác động trực tiếp đến thương mại quốc tế, thương mại quốc tế là kết quả tác động của năm nhân tố: lợi thế truyền thống, kết cấu quốc tế của ngành, hệ thống công ty xuyên quốc gia, mức độ can thiệp bằng chính sách của chính phủ và tập quán kinh doanh Năm nhân tố này cho phép lý giải mối quan hệ phức tạp giữa các nước, các ngành, các doanh nghiệp các chính phủ và tính chất của cạnh tranh quốc tế
1.2.2 Các tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh xuất khẩu
Trong thương mại quốc tế, thị phần hay tỷ lệ thâm nhập thị trường được hiểu là mức chiếm lĩnh thị trường của hàng xuất khẩu hay sự thâm nhập của hàng nhập khẩu Mức chiếm lĩnh thị trường của xuất khẩu là tỷ lệ xuất khẩu của một nhà sản xuất so với tổng kim ngạch xuất khẩu của thế giới hay khu vực Một nhà xuất khẩu có được một thị phần lớn hơn là nhà sản xuất có năng lực cạnh tranh cao hơn các đối thủ cạnh tranh quốc tế Năng lực cạnh tranh xuất khẩu thường được đánh giá theo các tiêu chí sau:
(1) Lợi thế so sánh và lợi thế cạnh tranh
Lợi thế so sánh giúp một nước xác định mặt hàng nên sản xuất/ xuất khẩu dựa vào lợi thế về chi phí sản xuất so với nước xuất khẩu khác nhờ vào
ưu thế tương đối của nước đó về các yếu tố sản xuất: đất đai, tài nguyên thiên nhiên, lao động hay vốn Như vậy, có thể coi lợi thế so sánh là điều kiện cần để có được năng lực cạnh tranh quốc tế về sản phẩm xuất khẩu nhưng chưa phải là điều kiện đủ
Trang 22Lợi thế so sánh không phải là yếu tố tĩnh như vẫn thường quan niệm
mà có thể thay đổi năng động do lợi thế so sánh của một nước không chỉ phụ thuộc vào các yếu tố tương đối tĩnh như tài nguyên thiên nhiên và đất đai mà còn phụ thuộc vào các yếu tố động là lao động và vốn (công nghệ, máy móc v.v.) nên lợi thế so sánh có thể thay đổi nhờ vào ứng dụng những công nghệ mới thông qua R&D, FDI và liên kết sản xuất qua biên giới để tận dụng lợi thế so sánh về tài nguyên của các nước và lợi ích kinh tế nhờ quy mô Ngoài
ra, phân tích lợi thế so sánh còn cần tính đến khả năng nâng cao trình độ thành thạo của công nhân và thay đổi mô hình sản xuất của các nước Lợi thế so sánh được hình thành nhờ vào các yếu tố động được gọi là lợi thế cạnh tranh
Lợi thế so sánh và lợi thế cạnh tranh được đo bằng chỉ số lợi thế so sánh hiển thị RCA (Revealed Comparative Advantage):
RCA ij = (X ij /X j )/(X i /X)
Trong đó
X ij = xuất khẩu sản phẩm i từ nước j
X i = xuất khẩu sản phẩm i trên thế giới
X j = xuất khẩu tất cả các hàng hoá từ nước j
X = xuất khẩu tất cả các hàng hoá trên thế giới
Chỉ số RCA so sánh xuất khẩu một mặt hàng của một nước (được quy theo giá trị của nó trong tổng xuất khẩu) với tỷ trọng của mặt hàng đó thương mại thế giới Giá trị RCA lớn hơn 1 có nghĩa là nước này đang thể hiện được lợi thế tương đối về mặt hàng i, vì tỷ số xuất khẩu sản phẩm đó của đất nước trong tổng xuất khẩu của nước đó lớn hơn tỷ số đó của thế giới Ngược lại, nếu RCA nhỏ hơn 1 nghĩa là nước này dường như không có lợi thế tương đối trong việc xuất khẩu mặt hàng i
(2) Cơ hội thay đổi vị thế tại thị trường nước ngoài
Xét theo phương diện thị trường, năng lực cạnh tranh của sản phẩm xuất khẩu được đánh giá định lượng theo các tiêu chí sau:
- Tính tương thích về thương mại
Chỉ số tương thích về thương mại (Cx/m) đo mức độ tương thích giữa các sản phẩm xuất khẩu của một nước với các sản phẩm thị trường nước ngoài nhập khẩu Ví dụ, chỉ số này sẽ tiến đến 0 nếu nước này không xuất
Trang 23khẩu loại hàng mà thị trường nước ngoài nhập khẩu và sẽ tiến đến 1 khi lượng xuất khẩu một mặt hàng của nước này tương đồng với thị phần nhập khẩu sản phẩm đó của thị trường nước ngoài Chỉ số này cho biết năng lực cạnh tranh của hàng xuất khẩu một nước so với sản phẩm xuất khẩu tương tự của các nước khác trên một thị trường nhất định thông qua khả năng đáp ứng của hàng xuất khẩu với những yêu cầu tiêu chuẩn và nhu cầu, thị hiếu tiêu dùng của thị trường nước nhập khẩu Chỉ số này cho biết tiềm năng cải thiện năng lực cạnh tranh và cách thức hình thành lợi thế cạnh tranh
- Độ co giãn của cầu theo giá và theo thu nhập tại thị trường nước ngoài
Nhu cầu đối với sản phẩm nhập khẩu phụ thuộc vào hai yếu tố chủ yếu: (1) tổng nhu cầu của người tiêu dùng về một sản phẩm nhập khẩu dựa trên thu nhập, mức giá và các yếu tố nhân khẩu (2) lượng mua các sản phẩm nhập khẩu từ các nhà cung ứng, phụ thuộc vào sự so sánh giá cả và chất lượng giữa các nhà xuất khẩu Như vậy, để xác định khả năng tăng xuất khẩu, mở rộng thị phần xuất khẩu một loại hàng hoá nhất định, cần đánh giá mức độ co giãn của cầu theo giá và độ co giãn của cầu theo thu nhập đối với sản phẩm đó tại thị trường nước tiêu thụ
Nếu quyết định mua sắm của người tiêu dùng phụ thuộc vào sự so sánh giá giữa các nhà cung ứng khác nhau thì năng lực cạnh tranh về giá sẽ phụ thuộc nhiều vào tỷ giá hối đoái hữu hiệu thực (Real Efective Exchange Rate: REER) giữa đồng nội tệ của nước xuất khẩu và các đồng tiền mạnh, sự tăng hoặc mất giá của đồng nội tệ của các đối thủ cạnh tranh và đặc biệt là
“tỷ giá bóng”, tức tỷ giá thực bị tác động do những chính sách thương mại như chính sách bảo hộ bằng hàng rào thuế quan và phi thuế quan, chính sách trợ cấp xuất khẩu v.v
(3) Chi phí sản xuất
Chi phí sản xuất là chỉ tiêu quyết định năng lực cạnh tranh nhờ giá cả Chi phí sản xuất bao gồm chi phí lao động (trả lương và các khoản phụ cấp cho lao động) và chi phí sử dụng các nguồn đầu vào phục vụ sản xuất như nguyên vật liệu và các dịch vụ khác như điện, nước, điện thoại, cơ sở hạ tầng giao thông v.v Một nền kinh tế có thể ở một trong 3 giai đoạn phát triển: giai đoạn phát triển ban đầu phụ thuộc nhiều vào các yếu tố sản xuất sẵn có, giai đoạn phát triển nhờ vào hiệu quả đầu tư và giai đoạn phát triển cao nhất
là nhờ vào sự tự sáng tạo đổi mới công nghệ Việc hạ giá thành sản phẩm sẽ
Trang 24dễ dàng và có hiệu quả hơn nếu nền kinh tế ở giai đoạn phát triển cao hơn Năng lực cạnh tranh về chi phí sản xuất thường được đánh giá bằng các tiêu chí sau:
- Chỉ số lợi thế chi phí
Để so sánh với các doanh nghiệp khác trong và ngoài nước cùng tham gia cạnh tranh (cùng một loại sản phẩm), có thể dùng "chỉ số về lợi thế chi phí" của Siggel và Cocburn:
Khi đó: IC = UC*e - UC > 0 (2)
Nếu IC > 0 thì nhà sản xuất kinh doanh trong nước có năng lực cạnh tranh thực tế (lợi thế so sánh) hơn đối thủ nước ngoài Tuy nhiên, việc tính toán này cũng chỉ phản ánh một phần trong tổng thể tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh xuất khẩu của doanh nghiệp và trong thực tiễn rất khó xác định chính xác chi phí của nhà sản xuất kinh doanh - cạnh tranh nước ngoài trên một đơn vị đầu ra của sản phẩm [13, 38]
- Hệ số chi phí nguồn lực nội địa
Năng lực cạnh tranh trên cơ sở chi phí sản xuất cũng thường được đánh giá bằng Hệ số chi phí nguồn lực nội địa (Domestic Resource Cost Coefficient: DRCC)
Hệ số chi phí nguồn lực nội địa (DRCC) giúp đánh giá lợi thế so sánh khi sản xuất một loại hàng hoá dựa trên hiệu quả sử dụng các đầu vào nội địa để sản xuất hàng hoá đó Chỉ tiêu này liên quan đến chi phí
cơ hội của việc sử dụng các đầu vào nội địa Hệ số này được sử dụng
Trang 25chủ yếu cho hàng nông sản vì việc sản xuất chúng sử dụng nhiều nguồn
lực nội địa
DRCC = DRC/(NV*EX)
DRC: chi phí sử dụng các nguồn lực nội địa; nó thể hiện tổng chi phí cơ hội
của việc sử dụng tất cả các nguồn trong nước cần thiết để sản xuất ra một đơn vị thu nhập
NV: giá trị gia tăng của hàng hoá dựa vào giá ở biên giới
EX: tỷ giá ẩn
Nếu DRCC<1 thì việc sản xuất tạo ra thu nhập cao hơn chi phí bỏ ra
do đó một nước có lợi thế so sánh về sản xuất sản phẩm đó và nếu DRCC>1 thì ngược lại
(4) Đánh giá tiềm năng xuất khẩu
Năng lực cạnh tranh xuất khẩu còn thường được đánh giá thông qua tiềm năng phát triển sản phẩm xuất khẩu theo các tiêu chí sau:
- Xu hướng tăng trưởng xuất khẩu
Việc tăng trưởng xuất khẩu nhanh một số sản phẩm cho thấy sự thay đổi về năng lực cạnh tranh Ngược lại nếu tốc độ tăng trưởng giảm hoặc đình trệ cho thấy năng lực cạnh tranh của sản phẩm giảm đi Với những yếu tố khác không đổi, những mặc hàng xuất khẩu tăng trưởng nhanh, dù được thể hiện bằng những con số tuyệt đối nhỏ, cho thấy quốc gia có tiềm năng phát triển đối với các sản phẩm này và cần được nghiên cứu chi tiết
- Tăng trưởng nhu cầu tiêu thụ trên thế giới
Cầu thị trường thế giới tăng trưởng nhanh đối với một số sản phẩm xuất khẩu mà một quốc gia có lợi thế sẽ làm tăng năng lực cạnh tranh xuất khẩu của quốc gia đó, tạo điều kiện tăng trưởng xuất khẩu và cải thiện cán cân thanh toán nhờ lợi nhuận xuất khẩu cao hơn
- Tầm quan trọng tương đối của sản phẩm xuất khẩu
Rõ ràng đối với những hàng hoá và dịch vụ mà một quốc gia đã là nước xuất khẩu lớn thì lợi thế so sánh về sản phẩm này là nhân tố đã được khẳng định Hơn thế nữa, việc tiếp tục duy trì xuất khẩu sản phẩm này có ý nghĩa quan trọng đối với cán cân thương mại, khả năng thu ngoại tệ, tạo việc làm và đóng góp vào GDP vì chỉ một thay đổi nhỏ tỷ lệ xuất khẩu sản phẩm này có thể tác động lớn tiêu cực hoặc tích cực đối với nền kinh tế Xét về
Trang 26mặt chiến lược thì đây là những sản phẩm “nuôi sống đất nước” và thường được chú ý đặc biệt Những ưu tiên về chính sách thường có cùng với những lợi thế tự nhiên sẽ đảm bảo năng lực cạnh tranh của sản phẩm xuất khẩu này trên thị trường quốc tế
Vị thế của sản phẩm xuất khẩu trong tổng thương mại toàn cầu cũng hết sức quan trọng Đối với các sản phẩm đã chiếm được thị phần đáng kể
trên thị trường thế giới, thay đổi lượng xuất khẩu chắc chắn sẽ có tác động chi phối đến giá cả quốc tế
(5) Đánh giá định tính
Năng lực cạnh tranh luôn vận động chính vì thế khi đánh giá năng lực
cạnh tranh của một chủ thể nào đó thì phải xem xét xu thế cạnh tranh trong tương lai Cách đánh giá định tính năng lực hiện tại của một ngành, dựa vào các yếu tố bên trong và bên ngoài ngành có thể giúp dự báo năng lực cạnh tranh của ngành trong dài hạn Một trong những cách đánh giá phổ
biến là phân tích SWOT về điểm mạnh (Strengths), điểm yếu (Weaknesses),
cơ hội (Opportunities) và thách thức (Threats)
Phân tích điểm mạnh và điểm yếu sẽ đánh giá và phân tích môi trường bên trong của một ngành Những yếu tố được đánh giá bao gồm các yếu tố
vi mô như tình hình tổ chức sản xuất, chất lượng, giá thành sản phẩm, khả năng quản lý, phân phối, tiếp thị sản phẩm, nguồn tài chính, nhân lực, cơ sở vật chất công nghệ của các doanh nghiệp nói chung trong ngành, liên kết trong ngành, liên kết liên ngành, v.v Trong khi đó, phân tích môi trường bên ngoài sẽ giúp đánh giá được cơ hội và thách thức đối với ngành Các yếu tố cấu thành nên môi trường bên ngoài bao gồm những biến động thuộc về môi trường luật pháp, kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá và công nghệ, những chính sách vĩ mô của chính phủ như bảo hộ hay khuyến khích, chính sách tỷ giá hối đoái và việc thực hiện các cam kết tự do hoá thương mại theo các hiệp định ký kết v.v
Năng lực cạnh tranh xuất khẩu của doanh nghiệp có quan hệ hữu cơ với môi trường kinh doanh - cạnh tranh trong nước và quốc tế Năng lực cạnh tranh xuất khẩu của doanh nghiệp được xác định bởi các tiêu chí chủ yếu trên đây chỉ là tiềm năng và sẽ hạn chế nếu môi trường kinh doanh - cạnh tranh trong nước và quốc tế không thuận lợi
1.2.3.Các yếu tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh xuất khẩu trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế
Trang 27Năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp, các sản phẩm, dịch vụ xuất khẩu chịu tác động của nhiều yếu tố chi phối môi trường cạnh tranh trong nước và quốc tế
* Xét từ góc độ sản phẩm xuất khẩu, trong thương mại quốc tế, các
yếu tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh sản phẩm trong thương mại quốc
tế bao hàm các yếu tố từ phạm vi doanh nghiệp, ngành công nghiệp đến phạm vi quốc gia Nhìn chung, các yếu tố ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh sản phẩm trong thương mại quốc tế có thể được tập hợp thành 4 nhóm cơ bản sau:
- Các yếu tố thuộc về lợi thế so sánh
- Các yếu tố thuộc về khả năng tăng trưởng kinh tế đất nước
- Các yếu tố thuộc về môi trường kinh doanh của doanh nghiệp
- Các yếu tố thuộc về năng lực doanh nghiệp
- Nhóm các yếu tố thuộc về lợi thế so sánh
Trước hết, đó là mức độ dồi dào tương đối về các yếu tố tài nguyên thiên nhiên, cũng như con người và nguồn vốn Một yếu tố khác thuộc nhóm này là năng suất lao động của nhà sản xuất được phản ánh bằng các hệ số đầu vào thấp
- Nhóm các yếu tố thuộc về khả năng tăng trưởng kinh tế đất nước
Trong nhóm này có 3 yếu tố tạo ra năng lực cạnh tranh và triển vọng tăng trưởng kinh tế đất nước:
(1) Tài trợ và nợ nước ngoài có ảnh hưởng đến các luồng vốn và chất lượng của nền tài chính quốc gia
(2) Tiết kiệm và đầu tư có ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn vốn đầu tư, nếu khả năng tiết kiệm bị hạn chế mà yêu cầu đầu tư quá lớn sẽ dẫn đến tình trạng lạm phát và lãi suất vay vốn cao
(3) Tỷ giá hối đoái có cảnh hưởng trực tiếp đến các hàng hóa xuất nhập khẩu Nếu tỷ giá của đồng nội tệ so với đồng ngoại tệ quá thấp sẽ khuyến khích xuất khẩu nhưng sẽ làm tăng giá hàng nhập khẩu và gây khó khăn trong thanh toán nợ nước ngoài
- Nhóm các yếu tố thuộc về môi trường kinh doanh của doanh nghiệp
Trang 28Nhóm các yếu tố thuộc về môi trường kinh doanh của doanh nghiệp bao gồm: các chính sách thương mại; môi trường đầu tư; chế độ tài chính; cơ cấu doanh nghiệp; năng lực sản xuất công nghiệp
Chính sách thương mại của mỗi quốc gia vẫn luôn được sử dụng gây nên những tác động trái ngược nhau đến thương mại quốc tế Đối với xuất khẩu, các nước thường áp dụng các chính sách khuyến khích xuất khẩu nhằm làm tăng thêm lợi thế của hàng hóa xuất khẩu trên thị trường thế giới, giúp các nhà sản xuất trong nước phát triển nhanh thị trường tiêu thụ ngoài nước đến khi đạt được lợi thế nhờ qui mô
Môi trường đầu tư có ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng tiếp cận các nguồn vốn của doanh nghiệp Các thủ tục, quy chế, tính hiệu lực có liên quan đến các hợp đồng vay vốn của doanh nghiệp cũng như khả năng phát triển các nguồn vốn trung và daì hạn…là những yếu tố quan trọng của môi trường đầu tư
Chế độ tài chính: thực trạng và hoạt động của thị trường tài chính là một trong những nhân tố quyết định năng lực cạnh tranh Tăng trưởng kinh
tế nhanh phụ thuộc chủ yếu vào khả năng của nền tài chính trong việc huy động và phân bổ có hiệu quả tín dụng vào các ngành kinh tế của một đất nước
Cơ cấu doanh nghiệp và tính ganh đua giữa các doanh nghiệp có ảnh hưởng đến sự gia tăng về năng suất, năng lực cạnh tranh, nâng cao mức thu nhập và tăng việc làm Cơ cấu doanh nghiệp phải nâng cao hiệu quả chung của ngành công nghiệp và phải tạo ra tính ganh đua giữa các doanh nghiệp trong môi trường cạnh tranh bình đẳng
Khả năng phát triển của một ngành phụ thuộc vào mức độ dồi dào của nguồn nhân lực được đào tạo, có kỹ năng nghề nghiệp và trình độ công nghệ không ngừng được nâng cao Công nghệ ngày càng có vai trò quan trọng trong việc nâng cao năng suất tiềm tàng của tất cả các yếu tố sản xuất Trong nhiều ngành công nghiệp, lợi thế so sánh của các nước đang phát triển dựa trên nguồn nhân lực rẻ đã giảm dần do sự phát triển của công nghệ
- Nhóm các yếu tố thuộc về năng lực của doanh nghiệp
Các yếu tố thuộc về hoạt động doanh nghiệp có ảnh hưởng trực tiếp đến chi phí cá biệt của doanh nghiệp và chất lượng sản phẩm cũng như khả năng tiêu thụ sản phẩm và thị phần của doanh nghiệp Nhóm các yếu tố này
Trang 29gồm hiệu quả hoạt động doanh nghiệp và chiến lược phát triển của doanh
nghiệp
Hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp chính là các hoạt động của doanh nghiệp nhằm áp dụng công nghệ mới, sử dụng các yếu tố đầu vào mới hoặc thay thế, giới thiệu và phân phối sản phẩm, đề ra các giải pháp nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm
Chiến lược phát triển của doanh nghiệp nhằm mang lại cho doanh nghiệp triển vọng cạnh tranh đa phương diện (cạnh tranh về giá, chất lượng sản phẩm, dịch vụ trước và sau bán, phát triển khách hàng )
* Xét từ góc độ doanh nghiệp: là một chủ thể kinh tế, năng lực cạnh
tranh của một doanh nghiệp sẽ phải chịu tác động của các yếu tố của môi trường kinh doanh trong nước, bao gồm (1) môi trường luật pháp; hệ thống chính sách (2) môi trường kinh tế: sự ổn định và phát triển của nền kinh tế trong nước (3) cấu trúc cạnh tranh: sự đa dạng nhiều hình thức kinh doanh,
sự tham gia của các đối thủ cạnh tranh trong và ngoài nước v.v
Khi tham gia vào kinh doanh quốc tế, ngoài chịu sự tác động của các yếu tố nội địa trên, các chủ thể kinh tế còn bị ảnh hưởng của những yếu tố của thị trường nước ngoài: (4) trình độ công nghệ: sự chênh lệch về trình độ
và hiệu quả ứng dụng công nghệ, (5) cấu trúc phân phối: khả năng phân phối có hiệu quả sản phẩm ra thị trường nước ngoài, (6) yếu tố địa lý, cơ sở
hạ tầng của nước ngoài, (7) các yếu tố văn hoá: sự khác biệt về văn hoá, tôn giáo, con người dẫn đến những thói quen tiêu dùng, tập quán kinh doanh khác nhau Môi trường kinh doanh quốc tế có tác động lớn đến khả năng cạnh tranh của hàng hoá, đặc biệt là hàng hoá xuất khẩu
Trong xu thế hội nhập toàn cầu với sự ra đời của các tổ chức quốc tế như Tổ chức thương mại thế giới (WTO), Ngân hàng thế giới (WB), Tổ chức tiền tệ thế giới (IMF) v.v, thì các chủ thể kinh tế còn bị tác động bởi những quy định luật lệ của các tổ chức này
Những ràng buộc cam kết và luật lệ của các định chế này mà các nước thành viên phải tuân thủ có ảnh hưởng quyết định đến khả năng tiếp cận thị trường nước ngoài Việc tiếp cận thị trường nước ngoài được tạo thuận lợi hơn thông qua tự do hoá thương mại đơn phương, song phương hay đa phương Nhưng bên cạnh đó, những ưu đãi thương mại song phương hay khu vực cũng tạo ra những điều kiện cạnh tranh không công bằng đối với các nước không thuộc các định chế này
Trang 30Việc nâng cao năng lực cạnh tranh xuất khẩu của doanh nghiệp phải do sự nỗ lực của chính bản thân doanh nghiệp bằng cách thực hiện các giải pháp vi mô thích hợp Bên cạnh đó, nhà nước có vai trò quyết định trong việc tạo lập, hoàn thiện môi trường kinh doanh - cạnh tranh chung, thông qua đàm phán, ký các cam kết quốc tế về hội nhập và hoàn thiện hệ thống luật pháp, chính sách, cơ chế về thương mại nhằm tạo thuận lợi cho doanh nghiệp xuất khẩu
1.3 KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ NƯỚC VỀ NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH XUẤT KHẨU
1.3.1 Chiến lược nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia
* Xây dựng Chiến lược nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia:
Theo kinh nghiệm của các nước đã thành công trong việc cải thiện năng lực cạnh tranh xuất khẩu, Chính phủ có vai trò hết sức quan trọng không chỉ ở việc đề ra định hướng, xây dựng chiến lược cạnh tranh mà còn ở việc tạo ra thể chế, môi trường và điều kiện thuận lợi để các thực thể trong nước có điều kiện chuyển từ lợi thế so sánh sang lợi thế cạnh tranh trên cơ
sở xây dựng chiến lược nâng cao khả năng cạnh tranh quốc gia Chiến lược này sẽ giúp thống nhất trình tự áp dụng các biện pháp tạo thuận lợi cho thương mại và xác định ưu tiên phân bổ nguồn lực, cải thiện cơ sở hạ tầng
và các biện pháp nâng cao hơn khả năng cạnh tranh của hàng hoá và dịch vụ Chính phủ đóng vai trò quan trọng trong việc định hướng chính sách và tạo
ra môi trường an toàn để sản xuất kinh doanh nhưng việc thực hiện chiến
lược lại phụ thuộc vào giới kinh doanh
Do đó, việc xây dựng sự liên kết hay cơ chế đối thoại chính thức giữa Chính phủ và doanh nghiệp có vai trò hết sức quan trọng giúp Chính phủ thường xuyên cập nhật được những thông tin đáng tin cậy, cần thiết cho việc xây dựng chiến lược và giới kinh doanh - những người trực tiếp thực hiện và bị tác động nhiều nhất từ những chiến lược của Nhà nước - có cơ hội thể hiện tiếng nói của mình; tất cả tạo ra sự đồng thuận trong nước để hỗ trợ cho phát triển
Kế hoạch quốc gia về Xúc tiến và Cạnh tranh của Paraguay là một chiến lược xuất khẩu quốc gia kiểu mới, có sự phối hợp giữa Chính phủ và
Trang 31đại diện của khu vực tư nhân trong việc đề ra và thực hiện các chính sách công và các chính sách đối với khu vực tư nhân với mục tiêu nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia Chính phủ nhận thức được rằng thành công sẽ phụ thuộc vào khả năng các ngành kinh tế xây dựng được chiến lược phát triển, đối phó với những thay đổi bất ngờ trên thị trường toàn cầu thông qua việc
áp dụng công nghệ mới và sử dụng các nguồn lực có hiệu quả và sáng tạo [13, 92] Các nước Đông Á cũng rất thành công trong việc tạo ra sự đối thoại trực tiếp giữa các quan chức chính phủ và cộng đồng kinh doanh Chính phủ được cập nhật đầy đủ thông tin về môi trường kinh doanh, những thách thức đối với phát triển kinh tế đất nước và luôn có sự tham vấn với khu vực kinh
tế tư nhân để xây dựng các định hướng chiến lược, tận dụng thời cơ và chú trọng xuất khẩu dựa trên lợi thế so sánh Qúa trình tham vấn này được thực hiện thông qua các “hội đồng” Tại đây, các quan chức chính phủ và đại diện các giới kinh doanh gặp gỡ nhau để trao đổi thông tin thị trường, trao đổi về các khía cạnh chiến lược, điều phối hoạt động và hiểu sâu hơn về chiến lược của Chính phủ [18,21]
* Xây dựng "nhãn hiệu quốc gia" (National Brand)
Xây dựng "nhãn hiệu quốc gia" là một phần rất quan trọng trong chiến lược cạnh tranh quốc gia Nhãn hiệu quốc gia nhằm xây dựng hình ảnh về một đất nước dựa trên những giá trị tích cực của quốc gia và nhấn mạnh đến hình ảnh đó trong xúc tiến xuất khẩu, phát triển du lịch và thu hút đầu tư nước ngoài Xây dựng nhãn hiệu quốc gia giúp cá biệt hóa sản phẩm của một nước trên thị trường hàng hóa quốc tế đang ngày càng trở nên tương đồng trong xu hướng toàn cầu hóa Làm được điều này không phải đơn giản
và đòi hỏi đầu tư tương đối lớn, đặc biệt từ phía Chính phủ, nhưng nếu đặt ra mục tiêu trên thì tất cả các sản phẩm hàng hoá và dịch vụ của một nước đều phải cố gắng hoàn thiện để đạt được chất lượng cam kết
Nhật Bản đã xây dựng được hình ảnh về một đất nước có sản phẩm chất lượng cao, hàm lượng công nghệ và sáng tạo lớn, đặc biệt đối với hàng điện tử Thụy Sĩ đặt mục tiêu xây dựng hình ảnh của đất nước là “chất lượng và sự tin cậy” và thành lập một cơ quan “Presence Suisse - Sự hiện diện của Thụy Sĩ” phụ trách chương trình này Một số nước đang phát triển trước đây đã rất thành công trong việc xây dựng nhãn hiệu quốc gia hay nhóm quốc gia như “những con hổ châu Á”, “những con hổ mới”, “những con sư tử châu Phi”
Trang 32* Thành lập các hội đồng chuyên trách về nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia
Đi kèm với việc xây dựng chiến lược cạnh tranh quốc gia, cần xác định phương pháp đánh giá hiệu quả của chiến lược cạnh tranh quốc gia Việc đánh giá sẽ giúp cải thiện hơn những mặt còn chưa được và sửa chữa
những sai lầm trong chiến lược quốc gia Nhiều quốc gia đã thành lập các
hội đồng chuyên trách về nâng cao khả năng cạnh tranh quốc gia để thực hiện nhiệm vụ này Mỹ có Hội đồng Chính sách về Năng lực cạnh tranh (Competiveness Policy Council); Ai-xơ-len có Hội đồng về Năng lực cạnh tranh Quốc gia (National Competiveness Council); Singapore có Uỷ ban về Năng lực cạnh tranh của Singapore (Committee on Singapore's Competitiveness); Hồng Kông có Hội đồng Năng suất Hồng Kông (Hong Kong Productivity Council); Malaysia có Hội đồng Năng suất Quốc gia (National Productivity Council) Đây là 5 nước xếp thứ hạng cao trong bảng xếp hạng năng lực cạnh tranh Như vậy cần có một cơ quan cấp quốc gia nghiên cứu đề xuất chính sách và thực hiện điều phối hoạt động của các bộ ngành và giới kinh doanh nhằm đạt được các mục tiêu chiến lược về nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia [25,18]
1.3.2 Xác định quy mô và độ mở cửa phù hợp
Kinh nghiệm của các nước Đông Á cho thấy để tăng trưởng kinh tế bền vững, cần mở cửa nền kinh tế ở một mức độ hợp lý, kết hợp với các chính sách khuyến khích đầu tư trong nước, ổn định kinh tế vĩ mô, nâng cao khả năng quản lý những luồng vốn vào và khả năng ứng phó với những biến động từ môi trường bên ngoài Cần thay đổi cách nghĩ mở cửa là nhằm chủ yếu khuyến khích xuất khẩu và thu hút FDI sang nhận thức được tầm quan trọng của mở cửa trong nhập khẩu, đặc biệt là nhập khẩu ý tưởng (KHCN), nhập khẩu hàng hóa TLSX và nhập khẩu "các hình thức thể chế" để tạo điều
kiện tăng trưởng bền vững
* Tự do hoá thương mại
Phát triển kinh tế dựa vào xuất khẩu trên cơ sở lợi thế so sánh đã thực
sự góp phần tạo nên sự “thần kỳ” của các nền kinh tế Đông Á Các nền kinh
tế này đều có độ mở cửa tương đối cao không chỉ đơn thuần được thể hiện ở
tỉ lệ thương mại cao (tỷ lệ cao giữa xuất khẩu và nhập khẩu so với GDP) mà
ở chế độ thương mại tự do và cơ chế khuyến khích “trung tính” Chế độ thương mại tự do được thể hiện ở các rào cản thương mại thấp và cơ chế
Trang 33khuyến khích xuất khẩu cân đối với cơ chế bảo hộ các ngành sản xuất thay thế nhập khẩu Các nước Đông Á đã thực hiện một chiến lược tự do hóa dần dần kết hợp với bảo hộ chọn lọc các ngành non trẻ trong nước
Xét về cơ chế khuyến khích xuất khẩu, hầu hết chính phủ các nước Đông Á đều áp dụng những hình thức can thiệp trực tiếp "trung tính", không phân biệt đối xử giữa các ngành có tiềm năng xuất khẩu Tất cả các ngành đều được hưởng những ưu đãi như tín dụng ưu đãi, miễn thuế và chính sách
hỗ trợ Sự hỗ trợ của chính phủ trực tiếp hay gián tiếp để xúc tiến xuất khẩu chủ yếu dành cho khu vực tư nhân Nhà nước chỉ tạo ra khuôn khổ luật pháp khuyến khích xuất khẩu, thành lập các tổ chức xúc tiến xuất khẩu để cung cấp các dịch vụ và hỗ trợ kỹ thuật cần thiết
Nhập khẩu hàng TLSX có ý nghĩa quan trọng để phát triển các ngành mũi nhọn và cải thiện tốc độ phát triển của đất nước Đông Á, mà đặc biệt thành công là Hàn Quốc và Đài Loan, đã rất chú trọng đến "nhập khẩu ý tưởng" nhờ có nhân lực trình độ cao và mô hình tổ chức tốt Các nước này cũng có thể chế chính sách khuyến khích việc phát triển ý tưởng thông qua thương mại quốc tế Một mặt tích cực khác là nhập khẩu “thể chế” tức là sự hài hòa thể chế kinh tế và thương mại với thể chế kinh tế và thương mại của các nước đối tác Điều này đặc biệt quan trọng trong xu hướng toàn cầu hoá
và hội nhập hiện nay
* Chiến lược thu hút đầu tư
Kinh nghiệm của nhiều nước có năng lực cạnh tranh cao cho thấy vai trò đặc biệt quan trọng của chính sách thu hút đầu tư trong chiến lược phát triển kinh tế Nhiều nghiên cứu cho thấy tăng trưởng tổng năng suất các yếu
tố sản xuất đóng vai trò thấp hơn so với tích luỹ đầu tư cho cơ sở hạ tầng sản xuất và số lượng cũng như chất lượng nguồn nhân lực trong việc tạo nên tốc
độ tăng trưởng cao Thực tế cho thấy, FDI có thể giúp phát triển một ngành kinh tế chiến lược của đất nước
Trong chiến lược xúc tiến xuất khẩu của Trung Quốc, một trong những mục tiêu đề ra là dần chuyển từ xuất khẩu nguyên liệu thô sang hàng
có giá trị gia tăng thấp và tiến tới hàng có giá trị gia tăng cao Sau khi gia nhập WTO, Trung Quốc nhanh chóng vươn lên trở thành nước sản xuất hàng công nghiệp đứng thứ tư thế giới, chiếm hơn 50% thị trường máy ảnh thế giới; 30% máy điều hoà và vô tuyến; 25% máy giặt và 20% tủ lạnh [23] Nhưng gần một nửa hàng hoá Trung Quốc xuất khẩu là do các công ty nước
Trang 34ngoài sản xuất Các công ty này đã tìm thấy ở thị trường Trung Quốc những lợi thế như giá nhân công vào loại rẻ nhất thế giới, nguồn lao động có tay nghề dồi dào và môi trường kinh doanh cởi mở hơn Nhưng một yếu tố quan trọng hơn cho thành công của Trung Quốc trong nấc thang giá trị là Trung Quốc đã biết "học công nghệ" từ FDI Điều này là nhờ vào tầng lớp doanh nghiệp Trung Quốc rất chăm chỉ, sẵn sàng và nhanh chóng học và chấp nhận những điều mới Trào lưu học hỏi công nghệ nước ngoài đã làm tăng năng suất lao động của toàn nền kinh tế và làm xuất hiện một thế hệ các doanh nghiệp rất thành đạt trên toàn quốc [13, 101]
1.3.3 Cải thiện môi trường kinh doanh
* Đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô
Sự ổn định kinh tế phụ thuộc vào sự phối hợp áp dụng các chính sách tài khóa, tiền tệ và tỷ giá hối đoái, sự can thiệp có chọn lọc và có hiệu quả của Chính phủ vào nền kinh tế thông qua các chính sách kinh tế vĩ mô hợp
Nhân tố quan trọng trong việc thực hiện thành công các chính sách kinh tế vĩ mô trên là bộ máy nhà nước ít tham nhũng, tạo ra một cơ chế quyết định minh bạch Xét về chỉ số tham nhũng của năm 2001, tất cả các tổ chức trên thế giới đều xếp Chilê đứng đầu về độ minh bạch trong số các nước châu Mỹ la tinh, đứng hàng đầu trong số các nền kinh tế đang nổi lên
và xếp ngang với các nước phát triển như Đức, Mỹ và Ai-len Tất cả những yếu tố trên đã giúp tăng năng lực cạnh tranh quốc tế của đất nước này và thu hút được nhiều FDI cho mục tiêu tăng trưởng bền vững [13, 104]
* Hoàn thiện hệ thống thể chế
Điều quan trọng đối với các doanh nghiệp của tất cả các quốc gia là hệ thống tài chính trong nước mạnh, tạo điều kiện cho họ tiếp cận dễ dàng và
Trang 35minh bạch với các nguồn vốn và đồng thời cũng tạo sự ổn định kinh tế cho các doanh nghiệp kinh doanh Trong suốt một thập kỷ qua, Australia được xếp hạng là nước có năng suất lao động cao nhất thế giới Một nhân tố dẫn đến thành công này là chính phủ Australia đã rất thành công trong việc tăng tính hiệu quả và năng lực cạnh tranh của hệ thống tài chính và hợp lý hoá khuôn khổ giám sát thận trọng Australia đã thực hiện một loạt các cuộc cải cách luật công ty và khuôn khổ luật pháp đối với hệ thống tài chính tạo ra những thay đổi cơ bản về luật trong việc lập quỹ, sáp nhập và thôn tính công
ty, đề ra các tiêu chuẩn về kế toán và quản lý công ty
- Xây dựng môi trường cạnh tranh
Đối với các nước chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường, áp dụng chính sách mở cửa, thì việc hoạt động theo những nguyên tắc thị trường và hiệp định quốc tế có thể tạo ra những mâu thuẫn với những "nguyên tắc ứng xử truyền thống” Chính vì vậy việc ra đời một bộ luật về cạnh tranh để đảm bảo cạnh tranh công bằng và bảo vệ các công ty nhỏ, người lao động và người tiêu dùng lại càng trở nên cần thiết
Xây dựng Luật cạnh tranh và thiết lập cơ quan quản lý cạnh tranh đã được các nước Đông Âu như Ba Lan, Bungary và Hungary coi là một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong giai đoạn đầu chuyển sang kinh tế thị trường Hungary đã được coi là một hình mẫu cho sự thực thi hữu hiệu giữa cạnh tranh và cổ phần hoá mà không gây ra những biến động lớn trong nền kinh tế Để tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, đưa hoạt động thị trường vào quỹ đạo pháp luật, tháng 11/1990, Hungary đã thành lập Văn phòng cạnh tranh kinh tế và ban hành Luật chống hoạt động thị trường bất chính (sửa đổi năm 1996) gồm chống các hành vi cạnh tranh, lừa dối người tiêu dùng, các thảo thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh và kiểm soát tập trung kinh tế
- Tạo môi trường kinh doanh hài hoà giữa khu vực nhà nước và khu vực tư nhân
Không nên cho rằng sự tồn tại của doanh nghiệp nhà nước sẽ chỉ tạo
ra một hình thức độc quyền trong nền kinh tế và không khuyến khích cạnh tranh để các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả Ngay ở các nền kinh tế phát triển, đi theo nền kinh tế thị trường cũng tồn tại hệ thống các công ty có vốn lớn của chính phủ trong những ngành kinh tế và sản xuất đầu não như hàng không, viễn thông, giao thông vận tải, ngân hàng Yếu tố quan trọng là làm
Trang 36thế nào để tạo ra động lực cho các doanh nghiệp kể cả các doanh nghiệp quốc doanh và tư nhân tăng hiệu quả kinh doanh
Trung Quốc áp dụng hình thức cải cách doanh nghiệp nhà nước dần dần Sự tiếp cận dần dần này cũng giúp tiến hành song song những cải cách cần thiết trong khu vực ngân hàng bao gồm củng cố ngân hàng nhà nước, chuyển những ngân hàng quốc doanh sang những định chế tài chính làm ăn
có lãi và sẵn sàng chịu rủi ro; cải cách tài khoá, chính sách thuế để tạo nguồn tài trợ và những cải cách xã hội khác Chính với cách nhìn nhận này, Trung Quốc thay vì chú trọng vào cổ phần hoá các DNNN ngay từ đầu giai đoạn cải cách đã tạo điều kiện để khu vực phi nhà nước hình thành và phát triển, đặc biệt với hai chính sách phát triển các xí nghiệp hương trấn ở vùng nông thôn và phát triển các ngành nghề "cấp ba" và hình thức tự làm chủ ở thành thị Khu vực phi nhà nước đã chứng tỏ hoạt động có hiệu quả hơn, đóng góp ngày càng tăng vào GDP và tạo công ăn việc làm cho gần 3/4 lao động ở Trung Quốc Sự phát triển của khu vực phi nhà nước đã tự động thu hẹp các DNNN nhỏ làm ăn không có hiệu quả và khuyến khích nhiều DNNN chuyển đổi hình thức sở hữu Việc Trung Quốc đặt các DNNN vào cuộc cạnh tranh
đã tạo động lực để nhiều DNNN vươn lên làm ăn có hiệu quả Mặt khác, một số DNNN phát triển theo hướng cổ phần hoá doanh nghiệp, chuyển thành doanh nghiệp do người lao động sở hữu Bên cạnh những cải cách như vậy, Trung Quốc tập trung đầu tư vốn, công nghệ và nhân lực để hình thành một nhóm các DNNN trong các ngành kinh tế đầu não, có khả năng cạnh tranh toàn cầu
Trung Quốc thay vì tiến hành cổ phần hoá nhanh khu vực DNNN đã thực hiện việc khuyến khích khu vực tư nhân phát triển Doanh nghiệp tư nhân đã tạo động lực lớn phát triển kinh tế đất nước
Với khả năng học hỏi nhanh và cạnh tranh về chí phí lao động, các doanh nghiệp tư nhân Trung Quốc trong lĩnh vực chế tạo đang cạnh tranh rất gay gắt với các tập đoàn sản xuất hàng chế tạo lớn của nước ngoài không chỉ trên thị trường nội địa mà cả thị trường xuất khẩu Trong khu vực tư nhân, đại bộ phần là các DNVVN Những doanh nghiệp này tuy hạn chế về quy
mô nhưng lại giúp giải quyết việc làm cho nhiều lao động, đặc biệt ở các địa phương và cũng tạo ra những nguồn thu đáng kể cho đất nước Hầu hết các quốc gia đều hoàn thiện khuôn khổ luật pháp, hình thành mạng lưới các phòng thương mại hay các dịch vụ hỗ trợ cho DNVVN Tính năng động của
Trang 37các doanh nghiệp này đã tạo điều kiện nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế
1.3.4 Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
- Tạo sự liên kết liên ngành - hình thành liên minh bổ sung giá trị
Chiến lược cạnh tranh quốc gia cần đặc biệt chú ý đến hình thành liên kết trong ngành và liên kết liên ngành Sự liên kết này không bó hẹp trong phạm vi giữa các doanh nghiệp trong một ngành mà giữa các doanh nghiệp hay các định chế thuộc các ngành khác nhau Việc hình thành các chùm hay các mạng lưới doanh nghiệp sẽ củng cố năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp, đặc biệt các DNVVN trong xu thế toàn cầu hoá được đặc trưng bởi môi trường cạnh tranh gay gắt hơn và sự lũng đoạn của các công ty đa quốc gia Ngoài ra, những biện pháp khuyến khích của chính phủ cho một nhóm đối tượng doanh nghiệp sẽ được thực hiện có hiệu quả và tiết kiệm chi phí hơn là nhằm vào từng doanh nghiệp đơn lẻ Chính vì vậy chính phủ nên đề
ở cả các ngành cung cấp máy móc cho các khu vực này Thực tế, chùm các DNVVN này đã hình thành nên khái niệm các quận công nghiệp với những đặc điểm sau: gần nhau về mặt vị trí; chuyên môn hóa; hợp tác chặt chẽ giữa các doanh nghiệp; cạnh tranh lành mạnh trên cơ sở đổi mới công nghệ và sáng tạo; tin cậy lẫn nhau dựa trên bản chất văn hoá và xã hội tương đồng; duy trì các tổ chức tương trợ nhau; và có sự ủng hộ tích cực của chính quyền thành phố
Mạng lưới các doanh nghiệp là nhóm các công ty phối hợp trên cơ sở
dự án liên kết các doanh nghiệp (bao gồm các DNVVN và các doanh nghiệp
có quy mô lớn hơn), bổ sung cho nhau và chuyên môn hoá cao nhằm vượt qua những vướng mắc chung để đạt được hiệu quả chung và thâm nhập các thị trường mà từng cá nhân doanh nghiệp không thể thực hiện được [13, 112]
- Chính sách thuế
Trang 38Chính sách thuế có tác động trực tiếp đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp Để tạo động lực cho các doanh nghiệp, chính sách thuế cần được cải cách theo hướng ưu đãi không chỉ đối với chính bản thân doanh nghiệp và công ty mà cả đối với người lao động trong các doanh nghiệp và công ty Một trong những quyết sách để tăng năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp của Ai-len là duy trì thống nhất thuế doanh nghiệp thấp trong suốt thời kỳ phát triển kinh tế Năm 1957, Ai-len giảm 50% thuế lợi nhuận xuất khẩu, và bãi bỏ loại thuế này vào năm 1960 Năm 1973, với chính sách ưu tiên phát triển công nghiệp, Ai-len chỉ đánh thuế 10% đối với lợi nhuận công nghiệp Ai-len dự định đến năm 2003 sẽ áp dụng mức thuế 12,5% cho tất cả các loại lợi nhuận doanh nghiệp Đối với thu nhập của người lao động, thay vì cắt giảm thuế thu nhập cá nhân, nước này thực hiện điều chỉnh phù hợp tiền lương và cải thiện các dịch vụ xã hội.[13, 117]
- Cải thiện yếu tố sản xuất - nâng cao năng suất
Năng suất là yếu tố thể hiện khả năng cạnh tranh Năng suất sẽ tăng khi có sự cải thiện tất cả các yếu tố bao gồm vốn tài chính, TLSX, nguồn nhân lực, thể chế và quan trọng hơn là cải tiến công nghệ Tiến bộ công nghệ
có vai trò hết sức quan trọng đối với việc hình thành năng lực cạnh tranh quốc gia bền vững Thực tế, 4 nước Hồng Kông, Hàn Quốc, Singapo và Đài Loan đã được xếp hạng vào nhóm có nền kinh tế phát triển nhờ vào chiến lược phát triển công nghệ của họ Tất cả bốn nước trên đều có một quốc sách
về chuyển giao công nghệ và đồng thời hình thành một thể chế để phát huy
sự sáng tạo công nghệ trong nước thông qua FDI Singapo đặc biệt chú ý đến công nghệ viễn thông, thông tin và liên lạc với mục tiêu phát triển các ngành dịch vụ có giá trị cao Singapo được coi là "Thành phố thông minh",
mà ở đó chính phủ xử lý và phê chuẩn giấy tờ qua mạng; thông quan trước bằng hệ thống điện tử và có viện công nghệ phần mềm đẳng cấp quốc tế.[13, 122]
Mặc dù Trung Quốc không phải là nền kinh tế sáng tạo, mà chủ yếu vẫn dựa vào việc sử dụng có hiệu quả công nghệ của nước ngoài nhưng với chiến lược rõ ràng là chủ động tiếp thu công nghệ qua FDI để nâng cao chất lượng sản phẩm và tăng năng suất nên năng suất của Trung Quốc đã tăng lên
rõ rệt ở mọi ngành từ nông nghiệp đến công nghiệp chế biến và công nghiệp chế tạo Chất lượng sản phẩm của Trung Quốc cũng được cải thiện, thể hiện
ở nhu cầu ngày càng tăng của người tiêu dùng thế giới về hàng Trung Quốc
Trang 39Trung Quốc đã vươn lên thành nước đứng thứ 4 thế giới về sản xuất hàng chế tạo [13, 126]
Để đạt được tiến bộ công nghệ và cũng để tăng năng suất lao động, thì cần có lực lượng lao động có trình độ cao Điều này đòi hỏi chi phí phù hợp của chính phủ cho giáo dục Các nước Đông Á đều đầu tư rất nhiều vào giáo dục và đào tạo Chính sự đầu tư này đã tạo điều kiện để các nước đạt được những thành tựu về phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo và đảm bảo ổn định xã hội
- Phát triển cơ sở hạ tầng
Trong chiến lược phát triển của mình, Chính phủ cần đặc biệt chú ý đến phát triển cơ sở hạ tầng nhằm giảm cước phí và tăng hiệu quả của các dịch vụ then chốt này trong nền kinh tế Đầu tư cho cơ sở hạ tầng là đầu tư cho lâu dài, chi tiêu cho tiêu dùng ở hiện tại sẽ phải giảm bớt nhưng nó đặt nền móng vững chắc cho phát triển kinh tế bền vững Chilê cố gắng giảm thiểu chi phí ăn ở, đi lại cho những người nước ngoài đến làm việc, trong đó chi phí nhà ở và trường học vào loại thấp nhất thế giới Chi phí thuê văn phòng cũng rất cạnh tranh ở châu Mỹ la tinh Thành tựu này chủ yếu dựa vào việc nâng cấp hạ tầng cơ sở Mặc dù cơ sở hạ tầng giao thông hiện tại của nước này được đánh giá là chưa tốt nhưng Chilê đã đầu tư rất nhiều dưới hình thức BOT nhằm cải tạo mạng lưới giao thông đường bộ Một thay đổi lớn khác là cho phép khu vực tư nhân tham gia vào việc xây dựng và quản lý
hệ thống đường cao tốc trong khi Chính phủ chỉ tập trung nâng cao chất lượng các con đường thứ cấp hoặc đường xấu Hệ thống thông tin liên lạc viễn thông của Chilê hiện đại nhất ở châu Mỹ la tinh Nước này đi đầu trong việc tư nhân hoá khu vực này vào năm 1988 và tiếp tục tạo ra môi trường cạnh tranh và đổi mới công nghệ ở khu vực này Chính vì vậy, phí điện thoại, liên lạc của nước này vào loại thấp nhất khu vực Hệ thống hạ tầng viễn thông hiện đại cũng giúp Chilê đứng hàng đầu khu vực và trong số các nền kinh tế đang nổi về mức độ sẵn sàng sử dụng thương mại điện tử Chilê trở thành nước có năng lực cạnh tranh quốc gia cao nhất trong số các nước châu Mỹ la tinh bởi nước này có chi phí kinh doanh thấp nhất ở châu Mỹ la tinh và đứng thứ 6 trên thế giới [13, 127]
Trang 40CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG NĂNG LỰC CẠNH TRANH XUẤT KHẨU
CỦA VIỆT NAM
2.1.CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN NĂNG LỰC CẠNH TRANH XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM THỜI KỲ 1991 - 2002
Năng lực cạnh tranh xuất khẩu của Việt Nam trong những năm qua đã được cải thiện đáng kể Nhiều mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam đã cạnh tranh được với sản phẩm cùng loại của các nước như thuỷ sản, cà phê, gạo, hạt điều, hàng may mặc, giầy da, hàng thủ công mỹ nghệ Nhiều mặt hàng xuất khẩu đã khẳng định được chỗ đứng trên các thị trường khó tính như Hoa Kỳ, Nhật Bản và EU Bên cạnh những mặt hàng truyền thống, đã xuất hiện các mặt hàng có lợi thế cạnh tranh trong tương lai như công nghệ phần mềm, hàng điện tử Tuy nhiên, nhìn chung năng lực cạnh tranh xuất khẩu của Việt Nam còn yếu kém so với các nước trong khu vực và thế giới
Nền kinh tế Việt Nam vẫn đang ở giai đoạn phát triển phụ thuộc nhiều vào các đầu vào sản xuất sẵn có như lao động và tài nguyên thiên nhiên Năng lực cạnh tranh của phần lớn hàng hoá hiện nay đều dựa chủ yếu vào lợi thế cạnh tranh tĩnh là tài nguyên thiên nhiên và chi phí lao động thấp Tuy nhiên lợi thế so sánh về chi phí lao động rẻ đang giảm dần trong khi chi phí cho các yếu tố và dịch vụ đầu vào khác lại cao do cơ sở hạ tầng còn yếu kém và không có nhiều nhà cung ứng trong nước Xét trên cơ cấu hàng xuất khẩu, hàng nông sản chủ yếu xuất khẩu dưới dạng thô hay sơ chế nên chịu tác động của xu hướng tăng giá cánh kéo trên thế giới trong khi đa số hàng công nghiệp nhẹ và hàng chế tạo xuất khẩu của Việt Nam phải nhập khẩu nhiều linh phụ kiện Yếu tố này đã làm tăng chi phí sản xuất kéo theo tăng giá thành sản phẩm của hàng hoá xuất khẩu Trong khi đó, việc phát triển sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm chế biến lại gặp nhiều khó khăn rất lớn
về vốn, công nghệ, chất lượng lao động và định hướng thị trường tiêu thụ Tất cả những yếu tố đó đã ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh xuất khẩu của Việt Nam
2.1.1 Môi trường đầu tư
Với sự ra đời của Luật đầu tư nước ngoài cuối những năm 1980, cũng như Luật đầu tư trong nước và Luật Thương mại năm 1997, và đặc biệt là sau khi Luật doanh nghiệp được ban hành trong năm 2000, các doanh nghiệp
tư nhân đã phát triển nhanh chóng Số doanh nghiệp mới đăng ký tăng từ